Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

những tấm giương anh hùng trong cuộc kháng chiến chống Pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (243.13 KB, 17 trang )

Anh hùng Liệt sĩ Bế Văn Đàn (1930-12/12/1953), Anh hùng Lực lượng
Vũ trang Nhân dân (truy phong; 31/05/1955), hy sinh là Tiểu đội phó
thuộc Đại đội 674, Tiểu đoàn 251, Trung đoàn 174, Đại đoàn 316.
Huân chương Quân công hạng Nhì, Huân chương Chiến công hạng
Nhất.
Bế Văn Đàn sinh năm 1931, dân tộc Tày, quê ở xã Triệu Ấu, huyện Phục Hoà
(nay là huyện Quảng Hòa), tỉnh Cao Bằng. Anh sinh ra trong một gia đình có
mẹ chết sớm, cha làm thợ mỏ, chú hoạt động cách mạng bị thực dân Pháp bắt
rồi giết. Anh phải đi ở cho địa chủ từ nhỏ. Sau năm năm đi ở, anh trốn về ở
với dì và tham gia du kích. Tháng 1 năm 1949, Bế Văn Đàn xung phong vào
bộ đội và tham gia nhiều chiến dịch.
Đông Xuân 1953 - 1954, Bế Văn Đàn làm liên lạc tiểu đoàn cùng đơn vị hành
quân đi chiến dịch. Một đại đội của Tiểu đoàn 251 được giao nhiệm vụ bao vây
địch ở Mường Pồn (Lai Châu). Thấy lực lượng ta ít, quân Pháp tập trung hai đại
đội có phi pháo yểm trợ liên tiếp phản kích, nhưng cả hai đợt đèu bị quân ta
đánh bật lại. Tình hình chiến đấu hết sức căng thẳng. Pháp liều chết nống ra.
Ta kiên quyết ngăn chặn.
Bế Văn Đàn vừa đi công tác về đã xung phong làm nhiệm vụ. Anh vượt qua
lưới đạn dày đặc của địch truyền mệnh lệnh cho đại đội kịp thời, chu đáo.

Tình hình chiến đấu ngày càng ác liệt, anh được lệnh ở lại đại đội chiến đấu.
Khi quân phản kích đợt ba, quân Pháp điên cuồng mở đường tiến. Đại đội
thương vong chỉ có 17 người, bản thân Bế Văn Đàn cũng bị thương nhưng anh
vẫn tiếp tục chiến đấu. Một khẩu trung liên không bắn được do xạ thủ hy sinh,
còn khẩu trung liên của Chu Văn Pù không bắn được vì chưa tìm được chỗ đặt
súng.
Không do dự, Bế Văn Đàn rời khỏi công sự, lao đến cầm hai chân trung liên
đặt lên vai mình nói như ra lệnh: "Kẻ thù trước mặt, đồng chí có thương tôi thì
bắn chết chúng nó đi". Khẩu trung liên nhả đạn về phía quân Pháp, đẩy lùi đợt
phản kích. Bế Văn Đàn mình đầy thương tích và đã anh dũng hy sinh, hai tay
còn ghì chặt chân súng trên vai. Anh được kết nạp Đảng tại trận địa.


Sự hy sinh anh dũng của Anh hùng Liệt sĩ Bế Văn Đàn đã đi vào thơ ca. Tên
của anh được đặt cho nhiều đường phố và trường học.
Anh hùng Liệt sĩ Phan Đình Giót (1922-13/3/1954), Anh hùng Lực
lượng Vũ trang Nhân dân (truy phong; 31/3/1955), Khi hy sinh anh là
Tiểu đội phó bộ binh Đại đội 58, Tiểu đoàn 428, Trung đoàn 141, Đại
đoàn 312, Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.
Huân chương Quân công hạng Nhì.
Gia đình anh Phan Đình Giót rất nghèo. Bố bị chết đói. Anh phải đi ở từ năm
13 tuổi cực nhọc, vất vả. Cách mạng tháng Tám thành công, anh tham gia tự
vệ chiến đấu, đến năm 1950, anh xung phong đi bộ đội chủ lực. Trong cuộc
sống tập thể quân đội, Phan Đình Giót luôn tự giác gương mẫu về mọi mặt,
hết lòng thương yêu giúp đỡ đồng đội, sẵn sàng nhận khó khăn về mình,
nhường thuận lợi cho bạn nên được đồng đội mến phục. Phan Đình Giót tham
gia nhiều chiến dịch lớn như: Trung Du, Hoà Bình, Tây Bắc, Điện Biên Phủ.
Mùa đông năm 1953, đơn vị anh được lệnh tham gia chiến dịch lịch sử Điện
Biên Phủ. Hành quân gần 500 km, vượt qua nhiều đèo dốc, mang vác nặng
nhưng đồng chí vẫn kiên trì, giúp đồng đội về tới đích. Trong nhiệm vụ xẻ núi,
mở đường, kéo pháo lên đèo xuống dốc vào trận địa rất gay go gian khổ, anh
đã nêu cao tinh thần gương mẫu, bền bỉ và động viên anh em kiên quyết chấp
hành nghiêm mệnh lệnh của cấp trên.
Chiều ngày 13 tháng 3 năm 1954, quân ta nổ súng tiêu diệt Him Lam. Cả trận
địa rung chuyển mù mịt sau nhiều loạt pháo ta bắn chuẩn bị.
Các chiến sỹ đại đội 58 lao lên mở đường, đã liên tiếp đánh đến quả bộc phá
thứ tám. Phan Đình Giót đánh quả thứ chín thì bị thương vào đùi nhưng vẫn
xung phong đánh tiếp quả thứ mười. Quân Pháp tập trung hoả lực trút đạn
như mưa xuống trận địa ta. Đồng đội bị thương vong nhiều.
Lửa căm thù bốc cao, anh lao lên đánh liên tiếp hai quả nữa phá toang hàng
rào cuối cùng, mở thông đường để đồng đội lên đánh sập lô cốt đầu cầu. Lợi
dụng thời cơ địch đang hoang mang, Phan Đình Giót vọt lên bám chắc lô cốt
số 2, ném thủ pháo, bắn kiềm chế cho đơn vị tiến lên. Anh lại bị thương vào

vai, máu chẩy đầm đìa. Nhưng bất ngờ từ hoả điểm lô cốt số 3 của lính Pháp
bắn rất mạnh vào đội hình ta. Lực lượng xung kích bị ùn lại, Phan Đình Giót cố
gắng lê lên nhích dần đến gần lô cốt số 3 với ý nghĩ cháy bỏng, duy nhất là
dập tắt ngay lô cốt này. Anh đã dùng hết sức mình còn lại nâng tiểu liên lên
bắn mạnh vào lỗ châu mai, miệng hô to:
"Quyết hy sinh…vì Đảng…vì dân!!.." rồi rướn người lấy đà, lao cả thân mình
vào bịt kín lỗ châu mai địch. Hoả điểm lợi hại nhất của quân Pháp đã bị dập
tắt, toàn đơn vị ào ạt xông lên như vũ bão, tiêu diệt gọn cứ điểm Him Lam,
giành thắng lợi trong trận đánh mở màn chiến dịch Điện Biên Phủ. Trước khi
hy sinh, Phan Đình Giót đã được Tiểu đoàn, Đại đoàn khen thưởng 4 lần.
Anh hùng Liệt sĩ Tô Vĩnh Diện (1924-5/1953), Anh hùng Lực lượng Vũ
Trang Nhân dân (Truy phong; 7/5/1955), khi hy sinh, anh là Tiểu đội
trưởng pháo cao xạ 37 ly thuộc Đại đội 827, Tiểu đoàn 394, Trung
đoàn 367.
Huân chương Quân công hạng Nhì, Huân chương Chiến công hạng
Nhất
Tô Vĩnh Diện sinh trưởng trong một gia đình nghèo, ở xã Nông Trường, huyện
Nông Cống, tỉnh Thanh Hoá. Lên 8 tuổi đã phải đi ở cho địa chủ. Suốt 12 năm
đi ở, anh phải chịu bao cảnh áp bức bất công. Năm 1946, anh tham gia dân
quân ở địa phương. Năm 1949, đồng chí xung phong đi bộ đội.
Tháng 5 năm 1953, quân đội ta thành lập các đơn vị pháo cao xạ để chuẩn bị
đánh lớn. Tô Vĩnh Diện được điều về làm tiểu đội trưởng một đơn vị pháo cao
xạ. Trong quá trình hành quân cơ động trên chặng đường hơn 1000 km tới vị
trí tập kết để tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ, anh luôn luôn gương mẫu
làm mọi việc nặng nhọc, động viên giúp đỡ đồng đội kéo pháo tới đích an
toàn.
Trong lúc kéo pháo qua những chặng đường khó khăn nguy hiểm, anh xung
phong lái để bảo đảm an toàn cho khẩu pháo. Trong lúc kéo pháo cũng như
lúc nghỉ dọc đường, Tô Vĩnh Diện luôn luôn nhắc đồng đội chuẩn bị chu đáo và
tự mình đi kiểm tra tỉ mỉ đường dây kéo pháo, xem xét từng đoạn đường, từng

cái dốc rồi phổ biến cho anh em để tránh những nguy hiểm bất ngờ xẩy ra.
Kéo pháo vào đã gian khổ, hy sinh, kéo pháo ra càng gay go ác liệt, anh đã đi
sát từng người, động viên giải thích nhiệm vụ, giúp anh em xác định quyết
tâm cùng nhau khắc phục khó khăn để đảm bảo thắng lợi.
Qua 5 đêm kéo pháo ra đến dốc Chuối, đường hẹp và cong rất nguy hiểm. Tô
Vĩnh Diện cùng đồng đội Ty xung phong lái pháo. Nửa chừng dây tời bị đứt,
pháo lao nhanh xuống dốc, anh vẫn bình tĩnh giữ càng, lái cho pháo thẳng
đường. Nhưng một trong bốn dây kéo pháo lại bị đứt, pháo càng lao nhanh,
anh Ty bị hất xuống suối. Trong hoàn cảnh hiểm nghèo đó, Tô Vĩnh Diện hô
đồng đội: “Thà hy sinh, quyết bảo vệ pháo” và anh buông tay lái xông lên phía
trước, lấy thân mình chèn vào bánh pháo, nhờ đó đơn vị kịp ghìm giữ pháo
dừng lại.
Tấm gương hy sinh vô cùng anh dũng của đồng chí Tô Vĩnh Diện đã cổ vũ
mạnh mẽ toàn đơn vị vươn lên hoàn thành tốt nhiệm vụ, chuẩn bị chiến đấu
và chiến đấu thắng lợi.
Anh hùng Liệt sĩ Trần Can (1931-7/5/1954), Anh hùng Lực lượng Vũ
trang Nhân dân (Truy tặng; 7/5/1956), Khi hy sinh anh là Đại đội phó
bộ binh thuộc Trung đoàn 209, Đại đoàn 312, Đảng viên Đảng Cộng
sản Việt Nam.
Huân chương Quân công (hạng Nhì, hạng Ba), 2 Huân chương Chiến
công hạng nhất, 2 lần được bầu là chiến sỹ thi đua của đại đoàn.
Trần Can sinh năm 1931, dân tộc Kinh, quê ở xã Sơn Thành, huyện Yên
Thành, tỉnh Nghệ An. Từ hồi còn nhỏ, Trần Can rất ham thích vào bộ đội để
được cầm súng giết giặc cứu nước. Lớn lên, đã ba lần đồng chí xung phong
tình nguyện xin đi bộ đội, nhưng vì sức yếu nên đến lần thứ tư mới được chấp
nhận (năm 1951).
Từ khi vào bộ đội, Trần Can chiến đấu rất dũng cảm, mưu trí, chỉ huy hết sức
linh hoạt. Trong mọi trường hợp khó khăn ác liệt, anh đều kiên quyết dẫn đầu
đơn vị vượt lên hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, đã hai lần anh bị thương nặng
vẫn tiếp tục chiến đấu, chỉ huy đơn vị kiên quyết tiến công tiêu diệt địch. Tấm

gương của Trần Can đã thiết thực cổ vũ phong trào thi đua giết giặc lập công
sôi nổi trong toàn đơn vị.
Trong trận đánh đồi Him Lam mở đầu cho chiến dịch Điện Biên Phủ, Trần Can
được giao nhiệm vụ chỉ huy tiểu đội thọc sâu diệt sở chỉ huy và cắm lá cờ
“Quyết chiến quyết thắng” của Hồ Chủ tịch giao cho quân đội lên đồn Pháp.
Khi nổ súng, mặc cho hoả lực quân Pháp bắn ra dữ dội, anh dẫn đầu tiểu đội
vượt qua lô cốt tiền duyên, chọc thẳng vào sở chỉ huy như một mũi dao nhọn
cắm vào giữa tim gan địch, rồi nhẩy lên lô cốt cắm cờ. Sau đó, anh chỉ huy
tiểu đội diệt lính Pháp còn lại trong hầm ngầm, bắt 25 tên, thu nhiều súng.
Trong trận đánh điểm cao 507, Trần Can đã dũng cảm dẫn đầu tiểu đội xông
lên áp đảo quân Pháp, chiếm mỏm cột cờ. Lính Pháp bắn pháo dữ dội và cho
quân địch chiếm lại. Ta với Pháp giành giật nhau từng thước đất hết sức quyết
liệt. Anh đã cùng đồng đội kiên quyết giữ vững và tiến công đánh bại 4 đợt
phản kích của chúng. Địch xông lên trong đợt công kích thứ năm, chúng ném
lựu đạn tới tấp trước khi xung phong. Trần Can nhặt lựu đạn ném lại và chỉ
huy đơn vị nhảy lên bờ hào đánh giáp lá cà. Cán bộ đại đội bị thương vong
hết, bản thân Trần Can cũng bị thương, nhưng anh vẫn quyết tâm thay thế
cán bộ đại đội chỉ huy bộ đội chiến đấu suốt đêm. Sáng hôm sau, anh tập
trung thương binh nhẹ lại, động viên bộ đội, chấn chỉnh tổ chức, củng cố trận
địa. Quân Pháp lại phản kích dữ dội, mong đánh bật quân ta, giành lại cửa ngõ
tiến vào Mường Thanh. Trần Can chỉ huy đơn vị đánh tan đợt pháo kích của
chúng, kiên quyết giữ vững trận địa, tạo thế cho đơn vị tiến vào trung tâm
Mường Thanh. Anh Trần Can đã hy sinh anh dũng sáng ngày 7 tháng 5 năm
1954, ngày kết thúc chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ.
Anh hùng Liệt sĩ Trần Cừ (1920-16/8/1950), Anh hùng Lực lượng Vũ
trang Nhân dân (Truy tặng 1955), Khi hy sinh anh là đảng viên, đại đội
trưởng bộ binh đại đội 336, tiểu đoàn 174, trung đoàn 209, Sư đoàn
312.
Huân chương Quân công (hạng Nhì, hạng Ba), Huân chương Chiến
công hạng Nhất.

Anh quê ở Khoái Thọ, Đức Bác, Lập Thạch, Vĩnh PhúcTừ tháng 8 năm 1945
đến tháng 10 năm 1950, Anh chiến đấu trên chiến trường Việt Bắc, rèn luyện
và trưởng thành từ chiến sĩ lên đại đội trưởng và đã từng tham gia hàng chục
trận chiến đấu, trận nào anh cũng hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.

×