Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

SKKN Rèn kĩ năng cảm thụ thơ văn cho học sinh thông qua bài dạy học đọc – hiểu thơ trữ tình hiện đại ở lớp 9

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (158.17 KB, 20 trang )

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
BÁO CÁO NỘI DUNG SÁNG KIẾN
Tên sáng kiến: “Rèn kĩ năng cảm thụ thơ văn cho học sinh thông qua bài dạy
học đọc – hiểu thơ trữ tình hiện đại ở lớp 9”
Họ và tên tác giả: Nguyễn Thị Thu Trang
Trình độ chuyên môn: Cử nhân Sư phạm Ngữ văn
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường THCS Tân Đức – Phú Bình – Thái Nguyên
1. Lĩnh vực áp dụng của sáng kiến
Trong thực tế dạy học việc nâng cao chất lượng giáo dục nói chung và chất
lượng bộ môn nói riêng, việc cải tiến phương pháp dạy học là một nhân tố quan
trọng, bên cạnh việc bồi dưỡng kiến thức chuyên môn, việc phát huy tính tích cực
của học sinh có ý nghĩa hết sức quan trọng. Bởi vì xét cho cùng công việc giáo dục
phải được tiến hành trên cơ sở tự nhận thức, tự hành động, việc khơi dậy phát triển
ý thức năng lực tư duy, bồi dưỡng phương pháp tự học là con đường phát triển tối
ưu của giáo dục. Cũng như trong học tập các bộ môn khác, học Ngữ văn lại càng
cần phát triển năng lực tích cực, năng lực tư duy của học sinh để không phải chỉ
biết mà còn phải hiểu để cảm thụ cái hay, cái đẹp, ý nghĩa giáo dục của văn chương
cũng như áp dụng kiến thức và kỹ năng vào các hoạt động trong cuộc sống gia đình
và cộng đồng.
Trong quá trình dạy học môn Ngữ văn chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy học
sinh rất lười đọc và tư duy để tự tìm ra những đặc sắc về nội dung và nghệ thuật
của văn bản. Đa số học sinh ngày nay ngại học văn vì sợ lượng kiến thức bộ môn
yêu cầu nắm được. Các em cũng ngày càng ngại “đọc” hơn. Khi soạn bài thì đa số
chỉ liếc qua văn bản rồi sử dụng sách tham khảo chép để đối phó với việc kiểm tra,
đánh gía của thầy cô. Trên thực tế khi giảng dạy bộ môn tôi nhận thấy học sinh còn
gặp rất nhiều khó khăn, lúng túng khi đọc – hiểu văn bản thơ trữ tình, một phần do
các em chưa có kĩ năng đọc – hiểu văn bản văn học nhất là văn bản thơ, một phần
1


1


do các em chưa nắm vững về các biện pháp tu từ sử dụng trong văn bản, chưa có
khả năng cảm nhận, phân tích hệ thống hình ảnh, từ ngữ giàu biểu tượng.
Vì vậy để giúp học sinh nắm vững các kiến thức trong chương trình ngữ văn
Trung học cơ sở nói chung và chương trình Ngữ văn lớp 9 nói riêng tôi đã chọn đề
tài : “Rèn kĩ năng cảm thụ thơ văn cho học sinh thông qua bài dạy học đọc – hiểu
thơ trữ tình hiện đại ở lớp 9” để tích lũy kinh nghiệm của bản thân và chia sẻ với
các đồng nghiệp nhằm mục đích nâng cao chất lượng môn Ngữ văn.
2. Sự cần thiết, mục đích của việc thực hiện sáng kiến
Con người ta sống một cuộc sống gọi là đầy đủ với hai điều kiện: đầy đủ về
vật chất và đầy đủ về tinh thần. Chỉ nói riêng về cuộc sống tinh thần cũng thật đa
dạng và phong phú. Biểu hiện của sự đa dạng, phong phú ấy là: được yêu thương,
biết yêu thương; được ước mơ, được thưởng thức cái hay cái đẹp của cuộc đời;
được thưởng thức và được cống hiến. Và một trong những điều mang lại cho con
người niềm vui trong cuộc sống là biết thưởng thức những cái hay, cái đẹp, ý nghĩa
cuộc đời qua những áng thơ văn, dù sau này con người ấy có theo nghề nào đi
chăng nữa. Vì ở các tác phẩm văn chương, cuộc sống đã được kết tinh thành cái
đẹp qua tài năng, tình cảm, tâm huyết của người sáng tạo tác phẩm rồi.
Là loại hình tác phẩm được cấu trúc bởi một kiểu ngôn ngữ đặc biệt, khác
hẳn ngôn ngữ đời thường và ngôn ngữ văn xuôi, để bộc lộ ý thức tình cảm con
người một cách trực tiếp; là tiếng nói của tình cảm mãnh liệt, là sản phẩm của
những rung động đột xuất, độc đáo - thơ trữ tình đến với người đọc tự nhiên mà
nồng nàn, giản dị mà sâu sắc, dễ dàng mà khó quên, bất chợt để trường tồn, một
chút xôn xao để rồi sâu lắng. Một cái nhìn, một ánh mắt, một tiếng gọi trong thơ ta
gặp một lần để rồi cứ nhấp nháy mời gọi, ngân nga hoài trong ta mãi không thôi.
Cái “tôi” trữ tình luôn cảm xúc thực sự, bộc lộ hẳn ra.Tiếng nói trữ tình trở thành
tiếng lòng thầm kín của mọi người. Quả thật nó là “Lời gửi của nghệ sĩ với cuộc
đời”. Nói như cố nhà thơ Tố Hữu: “Thơ là tiếng nói của người nào đó đến với


2

2


những người nào đó dựa trên cơ sở đồng ý, đồng tình. Thơ là tiếng nói đồng ý,
đồng tình, tiếng nói đồng chí”.
Tuy nhiên, có những bài thơ người ta đọc một lần rồi sau đó mãi mãi để
trong quên lãng; có những bài thơ người ta đọc đi đọc lại mãi không muốn thôi.
Hoặc lại cũng có bài thơ, người này đọc thấy hay, thấy xúc động, người khác lại
chẳng thấy gì là thích thú. Đấy là do sức hấp dẫn từ bản thân tác phẩm và một điều
quan trọng nữa là hứng thú và kĩ năng cảm nhận ở mỗi người khi đến với văn bản
thơ. Năng lực cảm thụ của mỗi người không giống nhau, cũng không phải tự nhiên
vốn sẵn có mà phải qua quá trình hình thành bồi dưỡng. Nhất là đối với các em học
sinh. Với những học sinh lớp 9 - những học sinh sắp tốt nghiệp THCS - trước ngã
rẽ đầu tiên của cuộc đời (các em có thể tiếp tục học lên hoặc bước sang một hướng
khác của cuộc sống), để các em có thêm những nhận thức và tình cảm tốt đẹp với
cuộc sống trong và sau tác phẩm văn chương, giúp các em tiếp tục nâng cao năng
lực cảm thụ khi học văn học ở cấp THPT, tôi mạnh dạn đưa ra vấn đề: “Rèn kĩ
năng cảm thụ thơ văn cho học sinh thông qua bài dạy - học đọc - hiểu văn bản
thơ trữ tình”. Với phạm vi rất hạn hẹp là các tiết dạy thơ hiện đại cho đối tượng là
học sinh hai lớp 9B, 9C của trường THCS Tân Đức; quá trình tích luỹ kinh nghiệm
còn rất ngắn. Song tôi hi vọng sẽ nhận được sự góp ý của đồng nghiệp để mình có
thể góp một kinh nghiệm nhỏ vào quá trình dạy học ngữ văn của bản thân với
những lớp học sinh tiếp theo.
3. Mô tả nội dung của sáng kiến.
3.1. Tính mới
Nói đến bồi dưỡng năng lực cảm thụ thơ văn là nói đến một vấn đề mang
tính chiến lược trong quá trình dạy- học văn chương. Bản thân mỗi tác phẩm văn

chương đã có khả năng tạo cho người đọc sức hấp dẫn để rồi bằng nhiều con
đường, người ta được tìm hiểu về nó. Với mỗi học sinh lơp 9 THCS, đặt ra vấn đề
bồi dưỡng năng lực cảm thụ thơ văn không phải là sớm nhưng cũng không thể nói
là muộn. Kể từ khi các em chưa đến trường các em đã được tiếp xúc và cảm thụ các
3

3


tác phẩm văn chương. Nghe một truyện cổ tích, đọc theo người lớn một bài thơ,
nghe một người “ngâm” thơ trên các phương tiện thông tin đại chúng. Khi đến
trường cùng với việc đọc, học bài học ở trường các em còn tiếp tục được cảm nhận,
thưởng thức văn chương qua những sinh hoạt tập thể của Đội - Đoàn, đọc báo, diễn
thơ trong hoạt động văn nghệ, nghe nói chuyện về thơ. Nhưng ở đây, điều tôi muốn
nói đến thiên về những việc làm của Thầy và Trò trong quá trình chuẩn bị và thực
hiên đọc - hiểu văn bản thơ trữ tình. Làm thế nào để qua một bài dạy - học thơ có
thể góp thêm một kinh nghiệm để rèn kĩ năng cảm thụ thơ văn cho các em. Hay nói
cách khác những việc làm cụ thể để rèn luyện kĩ năng cảm thụ tác phẩm diễn ra
trước, trong và sau tiết bài dạy- học đọc - hiểu văn bản thơ trữ tình. Đây là những
việc làm khó.
Như trên đã nói, việc cảm thụ văn chương ở mỗi người không hề giống nhau
hơn nữa hoạt động thưởng thức văn chương của học sinh trong nhà trường không
giống như hoạt động thưởng thức của bạn đọc ở ngoài xã hội. Hoạt động thưởng
thức văn chương ở ngoài xã hội là hoàn toàn tự do, hoàn toàn mang tính chất cá
nhân. Còn hoạt động thưởng thức văn chương trong nhà trường là có giới hạn nhất
định về thời gian kể cả trong chính khoá và ngoại khoá; có sự hướng dẫn của giáo
viên, có sự kích thích tác động lẫn nhau của những người cùng thưởng thức, được
khuyến khích phát hiện thưởng thức những cái hay, cái đẹp theo một cách riêng
nhưng chủ yếu phải thưởng thức, tiếp nhận cái hay, cái đẹp là những kiến thức có
tính mục tiêu khái quát về tác phẩm. Và nguyên tắc dạy học văn cũng chỉ ra rằng:

dạy học văn chương phải vừa dạy môn khoa học vừa dạy môn nghệ thuật bởi văn
học vừa là khoa học, vừa là nghệ thuật. Vì thế việc cảm thụ tác phẩm phải dựa trên
cả tính khoa học, nghệ thuật và tính nhà trường. Rõ ràng việc rèn kĩ năng cảm thụ
thơ văn, nhất là qua đọc - hiểu văn bản thơ trữ tình là một việc đòi hỏi tính liên kết
khá cao.
Phần nữa, xét về kĩ năng cảm thụ tác phẩm văn chương của những học sinh lớp
9 hiện tại - cụ thể là ở hai lớp 9B, 9C của trường THCS Tân Đức tôi được phụ trách
4

4


cũng còn nhiều điều nan giải. Chỉ nói về kĩ năng tiếp xúc với tác phẩm đã có rất
nhiều điều phải bàn. Sự lúng túng của học sinh thường do các nguyên nhân:
+ Học sinh không phân biệt được các khái niệm biện pháp nghệ thuật và biện
pháp tu từ.
+ Học sinh không thể cảm nhận được thông điệp, nội dung tác giả gửi gắm qua
các hình ảnh nghệ thuật, từ ngữ giàu hình tượng.
Chính vì vậy khi dạy bộ môn Ngữ văn để rèn cho các em khả năng đọc – hiểu
văn bản thơ trữ tình tôi đã hệ thống hóa lại kiến thức về các biện pháp tu từ, các
dấu hiệu nghệ thuật cho học sinh giúp các em hiểu được tác dụng của các biện pháp
nghệ thuật cũng như các biện pháp tu từ trong văn bản thơ. Từ sự củng cố kiến thức
cơ bản đó học sinh đã dễ dàng hơn khi cảm nhận cái hay, cái đẹp của nội dung và
nghệ thuật của văn bản thơ, dần dần các em bớt sợ học văn và say mê với môn học
hơn, thích thú kiê,s tìm các tín hiệu nghệ thuật của văn bản để giải mã chúng.
3.2. Tính khoa học
Phương pháp dạy học là một bộ phận hợp thành của quá trình sư phạm nhằm
đào tạo thế hệ trẻ có tri thức khoa học, về thế giới quan và nhân sinh quan, thói
quen và kỹ năng thực hành, vận dụng kiến thức vào thực tế. Phương pháp dạy học
có mối liên hệ biện chứng với các nhân tố khác của quá trình dạy học. Những

phương pháp dạy học phải thống nhất biện chứng giữa việc giảng dạy của giáo viên
với việc học tập của học sinh. Đồng thời góp phần có hiệu quả vào việc thực hiện
tốt các khâu của quá trình dạy học. Xác định kế hoạch giáo dục, giáo dưỡng, phát
triển bộ môn một cách nhịp nhàng, cụ thể hoá nhiệm vụ dạy học trên cơ sở đặc
điểm của học sinh, điều chỉnh kế hoạch dạy học cho sát với diễn biến thực tế, tổ
chức và hướng dẫn học sinh học tập ở trên lớp cũng như ở nhà phù hợp với dự định
sư phạm.
Đối với môn Ngữ văn ở trường phổ thông, kĩ năng đọc – hiểu văn bản nói
chung và đọc – hiểu văn bản thơ trữ tình nói riêng đóng một vai trò hết sức quan
trọng, việc hướng dẫn học sinh đọc – hiểu văn bản thơ là một hoạt động dạy học, là
5
5


mt cụng vic khú khn, ú bc l rừ nht trỡnh ca ngi giỏo viờn, vỡ th ũi
hi ngi giỏo viờn v c hc sinh phi hc tp v lao ng khụng ngng.
Thụng qua cỏc cõu hi c hiu to iu kin cho hc sinh vn dng linh hot
nhng kin thc t lc gii quyt thnh cụng nhng tỡnh hung c th khỏc nhau
thỡ nhng kin thc ú mi tr nờn sõu sc hon thin v tr thnh vn riờng ca
hc sinh. Trong quỏ trỡnh gii quyt cỏc vn , tỡnh hung c th do cõu hi ra
hc sinh phi vn dng cỏc thao tỏc t duy nh phõn tớch, tng hp khỏi quỏt
hoỏ.... gii quyt vn , t ú s giỳp gii quyt giỳp phỏt trin t duy v sỏng
to, úc tng tng, tớnh c lp trong suy ngh, suy lun.... Nờn cõu hi c hiu
gõy hng thỳ hc tp cho hc sinh, vn dng kin thc ó hc vo nhng vn
thc t trong cuc sng, trong lao ng.
3.3. Tớnh thc tin
Bắt đầu t nm 2015 2016 tụi ó thc hin ti ny. Tôi đã kết
hợp giữa ging dy v hng dn hc sinh k nng c hiu, cng c kin thc
cỏc em cha vng trong tng tit dy. Nh s c gng, n lc ca c thy v trũ
sau mt vi thỏng ỏp dng phng phỏp mi các em không còn lúng túng

khi tip xỳc, tỡm hiu vn bn th mà còn rất hứng thú. Tuy nhiên việc áp
dụng từng nội dung của sáng kiến tuỳ thuộc vào đối tựơng học
sinh. Đối với các lớp đại trà tôi u t nhiu thi gian hn cho vic cng c
kin thc giỳp cỏc em t tin c hiu vn bn cũn i vi cỏc em hc sinh gii
tụi nh hng giỳp cỏc em t phỏt hin ra cỏc tớn hiu ngh thut v nhng c sc
v ni dung ca vn bn.
3.4. Tớnh hiu qu
Khi triển khai đề tài này, tôi nhận thấy rằng kết quả học tập của
các em đã nâng lên rõ rệt. Cụ thể nh sau:
Bảng so sánh kết quả bộ môn trớc và sau khi thực hiện đề
tài:
6

6


Năm

Tổng số HS

học
2015-

khối 9

2016
2015-

Giỏi


Khá

Trung

102

28

30

bình
40

104

44

45

15

Yếu
4
0

2016
Sở dĩ kết quả và chất lợng học sinh đợc nâng lên rõ rệt là do học
sinh đã hiểu thấu đáo vấn đề ở những góc độ khác nhau. Đặc
biệt là ở học sinh đã hình thành đợc kỹ năng c hiu vn bn th
tr tỡnh.

4. Phm vi ỏp dng
Hc sinh trong trng Trng THCS Tân Đức v mt s trờng trong huyn.
5. Kt qu, hiu qu mang li
Khi bt u thc hin ti hc sinh a s k nng c hiu rt kộm, iu ny do
nhiu nguyờn nhõn mang li.
Th nht l cỏc em rt li c. Cha núi n nhng k nng cao siờu, c l
khõu u tiờn hc sinh tip cn tỏc phm, song vỡ cú l cho l mỡnh ang l
ngi ln nờn phn ln cỏc em hc sinh ch c bng cỏch lia mt lt qua ri
sau ú vi vi vng vng tr li my cõu hi hng dn trong sỏch giỏo khoa cho
xong vic chun b bi trỏnh b cỏn b lp hoc cụ giỏo phờ bỡnh. Th lm mt
phộp iu tra nho nh u nm vi bi chun b hc on trớch Quang Trung i
phỏ quõn Thanh- trớch Hong Lờ nht thng chớ (õy l mt tỏc phm
truyn), tụi khụng khi git mỡnh. Khi c hi hc sinh hc lp 9B, 9C cỏc em ó
cho bit:
S ln c bi: nhiu nht l mt ln .
S lng hc sinh c y t u n cui on trớch:
7

7

9B: 16/37


9C: 14/35
• Số còn lại đọc loáng thoáng một số câu, một vài đoạn. Đặc biệt có em không
cần đọc một câu nào. Lý do không đọc hết hoặc đọc một lần: văn bản dài, là văn
xuôi khó đọc.
Đến thơ, tình trạng có khá hơn. Số em đọc bài thơ “ Bếp lửa” từ 2 lần trở lên đã



9B : 19 em
9C : 16 em
Đọc một lần :

9B : 21 em
9C : 19 em

Đấy là việc đọc trước. Còn việc chuẩn bị trả lời câu hỏi đọc - hiểu văn bản thì sao ?
Cũng đã nói ở trên, vì tâm lý “sợ’’ cô giáo và tập thể phê bình nên các em có trả lời
các câu hỏi chuẩn bị bài vào vở bài tập ngữ văn. Song việc trả lời chỉ là sao chép lại
những gợi ý trong sách “Để học tốt Văn và Tiếng Việt 9” sao chép không cần suy
nghĩ, miễn sao có đủ bài.
Như thế, ở khâu đầu tiên tiếp xúc với văn bản, các kĩ năng đọc, tìm hiểu nếu
không được rèn luyện sẽ dần dần chuyển sang kĩ năng sao chép tài liệu hướng dẫn
thành thạo hay không thành thạo mà thôi.
Còn trong quá trình đọc - hiểu, rất nhiều giờ dạy - học, nhất là giờ dạy - học
những bài thơ trữ tình hay. Trước đây, với phương pháp dạy học cũ, thầy giảng trò
nghe, dạy những bài thơ như: “Đoàn thuyền đánh cá”, không ít giáo viên đã để
“cháy” giáo án vì thầy giáo quá say sưa với những ngôn từ, vẻ đẹp trong cách thể
hiện của tác giả. Hiện nay, với phương pháp dạy học mới, người thầy lại không bị
“cháy” vì mình quá say sưa mà “cháy” vì học sinh không biết tìm ra những tín hiệu
nghệ thuật để phân tích, hoặc giả các em chẳng hề rung động trước bất cứ hành
động nào. Kĩ năng đọc đã yếu, kĩ năng phát hiện và cảm nhận các tín hiệu nghệ
thuật trong một bài thơ ở các em lại càng yếu.
Hay nói đến các biện pháp nghệ thuật cũng vậy. Học sinh nhầm lẫn biện
pháp nghệ thuật và biện pháp tu từ. Hoặc các em đồng nhất hai khái niệm đó, hoặc
8

8



nhầm giữa biện pháp tu từ này với biện pháp tu từ khác và hầu như việc tìm ra giá
trị của biện pháp nghệ thuật ấy trong bài thơ là rất hạn chế.
Một điều đáng nói nữa là hình tượng trong tác phẩm trữ tình. Nếu như hình
tượng trong tác phẩm tự sự là hình tượng tính cách, các em dễ hình dung thì hình
tượng trong tác phẩm trữ tình lại là hình tượng tâm sự. Tiếng nói trong tác phẩm trữ
tình là tác phẩm của những tâm trạng. Thơ trữ tình chứa đầy tâm trạng, cảm xúc và
tâm trạng đó được gắn liền với sự rung động về vần điệu, hình tượng âm thanh.
Việc hiểu tâm trạng trong thơ để đồng điệu cũng rất khó. Hiểu không đúng dễ dàng
dẫn đến cảm nhận cũng lơ mơ, trệch hướng.
Tóm lại: Thực trạng của vấn đề có nhiều điều tác động, đòi hỏi trong quá
trình thực hiện dạy - học văn bản thơ trữ tình phải giải quyết để đạt hiệu quả:
Làm thế nào để khơi gợi hứng thú cảm nhận cho các em, taọ cơ sở cho việc
rèn kỹ năng cảm thụ ?
Làm thế nào để giúp các em có được và phát triển kĩ năng cảm thụ trong điều
kiện thực tế và thời lượng cụ thể giành cho mỗi văn bản thơ trữ tình?
Làm thế nào để các em biết vận dụng kỹ năng cảm thụ để làm tốt bài tập làm
văn nghị luận về đoạn thơ, bài thơ trong chương trình để đảm bảo nguyên tắc dạy
học văn theo hướng thích hợp?
Đó là những điều đặt ra với tôi trong quá trình dạy học văn bản thơ trữ tình.
Căn cứ vào tình hình thực tế học sinh, bám sát đặc điểm loại thể thơ trữ tình;
thông qua một số tiết dạy cụ thể, tôi đã tiến hành các giải pháp như sau:
1.Đảm bảo nguyên tắc dạy học Ngữ Văn theo đặc trưng thể loại - bồi dưỡng
hứng thú tiếp nhận tác phẩm thơ trữ tình.
Tác phẩm nghệ thuật là kết quả của sự thăng hoa về tâm hồn, và trí tuệ của
người nghệ sĩ. Vì thế, nó có những giá trị vượt ra ngoài ý đồ sáng tạo của tác giả.
Hình tượng càng lớn, càng có tính nghệ thuật cao thì càng có nhiều khía cạnh, nội
dung phong phú, hấp dẫn. Sáng tạo một tác phẩm, nhà văn muốn nói với người đọc,
muốn truyền cho người đọc qua các thế hệ một cách nhìn, cách hiểu, cách đánh giá
9


9


với chính mình và đối với cuộc sống con người, đối với thế giới. Những người đọc,
do sự chi phối của thời đại, do trình độ, thị hiếu thẩm mỹ và tâm lý lứa tuổi, đến
với tác phẩm lại muốn tìm được những điều nào đó phù hợp với mình và cần thiết
cho mình. Chính vì vậy, bản thân hình tượng đã phong phú đa dạng, đối diện với
người đọc càng làm cho nó trở nên phong phú đa dạng hơn.
Như trên đã nói, tác phẩm thơ - đặc biệt là thơ trữ tình - hình tượng trong đó
là hình tượng tâm tư. Ngoài cái thông điệp mà tác giả muốn gửi tới người đọc còn
có cả những điều mà tác giả muốn bộc lộ ra với người đọc. Để học sinh say mê đọc
tác phẩm, tái hiện hình tượng trong tác phẩm, tiếp nhận được những giá trị của tác
phẩm cũng như có sự tìm tòi phát hiện riêng về tác phẩm. Giáo viên phải tác động
bằng nhiều hình thức để các em chủ động đến với tác phẩm một cách hứng thú
bằng những nhu cầu tình cảm, những nhu cầu từ bên trong. Làm sao để các em
sống với tác phẩm bằng cả tâm hồn mình, tiếp nhận kiến thức về tác phẩm bằng
những rung động sâu xa, mãnh liệt của tâm hồn.
Nhận thức tác phẩm tức là học sinh phải trực tiếp đối diện với tác phẩm và từ
đó có nhu cầu và niềm say mê thưởng thức, khám phá tác phẩm. Là chủ thể chủ
động, học sinh không chỉ có đọc, sáng tạo lại hình tượng tác phẩm thành hình
tượng của mình, mà qua đó các em nghe được tiếng nói, lắng nghe được giọng
điệu, cảm nhận được cái nhìn của nhà thơ về cuộc sống, con người. Các em buồn
cái buồn, vui niềm vui của nhà thơ, bị nhà thơ thuyết phục hoặc tranh luận với nhà
thơ. Là chủ thể chủ động, các em phải có sự giao tiếp, sự cộng hưởng cảm xúc với
nhà văn, tiếp nhận những thông điệp thẩm mỹ của nhà văn qua tác phẩm. Để học
sinh thực sự trở thành chủ thể tiếp nhận tác phẩm, trong giờ dạy - học đọc - hiểu
văn bản nhất là văn bản trữ tình cần:
Trước hết các em phải được khơi gợi hứng thú đọc tác phẩm và hướng dẫn
chuẩn bị tìm hiểu tác phẩm ở nhà một cách cụ thể. Làm sao để khi bước vào giờ

học, các em như mong muốn được thể hiện giọng đọc, sự đồng sáng tạo của mình,
muốn trình bày, muốn tranh luận những điều cảm thụ, nhận thức được về tác phẩm.
10

10


Thưởng thức nghệ thuật chỉ thực sự bắt đầu khi có nhu cầu về thỏa mãn về tình
cảm, tâm hồn, trí tuệ, những nhu cầu về bên trong.
Với chương trình Ngữ Văn 9, những bài thơ trữ tình được đưa vào dạy - học
phần lớn đề cập đến những tình cảm đẹp đẽ của con người, rất phù hợp với tâm lý
tuổi mới lớn của các em (tình đồng chí đồng đội, tình bà cháu, tình yêu quê hương
đất nước, yêu thiên nhiên). Người giáo viên phải bám sát đặc trưng “tiếng nói tình
cảm” của các bài mà hướng các em vào việc đọc, tìm hiểu, tạo cho các em sự đồng
cảm cùng nhà thơ để đạt hiệu quả cảm thụ.
Tiếp theo việc khơi gợi hưng thú đọc là tiến trình dạy - học. Trong tiết dạy học, giáo viên cần hướng dẫn các em tự phát hiện, thưởng thức tác phẩm, khuyến
khích các em có những cảm nhận, những phát hiện riêng nhưng không suy diễn tuỳ
tiện, có những điều trăn trở vấn vương của các em về tác phẩm cần được thầy cô
giúp đỡ giải đáp kịp thời. Sau tiết học, các em được mở ra những khả năng mới để
tiếp tục thưởng thức, khám phá tác phẩm ở mức sâu, rộng hơn, các em như cảm
nhận được những biến đổi, vận động phong phú hơn trong tâm hồn mình. Với ưu
thế dễ đọc, dễ nhớ và tình cảm sâu lắng, các bài thơ trữ tình đầy đủ khả năng tạo ra
hứng thú cho các em. Người giáo viên bám sát đặc trưng thể loại kết hợp với khéo
léo khơi dậy tình cảm tiềm ẩn trong mỗi học trò sẽ từng bước bồi dưỡng được hứng
thú tiếp nhận tác phẩm cho các em trong quá trình dạy học.
Cùng với việc bồi dưỡng hứng thú, trong điều kiện hiện nay rèn luyện kỹ
năng cảm thụ cho các em, người thầy còn phải chú ý đến việc đổi mới phương pháp
bồi dưỡng theo hướng tích hợp, tích cực.
2. Đảm bảo nguyên tắc dạy học văn theo hướng tích hơp, tích cực, giúp các em
nắm vững kiến thức Tiếng Việt để vận dụng phân tích văn bản thơ trữ tình:

Phát hiện và phân tích bình giá các dấu hiệu nghệ thuật, sử dụng hệ thống
câu hỏi hướng dẫn phân tích bình giá- sử dụng phương pháp gợi tìm, phương pháp
nghiên cứu để giúp học sinh làm tốt các bài nghị luận về đoạn thơ, bài thơ trong
chương trình lớp 9.
11

11


Về chủ quan, các văn bản thơ trữ tình được đưa vào chương trình trong thời
điểm cụ thể từng bài, tuần đã đảm bảo tính tích hợp bởi đó là nguyên tắc xây dựng
chương trình. Tích hợp giữa Văn - Tiếng Việt và Tập làm văn (tích hợp ngang) và
tích hợp dọc các nội dung, các kiểu văn bản đã học từ lớp 6 đến lớp 9. Thực thế dạy
- học Tiếng Việt từ lớp 6 - lớp 9 đã cung cấp cho các em các tri thức về các dấu
hiệu nghệ thuật trong văn bản, nhất là văn bản thơ. Các kiểu từ loại, các kiểu câu,
các cách cấu tạo câu, các phép liên kết , tất cả đều có giá trị sử dụng của chúng.
Ứng dụng các kiến thức Tiếng Việt các em sẽ phát hiện và phân tích bình giá các
tín hiệu nghệ thuật ấy để hiểu và cảm thụ bài thơ sâu sắc. Song có điều, những kiến
thức về Tiếng Việt có thể các em đã học từ lớp 6, lớp 7 nên các em dễ quên. Với
mỗi bài, các em phải được hướng dẫn ôn tập thường xuyên để củng cố kiến thức và
tăng cường kỹ năng phát hiện, vận dụng phân tích. Sau mỗi một bài dạy - học thơ
trữ tình cần có bài tập viết đoạn trình bày cảm thụ để học sinh luyện về kiểu bài
nghị luận về đoạn thơ, bài thơ. Thông thường, phần luyện tập của mỗi bài đều có,
song không nhất thiết phải luyện tập ngay trên lớp. Phần vì đảm bảo thời gian, phần
vì để cho học sinh có độ “ngấm” sâu hơn nên cho các em về nhà làm bài tập viết
đoạn (vào giấy) và kiểm tra lại bằng cách cho các em nộp lại cho giáo viên đánh giá.
Phương pháp dạy học tích cực chỉ ra rằng: người học - chủ thể hoạt động phải tự mình tìm ra kiến thức cùng với cách tìm ra kiến thức thông qua hành động
của chính mình. Chỉ có bằng hành động tự tìm hiểu khi các em tự nói ra những điều
mình cảm nhận được thì bài thơ sẽ “sống” mãi, và lúc đó quá trình cảm thụ mới
thật sự thành công.

3.Vận dụng cụ thể vào việc rèn kĩ năng.
a. Rèn luyện kĩ năng đọc: Như trên đã nói, đọc là bước đầu tạo tiền đề cho hoạt
động tái hiện và có khả năng thực hiện dễ dàng, đầy đủ hoạt động tái hiện. Với tác
phẩm trữ tình, đọc vừa là đồng cảm, vừa là diễn cảm. Cũng nhờ đọc mà học sinh
vừa được chứng kiến, vừa được thể nghiệm. Vì thế đọc - tái hiện, tri giác hình
tượng thơ là hoạt động không thể coi nhẹ trong quá trình dạy - học thơ trữ tình. Tái
12

12


hiện hình tượng trong thơ không những là một thao tác tư duy để đi vào tác phẩm
mà còn là một bí quyết truyền thụ nữa.
Một bài thơ như bài thơ “Bếp lửa” chẳng hạn mà việc đọc và tái hiện hình
tượng không thực hiện tốt thì khó thu được kết quả. Cả một dòng hoài niệm tuôn
chảy theo thời gian sống dậy trong tâm tưởng nhà thơ nếu như không được tái hiện
thì khó mà gợi được rung động cảm xúc.
Nhận thức như vậy nên khi dạy - học bài thơ “Bếp lửa” tôi chú trọng hướng
dẫn học sinh đọc trước ở nhà. Đọc và hình dung cảnh “Bếp lửa” quê hương có Bà
tần tảo nắng mưa, có Bà chăm chút cháu, có Bà gắn liền bên “Bếp lửa”. Đến lớp,
cô giáo bằng giọng đọc truyền cảm của mình, đọc mẫu cho học sinh đoạn thơ đầu:
“Một bếp lửa chờn vờn ……… sống mũi còn cay”, sau đó hướng dẫn học sinh
đọc và đọc tiếp trong quá trình phân tích. Kết hợp đọc của thầy, đọc của trò, học
sinh đã có những cảm nhận bước đầu về bài thơ theo đúng hướng.
Với những bài thơ khác như bài “Đồng chí ”, “Bài thơ về tiểu đội xe không
kính”, “Mùa xuân nho nhỏ”, “Viếng lăng Bác” là những bài thơ được phổ nhạc
hoặc có liên quan đến bài ca nào đó thì bên cạnh việc hướng dẫn đọc, tôi còn
hướng dẫn cho các em sưu tầm, nghe băng đĩa nhạc, xem băng đĩa hình để giúp các
em tái hiện hình tượng một cách dễ dàng hơn.
b. Cùng với rèn kĩ năng đọc, tái hiện là rèn luyện kĩ năng phát hiện và bình giá

các dấu hiệu nghệ thuật.
Nói đến thơ là nói đến chất thơ, lời thơ. Điều đáng chú ý đầu tiên của hình
thức nghệ thuật trong thơ là nhịp điệu. Thơ là văn bản được tổ chức bằng nhịp điệu
của ngôn từ. Nhịp điệu thơ được tổ chức đặc biệt để thể hiện nhịp điệu tâm hồn,
nhịp điệu cảm nhận thế giới một cách thầm kín. Nhịp điệu được tạo ra bởi sự trùng
điệp: Trùng điệp của âm vận, trùng điệp ở nhịp, ở ý thơ, câu thơ hoặc bộ phận của
câu thơ. Ví dụ như dạy - học bài “Mùa xuân nho nhỏ”, phải hướng học sinh chú ý
đến nhịp điệu dồn dập, hối hả trong bài thơ để thấy được khí thế vào xuân tưng
bừng nhộn nhịp của mùa xuân đất nước.
13

13


Đặc biệt trong đoạn:
Mùa xuân người cầm súng
Lộc giắt đầy trên lưng
Mùa xuân người ra đồng
Lộc trải dài nương mạ
Tất cả như hối hả
Tất cả như xôn xao…
Cùng với nhịp điệu là hình ảnh. Hình ảnh trong thơ trực tiếp truyền đạt sự
cảm nhận thế giới một cách chủ quan. Hình ảnh thơ thường gợi sự ngâm ngợi và
liên tưởng. Hình ảnh trong thơ là yếu tố được sử dụng với nhiều chức năng khác
nhau (có khi là những nhân tố trực tiếp của nội dung, là bức tranh nhỏ của cuộc
sống, có khi có được qua sự so sánh). Khi dạy các bài thơ trữ tình, cần cho học sinh
phát hiện và phân tích các hình ảnh, giá trị biểu đạt của các hình ảnh để các em cảm
thụ nội dung đầy đủ hơn.
Còn rất nhiều điều các em cần phải phát hiện và phân tích nữa như: ngôn
ngữ, các biện pháp tu từ, kết cấu. Trong phạm vi thời gian của từng tiết học, dưới

sự hướng dẫn của giáo viên qua mỗi bài sẽ củng cố, rèn luyện thêm cho các em.
Bằng hệ thống câu hỏi hướng dẫn, bằng phương pháp gợi tìm, nghiên cứu kết hợp
với quá trình truyền cảm thụ của giáo viên và với tính tích cực được phát huy, các
em sẽ có được kết quả cảm thụ tốt hơn.
c. Để cho những cảm nhận được kiểm nghiệm, để cho những câu thơ, bài thơ
hay sống mãi trong cảm nhận của các em thì chỉ đọc, tìm hiểu chưa gọi là đủ.
Các em còn phải biết thể hiện, trình bày cảm nhận của mình.
Kết thúc quá trình dạy - học trên lớp với một tác phẩm trữ tình không phải là
hết mà các em cần tiếp tục “suy ngẫm”, “nhấm nháp”, “thưởng thức”. Sau mỗi bài
học, giáo viên cần ra những bài tập rèn luyện kĩ năng cảm thụ cho học sinh để các
em tự trình bày những điều mà các em đã thu nhận được.

14

14


Thông thường, phần luyện tập của mỗi tiết bài đọc - hiểu đều có bài tập.
Thiết nghĩ không nên yêu cầu học sinh làm ngay tại lớp những bài tập cảm thụ mà
nên để cho học sinh “thấm” bài học rồi về nhà làm bài tập viết đoạn thể hiện cảm
xúc, suy nghĩ của mình.
Ví dụ: Khi dạy xong bài thơ “Con cò” của Chế Lan Viên, tôi yêu cầu các
em làm bài tập cảm thụ.
Bài tập 1: (Cho những học sinh đối tượng trung bình)
Qua bài thơ, em có suy nghĩ gì về những lời hát ru?
Bài tập 2: (cho học sinh đối tượng khá hơn).
Suy nghĩ của em về tấm lòng người mẹ qua hai câu thơ:
Con dù lớn vẫn là con của mẹ
Đi hết đời lòng mẹ vẫn theo con.
Với cả hai bài tập, hai đối tượng sau khi đã đọc, hiểu bài thơ đều đã viết được

những đoạn văn thể hiện cảm nhận của mình về lời hát ru (lời hát ru gắn với tuổi
thơ bên vành nôi và lời hát ru thể hiện tình cảm của người mẹ, lời hát ru theo con,
tiếp sức cho con; mẹ là nguồn tình cảm vô tận đối với con , tình thương của mẹ
giành cho con không gì sánh được).
Nói tóm lại: Việc rèn kĩ năng cảm thụ thơ văn cho học sinh thông qua những
bài thơ trữ tình, đặc biệt là những bài thơ hiện đại ở lớp 9 là rất có ưu thế. Nhưng
việc tổ chức biện pháp rèn luyện và nội dung rèn luyện là cả một quá trình đầy
những khó khăn, nhất là với những bài chỉ dạy trong một tiết. Để việc rèn kĩ năng
có hiệu quả, khâu chuẩn bị bài học phải thật chu đáo. Khâu tiếp xúc với tác phẩm
phải bằng nhiều con đường và tác động nhiều phía. Về nội dung công việc trong
tiết dạy - học rèn luyện kĩ năng phải dựa trên cơ sở những nguyên tắc, phương pháp
bộ môn. Người giáo viên cần khéo léo khơi gợi hứng thú, có hệ thống câu hỏi xoáy
vào những yếu tố trọng tâm và đặt ra những yêu cầu vừa sức để học sinh từng bước
cảm thụ tác phẩm. Điều quan trọng là mỗi cá nhân học sinh phải thật sự có ý thức,

15

15


có tình yêu đối với tác phẩm và chủ động tìm hiểu thì việc rèn kĩ năng sẽ đạt được
kết quả trọn vẹn hơn.
d. Sau đây là một vài việc làm trong một tiết bài cụ thể
Bài “Nói với con” của Y Phương ( tiết 122 ).
“Nói với con” của Y Phương là một bài thơ nằm trong cảm hứng phổ biến là
lòng thương yêu con cái, mong muốn thế hệ sau nối tiếp xứng đáng, phát huy
truyền thống của tổ tiên, quê hương vốn là tình cảm cao đẹp của con người Việt
Nam từ bao đời nay. Ở bài thơ, Y Phương đã có một cách nói xúc động của riêng
mình. Hình thức người cha tâm tình, dặn dò đối với con đã đem lại cho bài thơ
giọng điệu thiết tha trìu mến, ấm áp và tin cậy. Với bài thơ này khi dạy – học, để

rèn luyện kỹ năng cảm thụ cho học sinh, tôi đã tiến hành một số việc làm ở một số
“công đoạn” như sau:
Để tạo hứng thú tìm hiểu bài thơ, khi hướng dẫn chuẩn bị bài tôi tiến hành
đọc trước một lần. Với giọng đọc mẫu truyền cảm, tôi gợi cho học sinh hứng thú
nghe. Để các em thích đọc, tôi có giảng giải cho các em đôi điều sơ lược về cách
nói của đồng bào miền núi - xoá dần cho các các em cảm giác “bài thơ này trúc
trắc, khó đọc”, sau đó tôi giao nhiệm vụ cụ thể: đọc thầm 2 - 3 lần, đọc to 2 - 3 lần
(ở nhà). Nếu có thể đọc theo trí nhớ 1 - 2 lần (ở lớp) và đọc thuộc lòng khi học
xong bài. Và khi dạy - học trên lớp, tôi có cho điểm đọc. Vì thế học sinh, đầu tiên
là quyết tâm đọc để có điểm cao, sau đó là học thuộc và thích đọc bài thơ.
Cũng để tạo hứng thú, trong giờ học tôi kể chuyện cho các em về cuộc sống
của đồng bào miền núi (vốn quen thuộc với các em). Vì thế các em biết đựơc sâu
hơn về cuộc sống sinh hoạt của người miền núi, giúp các em hiểu cách tư duy của
đồng bào miền núi, hiểu các câu thơ trong bài, không ngỡ ngàng khi tìm hiểu tác
phẩm.
Khi hướng dẫn các em tìm hiểu bài thơ, tôi gợi ý cho các em tìm hiểu: “Nói
với con” là khúc tâm tình của người cha dặn dò con, thể hiện lòng thương yêu con
của người miền núi mong muốn con phát huy truyền thống của quê hương. Nội
16

16


dung này được gắn với nội dung bài thơ “Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng
mẹ” để các em so sánh, đối chiếu hiểu thêm về sinh hoạt của các dân tộc ít người
và niềm ước mong của họ, tạo điều kiện cho các em hình thành cảm xúc tự hào, ý
nguyện phát huy truyền thống của cha ông.
Hoặc khi phân tích đoạn đầu của bài thơ - tôi gợi ý cho các em phân tích
hình ảnh cụ thể gợi không khí gia đình đầm ấm, hạnh phúc mà ở đó cha mẹ chăm
chút con, thể hiện niềm vui trên từng bước đi của con “Một bước chạm tiếng nói,

hai bước tới tiếng cười ”, giúp các em hiểu và có thêm tình yêu gia đình và tự hào
với gia đình hạnh phúc.
Để các em có kĩ năng phát hiện và phân tích các biện pháp tu từ của bài thơ,
tôi yêu cầu các em ôn lại các biện pháp điệp ngữ, so sánh để tìm hiểu tác dụng của
chúng trong đoạn thơ; các câu hỏi tập trung khai thác về cách nói giàu hình ảnh,
phóng khoáng và cụ thể, vừa giàu sức khái quát, vừa mộc mạc giàu chất thơ, giọng
điệu thiết tha trìu mến và sau khi học xong bài thơ, tôi yêu cầu các em học sinh suy
nghĩ làm bài tập về nhà.
Bài tập: Nếu em là người con trong bài thơ, em sẽ nói với cha mẹ như thế
nào?
Một em học sinh lớp 9C đã phát biểu bằng một bài thơ rất xúc động:
Nghe cha nói với con
Lời tâm tình tha thiết
Cha ơi cha có biết
Con rất đỗi tự hào
Quê hương được kê cao
Từ bàn tay đục đá
Bàn tay thô sơ đó
Nhưng rắn chắc vô cùng.
Quê hương là tấm lòng,
Nơi mẹ cha ở đó.
17

17


Dù con đi xuống bể,
Hay con ở lại rừng
Lời cha con ghi nhớ:
Con chẳng bao giờ nhỏ bé đâu cha!


KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC
Qua quá trình dạy - học các tiết bài về tác phẩm thơ trữ tình, với những nội
dung, biện pháp tổ chức thực hiện như trên, tôi đã đạt được kết quả cụ thể là:
1. Kỹ năng đọc diễn cảm.
Cho đến nay học sinh hai lớp 9B, 9C tôi phụ trách đã đạt được những kết quả
về kĩ năng đọc là:

Nội dung đọc

Lớp

Lớp 9B

Lớp 9C

- Đọc đúng (ngữ điệu, câu, nhịp thơ)

25/37

24/35

- Đọc thể hiện tình cảm - đọc sáng tạo

12/37

11/35

2. Kĩ năng phát hiện, phân tích dấu hiệu nghệ thuật
Nội dung


Lớp

Lớp 9B

Lớp 9C

- Biết phát hiện các hình ảnh.

20/37

19/35

- Biết nhận xét, đánh giá

8/37

11/35

- Biết trình bày cảm nhận về đoạn thơ, bài thơ

15/37

16/35

6. Khả năng áp dụng của sáng kiến:
Qua áp dụng tại trường THCS Tân Đức cũng như kết quả thu được từ việc khảo
sát kết quả học tập của học sinh tôi nhận thấy:
- Bước đầu áp dụng tại trường THCS Tân Đức
- Các giải pháp đưa ra là phù hợp với đặc điểm, tâm sinh lí, tình hình học sinh

trường THCS Tân Đức.
- Có thể phổ biến và nhân rộng ở các trường THCS trong toàn huyện Phú Bình nói
riêng cũng như trong tỉnh Thái Nguyên nói chung.
18

18


7. Mục đích và những điểm khác biệt được áp dụng của sáng kiến:
- Nghiên cứu cơ sở lí luận để tìm hiểu đúng các phương pháp dạy học.
- Mục đích cuối cùng của người viết sáng kiến này là:

Giáo viên phải nghiên cứu, tìm tòi để đề ra được những phương pháp
giảng dạy có hiệu quả nhằm hướng dẫn học sinh biết phân loại, nắm vững
phương pháp và có kĩ năng đọc hiểu thơ trừ tình.

Hình thành cho học sinh phương pháp, kỹ năng đọc hiểu văn bản thơ để từ đó
giúp các em đào sâu, mở rộng những kiến thức cơ bản của bài giảng, vận dụng tốt
kiến thức vào thực tế, phát triển năng lực tư duy cho các em, góp phần nâng cao
chất lượng giáo dục.
8. Thời gian thực hiện sáng kiến:
Đã nghiên cứu và thử nghiệm từ tháng 8/2015 - tháng 5/ 2016
9. Kiến nghị, đề xuất:
Để các giải pháp đưa ra trong sáng kiến này phát huy tối đa hiệu quả khi áp
dụng ở trường THCS Tân Đức nói riêng và các trường học trong toàn huyện nói
chung, tôi kiến nghị một số vấn đề sau:
* Về phía giáo viên:
Người giáo viên dạy thơ phải yêu thơ, ham thích tìm hiểu và có kĩ năng tìm hiểu,
phân tích bình giá thơ và phải có kế hoạch cụ thể để hướng dẫn cho các em.
Phải khéo léo tác động vào tình cảm của các em, khơi dậy những tình cảm có

sẵn cho các em, tạo điều kiện cho các em nâng cao năng lực cảm thụ và trong quá
trình dạy – học; phải có kĩ năng hướng dẫn từng bước cho học sinh.
Sự kết hợp hài hoà giữa chủ động của học sinh với hướng dẫn chu đáo của
giáo viên là điều kiện tất yếu dẫn đến kết quả. Thời lượng quy định trên lớp là bắt
buộc song rất ít, cần giành thời gian ngoại khoá để rèn kĩ năng cho các em.
Rèn kĩ năng cảm thụ thơ văn cho học sinh là việc làm không thể thiếu trong
quá trình dạy học văn chương, nhất là dạy tác phẩm trữ tình.

19

19


Bám sát đặc trưng bộ môn, quán triệt các nguyên tắc dạy học, vận dụng
phương pháp đổi mới, tăng cương tính tích hợp, tích cực trong quá trình dạy học là
những giải pháp thiết thực để thực hiện rèn kĩ năng .
* Về phía nhà trường:
- Tổ chức các chuyên đề bồi dưỡng, chia sẻ kinh nghiệm trong phương pháp
hướng dẫn học sinh có kĩ năng đọc – hiểu văn bản thơ trữ tình.
* Về phía các cấp, các ngành, các cơ quan có thẩm quyền: mở các lớp tập huấn
giúp giáo viên nắm vững, nâng cao trình độ, các phương pháp hướng dẫn học sinh
đọc hiểu văn bản văn học nói chung và văn bản thơ trữ tình nói riêng có hiệu quả.
Trên đây là kinh nghiệm của tôi đã vân dụng để rèn kĩ năng đọc – hiểu cho học
sinh ở trường THCS Tân Đức. Sáng kiến không tránh khỏi thiếu sót mà tôi chưa
nhìn nhận được hết. Rất mong các đồng chí, đồng nghiệp tham gia đóng góp ý kiến
để tôi có nhiều kinh nghiệm giảng dạy. Tôi xin chân thành cảm ơn!
Tân Đức, ngày 25 tháng 3 năm 2017
XÁC NHẬN

NGƯỜI BÁO CÁO


CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ
(Ký tên, đóng dấu)
…………………………………………….
…………………………………………….

20

20

Nguyễn Thị Thu Trang



×