1
Sáng kiến kinh nghiệm
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Đề tài:
MỘT VÀI BIỆN PHÁP GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO TRẺ MẦM NON
I. ĐẶT VẤN ĐỀ:
1. Tầm quan trọng:
Ngày nay, xã hội phát triển, cũng đồng nghĩa với việc đòi hỏi bản thân mỗi
người cần trang bị cho mình một vốn kỹ năng sống cần thiết để đáp ứng với cuộc
sống xã hội hiện tại.
Như chúng ta đã biết, với đặc trưng của xã hội hiện nay, một xã hội của nền
công nghiệp, thời đại kinh tế thị trường, mọi người như cuốn theo nhịp sống bận
rộn không có nhiều thời gian cho việc chăm sóc, giáo dục con cái. Bên cạnh đó,
với đặc trưng hiện nay mỗi gia đình chỉ có từ một đến hai con nên trẻ em hiện nay
là những “Cô-Cậu Ấm”, được quan tâm, chăm sóc một cách đặc biệt đến mức thái
quá, mọi việc của trẻ đều được người lớn làm thay, trẻ ít có điều kiện giao tiếp với
môi trường bên ngoài nên hầu như kỹ năng thích ứng và ứng phó với những tình
huống xảy ra trong cuộc sống của trẻ rất hạn chế, đây cũng chính là vấn đề mà cả
xã hội quan tâm và Bộ Giáo dục& Đào tạo đưa nội dung giáo dục kỹ năng sống
vào mục tiêu Chương trình giáo dục mầm non cũng đã phản ánh được tầm quan
trọng của vấn đề.
Quá trình giáo dục kỹ năng sống là nhằm trang bị cho học sinh những kỹ năng
cơ bản, cần thiết nhất để các cháu có thể thích ứng với cuộc sống của xã hội thời
hiện đại, luôn có những thay đổi trong điều kiện của một xã hội đang trên đà phát
triển và hội nhập. Đặc biệt rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh được xác định là
một trong những nội dung cơ bản của Phong trào thi đua “Xây dựng trường học
thân thiện, học sinh tích cực” trong các trường mầm non do Bộ GD và ĐT chỉ đạo.
2. Thực trạng:
Hiện nay, thế hệ trẻ thường xuyên chịu tác động đan xen của những yếu tố
tích cực và tiêu cực, luôn được đặt vào hoàn cảnh phải lựa chọn những giá trị, phải
đương đầu với những khó khăn, thách thức, những áp lực tiêu cực. Nếu thiếu kỹ
năng sống, các em dễ bị lôi kéo vào các hành vi tiêu cực, bạo lực và lối sống ích kỷ
lai căng, thực dụng, dễ bị phát triển lệch lạc về nhân cách .
Vậy làm thế nào để thế hệ trẻ chúng ta nhận thức và giữ vững được nền văn
hóa của dân tộc Việt Nam từ ngàn xưa đến nay và trong thời đại mới là nhiệm vụ
cần thiết nhất trong các mục tiêu xây dựng phát triển con người toàn diện trong
thời đại hiện nay để sớm đào tạo cho xã hội những con người Tài-Đức vẹn toàn.
Chính vì vậy việc đưa giáo dục kỹ năng sống vào chương trình giáo dục ở
trường mầm non là một vấn đề không đơn giản, bởi lẽ nó có vẻ mơ hồ, không cụ
thể như một môn học nào trong chương trình và nó cũng không là một hoạt động
riêng biệt mà nó được lồng ghép, đan xen vào tất cả các hoạt động. Vì thế đòi hỏi
1
Người viết: Nguyễn Thị Mỹ Nử
2
Sáng kiến kinh nghiệm
giáo viên phải linh hoạt, sáng tạo trong việc lựa chọn nội dung giáo dục, tổ chức
hình thức hoạt động...đồng thời phải nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề.
Vậy làm thế nào để giáo dục kỹ năng sống cho trẻ đạt hiệu quả là vấn đề mà tôi
luôn trăn trở.
3. Lý do chọn đề tài:
Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ là việc làm rất quan trọng, ảnh hưởng tới quá
trình hình thành nhân cách của trẻ cho đến tuổi trưởng thành. Giáo dục kỹ năng
sống phải được bắt đầu từ khi trẻ còn rất nhỏ, đặc biệt ở lứa tuổi mầm non. Bởi vì
lứa tuổi này đã hình thành những hành vi các nhân, tính cách và nhân cách. Thông
qua các hoạt động giáo dục và hình thành cho các cháu các kỹ năng sống như:
Giao tiếp, làm việc theo nhóm,… sẽ giúp các cháu tự tin, chủ động biết cách xử lý
mọi tình huống trong cuộc sống và quan trọng hơn là khơi gợi những khả năng tư
duy sáng tạo, biết phát huy thế mạnh của trẻ. Việc giáo dục kỹ năng sống cho học
sinh sẽ hình thành cho trẻ những hành vi, thói quen, kỹ năng xử lý các tình huống
diễn ra trong cuộc sống hằng ngày. Cụ thể: giúp trẻ nhận thức về bản thân như sự
tự tin, tự lực, thực hiện những quy tắc an toàn thông thường, biết làm một số việc
đơn giản; hình thành và phát triển các kỹ năng xã hội cần thiết như thể hiện tình
cảm, sự chia sẻ, hợp tác, kiên trì, vượt khó; hình thành một số kỹ năng ứng xử phù
hợp với gia đình, cộng đồng, bạn bè và môi trường.
Để thực hiện được mục tiêu nêu trên chúng ta cần lựa chọn nội dung, phương
pháp giáo dục trẻ những kỹ năng phù hợp với khả năng nhận biết của trẻ lứa tuổi
mầm non và quan trọng là phải gắn liền với nội dung chương trình giáo dục mầm
non, cụ thể là tích hợp trong các hoạt động chăm sóc, giáo dục trẻ được thực hiện
hằng ngày tại trường, lớp.
Với ý nghĩa cũng như tầm quan trọng của vấn đề và làm thế nào để đưa giáo
dục kỹ năng sống cho trẻ mầm non từ 3 đến 5 tuổi ở trường mầm non đạt hiệu quả,
bản thân tôi đã lựa chọn đề tài “Một vài biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ
mầm non” để nghiên cứu.
4. Giới hạn nghiên cứu của đề tài:
Trong phạm vi của đề tài chúng tôi chỉ đề cập đến việc giáo dục kỹ năng sống
cho trẻ tại lớp Lớn 1, Trường Mầm non Ái Nghĩa, huyện Đại Lộc.
II. CƠ SỞ LÝ LUẬN:
Căn cứ văn số 463/BGDĐT-GDTX ngày 28/01/2015 của Bộ Giáo dục và Đào
tạo về hướng dẫn việc tổ chức giáo dục kỹ năng sống (KNS) tại các cơ sở
GDMN,GDPT và GDTX (sau đây gọi chung là các cơ sở giáo dục); Căn cứ Thông
tư số 04/2014/TT-BGDĐT ngày 28/2/2014 của Bộ GDĐT về quy định quản lý hoạt
động giáo dục kỹ năng sống và hoạt động giáo dục ngoài giờ chính khóa;
Thực hiện Chương trình Giáo dục mầm non (Ban hành kèm theo Thông tư số
17/2009/TT-BGD-ĐT ngày 25 tháng 07 năm 2009) đã nêu mục tiêu của lĩnh vực
giáo dục phát triển tình cảm và kỹ năng xã hội là:
2
Người viết: Nguyễn Thị Mỹ Nử
3
Sáng kiến kinh nghiệm
- Hình thành và phát triển ở trẻ ý thức về bản thân.
- Có khả năng nhận biết và thể hiện tình cảm với con người, sự vật và hiện
tượng xung quanh.
- Có một số kỹ năng sống: tôn trọng, hợp tác, thân thiện, quan tâm, chia sẻ...
- Thực hiện một số quy tắc, quy định trong sinh hoạt ở gia đình, trường lớp
mầm non, cộng đồng gần gũi.
Để thực hiện tốt vấn đề này chúng ta cùng tìm hiểu một số định nghĩa về “kỹ
năng sống”
Vậy Kỹ năng sống là gì? Sự cần thiết phải trang bị kỹ năng sống với mỗi
người như thế nào? Đó là một câu hỏi không dễ trả lời, bởi sự cần thiết hay như thế
nào là đủ? Phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau. Về hoàn cảnh sống, về môi
trường xung quanh, về đất nước, xã hội mà ta đang sống. Có nhiều định nghĩa khác
nhau về kỹ năng sống:
- Theo tổ chức y tế thế giới (WHO) thì kỹ năng sống là khả năng để có hành
vi thích ứng và tích cực, giúp cá nhân có thể ứng xử hiệu quả trước các nhu cầu và
thách thức của cuộc sống hàng ngày.
- Theo quỹ nhi đồng liên hợp quốc (UNICEF), kỹ năng sống là cách tiếp cận
giúp thay đổi hoặc hình thành hành vi mới. Cách tiếp cận này lưu ý đến sự cân
bằng về khả năng tiếp thu kiến thức, hình thành thái độ và kỹ năng.
- Theo UNESCO, kỹ năng sống gắn với 4 trụ cột của giáo dục, đó là: Học để
biết, gồm các kỹ năng tư duy như: giải quyết vấn đề, tư duy phê phán, ra quyết
định, nhận thức được hậu quả...; Học làm người, gồm các kỹ năng cá nhân như:
ứng phó với căng thẳng, cảm xúc, tự nhận thức, tự tin...; Học để sống với người
khác, gồm các kỹ năng xã hội như: giao tiếp, thương lượng, tự khẳng định, hợp tác,
làm việc theo nhóm, thể hiện sự cảm thông...; Học để làm, gồm các kỹ năng thực
hiện công việc và các nhiệm vụ như kỹ năng đặt mục tiêu, đảm nhận trách nhiệm...
Kỹ năng sống còn là khả năng phân tích tình huống và hành vi, khả năng phân
tích hậu quả của hành vi và khả năng tránh một số tình huống nào đó. Ngoài ra, kỹ
năng sống còn có nghĩa là khả năng ứng phó với các tình huống của cuộc sống.
Từ những định nghĩa trên có thể kết luận rằng kỹ năng sống là khả năng làm
chủ bản thân của mỗi người, khả năng ứng xử phù hợp với những người khác và xã
hội, khả năng ứng phó tích cực trước các tình huống của cuộc sống.
Với đặc điểm của trẻ mẫu giáo là: “Dễ nhớ, mau quên” nên khi tổ chức hoạt
động giáo dục cho trẻ, bản thân cần linh hoạt, sáng tạo qua việc lồng ghép vào các
hoạt động, tạo tình huống xảy ra, trẻ phải đóng vai trò trung tâm trong tất cả các
hoạt động, trẻ phải được thực hành trải nghiệm mọi tình huống, có như vậy mới
giúp trẻ khắc sâu được những gì mà trẻ được lĩnh hội.
Nghiên cứu gần đây về sự phát triển của não trẻ cho thấy rằng khả năng giao
tiếp với mọi người, khả năng biết tự kiểm soát, thể hiện các cảm giác của mình,
3
Người viết: Nguyễn Thị Mỹ Nử
4
Sáng kiến kinh nghiệm
biết các ứng xử phù hợp với các yêu cầu, biết giải quyết các vấn đề cơ bản một
cách tự lập có những ảnh hưởng rất quan trọng đối với kết quả học tập của trẻ tại
trường. Vì thế, ngày nay rất nhiều trường mầm non áp dụng phương pháp học
trung tính là phương pháp học tập thông qua các giao tiếp tích cực với những
người khác. Học để cùng chung sống là một trong những vấn đề then chốt hiện nay
của giáo dục, xu hướng giáo dục hiện nay đang được quan tâm là trang bị cho trẻ
các kỹ năng: giao tiếp, ứng xử, giải quyết vấn đề, tự bảo vệ mình, hợp tác thân
thiện. Trong quá trình phát triển nhân cách, nếu trẻ được sớm hình thành và tôn
vinh các giá trị đích thực của mình thì chắc chắn sau này trẻ sẽ có một nhân cách
phát triển toàn diện, bền vững, có khả năng thích ứng và chống chọi với mọi biến
động xã hội, biết tự khẳng định mình trong cuộc sống.
Lứa tuổi mầm non đặc biệt 5 tuổi là giai đoạn học hỏi, tiếp thu, lĩnh hội những
giá trị sống để phát triển nhân cách, do đó cần giáo dục kỹ năng sống cho trẻ để trẻ
có nhận thức đúng và có hành vi ứng xử phù hợp ngay từ độ tuổi mầm non. Tình
trạng trẻ em thụ động, không biết ứng phó trong những hoàn cảnh nguy cấp, không
biết cách tự bảo vệ bản thân trước nguy hiểm, tìm kiếm sự giúp đỡ... Có nhiều
nguyên nhân khác nhau nhưng trong đó việc thiếu kỹ năng sống là nguyên nhân
sâu xa nhất. Do đó, việc dạy kỹ năng sống cho trẻ là rất cần thiết bới vì kỹ năng
sống thúc đẩy sự phát triển cá nhân và xã hội. Thực tế cho thấy, có khoảng cách
giữa nhận thức và hành vi của con người, có nhận thức đúng chưa chắc đã có hành
vi đúng. Kỹ năng sống chính là nhịp cầu giúp con người biến kiến thức thành thái
độ, hành vi và thói quen tích cực, lành mạnh. Kỹ năng sống góp phần thúc đẩy sự
phát triển xã hội, ngăn ngừa các vấn đề xã hội và bảo vệ quyền con người. Giáo
dục kỹ năng sống sẽ thúc đẩy những hành vi mang tính xã hội tích cực, giúp nâng
cao chất lượng cuộc sống xã hội và giảm các vấn đề xã hội. Kỹ năng sống còn là
nền tảng giúp trẻ mầm non hình thành và phát triển nhân cách, sẵn sàng vào học
lớp một.
Ví dụ: Nếu trẻ có ý thức được về cộng đồng, các hành vi của trẻ sẽ ảnh hưởng
đến những người khác, trẻ có thể nuôi dưỡng được lòng cảm thông đối với mọi
người. Điều này cũng kích thích phát triển những chuẩn mực đạo đức của trẻ, trẻ
biết tôn trọng và đối xử tốt với người xung quanh, đổi lại trẻ sẽ trải nghiệm được
những cảm giác tốt đẹp trong lòng. Nếu trẻ được dạy đối xử công bằng với mọi
người, trẻ sẽ cố gắng giao tiếp để được hiểu và mong muốn mọi người cũng được
đối xử công bằng. Khi trẻ được học cách bảo vệ bản thân, trẻ sẽ không tạo cơ hội
cho những hành vi tiêu cực từ các đối tượng khác phát triển.
Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mầm non có ảnh hưởng đến phát triển toàn
diện nhân cách trẻ về các mặt thể chất, tình cảm- xã hội, giao tiếp, ngôn ngữ, nhận
thức và sẵn sàng đi học, cụ thể là:
- Giáo dục kỹ năng sống giúp trẻ được an toàn, khỏe mạnh, khéo léo, bền bỉ,
có khả năng thích ứng được với những thay đổi của điều kiện sống.
4
Người viết: Nguyễn Thị Mỹ Nử
5
Sáng kiến kinh nghiệm
- Giáo dục kỹ năng sống giúp cho trẻ mạnh dạn, tự tin, tự trọng và tôn trọng
người khác, có khả năng giao tiếp tốt, trẻ biết lắng nghe, nói năng lịch sự, sự hòa
nhã và cởi mở.
- Giáo dục kỹ năng sống giúp trẻ ham hiểu biết, sáng tạo, có những kỹ năng
thích ứng với hoạt động học tập ở lớp Một như: sẵn sàng hòa nhập, nỗ lực vượt
qua khó khăn để hoàn thành nhiệm vụ, có trách nhiệm với bản thân, với công việc,
với các mối quan hệ xã hội...
Mục tiêu giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mầm non là nhằm giúp trẻ có kinh
nghiệm trong cuộc sống, biết được những điều nên làm và không nên làm, giúp trẻ
tự tin, chủ động và biết cách xử lý tình huống trong cuộc sống, khơi gợi khả năng
tư duy sáng tạo của trẻ, đặt nền tảng cho trẻ trở thành người có trách nhiệm và có
cuộc sống hài hòa trong tương lai.
III. CƠ SỞ THỰC TIỄN:
Thực tiễn trong những năm qua, các trường Mầm non trên địa bàn huyện Đại
Lộc nói chung và trường Mầm non Ái Nghĩa nói riêng đã luôn chú trọng đến vấn
đề giáo dục kỹ năng sống cho trẻ và làm thế nào để đạt được hiệu quả đòi hỏi nhà
trường phải có biện pháp chỉ đạo thực hiện phù hợp. Bên cạnh đó mỗi giáo viên
luôn suy nghĩ, nghiên cứu để tìm ra những biện pháp hữu hiệu nhằm thực hiện tốt
nội dung giáo dục kỹ năng sống cho trẻ, trong thời gian tôi đã tổ chức thực hiện
giáo dục kỹ năng sống cho trẻ tại lớp tôi phụ trách, đã có những thuận lợi và khó
khăn nhất định như sau:
* Thuận lợi:
- Nhà trường trang bị đầy đủ về cơ sở vật chất và trang thiết bị dạy học.
- Ban giám hiệu nhà trường có kế hoạch định hướng cho giáo viên rèn luyện
kỹ năng ứng xử hợp lý với các tình huống trong cuộc sống, thói quen và kỹ năng
làm việc, sinh hoạt theo nhóm, rèn luyện sức khỏe và ý thức bảo vệ sức khỏe, rèn
luyện kỹ năng ứng xử văn hóa, lịch sự.
- Bản thân được nhà trường cử đi dự các chuyên đề tại các trường trong và
ngoài huyện để có cơ hội học hỏi đồng nghiệp.
- Được phụ huynh tin tưởng gửi con đến lớp.
* Khó khăn:
- Đa số trẻ còn thực hiện theo ý thích, chưa tự ý thức được hành động, hành
vi của mình, chưa có nề nếp thói quen tốt trong sinh hoạt. Hơn nữa lớp tôi phụ
trách có sĩ số học sinh quá đông (39 trẻ). Qua khảo sát đầu năm học hơn 40% trẻ
chưa có khả năng tự phục vụ, giao tiếp cũng như chưa có kỹ năng thực hiện một số
hành vi văn minh đơn giản.
- Hầu hết phụ huynh chỉ quan tâm đến việc học tập của trẻ, ai cũng mong
muốn con mình được học đọc và học viết ngay trong những năm tháng học ở mẫu
5
Người viết: Nguyễn Thị Mỹ Nử
6
Sáng kiến kinh nghiệm
giáo, đặc biệt là các bậc cha mẹ có con chuẩn bị vào lớp 1. Đồng thời lại chiều
chuộng, cung phụng con cái khiến trẻ không có kỹ năng sống cần thiết nhất.
Từ cơ sở lý luận và thực tiễn, từ những thuận lợi và khó khăn trên tôi đã suy
nghĩ, nghiên cứu tài liệu “Làm thế nào để giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mầm
non” nhằm giúp trẻ có những kỹ năng sống cần thiết, sống tích cực, có được nhận
thức hành động đúng đắn. Và tôi thiết nghĩ trong tương lai của một con người nếu
thiếu kỹ năng sống thì sẽ mất đi cơ hội thành công rất lớn. Nên giáo dục kỹ năng
sống cho trẻ ngay độ tuổi mầm non là một nhu cầu cấp bách và cần thiết.
IV. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU:
Từ những tác động ngoài xã hội, từ thực tế giảng dạy ở lớp, bản thân đã
nghiên cứu và tìm ra một số biện pháp vận dụng trong năm học qua, được đúc kết
thành kinh nghiệm trong việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mầm non cụ thể như
sau:
1. Cô giáo cần nhận thức và xác định dược những kỹ năng sống cần thiết
để giáo dục cho trẻ mầm non.
Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mầm non là một nhiệm vụ đã và đang được
Phòng Giáo dục & Đào tạo huyện Đại Lộc triển khai, thực hiện tại các trường mầm
non. Trẻ được giáo dục kỹ năng sống sẽ mang lại cho các cháu rất nhiều lợi ích về
mặt sức khỏe, giáo dục và cả văn hóa xã hội, giúp các cháu có một cơ thể cường
tráng, lành mạnh về trí tuệ cũng như thể lực, sớm có ý thức và khả năng thích nghi
với cuộc sống, làm chủ bản thân, mạnh dạn giao tiếp, kỹ năng làm việc nhóm,…
sống tích cực và hướng đến những điều lành mạnh cho chính mình cũng như cho
xã hội. Tôi đã xác định những kỹ năng cần thiết để giáo dục cho trẻ:
- Có rất nhiều kỹ năng cần dạy trẻ nhưng đây là những kỹ năng cần thiết
nhất:
+ Kỹ năng tự nhận thức: Trẻ ý thức được về bản thân mình, có khả năng
hiểu biết đánh giá được bản thân mình về tính cách, sở thích, thói quen, nhận thức
được về mặt mạnh, mặt yếu của mình trong và ngoài nhà trường. Nhận thức được
tình cảm, ý tưởng và giá trị của mình, tự chấp nhận bản thân, cảm nhận sự chấp
nhận của người khác về mình và sự chấp nhận của mình đối với mọi người.
VD: Cháu nhận biết được tên gọi, đặc điểm của bản thân mình, biết sở thích
và những đồ dùng đồ chơi mà mình yêu thích.
Qua giáo dục kỹ năng tự nhận thức, trẻ có thể tự nhận thức được về năng
khiếu và khả năng đặc biệt của mình.
VD: Trẻ có năng khiếu vẽ và thích được vẽ. Ngoài việc cho trẻ thể hiện năng
khiếu vẽ thì cô giáo, cha mẹ có thể cho trẻ thêm bút màu, giấy vẽ và hãy chỉ cho
trẻ cách lưu giữ các bức tranh để tạo thành một bộ sưu tập tranh vẽ của chính trẻ
hoặc triển lãm tranh của trẻ ở góc nhỏ trong nhà.
6
Người viết: Nguyễn Thị Mỹ Nử
7
Sáng kiến kinh nghiệm
+ Kỹ năng bảo vệ mình: Như tránh xa các nơi nguy hiểm, bảo vệ môi
trường, vệ sinh răng miệng, cơ thể, kỹ năng tự phục vụ mình như tự mặc quần áo,
xếp áo quần và để đúng nơi qui định…Các kỹ năng làm việc nhóm và giải quyết
các tình huống đơn giản trong cuộc sống. Lý thuyết luôn đi đôi với thực hành
thông qua nhiều hoạt động giúp cho trẻ cảm thấy hứng thú với bài học theo phương
pháp học mà chơi, chơi mà học. Những bài học từ trường mẫu giáo đã giúp trẻ phát
triển đúng tâm sinh lý lứa tuổi, có sức khỏe tốt, tự tin, mạnh dạn để học tập và sống
tích cực, phát huy tốt những khả năng và sở trường của mình.
+ Sự tự tin: Giáo viên thường xuyên trò chuyện, cùng chơi, cùng học với trẻ
để phát triển sự tự tin ở trẻ, trẻ cần được yêu thương và tôn trọng. Qua đó, giúp
cháu biết mạnh dạn, không sợ nói trước đông người, trẻ cảm thấy tự tin trong mọi
tình huống, dám làm điều mình nghĩ và biết bày tỏ cảm xúc của mình với người
khác mà không e ngại. Biết giới thiệu bản thân và gia đình mình trước đám đông,
biết mình đang học lớp nào, thích cái gì và địa chỉ nhà mình ở đâu. Nhận biết các
ưu khuyết điểm của bản thân. Biết cách ứng xử với mọi người xung quanh. Học
cách lắng nghe mọi người và đối đáp.Nhận biết những hoàn cảnh không an toàn
cho mình nơi công cộng( trong sân trường, công viên, siêu thị, ngoài phố, khi gặp
người lạ,…)
VD: Trẻ tự giới thiệu về bản thân mình trước bạn bè hoặc múa hát, biểu diễn
văn nghệ. (Hình 1: Bé múa hát cùng cô – Phần phụ lục)
+ Sự tự lập: Người lớn cần giúp trẻ biết tự lập càng sớm càng tốt, không để
trẻ quá phụ thuộc vào người lớn hoặc bạn bè. Trẻ biết làm mọi việc theo khả năng
riêng của mình, có thể lựa chọn cân nhắc và tự mình quyết định công việc cần phải
làm và làm như thế nào.
VD: Trẻ biết tự xúc cơm ăn, biết tự chải răng, tự mặc áo quần …
+ Tính trách nhiệm: Giáo dục cho cháu biết tính trách nhiệm là chịu trách
nhiệm về những hành động của mình, người có tinh thần trách nhiệm là người
được người khác có thể tin cậy, trông chờ và hy vọng. Trẻ biết làm xong công việc
của mình, cố gắng làm hết khả năng của mình, quan tâm, chăm sóc và biết giúp đỡ
người khác.
VD: Trẻ biết giúp cô sắp xếp đồ chơi gọn gàng hay thể hiện tốt vai chơi của
mình.
+ Kỹ năng hợp tác: Bằng các trò chơi, câu chuyện, bài hát giáo viên giúp trẻ
học cách cùng làm việc với bạn. Tạo những sự cảm nhận, giúp trẻ tôn trọng những
quyền lợi của trẻ khác qua việc chia sẻ. Khả năng hợp tác sẽ giúp trẻ biết cảm
thông và cùng làm việc với các bạn.
VD: Trẻ cùng nhau vẽ một bức tranh hoặc trẻ cùng tham gia chơi ở góc xây
dựng.(Hình 2: Bé chơi ở góc xây dựng – Phần phụ lục)
+ Kỹ năng quan hệ xã hội: Quan hệ xã hội là kỹ năng mà trẻ phải học rất
nhiều trong những năm đầu đời: Trẻ học cách chon từ ngữ để diễn đạt ý mình cần
7
Người viết: Nguyễn Thị Mỹ Nử
8
Sáng kiến kinh nghiệm
nói, nhận biết và đối phó với cảm xúc của mình cũng như của người khác. Trẻ cần
được học cách ứng xử mà xã hội và cộng đồng chấp nhận. Trẻ biết hợp tác với
người khác khi làm việc nhóm, biết chia sẻ, tôn trọng và ứng xử lịch thiệp với
người khác bằng cách lắng nge quan điểm của người khác, chấp nhận sự khác biệt
của mình và tập giải quyết tình huống một cách thông minh, công bằng, thân thiện.
Trẻ cần học cách kết bạn, duy trì sự tương tác và mối quan hệ tích cực với
bạn cùng lứa. Trẻ biết cách làm thế nào để giải quyết xung đột với bạn mình.
VD: Qua các hoạt động như lễ hội, các giờ chơi, giờ hoạt động góc trẻ biết
đóng vai người khác, học cách sử xự, trao đổi ý kiến, chia sẻ với người khác, biết
nhường nhịn đồ chơi, hướng dẫn bạn chơi nếu bạn chưa làm được.
2. Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ thông qua các hoạt động.
Giáo viên cần tích cực đổi mới phương pháp giảng dạy nhằm khuyến khích
sự chuyên cần, tích cực của trẻ, thường xuyên tổ chức các hoạt động giáo dục
chăm sóc giáo dục trẻ một cách thích hợp.
Qua hoạt động học có chủ đích, giáo viên giúp trẻ phát triển đồng đều các
lĩnh vực: thể chất, ngôn ngữ, nhận thức, tình cảm - xã hội và thẩm mỹ. Phát huy
tính tích cực của trẻ, giúp trẻ hứng thú, chủ động khám phá tìm tòi, biết vận dụng
vốn kiến thức, kỹ năng vào việc giải quyết các tình huống khác nhau.
VD: Khi kể chuyện “Ba cô gái” giáo viên đặt những câu hỏi gợi mở như:
Nếu là con khi hay tin mẹ ốm, con sẽ làm gì? Gợi mở cho trẻ tính tò mò, nhận thức
được các hoạt động hoặc sai của nhân vật... Từ đó trẻ có thể rút ra bài học của bản
thân mình. (Hình 3: Giờ bé nghe kể chuyện - Phần phụ lục).
Hoạt động vui chơi: Trẻ mạnh dạn tham gia vào hoạt động, biết thể hiện bản
thân mình, có nhóm bạn với nhau. Qua hoạt động vui chơi cháu biết đoàn kết và
chơi chung với bạn, có trách nhiệm với nhóm chơi của mình, biết bản thân mình là
một thành viên của nhóm, tuân thủ quy tắc chơi.
VD: Cháu tham gia giờ hoạt động ngoài trời chăm sóc góc thiên nhiên: Biết
chăm sóc và tưới nước cho cây, nhặt lá vàng...(Hình 4: Bé chăm sóc góc thiên
nhiên - Phần phụ lục).
Cô giáo, cha mẹ cần dạy trẻ những nghi thức văn hóa trong ăn uống, biết
cách sử dụng các đồ dùng ăn uống; hơn nữa trẻ sẽ được dạy cách sử dụng các đồ
dùng đúng chức năng một cách chính xác và thuần thục. Việc này được thực hiện
trong giờ học, giờ sinh hoạt hàng ngày của trẻ tại lớp và trong bữa cơm gia đình.
Như qua giờ ăn, trẻ biết tự xúc cơm ăn, ăn cơm gọn gàng, không làm rơi vãi cơm,
không ngậm thức ăn lâu trong miệng, không vừa ăn vừa chơi, vừa ăn vừa nói
chuyện, hay đi lại lung tung...(Hình 5: Giờ ăn của bé - Phần phụ lục).
Việc giáo dục kỹ năng sống còn được lồng ghép vào các hoạt động hằng
ngày ở lớp. VD: Cô dạy các cháu bỏ rác vào sọt (thùng rác), không vứt rác bừa bãi,
8
Người viết: Nguyễn Thị Mỹ Nử
9
Sáng kiến kinh nghiệm
không vứt rác ra ao, hồ, sông, suối, ra ngoài đường đi... Thất rác là tự giác nhặt,...
(Hình 6: Biết bỏ rác đúng nơi quy định - Phần phụ lục).
Qua giờ ngủ, cháu biết nằm ngủ ngay ngắn, không nói chuyện, không làm
ồn ào hoặc chọc phá bạn.
* Qua hoạt động đọc sách, trò chuyện, kể chuyện cho trẻ nghe
- Giáo viên cần tranh thủ đọc sách cho trẻ nghe trong mọi tình huống như
những giờ hoạt động góc ở một nhóm nhỏ, hoặc đọc sách trẻ nghe trong giờ trưa
đối với những trẻ khó ngủ. Qua các câu chuyện trẻ có thể đặc mình vào vai nhân
vật để học cách xử lý tình huống.
Ví dụ: Kể cho trẻ nghe các câu chuyện cổ tích qua đó rèn luyện đạo đức cho
trẻ, giúp trẻ hoàn thiện mình, dạy trẻ yêu thương bạn bè, yêu thương con người.
Tạo hứng thú cho trẻ nhỏ qua các truyện bằng tranh tùy theo lứa tuổi, gợi mở tính
tò mò, ham học hỏi, phát triển khả năng thấu hiểu ở trẻ.
3. Kết hợp phương pháp dùng trò chơi và tạo tình huống.
Trẻ học được các kỹ năng bằng cách tham gia vào các trò chơi. Thông qua
trò chơi, giúp cháu có sự tự tin, biết phối hợp chơi cùng bạn và có trách nhiệm với
nhóm chơi của mình. Nên tôi đã tìm và cho trẻ chơi nhiều trò chơi như:
Cho trẻ chơi trò chơi phân vai: Trẻ đóng vai các thành viên trong gia đình,
biết tự phân vai chơi cho nhau: Ba mẹ chăm sóc con cái, mẹ nấu ăn. Hay: Chơi
đóng vai cô giáo: Cô dạy các cháu học, cho các cháu ăn...
Thông qua hoạt động này trẻ được giao tiếp với các vai khác, trẻ quan sát
cách đối xử với trẻ khác thế nào, những gì xảy ra trong các xung đột cá nhân, mỗi
trẻ nhận được một kết quả từ những cách ứng xử của mình. Trẻ được thể hiện các
vai trong cuộc sống (gia đình, bác sĩ, thợ may...) Khi đóng vai trẻ được hòa nhập
vào xã hội thu nhỏ, biết bản thân mình thể hiện vai gì và có những ứng xử và hành
động phù hợp.
Hoặc các trò chơi có luật như: Trò chơi vận động, trò chơi dân gian, giúp trẻ
có sự hợp tác với nhau trong nhóm chơi, biết phối hợp và đoàn kết chơi với nhau.
Qua đó tôi giáo dục các kỹ năng sống như: Nhường nhịn, chia sẻ, mạnh dạn, tự tin
thể hiện mình (Hình 7: Bé chơi kéo co - Phần phụ lục).
Ngoài các trò chơi trên, tôi thường tạo những tình huống cho trẻ xử lý để tập
tính nhanh nhẹn, bình tình tìm giải pháp đúng đắn nhất.
VD: Tôi chỉ và hô: “Cháy! Cháy rồi!” và quan sát xem trẻ có những biểu
hiện và hành động như thế nào, sau đó tôi chỉ ra kỹ năng xử lý khi có cháy, nổ...Từ
đó, qua nhiều tình huống khác nhau trẻ rút ra cho mình những kỹ năng xử lý nhạy
bén.
Và bản thân còn luôn hướng cho cháu tham gia vào các hoạt động mang tính
tập thể như: Lao động nhặt rác trên sân trường, tham gia văn nghệ, tham gia vào
các lễ hội... Tạo được niềm vui, tính mạnh dạn một cách tự nhiên.
9
Người viết: Nguyễn Thị Mỹ Nử
10
Sáng kiến kinh nghiệm
* Tạo điều kiện tốt nhất cho trẻ vui chơi
Giáo viên cần tạo các tình huống chơi trong chế độ sinh hoạt hàng ngày của
trẻ. Vì đối với trẻ chơi trò chơi có một vai trò rất quan trọng trong việc rèn kỹ năng
sống cho trẻ. Trẻ lớn lên, học hành và khám phá thông qua trò chơi. Các hành động
chơi đòi hỏi trẻ phải suy nghĩ, giải quyết các vấn đề, thực hành các ý tưởng.
Ví dụ: Giáo viên thường xuyên tổ chức các hoạt động trong ngày và lựa
chọn hình thức tổ chức thật đa dạng, phong phú và có nhiều tình huống thông qua
các trò chơi đóng vai, các trò chơi xây dựng, dạo chơi ngoài trời, các trải nghiệm
văn học âm nhạc, Làm quen với toán, khám phá khoa học...
Đây là phương pháp có hiệu quả và dễ “ngấm” nhất. Bởi qua trò chơi trẻ sẽ
có được những thái độ, hành vi tích cực, những kỹ năng ứng xử đúng đắn, phù
hợp, nâng cao tinh thần trách nhiệm của mình đối với tập thể. Và đặc biệt trò chơi
còn giúp cho trẻ tăng cường khả năng giao tiếp với bạn, với cô, với người lớn dần
mang đến sự tự tin, mạnh dạn cho trẻ.
4. Động viên, khuyến khích, nêu gương, khen thưởng kịp thời.
Vì đặc điểm của trẻ mầm non là luôn có tính bắt chước nên người lớn đặc
biệt cô giáo phải là tấm gương sáng, yêu thương, tôn trọng, đối xử công bằng với
trẻ và đặc biệt không nên hứa suông với. Người lớn cần sử dụng lời nói rõ ràng,
câu hỏi gợi mở phối hợp cùng các cử chỉ, điệu bộ phù hợp nhằm khuyến khích trẻ
tiếp xúc với môi trường xung quanh, bộc lộ, chia sẻ những cảm xúc với người khác
bằng lời nói và hành động cụ thể.
Bên cạnh những lời nói khích lệ, nêu gương, khuyến khích những hành vi,
lời nói tốt của trẻ, cô giáo cần tuyên dương và khen thưởng trẻ kịp thời.
Nếu cô giáo biết đặt mình vào vị trí của trẻ, nhận thấy được sự vui mừng,
hạnh phúc của trẻ khi được người lớn khen ngợi, thì cô giáo sẽ biết đưa ra lời khen
vừa đủ, để trẻ tự hào, vững tin vào bản thân, từng bước tiếp tục khẳng định mình
và trở nên mạnh mẽ, sẵn sàng chủ động hoà nhập vào cuộc sống. Nhưng khen sao
cho phải, cho chừng mực và kích thích được tính tích cực của trẻ thì không phải cô
giáo nào cũng có thể thực hiện hiệu quả.
Trẻ hoàn toàn có thể nhận biết được thế nào là một lời khen chân thành hay
qua quýt. Vì thế, khi khen ngợi, khuyến khích trẻ, cần phải xuất phát từ tấm lòng
bao dung, độ lượng và cách bộc lộ khéo léo. Ngoài ra, cô giáo nên khen trẻ một
cách nghiêm túc và có cơ sở, khen đúng ưu điểm và sự vượt trội của trẻ. Hãy bắt
đầu bằng việc đánh giá đúng thực lực của trẻ, nhìn thấy triển vọng của trẻ để có sự
trợ giúp cần thiết.
Khen ngợi, động viên là hệ thống những biện pháp kích thích, nhằm củng cố
lòng tin, nâng cao bản lĩnh ý chí cho trẻ trong học tập và hòa nhập vào cuộc sống.
Bất kỳ một đứa trẻ phát triển bình thường nào đều có nhu cầu vươn lên khẳng định
chính mình. Ngược lại, nếu không có sự khích lệ đúng đắn của cô giáo trước
10
Người viết: Nguyễn Thị Mỹ Nử
11
Sáng kiến kinh nghiệm
những thành quả mà trẻ đạt được, thì sẽ làm thui chột những ý tưởng sáng tạo của
trẻ.
Vì thế, khi khen ngợi, động viên trẻ, cô giáo phải thực hiện một cách kịp
thời, chính xác, công khai và mang tính giáo dục cao, có tác dụng thúc đẩy tính
tích cực, mặt ưu điểm của trẻ. Khen ngợi trẻ phải kết hợp với yêu cầu cao để trẻ
tiếp tục phấn đấu vươn lên hơn nữa. Cô giáo phải kết hợp linh hoạt nhiều hình thức
khen ngợi khác nhau.
Khen ngợi và khuyến khích trong quá trình nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo
dục trẻ có ý nghĩa rất quan trọng, tạo nên động lực để trẻ phấn đấu đạt kết quả hơn
nữa trong cuộc sống.
Chẳng hạn trong giờ học Tạo hình, cô tuyên dương những trẻ vẽ đẹp, hoàn
thành được sản phẩm, ý tưởng sáng tạo của trẻ hoặc trong giờ chơi, cô tuyên
dương trẻ khi thể hiện tốt vai chơi của mình...
Giáo viên cần sử dụng các hình thức khen thưởng, đúng lúc, kịp thời. Biểu
dương trẻ là chính, nhưng không lạm dụng. Cần tuyên dương và khuyến khích trẻ
để trẻ tự hào, tự nhận biết được hành động vừa làm là đúng và tiếp tục phát huy
như trẻ biết giúp đỡ bạn, thương yêu em nhỏ, lễ phép với người lớn...
Thể hiện thái độ đồng tình hoặc chưa đồng tình của người lớn trước việc
làm, hành vi, cử chỉ của trẻ, từ đó đưa ra nhận xét, tự nhận xét trong từng tình
huống hay hoàn cảnh cụ thể. Người lớn không sử dụng các hình phạt làm ảnh
hưởng đến sự phát triển tâm-sinh lý của trẻ.
VD: Khi trẻ đánh bạn, cô tỏ thái độ không đồng tình và giải thích cho trẻ
biết là không được đánh bạn, đó là hành vi sai. Dạy trẻ biết xin lỗi bạn, biết yêu
thương và chia sẻ cùng bạn.
Cô giáo luôn khuyến khích trẻ nói lên quan điểm của trẻ, nói chuyện với các
thành viên trong lớp, về những lựa chọn của mình, cố gắng không chỉ trích các
quyết định của trẻ việc này sẽ hình thành kỹ năng tự kiểm soát bản thân, rèn luyện
tính tự tin cho trẻ khi tham gia các hoạt động và các buổi thảo luận, đàm thoại, hội
lễ tại trường sau này.
5. Phối hợp giữa gia đình và nhà trường trong việc giáo dục kỹ năng sống
cho trẻ.
Qua các lần họp phụ huynh, bảng tuyên truyền ở lớp, giờ đón trẻ, trả trẻ và
qua sổ liên lạc, giáo viên tuyên truyền đến cha mẹ của trẻ những kết quả giáo dục ở
con mình, trao đổi thông tin hai chiều với các bậc cha mẹ những vấn đề có liên
quan đến trẻ, đến lớp, thông tin sức khỏe, học tập, lĩnh hội kỹ năng sống... Ngược
lại các bậc cha mẹ có thể ghi chép những yêu cầu, đề nghị thông tin cần trao đổi
với giáo viên.
Thống nhất một số quy ước giữa giáo viên và phụ huynh về việc chăm sóc
giáo dục kỹ năng sống cho trẻ:
11
Người viết: Nguyễn Thị Mỹ Nử
12
Sáng kiến kinh nghiệm
Một số yêu cầu cần thực hiện khi dạy trẻ kỹ năng sống
Điều cần làm trước hết là người lớn phải là tấm gương sáng, yêu thương, tôn
trọng, đối xử công bằng với trẻ đảm bảo an toàn cho trẻ.
Việc học của trẻ nếu luôn được người lớn khuyến khích, chia sẻ thì trẻ sẽ tự
tin vào năng lực của bản thân và chúng thường hy vọng vào tương lai nhiều hơn.
Nhân cách ý chí tình cảm của trẻ được hình thành thông qua chơi, chơi để
lớn lên. Vì thế, người lớn cần tạo cơ hội để trẻ chơi, từ đó giúp trẻ tìm ra nhiều
cách học khác nhau, những kinh nghiệm trẻ nhận được trong các trò chơi là nền
tảng tạo nên sự hăng hái học tập lâu dài ở trẻ, bởi trẻ nhận ra rằng, học vừa vui mà
vừa có ý nghĩa. Đồng thời, khi trẻ tham gia vào các trò chơi, trẻ cần biết lập kế
hoạch chơi, sáng tạo với các cách chơi và cố gắng đạt mục đích đây chính là những
kỹ năng cơ bản để sống và làm việc sau này.
Thường xuyên chỉ ra cái mới mà người lớn cũng tìm tòi một cách hăng hái
bằng nhiều cách, hãy trao đổi với trẻ về những thông tin mà cô giáo, cha mẹ mới
tìm thấy cho trẻ thấy rằng học lúc nào cùng vừa vui, vừa thử thách.
Cô giáo, cha mẹ cùng giúp trẻ phát triển sở thích, ý thích của mình và đảm
bảo rằng ngừơi lớn có thể cung cấp thêm phương tiện để trẻ thực hiện ý thích đó.
Ví dụ như trẻ thích vẽ, ngoài việc đáp ứng ý thích cho trẻ thì cô giáo, cha mẹ
có thể cho trẻ thêm bút màu, giấy vẽ và hãy chỉ cho trẻ cách lưu giữ các bức tranh
để tạo thành một bộ sưu tập tranh vẽ của chính trẻ hoặc triển lãm tranh của trẻ ở
góc nhỏ trong nhà, góc sản phẩm ở lớp.
Cô giáo, cha mẹ cần dạy trẻ những nghi thức văn hóa trong ăn uống, biết
cách sử dụng các đồ dùng ăn uống; hơn nữa trẻ sẽ được dạy cách sử dụng các đồ
dung đúng chức năng một cách chính xác và thuần thục.Việc này được thực hiện
trong giờ học, giờ sinh hoạt hàng ngày của trẻ tại lớp và trong bửa cơm gia đình.
Cụ thể: Trẻ được làm quen với những đồ dùng, vật dụng khác nhau, (bộ đồ
bếp, bộ đồ ăn, bộ đồ uống). Sự sạch sẽ, gọn gàng, một thói quen nề nếp, sự sắp đặt
ngăn nắp, ngay ngắn những bộ đồ dùng, vật dụng, thái độ, ăn uống từ tốn, không
vội vã, không khí cởi mở, thoải mái và đầm ấm, những cuộc trao đổi nhẹ nhàng, dễ
chịu… tất cả những yếu tố trên sẽ giúp trẻ có thói quen tốt để hình thành kỷ năng
tự phục vụ và ý nghĩa hơn là kỹ năng sống tự lập sau này.
Tham gia và việc giáo dục của con cái không nên để tốn quá nhiều thời gian
và cũng không cần tốn sức tập luyện, cha mẹ chỉ tốn ít thời gian khi cho trẻ thấy
cha mẹ rất coi trọng giá trị của việc giáo dục. Việc tham gia ở mức độ nào không
quan trọng nhưng thời gian đó thật đáng giá và đó là sự đầu tư cần thiết cho tương
lai của trẻ.
Kể chuyện cho trẻ hàng ngày bằng phương pháp “Mưa dầm thấm lâu”: Cô
giáo, cha mẹ hãy dành thời gian mỗi ngày để kể cho trẻ nghe những câu chuyện,
12
Người viết: Nguyễn Thị Mỹ Nử
13
Sáng kiến kinh nghiệm
dành thời gian trò chuyện với con trẻ vì chuyện là kho báu của dân tộc, kể chuyện
cổ tích là con đường ngắn nhất, đơn giản hiệu quả nhất giáo dục nhân cách cho trẻ.
Để hình thành và phát triển ở trẻ những thói quen, nghi thức văn hóa trong
ăn uống cần thiết không chỉ có sự tập luyện mà còn cần sự thống nhất những cách
thức và phương thức giữa gia đình và trýờng, lớp mầm non. Chỉ có sự kiên trì,
nhẫn nại, sự đồng cảm, sự quan tâm, chú ý và sự giúp đỡ quý báu của người lớn
mới giúp trẻ vượt qua những khó khăn, trở ngại, tạo được một bầu không khí thân
ái, đầm ấm cần thiết trong bữa ăn.
Một số yêu cầu cần tránh khi dạy trẻ kỹ năng sống:
Không hạ thấp trẻ: Cứ mỗi lần chúng ta nói những lời hạ thấp khả năng trẻ
là chúng ta đã phá vỡ những suy nghĩ tích cực về chính bản thân trẻ. Không nên
tạo cho trẻ thói quen kiêu ngạo những cũng không nên lăng nhục trẻ.
Không dọa nạt trẻ: Người lớn cần nhớ rằng mỗi lần chúng ta dọa nạt trẻ là
chúng ta đã làm cho trẻ sợ hãi và căm giận người lớn. Sự đe dọa hoàn toàn có hại
cho đứa trẻ và sẽ không giúp cho hành vi của trẻ tiến triển tốt hơn.
Không bắt trẻ hứa hẹn: Vì sự hứa hẹn hoặc dọa nạt không có ý nghĩa đối với
trẻ bởi nếu trẻ căn rứt vì không làm tròn lời hứa thì trẻ sẽ phát triển cảm giác hối
lỗi.
Không bao bọc cho trẻ một cách thái quá sẽ làm cho trẻ yếu đuối: Cha mẹ
thường không đánh giá đúng khả năng của trẻ, cho rằng trẻ còn nhỏ sẽ không làm
được điều gì cả, nên cứ làm thay cho trẻ tất cả, dẫn đến tính ỷ lại trông chờ, không
chịu tự giác lao động dù đó chỉ là những công việc đơn giản và vừa sức đối với trẻ.
Nên hãy nhớ: Đừng bao giờ làm những gì mà trẻ có thể làm được.
Không nên yêu cầu trẻ phục tùng theo ý người lớn ngay lập tức vì sự phục
tùng một cách thái quá không có sự thỏa thuận giữa các bên không tạo điều kiện
phát triển tính tự lập, sáng tạo trong việc suy nghĩ tìm cách giải quyết vấn đề.
Không nên yêu cầu những điều không phù hợp với lứa tuổi của trẻ vì sẽ ảnh
hưởng không tốt đến sự phát triển tính nhận thức ở trẻ.
Không nên giáo huấn quá nhiều sẽ dần làm cho trẻ nghĩ rằng trẻ là người có
tội, làm nảy sinh tính tự ti, đánh giá tiêu cực về bản thân sau này.
Không tước đoạt của trẻ quyền làm trẻ con, hãy để cho trẻ được làm trẻ con
thực sự đừng mong đợi trẻ là một người giống như người lớn hoặc như người lớn
mong muốn, không nên nhồi nhét lượng kiến thức quá mức so với khả năng tiếp
nhận của não bộ. Hãy giúp trẻ lớn dần trên chính bản thân trẻ.
Không thúc giục trẻ, không biến thời gian tiếp nhận thức ăn cho việc thực
hiện những nhiệm vụ giáo dục. Sự nóng giận của người lớn đối với những sai sót
13
Người viết: Nguyễn Thị Mỹ Nử
14
Sáng kiến kinh nghiệm
của trẻ không nên làm trẻ ăn mất ngon, mất hứng thú đối với đồ ăn, mà còn gây
cản trở nghiêm trọng cho trẻ trong việc hình thành những thói quen ăn uống có văn
hóa.
Thường xuyên kết hợp với phụ huynh trong việc chăm sóc, giáo dục trao đổi
và tìm hiểu tâm sinh lý của từng trẻ để giáo dục kỹ năng sống cho trẻ tốt hơn.
Hướng dẫn và rèn kỹ năng cho trẻ mọi lúc , mọi nơi qua các hoạt động trong ngày.
VD: Qua giờ đón trẻ, cô nhắc cháu biết chào ba mẹ khi đi học, cất đồ dùng
đúng nơi quy định (Hình 8: Giờ đón trẻ - Phần phụ lục).
V. KẾT QUẢ:
Từ những cố gắng nghiên cứu tài liệu, kinh nghiệm của bản thân, sự đồng
thuận hợp tác của tập thể sư phạm, sự ủng hộ đồng tình của các bậc cha mẹ qua
một thời gian thực hiện và theo dõi, bản thân nhận thấy những biện pháp trên đây
rất có hiệu quả, cụ thể là học sinh lớp tôi đã năng động, mạnh dạn, tự tin hơn trong
giao tiếp trước tập thể. Phần lớn trẻ có thói quen lao động tự phục vụ, được rèn
luyện kỹ năng tự lập; kỹ năng nhận thức; kỹ năng vận động thô, vận động tinh, kỹ
năng tự kiểm soát bản thân, phát triển óc sáng tạo, thông qua các hoạt động hàng
ngày trong cuộc sống của trẻ.
Ngoài ra trẻ đi học đều hơn, ít gặp khó khăn khi đến lớp, có kỹ năng lao
động tự phục vụ, sắp xếp bàn ăn, tự chuẩn bị khăn ăn, xếp gối trải chiếu... biết
cùng cô cất đồ chơi gọn gàng sau khi chơi và lau chùi kệ góc sạch sẽ.
Cha mẹ cũng có ý thức phân việc cho trẻ, thay đổi cách rèn kỹ năng cho trẻ,
không cung phụng trẻ thái quá, biết coi trọng trẻ và tích cực tham gia vào các hoạt
động giáo dục trẻ ở nhà trường. Là tấm gương để con cái noi theo. Các bậc phụ
huynh đã có thói quen phối kết hợp chặt chẽ với cô giáo trong việc dạy trẻ các kỹ
năng sống, trao đổi với giáo viên bằng nhiều hình thức và đặc biệt quan tâm đến
việc thường xuyên giáo dục kỹ năng sống cho trẻ.
Cha mẹ tin tưởng vào kết quả giáo dục của cô giáo, của nhà trường, thông
cảm, chia sẻ, những khó khăn của cô giáo, cung cấp vật liệu, phụ giúp giáo viên
trang trí lớp, làm đồ chơi.
1. Đối với trẻ:
- Trẻ được khơi dậy tính tích cực, tò mò, phát triển trí tưởng tượng, năng
động, mạnh dạn, tự tin.
- 100% trẻ có thói quen lao động tự phục vụ, được rèn luyện kỹ năng tự lập,
kỹ năng nhận thức.
- 100% trẻ được rèn luyện kỹ năng xã hội, kỹ năng về cảm xúc, giao tiếp;
chung sống hòa thuận và khả năng hợp tác.
- 90% trẻ luôn có kết quả tốt trong học tập thông qua bảng đánh giá trẻ ở lớp
sau mỗi kỳ học, cuối độ tuổi và qua kết quả kiểm tra đánh giá chất lượng sau mỗi
chủ đề đối với từng trẻ đạt khá và tốt: mạnh dạn tự tin: 95%; kỹ năng hợp tác:
14
Người viết: Nguyễn Thị Mỹ Nử
15
Sáng kiến kinh nghiệm
93%, kỹ năng giao tiếp: 92.3%, phát âm rõ lời: 94%; tự lập, tự phục vụ: 92.6%; lễ
phép: 96%; Kỹ năng vệ sinh: 92%; kỹ năng thích khám phá học hỏi: 91%; kỹ năng
tự kiểm soát bản thân: 90%.
- Trẻ đi học đều hơn, đạt tỷ lệ chuyên cần đạt trên 96% và ít gặp khó khăn
khi đến lớp, có kỹ năng lao động tự phục vụ, trực nhật, sắp xếp bàn ăn, tự xếp gối,
chiếu sau khi ngủ...
2. Đối với phụ huynh:
- Các bậc cha mẹ đã phối hợp chặt chẽ với cô giáo trong việc dạy trẻ các kỹ
năng sống, trao đổi với giáo viên bằng nhiều hình thức thông qua bảng thông tin
dành cho cha mẹ, bảng đánh giá trẻ ở lớp.
- Giao tiếp giữa cha mẹ và con cái tốt hơn, đa số cha mẹ dịu dàng, ít la mắng
trẻ, thay đổi trong cách rèn luyện kỹ năng cho trẻ, phân việc cho trẻ, không cung
phụng trẻ thái quá, không còn hình ảnh ba bế con, mẹ đi sau xách cặp cho con,
ngược lại xuất hiện khá nhiều hình ảnh trẻ tự đeo ba lô, tự đi lên lầu, tự xúc cơm...
3. Đối với giáo viên:
Giáo viên biết phân chia thời gian hợp lý, không xem nhẹ hoạt động nào.
Lồng ghép, tích hợp nội dung giáo dục kỹ năng sống cho trẻ vào các hoạt động một
cách hợp lý và đạt hiệu quả cao. Bản thân được trau dồi kiến thức và có thêm nhiều
kinh nghiệm bổ ích trong việc giáo dục trẻ, được phụ huynh và các bạn đồng
nghiệp tín nhiệm.
VI. KẾT LUẬN:
Việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mầm non là vô cùng quan trọng. Vì trình
độ nhận thức và tiếp thu của mỗi cháu khác nhau, hoàn cảnh sống từng gia đình
mỗi cháu không đồng đều vì vậy qua quá trình thực hiện bản thân nhận thấy muốn
thực hiện tốt việc này thì cha mẹ trẻ và giáo viên cần có lòng quyết tâm, sự bền bỉ,
thường xuyên nỗ lực cố gắng, phải tận tâm, tận lực và phải luôn cố gắng là tấm
gương để trẻ học theo.
Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ là một trong những nội dung hết sức quan
trọng trong chương trình giáo dục mầm non, việc trang bị cho trẻ những kỹ năng
sống cơ bản, đơn giản nhất giúp trẻ thích ứng với nhu cầu xã hội và cuộc sống hiện
tại là một yêu cầu cấp bách và thiết thực cần được xã hội quan tâm và nhận thức
một cách đúng đắn. Đặc biệt ở trường mầm non, việc chú trọng và đầu tư đúng
mức về vấn đề này sẽ là tiền đề cho chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ ở nhà trường.
Vì thế vấn đề tôi nghiên cứu và những biện pháp mà tôi đã áp dụng ở đơn vị là rất
thiết thực và là yêu cầu không thể thiếu và thực tế qua thời gian áp dụng ở lớp đã
có nhiều kết quả đáng kể. Tuy nhiên vẫn không tránh khỏi một số hạn chế rất mong
được sự hỗ trợ của các cấp lãnh đạo và các bạn đồng nghiệp.
15
Người viết: Nguyễn Thị Mỹ Nử
16
Sáng kiến kinh nghiệm
Từ những biện pháp nêu trên tôi đã thực hiện với trẻ lớp tôi trong năm học
này, đến nay tôi nhận thấy kết quả rất khả quan điều đó chứng tỏ việc áp dụng các
biện pháp của đề tài đã có một hiệu quả nhất định.
Tuy kinh nghiệm còn khiêm tốn nhưng được rút ra từ thực tiễn giảng dạy
cùng với sự đóng góp một phần không nhỏ của Ban giám hiệu nhà trường và tập
thể Hội đồng Sư phạm cụ thể như sau:
- Cô giáo cần nhận thức và xác định dược những kỹ năng sống cần thiết để
giáo dục cho trẻ mầm non.
- Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ thông qua các hoạt động.
- Kết hợp phương pháp dùng trò chơi và tạo tình huống.
- Động viên, khuyến khích, nêu gương, khen thưởng kịp thời.
- Phối hợp giữa gia đình và nhà trường trong việc giáo dục kỹ năng sống cho
trẻ.
Trong quá trình áp dụng các biện pháp, cần chú ý kết hợp nhiều biện pháp với
nhau để đạt hiệu quả cao.
VII. KIẾN NGHỊ:
Với những cố gắng và nỗ lực của bản thân tôi đã có những thành quả nhất
định. Trong quá trình thực hiện, bản thân vẫn còn một số khó khăn nhất định, vậy
kính đề nghị:
- Cung cấp nhiều tài liệu để tham khảo, nghiên cứu cho giáo viên để giáo
viên tìm ra những biện pháp hay, phù hợp.
- Cần có riêng môn học giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mầm non như những
môn học khác.
Kính mong được đón nhận những góp ý, bổ sung của Hội đồng khoa học các
cấp để Sáng kiến kinh nghiệm phong phú và đạt hiệu quả hơn .
Xin chân thành cảm ơn!
Ái Nghĩa, ngày 20 tháng 02 năm 2017
Người viết
Nguyễn Thị Mỹ Nử
16
Người viết: Nguyễn Thị Mỹ Nử
17
Sáng kiến kinh nghiệm
VIII. PHỤ LỤC:
Hình 1: Bé múa hát cùng cô
17
Người viết: Nguyễn Thị Mỹ Nử
18
Sáng kiến kinh nghiệm
Hình 2: Bé chơi ở góc xây dựng
Hình 3: Giờ bé nghe kể chuyện
18
Người viết: Nguyễn Thị Mỹ Nử
19
Sáng kiến kinh nghiệm
Hình 4: Bé chăm sóc góc thiên nhiên
19
Người viết: Nguyễn Thị Mỹ Nử
20
Sáng kiến kinh nghiệm
Hình 5: Giờ ăn của bé
Hình 6: Biết bỏ rác đúng nơi quy định
20
Người viết: Nguyễn Thị Mỹ Nử
21
Sáng kiến kinh nghiệm
Hình 7: Bé chơi kéo co
Hình 8: Giờ đón trẻ
IX. TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Tài liệu bồi dưỡng thường xuyên cho CBQL và Giáo viên năm học 20142015, 2015-2016, 2016-2017.
2. Chương trình giáo dục mầm non của BGD&ĐT ban hành kèm theo thông
tư số 17/2009/TT-BGDĐT ngày 25 tháng 7 năm 2009 của Bộ trưởng Bộ Gíao dục
và Đào tạo.
3. Tạp chí giáo dục mầm non.
4. Tài liệu chương trình bồi dưỡng chuyên môn.
5. Tạp chí gia đình và bé.
6. Công văn số 463/BGDĐT-GDTX ngày 28/01/2015 của Bộ Giáo dục và
Đào tạo về hướng dẫn việc tổ chức giáo dục kỹ năng sống (KNS) tại các cơ sở
GDMN,GDPT và GDTX (sau đây gọi chung là các cơ sở giáo dục);
21
Người viết: Nguyễn Thị Mỹ Nử
22
Sáng kiến kinh nghiệm
7. Thông tư số 04/2014/TT-BGDĐT ngày 28/2/2014 của Bộ GDĐT về quy
định quản lý hoạt động giáo dục kỹ năng sống và hoạt động giáo dục ngoài giờ
chính khóa;
MỤC LỤC
STT
TIÊU ĐỀ
TRANG
I
Đề tài
II
Đặt vấn đề
1-2
III
Cơ sở lý luận
2-5
IV
Cơ sở thực tiễn
5-6
V
Nội dung nghiên cứu
6-13
1.
6-8
2.
8-9
3.
9-10
4.
10-11
5.
11-13
VI
Kết quả nghiên cứu
13-15
VII
Kết luận
15
VIII
Kiến nghị
16
22
Người viết: Nguyễn Thị Mỹ Nử
1
23
Sáng kiến kinh nghiệm
IX
Phụ lục
X
Tài liệu tham khảo
21
XI
Mục lục
22
23
Người viết: Nguyễn Thị Mỹ Nử
17-20