Tải bản đầy đủ (.doc) (3 trang)

BÀI THAM LUẬN ĐÓNG GÓP SGK

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (80.88 KB, 3 trang )

PHÒNG GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO PHÚ TÂN
TRƯỜNG THCS GÒ CÔNG
*************
BÁO CÁO THAM LUẬN MÔN Ngữ Văn
*******************
Người viết: Trần Thị Oanh Hà
Đơn vị công tác: Trường THCS Gò Công .
I.Phần mở đầu:
Ở Việt Nam,bắt đầu từ năm học 2002-2003 cả nước đồng loạt triển khai chương
trình giáo dục phổ thông mới,bắt đầu từ lớp 1. Cùng với việc ban hành chương trình giáo
dục, sách giáo khoa ở tất cả các môn học đều được biên soạn lại. Chương trình SGK Ngữ
văn ở THCS cũng có những thay đổi lớn nhằm khẳng định vai trò, tầm quan trọng của
môn học đối với việc giáo dục học sinh. Do vậy, giáo viên dạy Ngữ văn phải có những
đổi mới trong việc kiểm tra, đánh giá và đặc biệt là đổi mới PPDH môn Ngữ văn để có
kết quả giáo dục hiệu quả nhất.
II.Phần nội dung:
Có rất nhiều căn cứ để đổi mới PPDH môn Ngữ văn ở trường THCS: Căn cứ vào
chương trình SGK Ngữ văn có nhiều thay đổi; căn cứ vào đặc điểm tâm sinh lí của
HS;căn cứ vào từng đặc trưng của phân môn văn học,tiếng việt, tập làm văn…dựa vào
một số căn cứ đã nêu kết hợp với cơ sở thực tiễn ta tháy cần nhanh chóng thúc đẩy việc
đổi mới PPDH văn nói chung và ở trường THCS nói riêng.Ở nước ta, những thay đổi
trong cách dạy học của người GV vẫn rất chạm chạp.Những PPDH cũ đã đi sâu thành
thói quen nay không còn phù hợp với một đất nước đang trên đà phát triển. Có rất nhiều
vấn đề đặt ra với việc đổi mới PPDH Ngữ văn ở THCS, trong bài tham luận này tôi xin
được đề câp đến một ssố biện pháp nhằm thúc đẩy việc đổi mối PPDH Ngữ văn ở THCS
nhằm phát huy tính chủ động,tích cực,sáng tạo ở HS.
1.Đổi mới PPDH Ngữ văn ở THCS dựa trên những đổi mới PPDH nói chung:
- Đổi mới PPDH theo định hướng chung hiện nay là: Tích cực hóa hoạt động học tập
của HS và hoạt động dạy học của giáo viên. Trong dạy học môn ngữ văn mục tiêu, định
hướng nà càng phải được chú trọng. Nếu như trước kia HS chỉ là chủ thể thụ động trước
những bài giảng của giáo viên thì ngày nay chúng ta cần phát huy tính chủ động của HS.


Cụ thể là:
+ HS tự học, tự tiếp nhận các văn bản trước sự hướng dẫn chỉ đạo của GV.
+ HS mạnh dạn trình bày ý kiến quan điểm của mình, tích cực tham gia thảo luận
các vấn đề mà GV đưa ra.
+ HS biết sưu tầm, tìm hiểu ở địa phương các tư liệu về văn, tiếng việt, tập làm
văn…
- Để HS chủ động tích cực trong giờ học ngữ văn vai trò của người GV rất quan
trọng.
+ Người GV đổi mới PPDH không có nghĩa là GV phải từ bỏ những PPDH cũ, áp
dụng máy móc một vài PPDH mới mà người GV phải biết nắm vững các phương pháp,
nắm vững hoàn cảnh thực tế để vận dụng có hiệu quả.
+ Trong quá trình dạy học, người GV không nên chỉ áp dụng độc tôn một phương
pháp mà chúng ta phải biết kết hợp nhiều phương pháp khác nhau.
VD : Khi dạy văn bản “ Bức tranh của em gái tôi” ( Chương trình ngữ văn 6 tập II)
GV không chỉ vận dụng phương pháp đọc sáng tạo, phương pháp gợi tìm, mà GV có thể
cho HS quan sát tranh nêu nhận xét, thảo luận nhóm,…GV tích hợp với phần tập làm
văn( Về văn miêu tả),…
+ Trong quá trình dạy học ngữ văn, GV không nên cho HS học thuộc quá nhiều,
nên giảng giải những vấn đề mà HS thắc mắc rồi từ đó yêu cầu HS ghi nhớ, hiểu được
những gì mình học , mình viết thì mới phát huy được tính chủ động, sáng tạo ở HS.
2. Biết liên hệ với thực tiễn trong quá trình dạy học môn ngữ văn ở trường THCS.
“ Văn học là nhân học” Vì vậy dạy học môn ngữ văn trong nhà trường không chỉ
giúp cho HS có những kiến thức cơ bản của bộ môn mà còn giúp HS học đạo đức, học
làm người. Trong quá trình dạy ngữ văn đặc biệt là dạy các văn bản, GV nên biết vận
dụng những bài học rút ra từ văn bản để HS áp dụng vào thực tế bài học một cách sáng
tạo.
- Trong quá trình dạy học ngữ văn, GV nên hướng dẫn, đặt những câu hỏi gợi mở
để HS tự rút ra nhận xét, suy nghĩ, tự đưa ra ý kiến của mình trước vấn đề, GV không nên
áp đặt HS phải suy nghĩ theo một hướng nhất định.
3. GV nên tăng cường việc sử dụng đồ dùng dạy học trong khi giảng dạy môn ngữ

văn:
- Vì nhiều lý do khác nhau ( điều kiện cơ sở vật chất, thiết bị dạy học,…) GV chưa
khai thác triệt để tác dụng của việc sử dụng đồ dùng dạy học trong khi giảng dạy ngữ
văn.
- Trong giờ ngữ văn để tránh gây sự nhàm chán của HS, Gv nên sử dụng một số
thiét bị dạy học phù hợp với tiết dạy.
VD: Trong tiết “ Luyện nói văn miêu tả” ( Ngữ văn 6 tập 2) GV nên cho HS thảo
luận cử đại diện nhóm lên trình bày kết quả thảo luận. Từ đó hình thành cho HS thái độ
tự tin khi đứng trước tập thể, rèn luyện tính chủ động trong khi giáo tiếp. Sauk hi HS lên
luyện nói GV có thể sử dụng băng đĩa miêu tả một cảnh vật nào đó để HS quan sát, rút
kinh nghiệm.
- Trong một số giờ học văn tự chọn, GV nên cho HS đọc phân vai một số văn bản,
tự diễn kịch để phát huy tính tích cực, sự hứng thú ở HS.
III. Phần kết:
Đất nước Việt Nam đang trên đà phát triển, trên con đường xây dựng XHCN đào
tạo những con người “ Vừa hồng, vừa chuyên”. Vì vậy đối với bộ môn ngữ văn ở trường
THCS nói riêng và đối với nền giáo dục nói chung chúng ta phải đổi mới phương pháp
sao cho phù hợp với thực tiễn đạt được những kết quả cao nhất.

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×