Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

SKKN một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy học luyện từ và câu lớp 4” GV hoàng thùy linh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (197.21 KB, 18 trang )

A. MỞ ĐẦU
I. LÝ DO CHỌN SÁNG KIẾN
Tiếng Việt là môn học công cụ, môn học giữ vị trí trung tâm ở Tiểu học. Môn
Tiếng Việt trong chương trình Tiểu học nhằm hình thành và phát triển cho học sinh
các kĩ năng sử dụng tiếng Việt (nghe, đọc, nói, viết) để học tập và giao tiếp trong
các môi trường hoạt động của lứa tuổi. Trong bộ môn Tiếng Việt thì phân môn
Luyện từ và câu có vị trí vô cùng quan trọng. Dạy Luyện từ và câu nhằm mở rộng,
hệ thống hóa làm phong phú vốn từ của học sinh, cung cấp cho học sinh những
hiểu biết sơ giản về từ và câu, rèn cho học sinh kĩ năng dùng từ đặt câu và sử dụng
các kiểu câu để thể hiện tư tưởng, tình cảm của mình, đồng thời giúp cho học sinh
có khả năng hiểu các câu nói của người khác. Luyện từ và câu có vai trò hướng dẫn
học sinh trong việc nghe, nói, đọc, viết, phát triển ngôn ngữ và trí tuệ của các em.
Việc bồi dưỡng nâng cao chất lượng phân môn Luyện từ và câu giúp các em làm
giàu vốn từ, vốn tri thức về tâm hồn. Từ đó, giúp các em tích lũy cho mình những
kiến thức cần thiết, tạo điều kiện cho các em học tốt các phân môn khác. Đặc biệt,
nó còn khơi dậy trong tiềm thức học sinh yêu quý sự phong phú của tiếng Việt và ý
thức giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt, góp phần hình thành nhân cách con
người Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Là một giáo viên trẻ được phân công đảm nhiệm công tác giảng dạy lớp 4,
đặc biệt trong giai đoạn hiện nay hưởng ứng việc đổi mới mạnh mẽ phương pháp
dạy học theo đúng tinh thần của thông tư 30, xác định đúng phương pháp giảng dạy
phân môn Luyện từ và câu, người giáo viên sẽ tìm ra những giải pháp tối ưu để
nâng cao chất lượng giáo dục. Từ những lí do trên, tôi mạnh dạn đi sâu tìm hiểu “
Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy học Luyện từ và câu lớp 4” với
mong muốn góp phần giáo dục toàn diện nhân cách cho học sinh, thực hiện tốt
nhiệm vụ chính trị mà đơn vị, ngành giao cho.
II. ĐIỂM MỚI VÀ PHẠM VI CỦA SÁNG KIẾN
1. Điểm mới của sáng kiến:
Để làm tốt công tác giảng dạy phân môn Luyện từ và câu ở Tiểu học thì
nhiều giáo viên đã tìm hiểu và đưa ra các giải pháp thực hiện nhưng bản thân tôi
tìm hiểu vấn đề này nhằm nâng cao chất lượng dạy phân môn Luyện từ câu theo


đúng tinh thần của thông tư 30/BGD- ĐT đã ban hành.
2. Phạm vi áp dụng:
Sáng kiến này nghiên cứu để áp dụng vào thực tiễn nhằm nâng cao chất
lượng dạy phân môn Luyện từ và câu lớp 4 ở trường Tiểu học
Đối tượng nghiên cứu: Học sinh lớp 4B
1


B. NỘI DUNG
I. THỰC TRẠNG CỦA VIỆC DẠY VÀ HỌC LUYỆN TỪ VÀ CÂU
1. Về giáo viên:
Do nhận thức rõ tầm quan trọng của phương pháp dạy học nhằm nâng cao
chất lượng giáo dục nên phong trào đổi mới phương pháp dạy học được phát động
khá rộng rãi trong các trường Tiểu học. Việc vận dụng phương pháp dạy học theo
hướng tích cực hóa hoạt động của học sinh đã góp phần vào việc nâng cao chất
lượng giáo dục toàn diện. Nhà trường luôn tạo điều kiện cho công tác giảng dạy,
giáo viên luôn được tiếp cận phương pháp dạy học mới trong các đợt sinh hoạt
chuyên môn. Lớp học được trang bị đầy đủ về cơ sở vật chất. Hầu hết giáo viên là
người có tay nghề, có đầy đủ sách giáo khoa, sách hướng dẫn, tài liệu chuẩn kiến
thức và được học về cách sử dụng các phương tiện dạy học hiện đại như: máy tính,
máy chiếu,… Đội ngũ giáo viên luôn yêu nghề, có năng lực sư phạm. Tuy nhiên,
việc dạy phân môn Luyện từ và câu không ít giáo viên vẫn chưa thoát khỏi quỹ đạo
của phương pháp dạy học truyền thống. Một bộ phận giáo viên chưa hiểu hết ý đồ
của sách giáo khoa nên thiết kế các hoạt động chưa phù hợp hoặc chỉ biết giải quyết
các bài tập ở sách giáo khoa mà chưa hiểu rằng thông qua các bài tập để hình thành
kiến thức cho học sinh.
2. Về học sinh:
Hầu hết, các em được trang bị đầy đủ sách vở, đồ dùng học tập. Cùng với sự
tận tình chỉ dẫn của giáo viên, các em thích tìm hiểu, khám phá kiến thức về tiếng
mẹ đẻ. Cơ bản, đã quen với cách học từ ở lớp 1, 2, 3 nên các em đã biết cách lĩnh

hội và luyện tập thực hành dưới sự hướng dẫn của giáo viên. Tuy vậy, vẫn còn một
bộ phận học sinh học Luyện từ và câu chỉ dừng lại việc giải quyết các bài tập ở
sách giáo khoa, phần vận dụng trong nói, viết, trong thực tiễn còn hạn chế. Các em
chưa hiểu nghĩa của từ, cấu tạo từ, vốn từ của các em còn nghèo, không diễn đạt
được một cách trôi chảy ý kiến của mình.
Với năm học này, bản thân tôi được nhà trường phân công giảng dạy lớp 4B,
đây là lớp "lỏi" của trường. Sĩ số lớp là 19 em. Theo sự phản ánh của giáo viên cũ
thì trình độ tiếp thu của học sinh không đồng đều, vẫn còn một số học sinh tiếp thu
chậm; một bộ phận học sinh rụt rè, giao tiếp chậm, kỹ năng diễn đạt yếu.
Qua khảo sát chất lượng đầu năm để nắm bắt thông tin, với đề ra thiết kế
theo dạng nắm kiến thức và vận dụng, kết quả như sau :
Điểm 10 - 9
Điểm 8 - 7
Điểm 6 - 5
Điểm dưới 5
Tổng số
HS
T. số
T. L % T. số T. L % T. số T.L% T. số
T. L %
19
3
15.8
6
31.6
7
36.8
3
15.8
2



Sau khi kiểm tra khảo sát, tôi nhận thấy bài làm của học sinh còn mắc nhiều
lỗi, việc nắm từ của các em chưa chắc, phần vận dụng viết một đoạn văn còn quá
hạn chế.
3. Nguyên nhân của những tồn tại, yếu kém
Phải nói rằng phân môn Luyện từ và câu là môn học khô khan nếu chúng ta
không biết tổ chức, thiết kế các hoạt động thích hợp để tạo hứng thú học tập cho
học sinh.
Một bộ phận giáo viên nhận thức còn hạn chế, chưa hiểu hết được ý đồ của
sách giáo khoa nên chỉ giải quyết các bài tập một cách đơn thuần, không giúp học
sinh hiểu sâu vấn đề. Cũng không ít giáo viên dạy Luyện từ và câu mà không
hướng các em ứng dụng nó vào việc nói, viết, giao tiếp hằng ngày.
Mặc dù học sinh có đủ sách vở học tập nhưng nhiều em không chịu học mà
phụ thuộc hoàn toàn vào sách có đáp án được in, bán sẵn ngoài thị trường.
Bên cạnh đó, tư duy ở lứa tuổi các em chưa bền vững, khả năng tập trung
chưa cao, hay nóng vội, khả năng ngôn ngữ còn thấp cũng làm ảnh hưởng đến chất
lượng môn học.
Một bộ phận học sinh do bị hỏng kiến thức từ lớp dưới, khả năng tiếp thu bài
hạn chế, nên không thể hoàn thành hệ thống bài tập trên lớp.
Địa phương là một vùng thuần nông, có thu nhập thấp nên bố mẹ các em
phải lo chạy vạy cuộc sống. Chính vì thế, phụ huynh ít thời gian kèm cặp, tiếp cận
việc học của con, chưa điều chỉnh được hành vi, ngôn ngữ cho con em kịp thời.
Từ thực tế trên, tôi chọn và tìm ra các giải pháp thực hiện.
II. CÁC BIỆN PHÁP
1. Biện pháp 1: Tuyên truyền nhận thức
Từ tháng 8 năm 2014, Bộ GD- ĐT đã ban hành thông tư Số 30/2004/TTBGDĐT về Quy định đánh giá học sinh Tiểu học. Khi thông tư này ra đời đã gây
tranh cãi cho mọi người, có nhiều ý kiến trái chiều kể cả các nhà giáo dục nhưng
nhiều nhất vẫn là phụ huynh học sinh. Vậy, làm thế nào để thông tư đi vào thực tế
là một vấn đề không nhỏ đối với giáo viên. Chúng ta phải thừa nhận rằng, thông tư

này khi mới tiếp cận thì ai cũng thấy mơ hồ, mang tính lý thuyết và cảm nhận một
khối công việc đồ sộ cho giáo viên nhưng khi nghiên cứu kỹ chúng ta mới cảm
nhận được tính ưu việt của nó. Có thể kết luận rằng, thông tư 30 này mới phù hợp
với mục tiêu giáo dục Tiểu học trong giai đoạn phát triển xã hội hiện nay. Xác định
được điều đó, bản thân tôi đã làm tốt công tác tuyên truyền, giải thích cho cha mẹ
học sinh về Quy định đánh giá học sinh Tiểu học, hướng dẫn cha mẹ học sinh cách
3


theo dõi, hỗ trợ học sinh học tập, tham gia đánh giá học sinh trong các mặt nói
chung, phân môn Luyện từ và câu nói riêng. Đặc biệt, giúp cho phụ huynh thấy
được tính ưu việt của thông tư 30 và cái đích cuối cùng của quá trình đánh giá nhận
xét. Đến nay, tất cả phụ huynh đã hiểu và cộng tác rất tốt trong công việc này. Bên
cạnh đó, tôi cũng đã giúp học sinh nắm thông tư 30 để mỗi em biết tự soi mình mà
hoàn thiện bản thân đồng thời cũng tham gia đánh giá nhận xét bạn để giúp bạn
cùng tiến bộ về mọi mặt. Việc làm này sẽ thuận lợi cho giáo viên trong công tác
giáo dục nói chung, từng phân môn giảng dạy nói riêng, trong đó có phân môn
Luyện từ và câu - môn học làm giàu vốn từ cho học sinh và phát triển năng lực
giao tiếp.
2. Biện pháp 2: Nắm kiến thức, kỹ năng, chương trình, phương pháp dạy học
Đây là một nội dung hết sức quan trọng đối với giáo viên giảng dạy. Nếu
không nắm chắc nội dung chương trình bộ môn khối lớp mình đang dạy thì dẫn đến
hai hiện tượng trong quá trình dạy học làm cho các em nhàm chán : Một là dạy lại
kiến thức lớp dưới đã học, hai là dạy sa vào kiến thức lớp trên. Chính vì thế, sau khi
nhận lớp, bản thân tôi đã hệ thống lại những vấn đề cốt lõi làm cẩm nang cho quá
trình giảng dạy của mình.
2.1 Nội dung chương trình
Mỗi tuần, phân môn luyện từ và câu ở lớp 4 có 2 tiết. Học kì I 32 tiết gồm 5
chủ điểm. Học kì II 30 tiết gồm 5 chủ điểm. Mỗi chủ điểm học sinh được học một
chủ đề tương ứng với từng chủ điểm đó.

2.2. Yêu cầu kiến thức
a. Mở rộng và hệ thống hoá vốn từ : Môn Tiếng Việt có 10 đơn vị học thì phân
môn Luyện từ và câu mở rộng và hệ thống hoá 10 chủ điểm đó.
b. Trang bị các kiến thức giảng dạy về từ và câu.
* Từ - cấu tạo tiếng : - Cấu tạo từ : Từ đơn, từ ghép và từ láy.
- Từ loại : Danh từ, Động từ, Tính từ.
* Các kiểu câu: Câu hỏi, Câu kể, Câu cầu khiến, Câu cảm.
* Các dấu câu: Dấu chấm hỏi, dấu chấm than, dấu hai chấm, dấu ngoặc kép,
dấu ngoặc đơn.
2.3. Yêu cầu kĩ năng về từ và câu:
a. Từ:
- Nhận biết được cấu tạo của tiếng.
- Giải các câu đố tiếng liên quan đến cấu tạo của tiếng.
- Nhận biết từ loại.
- Đặt câu với từ đã cho.
4


- Xác định tình huống sử dụng Thành ngữ - Tục ngữ.
b. Câu:
- Nhận biết các kiểu câu.
- Đặt câu theo mẫu.
- Nhận biết các kiểu trạng ngữ.
- Thêm trạng ngữ cho câu.
- Tác dụng của dấu câu.
- Điền dấu câu thích hợp.
c. Dạy tiếng Việt văn hoá trong giao tiếp.
Thông qua nội dung dạy Luyện từ và câu ở lớp 4, bồi dưỡng cho học sinh ý
thức và thói quen dùng từ đúng, nói viết thành câu và ý thức sử dụng tiếng Việt
trong giao tiếp phù hợp với các chuẩn mực văn hoá.

2.4. Vận dụng một số phương pháp dạy học vào dạy học Luyện từ và câu lớp 4
+ Phương pháp hoạt động nhóm
Tùy mục đích, yêu cầu của vấn đề học tập, các nhóm được phân chia ngẫu
nhiên hay có chủ định, được duy trì ổn định hay thay đổi trong từng phần của tiết
học, được giao cùng một nhiệm vụ hay những nhiệm vụ khác nhau. Nhóm tự bầu
nhóm trưởng nếu thấy cần. Trong nhóm có thể phân công mỗi người một phần việc.
Trong nhóm nhỏ, mỗi thành viên đều phải làm việc tích cực, không thể ỷ lại vào
một vài người hiểu biết và năng động hơn. Các thành viên trong nhóm giúp đỡ
nhau tìm hiểu vấn đề nêu ra trong không khí thi đua với các nhóm khác. Để trình
bày kết quả làm việc của nhóm trước toàn lớp, nhóm có thể cử ra một đại diện hoặc
phân công mỗi thành viên trình bày một phần. Phương pháp hoạt động nhóm giúp
các thành viên trong nhóm chia sẻ băn khoăn, kinh nghiệm của bản thân, cùng nhau
xây dựng nhận thức mới.
Giáo viên khi lựa chọn phương pháp này cần phải kiểm soát hết tất cả các
học sinh trong lớp học. Khi giao nhiệm vụ cần cho HS cả lớp nắm, nhất là chú
trọng đến nhóm trưởng, để nhóm trưởng thay mặt GV hướng dẫn đến các bạn trong
nhóm.
VD: Khi dạy bài Mở rộng vốn từ: Trung thực - Tự trọng ( Tuần 6)
BT2. Chọn từ ứng với mỗi nghĩa sau:
Nghĩa
Từ
- Một lòng một dạ gắn bó với lí tưởng, tổ chức
- trung thành
hay với người nào đó
- Trước sau như một, không gì lay chuyển nổi.
- trung hậu
- Một lòng một dạ vì việc nghĩa.
- trung kiên
5



- Ăn ở nhân hậu, thành thật, trước sau như một.
- trung thực
- Ngay thẳng, thật thà.
- trung nghĩa
Giáo viên giao việc cho các nhóm, các cá nhân trong nhóm đưa ra ý kiến của
bản thân, dùng lí lẽ của mình để phân tích nghĩa, sau đó thống nhất để đưa ra ý kiến
chung của cả nhóm và trình bày trước lớp. Đại diện của các nhóm khác đưa ra ý
kiến, bổ sung, sửa chữa hay đồng tình với nhóm bạn. Phương pháp này giúp các em
phát triển năng lực giao tiếp, hợp tác một cách hiệu quả.
+ Phương pháp vấn đáp
Phương pháp gợi mở vấn đáp nhằm tăng cường kĩ năng suy nghĩ, tư duy
sáng tạo trong quá trình lĩnh hội tri thức và xác định mức độ hiểu bài cũng như kinh
nghiệm đã có của học sinh. Giúp các em hình thành khả năng tự lực tìm tòi kiến
thức. Qua đó học sinh ghi nhớ tốt hơn, sâu sắc hơn.
Yêu cầu khi sử dụng giáo viên phải lựa chọn những câu hỏi theo đúng nội
dung bài học, câu hỏi đưa ra phải rõ ràng, dễ dàng phù hợp với mọi đối tượng học
sinh trong cùng một lớp. Giáo viên dành thời gian cho học sinh suy nghĩ sau đó cho
học sinh trả lời, các em khác nhận xét bổ sung. Phương pháp này thường dùng
trong kiểu bài dạy Lí thuyết
VD: Khi dạy bài Dấu ngoặc kép (tuần 8) mục đích của bài là học sinh phải
nắm được Tác dụng của dấu ngoặc kép, cách dùng dấu ngoặc kép. Biết vận dụng
những hiểu biết đã học để dùng dấu ngoặc kép trong khi viết.
Giáo viên đưa ra ví dụ:
Bác tự cho mình là “người lính vâng lệnh quốc dân ra mặt trận”, là “đầy tớ
trung thành của nhân dân”. Ở Bác, lòng yêu mến nhân dân đã trở thành một sự
say mê mãnh liệt. Bác nói: “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là
làm sao cho nước ta hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai
cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành.”
+H: Những từ ngữ và câu nào được đặt trong dấu ngoặc kép?

- TL: người lính vâng lệnh của quốc dân ra mặt trận
Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta hoàn toàn
độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng
được học hành.”
+ H: Những từ ngữ và câu đó là lời của ai?
- TL: là lời của Bác Hồ
+ H : Những dấu ngoặc kép dùng trong đoạn văn trên có tác dụng gì?
- TL: dấu ngoặc kép dùng để dẫn lời nói trực tiếp của Bác Hồ.

6


+ H: Vậy dấu ngoặc kép dùng để làm gì? (Dấu ngoặc kép thường dùng để dẫn lời
nói trực tiếp của nhân vật hoặc của người nào đó)
Như vậy, qua 4 câu hỏi đã gợi mở cho các em nắm được tác dụng của dấu ngoặc
kép.
Phương pháp gợi mở vấn đáp được sử dụng trong tất cả tiết học và phát huy được
tính chủ động sáng tạo của học sinh.
+ Phương pháp nêu và giải quyết vấn đề.
Đây là phương pháp mà giáo viên đưa ra những tình huống gợi vấn đề điều
khiển học sinh phát hiện vần đề, tự giác hoạt động, trực tiếp chủ động và sáng tạo
để giải quyết vấn đề, thông qua đó mà kiến tạo tri thức, rèn luyện kĩ năng. Phương
pháp này giúp học sinh tăng thêm sự hiểu biết và khả năng áp dụng lí thuyết vào
giải quyết vấn đề của thực tiễn. Nâng cao kĩ năng phân tích và khái quát từ tình
huống cụ thể và khả năng độc lập cũng như khả năng hợp tác trong quá trình giải
quyết vấn đề.
Khi sử dụng phương pháp này, giáo viên cần chuẩn bị trước câu hỏi sao cho
phù hợp với mục đích, yêu cầu và nội dung của bài đảm bảo tính sư phạm, đáp ứng
với các đối tượng học sinh, giáo viên cần chuẩn bị tốt kiến thức để giải quyết vấn
đề mà học sinh đưa ra.

VD: Khi dạy bài mở rộng vốn từ “Đồ chơi - trò chơi” (tuần 16) Giáo viên
đưa ra một số thành ngữ - tục ngữ sau: “Chơi với lửa”, “Ở chọn nơi, chơi chọn
bạn”, “Chơi diều đứt dây”, “Chơi dao có ngày đứt tay”, hãy chọn câu thành ngữ,
tục ngữ thích hợp để khuyên bạn:
a- Nếu bạn em chơi với một số bạn hư nên học kém hẳn đi.
b- Nếu bạn em thích trèo lên một chỗ cao chênh vênh, rất nguy hiểm để tỏ
mình gan dạ.
- Với tình huống (a) các em có thể chọn thành ngữ tục ngữ: “Ở chọn nơi,
chơi chọn bạn”. Nhưng với tình huống (b) các em có thể chọn 1 hoặc 2 thành ngữ
tục ngữ như:“Chơi với lửa” hoặc “Chơi dao có ngày đứt tay” đều được.
Với phương pháp này người giáo viên cần hiểu rằng trong từng tình huống cụ thể
sẽ có nhiều cách giải quyết hay, thích hợp để học sinh có thể ứng dụng vào trong
học tập, trong cuộc sống.
+ Phương pháp trực quan.
Phương pháp trực quan là phương pháp dạy học trong đó giáo viên có sử
dụng các hình ảnh trực quan nhằm giúp học sinh có biểu tượng đúng về sự vật và
thu nhận được kiến thức, rèn luyện kĩ năng theo nội dung bài học một cách thuận
lợi. Phương pháp này còn thu hút sự chú ý và giúp học sinh hiểu bài, ghi nhớ bài tốt
7


hơn, học sinh có thể khái quát nội dung bài và phát hiện mối liên hệ của các đơn vị
kiến thức.
VD: Khi dạy bài “Đồ chơi – Trò chơi” (tuần 15) giáo viên đưa ra 6 bức tranh
trong SGK Tiếng Việt 4 tập 1 (trang 147) để tìm ra các từ ngữ chỉ tên đồ chơi – trò
chơi mà các em được mở rộng trong bài học.
Bức tranh 1: HS tìm từ chỉ đồ chơi: Diều – Trò chơi: thả diều.
Bức tranh 2: đồ chơi: đèn ông sao, trống cơm, đầu sư tử – trò chơi: múa lân,
rước đèn, đánh trống.
Bức tranh 3: đồ chơi: dây, nồi xoong, búp bê – trò chơi: nhảy dây, nấu ăn,

cho bé ăn bột…
Bức tranh 4: đồ chơi: máy tính, bộ xếp hình – trò chơi: điện tử, xếp hình.
Bức tranh 5: đồ chơi: dây, súng ná - trò chơi: kéo co, bắn súng.
Bức tranh 6: đồ chơi: khăn – trò chơi: bịt mắt bắt dê…
Sử dụng phương pháp trực quan giảng giải khi dạy phân môn Luyện từ và
câu là rất quan trọng vì sẽ khai thác được triệt để các kênh hình của bài học, nhờ đó
mà giáo viên giúp học sinh nắm bài một cách tốt hơn.
+ Phương pháp luyện theo mẫu.
Là phương pháp dạy học mà giáo viên đưa ra các mẫu cụ thể qua đó hướng
dẫn học sinh tìm hiểu các đặc điểm của mẫu, cấu tạo mẫu và thực hiện theo mẫu.
VD: Khi dạy bài Động từ (Tuần 9), khi kể tên các hoạt động ở nhà hoặc ở
trường rồi gạch dưới động từ trong các cụm từ chỉ hoạt động đó, giáo viên đưa ra
mẫu: M: quét nhà, làm bài
Từ đó, giúp học sinh có điểm tựa để làm bài đặc biệt là với học sinh trung
bình và yếu còn đối với học sinh khá giỏi không bắt buộc phải theo mẫu để học
sinh có thể phát huy được tính tích cực chủ động.
+ Phương pháp phân tích.
Đây là phương pháp dạy học trong đó học sinh dưới sự hướng dẫn tổ chức
của giáo viên tiến hành tìm hiểu các dấu hiệu theo định hướng bài học từ đó rút ra
bài học. Giúp học sinh tìm tòi huy động vốn kiến thức cũ của mình ra kiến thức
mới. Tạo điều kiện cho học sinh tự phát hiện kiến thức (về nội dung và hình thức
thể hiện).
VD: Khi dạy bài “Câu hỏi và dấu chấm hỏi”, tiến hành như sau:
Bước 1: Cho học sinh tìm ra các câu hỏi trong bài tập đọc “Người tìm đường
tới các vì sao”. Các em sẽ tìm được 2 câu:
1. Vì sao quả bóng không có cánh mà vẫn bay được?
2. Cậu làm thế nào mà mua được nhiều sách và dụng cụ thí nghiệm như thế?
8



Bước 2: Phân tích:
H: Câu hỏi (1) là của ai? (Xi-ôn-cốp – xki hỏi mình)
H: Câu hỏi (2) là của ai? (Bạn của Xi-ôn-cốp-xki hỏi)
H: Dấu hiệu nào giúp em nhận ra đó là câu hỏi? (Cuối câu có dấu chấm hỏi)
Qua phân tích của giáo viên, học sinh rút ra được bài học:
1. Câu hỏi (còn gọi là câu nghi vấn) dùng để hỏi về những điều chưa biết.
VD: - Có phải trái đất quay xung quanh mặt trời không?
- Bạn Hoa là học sinh giỏi à?
2. Phần lớn câu hỏi là để hỏi người khác nhưng cũng có những câu để tự hỏi mình.
VD: - Chiếc bút này mình đã mua ở đâu nhỉ?
- Vì sao Trái Đất lại quay nhỉ?
3. Câu hỏi thường có các từ nghi vấn (có phải, không, phải không, à,…). Khi viết
cuối câu hỏi có dấu chấm hỏi (?).
VD: - Bạn đã học bài rồi à?
- Chú đất trở thành chú Đất Nung phải không?
Trên đây là một số phương pháp dạy học mà tôi đã áp dụng trong giảng dạy
phân môn Luyện từ và câu, tuy nhiên tôi cũng nhận thấy rằng không có một
phương pháp dạy học nào là tối ưu. Mỗi phương pháp thường có mặt mạnh - mặt
yếu của nó. Mặt mạnh của phương pháp này sẽ hỗ trợ cho mặt yếu của phương
pháp kia. Cho nên để tránh nhàm chán cần phối hợp nhiều phương pháp giảng dạy
phù hợp với nhiều đối tượng học sinh, có như vậy tiết học mới đạt kết quả tốt.
Do đó để có kết quả cao trong tiết dạy Luyện từ và câu giáo viên cần lập kế
hoạch bài học chu đáo, cẩn thận chuẩn bị về mọi mặt cho tiết dạy. Việc làm này
phải diễn ra trước khi thi công bài dạy trên lớp học
3. Biện pháp 3. Làm tốt khâu lập kế hoạch bài học và lên lớp
+ Lập kế hoạch bài học
Giáo viên cần nắm vững nội dung cơ bản của từng bài học trong SGK và
những hướng dẫn cụ thể về mục tiêu cần đạt. Tuỳ theo đặc điểm của từng bài học
mà xây dựng kế hoạch bài giảng cho phù hợp. Song, cho dù thế nào cũng cần có
đầy đủ các hoạt động và tổ chức các hoạt động đó một cách phong phú, phối hợp

linh hoạt các phương pháp và hình thức cho phù hợp với nội dung của bài dạy và
chủ điểm của bài đó.
Có thể sử dụng linh hoạt nhiều hình thức dạy học trong cùng một tiết dạy. Đó
là các hình thức tổ chức: làm việc cá nhân, trao đổi nhóm, đàm thoại gây hứng thú
cho học sinh tránh nhàm chán đơn điệu.
VD: Khi dạy bài Mở rộng vốn từ Ước mơ (tuần 9)
9


BT 2: Học sinh thảo luận nhóm đôi
Tìm thêm những từ cùng nghĩa với “ước mơ”
- HS 1 tìm từ bắt đầu từ tiếng “ước”: ước ao, …
- HS 2 tìm từ bắt đầu từ tiếng ‘‘mơ’’: mơ mộng, ...
- HS 2 tìm từ bắt đầu từ tiếng “ước”: ước mong, ...
- HS 1 tìm từ bắt đầu từ tiếng ‘‘mơ’’: mơ ước, ...
BT 3 : Nêu yêu cầu viết thêm những từ : đẹp đẽ, viển vông, cao cả, lớn, nho nhỏ, kì
quặc, dại dột, chính đáng... vào sau từ ước mơ thể hiện sự đánh giá :
+ HS thảo luận nhóm 4.
- Đánh giá cao: ước mơ đẹp, ước mơ chính đáng, ước mơ cao cả, ước mơ lớn, ước
mơ đẹp đẽ.
- Đánh giá không cao: ước mơ bình thường, ước mơ nho nhỏ.
- Đánh giá thấp: ước mơ kì quặc, ước mơ dại dột, ước mơ viển vông, ước mơ tầm
thường.
BT 4: Nêu VD về 1 loại ước mơ nói trên.
Bài này cho học sinh làm việc cá nhân.
VD:
+ Ước mơ được đánh giá cao: Đó là những ước mơ vươn lên làm những việc có ích
cho mọi người như:
- Ước mơ học giỏi để trở thành bác sĩ/ kĩ sư…
- Ước mơ chinh phục vũ trụ…

+ Ước mơ được đánh giá không cao: Đó là những ước mơ giản dị, thiết thực, có thể
thực hiện được không cần nỗ lực lớn:
- Ước mơ có truyện đọc/ có xe đạp/ có một đồ chơi…
+ Ước mơ bị đánh giá thấp: Đó là những ước mơ phi lí, không thể thực hiện được
hoặc là những ước mơ ích kỉ, có lợi cho bản thân nhưng gây hại cho người khác:
- Ước mơ được xem ti vi suốt ngày/ ước không phải học mà vẫn được điểm
cao…
- Ước mơ có ai đó làm bài tập cho mình.
Vận dụng linh hoạt các hình thức dạy học sẽ làm cho lớp học sôi nổi, gây
hứng thú cho học sinh sẽ giúp học sinh tiếp thu bài học một cách tốt hơn, nắm vững
nội dung của bài học. Bên cạnh đó, giáo viên cần phải có dự kiến về các câu trả lời
của học sinh và các tình huống sư phạm có thể xảy ra trong mỗi hoạt động từ đó có
biện pháp giải quyết, điều chỉnh kịp thời. Việc tổ chức các hoạt động học tập có tác
dụng rất lớn đến việc giảng dạy phân môn Luyện từ và câu, giúp học sinh biết quý
trọng và giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt từ đó hình thành cho các em nhân
10


cách sống và kĩ năng sống. Do đó để có kết quả cao trong tiết dạy Luyện từ và câu
giáo viên cần lập kế hoạch bài học chu đáo, cẩn thận chuẩn bị về mọi mặt cho tiết
dạy. Việc làm này phải diễn ra trước khi thi công bài dạy trên lớp học.
+ Lên lớp
Sau khi lập xong kế hoạch bài học, giáo viên dựa theo kế hoạch đó để giảng
bài cho học sinh. Giáo viên giảng bài một cách trình tự. Các câu hỏi hoặc các câu
lệnh của giáo viên phải cụ thể, rõ ràng. Giáo viên giao việc cho học sinh vừa phải,
không quá ít hoặc quá ôm đồm, gây lúng túng cho học sinh. Trong những vấn đề
khó hoặc hóc búa, giáo viên cần đưa ra hệ thống câu hỏi gợi mở để khơi gợi học
sinh khám phá bài học. Trong quá trình giảng bài thì giáo viên nên tích hợp các
kiến thức của các phân môn khác như Tập đọc, Tập làm văn… để giúp học sinh hệ
thống hóa vốn từ cũng như mở rộng vốn từ. Các tình huống sư phạm xảy ra bất ngờ

trong hoạt động học tập thì giáo viên phải xử lí một cách khéo léo.
Trong soạn giảng cần lưu ý đến các vấn đề :
Thứ nhất, phát huy ý thức học tập của học sinh từ đó bồi dưỡng hứng thú học
tập cho học sinh qua các bài học.
Cũng như các phân môn khác của Tiếng Việt, một trong những nhiệm vụ của
phân môn Luyện từ và câu là bồi dưỡng ý thức và thói quen sử dụng tiếng Việt văn
hoá. Để thực hiện nhiệm vụ đó giáo viên cần bồi dưỡng hứng thú học tập cho học
sinh, học sinh cần có ý thức học tập đúng đắn.
Trước hết đó là cách làm cho học sinh ý thức được ích lợi của việc học để tạo
động cơ học tập. Cho nên ở mỗi tiết dạy người giáo viên đều cần hướng đến việc
hình thành và duy trì hứng thú cho học sinh. Dạy Luyện từ và câu chính là dạy cho
các em kiến thức về từ ngữ và ngữ pháp nhưng giáo viên cần đưa ra một số thủ
pháp dạy học, hình thức dạy học phù hợp với sở thích của các em, đó chính là các
trò thi đố, các trò chơi để gây hứng thú cho học sinh trong giờ học, giảm bớt sự
căng thẳng, nhàm chán.
Bên cạnh đó người giáo viên cần thiết lập được mối quan hệ hợp tác tích cực
và tốt đẹp giữa cô và trò, giữa các trò với nhau cũng sẽ tạo được hứng thú học tập
cho học sinh. Hình thức tổ chức dạy học hấp dẫn cùng với một bầu không khí thân
ái hữu nghị trong giờ học sẽ tạo hứng thú cho cả cô và trò. Vì vậy, bên cạnh việc
giáo dục tính mục đích kỉ luật, ý thức về trách nhiệm v.v…cho học sinh, với mỗi
giáo viên trực tiếp giảng dạy trong nhà trường phải là người tổ chức cuộc sống ở
trường thật hấp dẫn, tạo niềm vui, phải phấn đấu sao cho mỗi ngày các em đến
trường là một ngày vui. Mỗi học sinh sẽ luôn mong muốn phải là người được hạnh
phúc ngay ngày hôm nay. Bởi vậy, giáo viên phải thường xuyên tìm hiểu học sinh
11


muốn việc học diễn ra như thế nào?, cái gì làm các em thích?, cái gì làm các em
không thích?, để có thể tổ chức quá trình dạy học như các em mong đợi.
Để tạo hứng thú trong học tập cho học sinh cũng là một nghệ thuật trong quá

trình dạy học của người giáo viên. Tạo hứng thú cho học sinh trong học tập cũng
chính là làm cho các em thấy hạnh phúc trong học tập, bởi vì học là hạnh phúc
không chỉ vì những lợi ích mà nó mang lại mà hạnh phúc còn nằm ngay trong chính
sự học từ đó mà các em nâng cao ý thức trong học tập.
Thứ hai, tài liệu, đồ dùng học tập.
Người giáo viên phải là người giúp học sinh biết cách lựa chọn và sử dụng
các tài liệu, đồ dùng học tập như thế nào cho phù hợp. Tài liệu nào các em có thể sử
dụng khi học ở trên lớp, khi học ở nhà, nguồn tài liệu nào phù hợp với các em hay
khi nào thì có thể sử dụng sách giáo khoa, vở bài tập, sách tham khảo. Không chỉ
sử dụng các thông tin có trong sách mà các em còn có thể tự tìm tòi, tự làm lấy để
trở thành đồ dùng học tập hữu ích. Từ đó học sinh sẽ chủ động hơn khi sử dụng các
loại tài liệu mà không còn phụ thuộc hay lệ thuộc vào sách tham khảo. Làm được
điều này cũng đồng nghĩa với việc học sinh sử dụng các loại sách tham khảo, có
sẵn đáp án chỉ là một tài liệu giúp các em dùng để so sánh với kết quả bài làm của
mình.
Thứ ba, phân chia đối tượng học sinh.
Để phát huy được tính tích cực của học sinh, giáo viên cần chú ý đến mọi đối
tượng học sinh. Vì vậy có thể phân chia học sinh ra nhiều mức độ để có phương
pháp dạy thích hợp. Bên cạnh đó, giáo viên phải có hệ thống câu hỏi trong mỗi bài
thật cụ thể phù hợp với từng đối tượng học sinh cụ thể. VD: Khi dạy bài “Câu kể
Ai làm gì?” (tuần 17)
BT1: Đọc đoạn văn sau: “Trên nương mỗi người một việc. Người lớn thì
đánh trâu ra cày. Các cụ già thì nhặt cỏ đốt lá. Mấy chú bé bắc bếp thổi cơm. Các
bà mẹ lom khom tra ngô. Các em bé ngủ khì trên lưng mẹ. Lũ chó sủa om cả rừng”
rồi tìm trong mỗi câu ở đoạn văn trên các từ ngữ:
a) Chỉ hoạt động:
b) Chỉ người hoặc vật hoạt động.
Học sinh có thể tìm được:
+ Từ chỉ hoạt động: đánh trâu ra cày, nhặt cỏ đốt lá, ngủ khì trên lưng mẹ, bắc bếp
thổi cơm, lom khom tra ngô, sủa om cả rừng.

+ Từ chỉ người hoặc vật hoạt động: người lớn, các cụ già, mấy chú bé, các em bé,
lũ chó.

12


Lúc này giáo viên gạch chân những từ ngữ mà các em đã tìm được. Sau đó
tiến hành hỏi: Em hãy đặt câu hỏi cho từng từ chỉ hoạt động?
Học sinh nêu: Người lớn làm gì? Các cụ già làm gì?...
Giáo viên cần chú ý đến mọi đối tượng học sinh trong giờ học để cho tất cả
các em đều được nói, đều được làm việc phù hợp với khả năng tư duy.
Thứ tư, phân bố thời gian học tập.
Việc phân bố thời gian học tập cho học sinh một cách hợp lí cũng là một yếu
tố quan trọng của sự thành công. Người giáo viên phải biết phối kết hợp nhịp nhàng
các hoạt động dạy học và phân chia thời gian của từng hoạt động đó phù hợp trong
mỗi tiết học, mỗi bài học cụ thể, tránh tình trạng hết tiết học mà không hết bài hoặc
ngược lại tạo cơ hội cho học sinh không làm việc. Điều này cũng giúp ích cho học
sinh trong việc tự phân bố thời gian học ở nhà hợp lí, mang lại hiệu quả.
Thứ năm, kèm cặp những học sinh tiếp thu chậm.
Với đối tượng học sinh tiếp thu chậm, cần giúp các em xác định được mạch
kiến thức trong chương trình được sắp xếp theo vòng tròn đồng tâm, tuỳ theo ở mỗi
lớp mà có những yêu cầu khác nhau. Từ đó giúp học sinh yếu nắm chắc những kiến
thức ở lớp dưới, bổ sung những lỗ hổng về kiến thức ở lớp dưới thì đến lớp 4 các
em sẽ nắm kiến thức một cách dễ dàng hơn, phát huy được những kiến thức và kĩ
năng học sinh đã đạt ở lớp 1, 2, 3 theo hệ thống lôgic.
VD: Ở lớp 1, các em được học về âm - vần, học sinh tìm tiếng có vần mới
học, nói câu chứa tiếng mới học, thì lớp 4 các em sẽ được học kĩ hơn về cấu tạo của
tiếng: tiếng thường gồm có 3 bộ phận: âm đầu - vần - thanh (có tiếng không có âm
đầu).
Hay chỉ một khái niệm “Câu hỏi và dấu chấm hỏi” ở lớp 2 học sinh mới chỉ

cần đạt yêu cầu: chọn dấu chấm hay dấu hỏi để điền vào ô trống; ở lớp 3, các em
phải đặt và trả lời câu hỏi ; nhưng đến lớp 4 các em không những phải hiểu khái
niệm mà còn phải biết giữ lịch sự khi đặt câu hỏi, tránh những câu hỏi làm phiền
lòng người khác.
VD: Bạn có thể chờ hết tiết sinh hoạt, chúng mình cùng nói chuyện được không?
Phải biết sử dụng câu hỏi vào mục đích khác, không chỉ dừng lại ở hỏi những
điều muốn biết mà còn phải biết dùng câu hỏi để thể hiện thái độ khen, chê, khẳng
định, phủ định, yêu cầu, mong muốn.
Thứ sáu, sử dụng phương tiện, thiết bị.
Giáo viên cần tận dụng và sử dụng một cách triệt để các đồ dùng và trang
thiết bị dạy học không chỉ trong quá trình dạy học mà còn đóng góp một phần
không nhỏ trong viêc giúp đỡ học sinh yếu. Với đối tượng học sinh yếu khả năng tư
13


duy trừu tượng thấp do đó cần tăng cường, hỗ trợ các em về khả năng tư duy bằng
hình ảnh, bằng âm thanh… bằng trực quan sinh động sẽ giúp các em tiếp thu bài tốt
hơn, hiệu quả hơn.
4. Biện pháp 4. Đánh giá học sinh
Như chúng ta đã biết, mục đích của đánh giá là giúp giáo viên điều chỉnh,
đổi mới phương pháp, hình thức tổ chức hoạt động dạy học, hoạt động trải nghiệm
ngay trong quá trình và kết thúc mỗi giai đoạn dạy học, giáo dục; kịp thời phát hiện
những cố gắng, tiến bộ của học sinh để động viên, khích lệ và phát hiện những khó
khăn chưa thể vượt qua của học sinh để hướng dẫn, giúp đỡ; đưa ra nhận đúng
những ưu điểm nổi bật và những hạn chế của mỗi học sinh để có giải pháp kịp thời
nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động học tập, rèn luyện của học sinh. Do
vậy, đây là công việc mà giáo viên làm thường xuyên trong mỗi tiết học. Trong quá
trình dạy học nói chung và dạy phân môn Luyện từ và câu nói riêng, người giáo
viên cần chú trọng vào mặt thành công của học sinh, nhìn nhận các em theo cách
nhìn em nào cũng ngoan, em nào cũng giỏi, em nào cũng cố gắng để khích lệ, phát

huy tính sáng tạo của các em. Trong đánh giá giáo viên cần coi trọng sự tiến bộ của
học sinh, không so sánh học sinh này với học sinh khác, không tạo áp lực cho học
sinh. Trong các tiết học, giáo viên có thể nhận xét học sinh bằng lời nói trực tiếp
hoặc viết nhận xét vào phiếu, vào vở về những kết quả đã làm được hoặc chưa làm
được; mức độ hiểu biết và năng lực vận dụng kiến thức. Đôi lúc cô giáo cũng cần
tỏ ra ngạc nhiên, vui sướng, tôn trọng những sáng tạo của các em dù là rất nhỏ,
giúp các em tự phát hiện ra chân lí. Thành quả mà các em thấy được qua sự học tập
của mình được thể hiện bằng những lời nhận xét, khen ngợi kịp thời từ đó các em
tự tin vươn lên. Chỉ có đạt được thành công trong học tập mới thực sự tạo ra hứng
thú và niềm say mê cho các em. Chỉ có thành công, niềm tự hào về thành công,
cảm giác xúc động khi thành công mới là nguồn gốc thật sự của ham muốn học tập.
Ví dụ : Khi dạy bài “ Giữ phép lịch sự khi đặt câu hỏi” ( Tuần 15), có thể đưa ra
một số lời nhận xét:
- Em đã biết phân biệt các câu hỏi lịch sự và các câu hỏi không lịch sự ở trong bài.
- Em đã biết đặt câu hỏi để hỏi chuyện thầy giáo và bạn bè một cách lịch sự.
- Em đã đặt đúng câu hỏi cho thầy cô giáo song em cần thưa gửi và xưng hô phù
hợp để câu hỏi được lịch sự hơn,….
Đối với những học sinh có một số nhiệm vụ hoặc bài học chưa hoàn thành
thì giáo viên cần kịp thời giúp đỡ để học sinh biết cách hoàn thành.
VD: Khi dạy bài “ Câu kể Ai làm gì?”, một số học sinh có thể chưa hoàn thành bài
tập 3 (Viết một đoạn văn kể về các công việc buổi sáng của em. Cho biết những câu
14


nào trong đoạn văn là câu kể Ai làm gì?), giáo viên có thể hướng dẫn, gợi ý cho
các em hoàn thành trong giờ ra chơi hoặc 15 phút đầu giờ.
Để tạo sự thi đua học tập một cách tích cực, học sinh cũng là người tham gia
vào việc đánh giá bạn mình. Việc làm này giúp học sinh biết mình nắm bài ở mức
nào, bạn mình còn thiếu sót hay mình thiếu sót hơn bạn ở điểm nào. Từ đó, các em
sẽ có động lực cố gắng hoàn thành các nhiệm vụ học tập một cách tự giác hoặc có

thể nhờ bạn giúp đỡ.
Bên cạnh đó, giáo viên cần trao đổi với phụ huynh những công việc hay bài
học mà học sinh chưa hoàn thành để phụ huynh học sinh biết và giúp đỡ con em
mình hoàn thành các nhiệm vụ học tập. Từ đó, giữa phụ huynh và giáo viên có sự
phối kết hợp để đánh giá học sinh một cách chính xác hơn.
5. Biện pháp 5. Làm tốt công tác phối hợp
a. Với gia đình
Để góp phần thành công trong công tác giảng dạy, đặc biệt với phân môn
Luyện từ và câu, điều kiện cần thiết không thể thiếu đó là việc phối hợp với phụ
huynh học sinh. Vấn đề này được nêu trong yêu cầu của thông tư Số 30/2014/TTBGDĐT về Quy định đánh giá học sinh Tiểu học.
Gia đình là trường học đầu tiên, trong đó bố mẹ là những người thầy giáo
thân thuộc nhất đối với học sinh. Gia đình có vai trò rất quan trọng trong việc hình
thành và phát triển về ngôn ngữ của trẻ, đây là nơi mà các em trải nghiệm, vận
dụng những kiến thức đã học vào thực tế cuộc sống. Các em sẽ sử dụng các kiến
thức mà các em lĩnh hội ở trên lớp để giao tiếp với mọi người trong gia đình và xã
hội. Trong qua trình giao tiếp đó, các em sẽ không tránh khỏi những sai sót khi nói
và viết. Khi đó, bố mẹ và những người trong gia đình giúp các em sửa chữa, uốn
nắn để hoàn thiện vốn từ của mình. Từ đó, các em giao tiếp với mọi người xung
quanh một cách đúng đắn và lịch sự.
VD : Khi nhờ người lớn làm một việc gì đó, một số học sinh có thể nói như
sau : Ông! Lấy cái đồ chơi trên tủ cho cháu với!
Lúc này, bố mẹ có thể nhắc nhở con nếu nhờ ai đó làm một việc gì thì phải
nhờ một cách lịch sự. Hơn nữa nếu là người lớn thì phải nói một cách lễ phép. Bố
mẹ có thể hướng dẫn con nói lại để các em có thể huy động được vốn kiến thức đã
học ở trường ứng dụng vào trong thực tế cuộc sống. VD : Nhờ ông giúp cháu lấy
cái đồ chơi trên tủ ạ !
Như vậy, nhiệm vụ của việc dạy học Luyện từ và câu được hoàn thành. Do
vậy, ngay từ đầu năm học, qua cuộc họp phụ huynh đầu năm, tôi cởi mở trao đổi,
bày tỏ những ý kiến, cùng bàn bạc làm như thế nào để phụ huynh cùng hỗ trợ giáo
15



viên trong dạy học nói chung và phân môn này nói riêng. Tất cả đều được thảo
luận, bàn bạc kỹ lưỡng và đi đến thống nhất.
Mặt khác, qua phiếu điều tra đầu năm, giáo viên nắm số diện thoại, địa chỉ
của từng phụ huynh học sinh để thường xuyên liên hệ, trao đổi với phụ huynh, cùng
phối hợp, động viên giúp đỡ kịp thời từng học sinh, nhất là đối với những học sinh
chậm tiến.
Việc trao đổi với phụ huynh bằng nhiều hình thức như: có thể gặp trực tiếp
hoặc trao đổi qua điện thoại mỗi khi có sự việc cần trao đổi, đôi khi chỉ là những
thăm hỏi việc học tập sinh hoạt của học sinh ở nhà để tìm nguyên nhân học sút hay
cùng nhau phối hợp để giúp học sinh tiến bộ.
b. Với Đội thiếu niên tiền phong Hồ Chí Minh
Trong các buổi ngoại khóa, hoạt động ngoài giờ lên lớp của Đội tổ chức, các
em được vui chơi, giao lưu và hơn hết các em được giao tiếp với nhau. Thông qua
việc tổ chức các cuộc thi tìm hiểu, các trò chơi hay đóng kịch… các em sẽ được sử
dụng vốn ngôn ngữ của mình để trao đổi, nói chuyện với bạn bè và thầy cô. Đây là
cơ hội để các em thể hiện mình. Qua đây, các em sẽ mạnh dạn hơn khi giao tiếp, sẽ
tự điều chỉnh được hành vi, ngôn ngữ của mình, nói chuyện một cách tự tin và chủ
động hơn. Như vậy, các em đã ứng dụng được các kiến thức về câu từ trong giao
tiếp. Từ đó, vốn ngôn ngữ của các em sẽ tự nhiên được trau dồi và phong phú hơn,
các em sẽ mạnh dạn hơn. Xác định được điều đó, trong hội nghị công chức đầu
năm, bản thân tôi đã đề xuất với nhà trường cần tăng cường các hoạt động ngoại
khóa, tổ chức nhiều sân chơi với nhiều màu sắc khác nhau để tạo cho các em trải
nghiệm. Quả thật, qua các hoạt động ngoài giờ lên lớp do Liên đội tổ chức, các em
giao lưu, kết bạn đầy tự tin. Bên cạnh đó, trong mọi hoạt động, giáo viên cùng tham
gia với các em nên các em gần gũi và thân thiện với các thầy cô giáo hơn.
6. Biện pháp 6. Làm tốt việc thi đua, khen thưởng
Đây là một việc làm không thể thiếu đối với học sinh Tiểu học. Do tâm lý
của học sinh Tiểu học rất thích được thi đua với bạn, thích được khen, được động

viên. Vì vậy, giáo viên cần thường xuyên nêu gương và biểu dương các thành tích
đạt được của các em.
Thi đua ở đây được hiểu là thi đua trong học tập. Trong các tiết học ở trên
lớp, muốn học sinh học một cách hứng thú và hiệu quả thì việc thi đua giữa học
sinh trong lớp là một việc làm cần thiết. Thi đua học tập tạo cho các em thói quen
nhanh nhẹn, linh hoạt, giao tiếp hợp tác với các bạn để khám phá tri thức một cách
nhanh nhất.
Ví dụ : Mở rộng vốn từ : Nhân hậu, đoàn kết ( Tuần 3)
16


Bài 1 : Tìm các từ :
a) Chứa tiếng “hiền”
b) Chứa tiếng “ác”
Khi dạy bài tập này, thay vì cho các em làm bài cá nhân thì nên tổ chức thi
đua giữa các nhóm. Với hình thức này thì các thành viên trong nhóm huy động vốn
từ của mình một cách nhanh nhất và tối đa nhất để trả lời. Như vậy, tiết học sẽ sôi
nổi và hứng thú hơn. Học sinh sẽ đưa ra nhiều từ nhất có thể.
Đi liền với thi đua là công tác khen thưởng. Việc khen phải linh động và có nhiều
cách: Có thể khen bài làm tốt, khen tiếp thu nhanh, một lời nói hay hoặc một diễn
đạt trôi chảy, ... Khen thưởng có thể tuyên dương bằng lời ngay trong tiết học, có
thể khen bằng nhận xét ở vở của học sinh hoặc tuyên dương trước lớp, trường. Giáo
viên luôn tìm những ưu điểm của học sinh để động viên các em, giúp các em tránh
áp lực trong việc học. Điều này còn khích lệ các em hứng thú và có động lực học
tập môn học.
III. KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC
Với những biện pháp nêu trên, tôi thật sự vui mừng vì sự đầu tư của mình đã
đạt được kết quả tốt. Kết quả kiểm tra định kỳ cuối kỳ I :
Phân môn Luyện từ và câu : Đạt mức trung bình trở lên : 100%
Chất lượng phân môn Tiếng Việt :

Tổng
Điểm 10 - 9
Điểm 8 - 7
Điểm 6 - 5
Điểm dưới 5
số HS T. số
T.L % T. số
T.L % T. số
T.L % T. số
T.L %
19
8
42.1
7
36.8
4
21.1
0
0
Trong bài kiểm tra định kì, học sinh đã biết sử dụng hệ thống ngôn từ vào
viết câu đúng, hành văn mạch lạc, rõ ràng.
Đến nay, cơ bản các em đã có vốn từ khá phong phú, đã diễn đạt trôi chảy ý
kiến của mình, vận dụng trong nói, viết và trong thực tiễn khá tốt.

17


C. KẾT LUẬN
I. Ý NGHĨA, PHẠM VI ÁP DỤNG CỦA SÁNG KIẾN
Phân môn Luyện từ và câu có vai trò rất quan trọng trong dạy học Tiếng Việt

bởi vị trí đặc biệt quan trọng của từ và câu trong hệ thống ngôn ngữ. Nhiệm vụ của
dạy Luyện từ và câu ở Tiểu học là làm giàu vốn từ và phát triển năng lực sử dụng
từ, câu của học sinh. Chính vì thế, đây là một việc làm không đơn giản chút nào.
Vậy, để thực hiện thành công công việc này đòi hỏi phải phải kết hợp nhiều yếu tố.
Qua một thời gian áp dụng vào thực tiễn giảng dạy lớp 4 ở trường Tiểu học, bản
thân nhận thấy một trong các yếu tố cần tuân thủ đó là:
- Trước hết giáo viên phải là người nắm vững chương trình, kiến thức, kĩ
năng tiếng Việt, có vốn sống phong phú.
- Thực sự yêu nghề, có tâm huyết với nghề.
- Thường xuyên học hỏi trau dồi kiến thức, nghiên cứu tài liệu, sách báo...
giao lưu học hỏi đồng nghiệp có nhiều kinh nghiệm đề ngày càng làm phong phú
thêm vốn kiến thức, kĩ năng cho mình.
- Có phương pháp nghiên cứu bài, soạn bài, thiết kế bài học một cách khoa
học, sáng tạo, linh hoạt.
- Tạo sự giao tiếp cởi mở, thân thiện với học sinh, mẫu mực trong lời nói,
việc làm, thái độ, cử chỉ ; Có tâm hồn trong sáng lành mạnh để học sinh noi theo.
- Giáo viên là người khơi dậy niềm say mê hứng thú của học sinh, không hạn
chế những lời khen ngợi trong mọi lúc, mọi khi đối với học sinh và luôn điều chỉnh
kịp thời những sai sót cần thiết.
- Luôn phối hợp với gia đình, tổ chức chức Đội để tạo điều kiện tốt nhất cho
các em tham gia trải nghiệm.
II. KIẾN NGHI, ĐỀ XUẤT
Để dạy tốt phân môn Luyện từ và câu góp phần nâng cao chất lượng giáo
dục toàn diện cho học sinh, nhà trường, ngành cần tổ chức nhiều hơn nữa các sân
chơi mới để tạo cơ hội cho các em thể hiện khả năng của mình (như: thi nhóm
trưởng tài năng, em làm hướng dẫn viên du lịch, ..)
Trên đây là một số kinh nghiệm nhỏ của tôi đã và đang áp dụng vào công tác
giảng dạy. Rất mong nhận được sự chia sẻ, trao đổi, góp ý của các đồng nghiệp.

18




×