Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

Phương pháp giáo dục đạo đức cho học sinh chưa ngoan

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (197.59 KB, 13 trang )

Phßng Gi¸o dôc - §µo T¹o LÖ Thuû
Trêng TiÓu Häc sè 2 Hång thuû
--------@&?--------

ĐỀ TÀI
GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO HỌC SINH
" CHƯA NGOAN"

GIÁO VIÊN: ĐINH THỊ LIỆU

Năm học: 2014 - 2015


I. Phần mở đầu
1.1. Lý do chọn sáng kiến
Trong công tác giáo dục, nhà trường phổ thông giữ vai trò quan trọng trong việc
hình thành nhân cách cho học sinh nhằm xây dựng và phát triển những con người làm
chủ tương lai của đất nước. Do đó nó đã trở thành một trong những hoạt động cơ bản
của nhà trường, giữ vị trí đặc biệt quan trọng vì đây là bậc học nền tảng.
Tuy nhiên, trong xã hội hiện nay, đạo đức của một bộ phận thanh thiếu niên, đặc
biệt là lứa tuổi học sinh tiểu học và học sinh phổ thông đang có chiều hướng lệch lạc,
đó là điều khiến các nhà giáo dục quan tâm tìm giải pháp.
Giáo dục đạo đức cho học sinh nói chung, giáo dục đạo đức cho học sinh "chưa
ngoan" trong nhà trường là một việc hết sức quan trọng và cấp thiết. Xuất phát từ lý
do đó, tôi quyết định viết sáng kiến kinh nghiệm và đã chọn đề tài nêu trên.
1.2. Điểm mới của sáng kiến
Sáng kiến này được nghiên cứu và áp dụng có hiệu quả ở nhiều đối tượng học sinh
trong nhiều năm, nó mang tính thực tiễn cao và dễ áp dụng, nó tạo ra được một bộ
mặt mới trong việc giáo dục đào tạo học sinh, góp phần tăng cường hiệu quả công tác
chủ nhiệm lớp.
1.3. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu


* Phạm vi: Đề tài này có thể áp dụng cho tất cả giáo viên tiểu học làm nhiệm vụ
chủ nhiệm kể cả giáo viên bậc trung học cơ sở, nhằm nghiên cứu về thói quen, hành
vi đạo đức của học sinh, đặc biệt là những học sinh "chưa ngoan" trong lớp chủ
nhiệm để có biện pháp giúp đỡ, uốn nắn kịp thời.
* Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng học sinh lớp 3 1, 22,21 của các năm học 2012 –
2013; 2013 – 2014; 2014 – 2015 mà tôi chủ nhiệm.
II. Phần nội dung
1. Thực trạng về vấn đề đạo đức của học sinh tại trường đang dạy
1.1. Nhận định chung:
Là giáo viên trực tiếp giảng dạy và làm công tác chủ nhiệm trong nhiều năm qua
bản thân tôi nhận thấy trong những năm gần đây, tình hình giáo dục đạo đức và chất
lượng đạo đức của học sinh đã có biểu hiện xuống cấp: Các em chưa xác định động
cơ học tập đúng đắn, chưa thiết tha trong việc học tập, còn thiếu sự chuyên cần. Mặt
khác, ảnh hưởng của môi trường xã hội với nhiều tệ nạn, các tụ điểm sinh hoạt còn


thiếu lành mạnh, làm cho nhân cách trẻ nói chung và học sinh nói riêng có chiều
hướng phát triển bất bình thường. Có thể về học lực có điều kiện thuận lợi nhưng đạo
đức các em còn nhiều dạng cá biệt, nề nếp "Tôn sư trọng đạo" gần như bị lu mờ.
1.2. Nguyên nhân:
Giáo dục đạo đức diễn ra trong nền kinh tế thị trường: kinh tế thị trường, một mặt
tạo ra những biến chuyển tích cực về các mặt, cải thiện đời sống. Mặt khác, xuất hiện
những mặt trái làm ảnh hưởng đến giá trị truyền thống đạo đức, gây tác động ngược
chiều, khó khăn cho giáo dục đạo đức nói chung và giáo dục đạo đức cho học sinh
nói riêng về " Bạo lực học đường". Không ít phụ huynh bận làm ăn, sao lãng, hoặc
một số phụ huynh khoán trắng con em của mình cho giáo viên, cho nhà trường; bên
cạnh đó lại có một số phụ huynh qua nuông chiều các em.
Sự phát triển của công nghệ thông tin và các phương tiện thông tin đại chúng làm
cho trẻ có điều kiện tiếp xúc với văn hóa của toàn nhân loại, được mở rộng sự hiểu
biết và thông minh hơn. Nhiều chương trình giải trí đã thực sự là trường học thứ hai,

là sân chơi trí tuệ bổ ích và lý thú của trẻ em. Tuy nhiên, không thể phủ nhận rằng các
quán game với những trò chơi điện tử mới lạ, hấp dẫn số đông trẻ em hơn những bài
học đạo đức ở trên lớp. Nhiều điều các em nhận được từ công nghệ thông tin gây
hứng thú hơn các bài giảng ở nhà trường. Các hình thức trên thông tin đại chúng luôn
kích thích tính hiếu kỳ của trẻ em hơn những lời nói của thầy cô giáo trên lớp.
Nói tới dạy đạo đức, học đạo đức người ta luôn cảm thấy nặng nề và không mấy
hứng thú khi thảo luận về môn học này. Từ chỗ còn xem nhẹ việc giáo dục đạo đức
cho học sinh nên chỉ đạo dạy học môn đạo đức trong nhà trường tiểu học chưa được
quan tâm triệt để, số tiết dự giờ môn đạo đức của BGH còn ít. Điều đó dẫn đến tình
trạng giáo viên chủ nhiệm chưa đầu tư cho việc giảng dạy môn đạo đức, vì vậy việc
cung cấp các khái niệm, chuẩn mực đạo đức chưa tạo cho các em tiếp thu bằng cả
tình cảm của mình để biến thành niềm tin. Bởi thế, học sinh tiểu học khi lên trung học
cơ sở thì các em thường thay đổi theo chiều hướng đi xuống về mặt đạo đức. Số em
còn giữ vững được nền tảng là do nhiều yếu tố tạo nên, trong đó yếu tố gia đình là
nguyên nhân chính.
1.3 Thực trạng của công tác giáo dục đạo đức:
a, Năm học 2014-2015 tôi được nhà trường phân công chủ nhiệm lớp 2 1. Sĩ số lớp
tôi chủ nhiệm là 27 em, trong đó số học sinh nam 13 em, học sinh nữ 14 em.


Kết quả thống kê số liệu đầu năm như sau:
T
T
1

Hạnh kiểm
Năm học
2014 - 2015

SLHS

27

HT

CHT

27

0

Hoàn cảnh gia đình
Hộ
Cận
Khó
nghèo
7

nghèo
6

Ghi chú

khăn
2

Qua điều tra tình hình lớp, tôi nhận thấy:
SLHS
27

Tích cực

24

Chưa tích cực
3

Trong lớp tôi chủ nhiệm có rất nhiều học sinh có hoàn cảnh gia đình đặc biệt khó
khăn, nhiều em bố mẹ đi làm ăn xa nên ở nhà với ông bà, ông bà quá nuông chiều
nên em hay có tính ỷ lại, ít hòa đồng cùng các bạn, thích lấy những thứ không phải
của mình khi chưa được sự đồng ý ( em Tâm). Một số phụ huynh coi việc giáo dục
trẻ là bổn phận và trách nhiệm của nhà trường mà đặc biệt là của giáo viên nên ít
quan tâm đến việc học của các em, dẫn đến một số em có tính hiếu động thường trêu
ghẹo, nói chuyện, đùa giỡn trong giờ học, thậm chí còn hay gây gỗ đánh nhau với các
em nhỏ hơn (Mạnh, Chắc Chính). Chình vì vậy nên những em đó chưa thực sự chú
trọng trong học tập.
Ngoài 3 học sinh chưa tích cực, nhìn chung trong lớp có những ưu điểm và nhược
điểm sau:
* Ưu điểm:
- Đa số học sinh biết nghe lời cha mẹ, thầy cô, nghiêm chỉnh chấp hành các nội quy,
quy định của lớp, của trường.
- Tham gia tích cực các hoạt động nhân đạo, từ thiện: Mua tăm tre ủng hộ Hội người
mù; ủng hộ học sinh vùng lũ lụt. Ngay tại trường, học sinh tích cực tham gia quỹ chữ
thập đỏ để giúp đỡ các bạn có hoàn cảnh khó khăn.
- Học sinh biết giúp đỡ nhau trong học tập và trong cuộc sống; biết bênh vực lẽ phải,
báo cáo với thầy cô những điều sai của các bạn trong lớp, trong trường.
- Giao tiếp với thầy cô, người lớn, với bạn bè văn minh.
- Đa số HS biết giữ gìn vệ sinh chung; biết chấp hành luật an toàn giao thông. Đặc
biệt trong lớp tôi chủ nhiệm không có học sinh nào bị “ tiêm nhiễm” bởi những thói
hư tật xấu.



+ Nguyên nhân: Học sinh được giáo dục đạo đức, lối đầy đủ thông qua các môn học,
qua các hoạt động ngoại khóa; sự quan tâm giáo dục của nhà trường, gia đình, xã
hội...
* Nhược điểm:
- Một số HS thường xuyên nói chuyện gây mất trật tự trong lớp, nói tục với bạn, nói
dối thầy cô và bạn bè.
- Thích làm việc riêng trong giờ học, cù rủ bạn cùng tham gia.
- Có hiện tượng HS gây gổ đánh nhau…
* Nguyên nhân: Học sinh bị ảnh hưởng từ gia đình, sự thiếu quan tâm của cha mẹ;
một số giáo viên bộ môn chưa tích cực lồng ghép giáo dục đạo đức HS trong tiết dạy;
các hành vi giao tiếp thiếu văn hóa chưa được uốn nắn kịp thời...
b) Những hạn chế cần khắc phục:
- Một bộ phận cha mẹ, gia đình lo làm ăn, hoặc gia đình bất hòa, hoặc có lối sống ỉ lại
nên coi thường việc học của con em mình.
- Một số ít giáo viên chủ nhiệm lớp thiếu sự gắn bó, sâu sát nắm bắt tâm tư nguyện
vọng của học sinh; biện pháp giáo dục học sinh đôi khi không phù hợp, hiệu quả chưa
cao; công tác phối hợp với phụ huynh học sinh để giáo dục học sinh chưa kịp thời,
thiếu thường xuyên, hiệu quả thấp.
- Tiết sinh hoạt lớp chưa phát huy hiệu quả thật sự.
- Một số hoạt động ngoại khoá còn gặp nhiều khó khăn dẫn đến hiệu quả thấp, chưa
thường xuyên, chưa thu hút được học sinh tham gia tích cực.
*) Chất lượng, hiệu quả đạt được; những tác động tích cực đến việc tu dưỡng, rèn
luyện, phấn đấu trong học tập của HS:
Chất lượng, hiệu quả của công tác GDĐĐ của lớp tôi trong những năm vừa qua
thể hiện trên các mặt: Tỉ lệ HS đạt hạnh kiểm Tốt và Khá hằng năm từ 97 % trở lên, tỉ
lệ HS xếp hạnh kiểm loại Yếu thấp (dưới 1 %); đa số học sinh ngoan ngoãn, thực
hiện nghiêm túc các nội quy, quy định của trường, của lớp. Chất lượng giáo dục đạo
đức cho học sinh tác động đến ý thức của HS về yêu quê hương đất nước, có lòng vị
tha, nhân ái, cần cù liêm khiết và chính trực; giáo dục đạo đức học sinh gắn chặt với
giáo dục tư tưởng-chính trị, giáo dục truyền thống và giáo dục bản sắc văn hóa dân

tộc, giáo dục pháp luật nhà nước XHCN, cung cấp cho học sinh những phương thức
ứng xử đúng trước vấn đề của xã hội….giúp cho các em có khả năng tự kiểm soát


được hành vi của bản thân một cách tự giác, có khả năng chống lại những biểu hiện
lệch lạc về lối sống.
1.4. Những thuận lợi và khó khăn
Quá trình nghiên cứu, ghi nhận, tìm biện pháp để thực hiện đề tài có nhiều thuận
lợi và cũng không ít khó khăn:
* Thuận lợi:
- Trường Tiểu học đang công tác có nhiều giáo viên dày dạn kinh nghiệm
- Bản thân được giảng dạy và thực hiện nghiên cứu tại trường
- Được sự quan tâm của BGH nhà trường và chính quyền địa phương
* Khó khăn:
- Phần lớn học sinh đang ở lứa tuổi thay đổi về mặt tâm lý, rất hiếu động
- Những em "chưa ngoan" đa phần là con em gia đình nghèo, hoàn cảnh khó khăn,
không sống chung với cha mẹ mà ở với ông bà, thiếu sự quan tâm giáo dục của gia
đình, có trường hợp người thân của các em không chịu hợp tác với nhà trường trong
việc giáo dục con em mình.
- Trong mỗi năm học, lớp tôi chủ nhiệm đều có một đến hai em học sinh "chưa
ngoan". Địa bàn trường nằm ở vùng còn khó khăn, trình độ dân trí còn thấp.
2. Các biện pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề
Qua nhiều năm làm công tác chủ nhiệm lớp, bản thân tôi đã đúc kết được một số
kinh nghiệm trong việc giáo dục đạo đức cho học sinh tiểu học nói chung và học sinh
lớp 2 nói riêng, trong đó đặc biệt là giáo dục học sinh "chưa ngoan", tôi xin giới thiệu
để đồng nghiệp cùng tham khảo và mong nhận được nhiều ý kiến đóng góp quý báu
của các cấp lãnh đạo và đồng nghiệp gần xa.
Trước hết chúng ta cần xác định học sinh đến trường là để học cách sống, học
cách học. Trong đó, học cách sống là học cách cư xử ở mọi lúc mọi nơi đúng với
những chuẩn mực đạo đức, phù hợp với đạo đức của người công dân nước Cộng hòa

Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Vì vậy, giáo dục đạo đức cho học sinh tiểu học là trách
nhiệm to lớn của người giáo viên. Muốn thực hiện tốt công tác giáo dục đạo đức mới
cho học sinh, người giáo viên chủ nhiệm lớp phải thực hiện các yêu cầu sau:
- Làm cho học sinh hiểu và nhận thấy rằng cần làm cho các hành vi ứng xử của
mình phù hợp với lợi ích của xã hội; giúp cho học sinh lĩnh hội được các tư tưởng
đạo đức, các nguyên tắc đạo đức, chuẩn mực đạo đức để đảm bảo sự phù hợp đó.


- Biến kiến thức đạo đức thành niềm tin đạo đức của cá nhân để đảm bảo hành vi
của các em được thực hiện có đạo đức.
- Bồi dưỡng cho học sinh tình cảm đạo đức tích cực và bền vững (lương tâm, vinh
dự, trách nhiệm,...) và các phẩm chất ý chí (thật thà, dũng cảm, kỷ luật, kiên trì,...) để
đảm bảo cho hành vi của các em luôn luôn nhất quán với các yêu cầu đạo đức.
- Rèn luyện cho trẻ thói quen hành vi đạo đức, làm cho các hành vi đó trở thành
bản tính tự nhiên của cá nhân và duy trì lâu bền các thói quen đó để ứng xử đúng đắn
trong mọi hoàn cảnh.
- Giáo dục các em hành vi văn minh, thể hiện sự tôn trọng và quý trọng lẫn nhau
của con người và bảo đảm được tính nhân đạo, trình độ thẩm mỹ cao của các quan hệ
cá nhân trong cuộc sống.
* Biện pháp 1: Để đạt được những yêu cầu trên, nhà giáo dục cần xác định và
thực hiện tốt hai con đường cơ bản của giáo dục đạo đức cho học sinh tiểu học, đó
là:
* Bằng con đường dạy học trên lớp:
Thông qua con đường dạy học các môn: Đạo đức, Tiếng Việt, Tự nhiên xã hội,...
mỗi môn học có vai trò khác nhau trong việc thực hiện nội dung giáo dục đạo đức
cho học sinh. Trong đó, đặc biệt là môn Đạo đức, nó được tích hợp dọc các nội dung
giáo dục đạo đức. Nó có vai trò quan trọng nhất vì:
- Cung cấp kiến thức đạo đức (chuẩn mực đạo đức) một cách khoa học, thời sự
cập nhật.
- Nó giúp học sinh hiểu được ý nghĩa, tác dụng của việc thực hiện các chuẩn mực

đạo đức, từ đó học sinh có thái độ tiếp nhận, lựa chọn cách ứng xử phù hợp, rèn luyện
hành vi đúng chuẩn mực.
- Nó giúp học sinh luyện tập kỹ năng, thói quen hành vi đúng chuẩn mực. Vì vậy,
khi dạy môn Đạo đức, giáo viên cần chú trọng rèn luyện các kỹ năng đạo đức, kể cả
các kỹ năng sống thông qua các bài luyện tập thực hành, qua việc học sinh thực hiện
các bài tập bày tỏ thái độ, nêu ý kiến, nhất là đối với những em "chưa ngoan"; đặc
biệt cần chú trọng các tiết thực hành giữa học kỳ, cuối học kỳ và cuối năm học.
- Các môn học khác cũng góp phần đáng kể trong việc giáo dục, rèn luyện các kỹ
năng đạo đức cho học sinh. Chúng có tác dụng tích hợp ngang nội dung giáo dục đạo
đức phù hợp và có vai trò quan trọng bởi:


+ Chúng cùng với môn Đạo đức thực hiện nội dung giáo dục đạo đức.
+ Bổ sung kiến thức cho môn Đạo đức
+ Giúp các em vận dụng, củng cố kiến thức của môn Đạo đức.
Cụ thể:
Trong môn Tiếng Việt, các bài học, ngữ liệu của các bài tập gắn liền với từng chủ
điểm là những cơ hội tốt giúp tôi thực hiện "tích hợp ngang" các nội dung có liên
quan đến bài học đạo đức để giáo dục học sinh những tư tưởng tình cảm và tăng
cường trao đổi nhân cách cho các em.
Khi dạy các môn học khác như Tự nhên xã hội,... kiến thức trong từng bài kết hợp
với lồng ghép giáo dục vệ sinh cá nhân, vệ sinh môi trường và giáo dục kỹ năng sống
cũng là những cơ hội để thực hiện bồi dưỡng tình cảm đạo đức, từ đó dần dần giúp
học sinh có thái độ, hành vi đúng với chuẩn mực đạo đức đã học. Chẳng hạn, việc
giáo dục học sinh bảo vệ môi trường là yêu quê hương, mà yêu quê hương tức là yêu
Tổ quốc, yêu đồng bào của mình. Việc giáo dục các kỹ năng ứng xử, giao tiếp với
người thân, thầy cô giáo, bạn bè,... kỹ năng tự khẳng định cũng là góp phần tăng
cường củng cố kỹ năng, thói quen, hành vi đạo đức.
Do đó, khi dạy học, tôi luôn luôn chú trọng việc lồng ghép giáo dục môi trường,
giáo dục các kỹ năng sống và chú ý đến yêu cầu đảm bảo kiến thức liên môn để nhằm

giáo dục đạo đức cho học sinh, đặc biệt là đối với các em "chưa ngoan".
* Bằng con đường thông qua hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp:
Đó là các hoạt động tập thể theo chủ đề, chủ điểm, các hoạt động chính trị xã hội
của học sinh (hoạt động từ thiện, nhân đạo, đền ơn đáp nghĩa, tham quan về
nguồn,...), hoạt động Đội, tiết chào cờ đầu tuần, tiết sinh hoạt lớp và một số hình thức
hoạt động ngoại khóa khác.
Các hoạt động này có tác dụng thiết thực, trực tiếp đến giáo dục đạo đức vì: Đó là
các hoạt động đa dạng, sinh động dễ cuốn hút học sinh; chúng có tác dụng giáo dục
các em tinh thần tập thể, ý thức cộng đồng, tinh thần đoàn kết tương trợ, giúp đỡ lần
nhau; giúp học sinh củng cố, mở rộng kiến thức đạo đức; tạo cơ hội để các em giao
lưu, hợp tác, tự khẳng định và tích lũy kinh nghiệm, làm phong phú thêm vốn sống
của mình...
Thông qua việc trực tiếp tham gia các hoạt động giáo dục ngoài giờ, học sinh bộc
lộ ý thức đạo đức của mình, từ đó giúp giáo viên chủ nhiệm dễ dàng phát hiện nhằm


giúp các em phát huy những đức tính tốt, đồng thời kịp thời uốn nắn, sửa chữa tính
xấu, lệch lạc.
Biện pháp 2: Song song với việc thực hiện được các con đường giáo dục nêu
trên, đối với những học sinh "chưa ngoan", người giáo viên chủ nhiệm cần áp
dụng một cách linh hoạt, hợp lý các biện pháp giáo dục sau:
* Hiểu rõ – Hợp tác
- Hiểu rõ:
Tìm hiểu tình hình của lớp thông qua giáo viên chủ nhiệm cũ. Đây là dịp để kiện
toàn lại đội ngũ cán bộ lớp, bổ sung những cái chưa làm được và phát huy những mặt
mạnh mà lớp đã có. Từ đó giáo viên chủ nhiệm có thể dễ dàng vạch ra kế hoạch giáo
dục học sinh "chưa ngoan" dựa trên những bao quát khởi đầu mà giáo viên chủ nhiệm
cũ đã cung cấp.
Tìm hiểu một cách hết sức tế nhị học sinh "chưa ngoan" từ cán bộ lớp đến cả
những em thuộc "nhóm" của học sinh "chưa ngoan" để từ đó có kế hoạch hợp lý và

phối hợp với gia đình để giáo dục các em .
- Hợp tác:
Khi đã tiếp xúc được với phụ huynh của học sinh "chưa ngoan", điều cần tránh là
không nên gay gắt, dồn dập phê bình con em họ, vì hơn ai hết họ đã từng nghe nhiều
lời ca thán và đã biết rõ con em mình. Điều đó sẽ không có tác dụng gì mà ngược lại
làm mất đi ý nghĩa của sự hợp tác, phối hợp giáo dục. Vì vậy, cần phải giao tiếp ở góc
độ cởi mở một cách hết sức tâm lý và tế nhị nhưng chân tình, tạo cho phụ huynh học
sinh một sự tin tưởng, một tình cảm gần gũi, thân mật, một thái độ tận tâm hợp tác để
giáo dục con em họ trở thành người tốt.
Biện pháp này sẽ giúp giáo viên chủ nhiệm hiểu và chia sẻ với gia đình những khó
khăn trong việc dạy dỗ các em, đồng thời gia đình sẵn sàng hợp tác với giáo viên chủ
nhiệm để giáo dục con em mình suốt năm học.
* Quan tâm – Quan sát
- Quan tâm:
Quan tâm bằng cách trực tiếp hỏi thăm học sinh "chưa ngoan" về hoàn cảnh gia
đình để giúp các em dần dần ý thức về việc quan tâm đến gia đình mình. Đồng thời
thông qua việc phối hợp chặt chẽ với gia đình, giáo viên bộ môn để hiểu thêm về


năng lực học tập cũng như thái độ lễ phép của học sinh "chưa ngoan" và gián tiếp
giúp đỡ, quan tâm, ân cần hơn đối với các em.
Phối hợp với các đoàn thể trong nhà trường để gắn các em vào những hoạt động
mà các em ưa thích, hoặc chia sẻ, giúp đỡ các em những khó khăn. Kêu gọi và yêu
cầu các em khác trong lớp biết quan tâm, chia sẻ, giúp đỡ bạn mình (là những học
sinh "chưa ngoan"), không nên xem thường và cô lập bạn, hoặc phê phán một cách
thái quá hay gay gắt dẫn đến mâu thuẫn chỉ vì thi đua của lớp quá thấp.
- Quan sát:
Quan sát, theo dõi học sinh "chưa ngoan" hằng ngày về việc thực hiện nội quy,
quy chế trường lớp, về thái độ học tập bằng nhiều hình thức khác nhau sẽ giúp cho
giáo viên chủ nhiệm nắm vững và sẽ không vội vàng kết luận một vi phạm nào đó khi

chưa có đầy đủ các chứng cứ nhằm tránh làm tổn thương đến tâm lý và tình cảm của
các em.
* Nghiêm khắc – Ngọt dịu
- Nghiêm khắc:
Giáo viên chủ nhiệm cần xử lý những vi phạm của tất cả học sinh trong lớp với
một thái độ nghiêm khắc, công bằng và tôn trọng học sinh, cho dù đó là cán bộ lớp –
học sinh gương mẫu hay học sinh "chưa ngoan". Có như vậy những em "chưa ngoan"
sẽ cảm thấy giáo viên chủ nhiệm đã tôn trọng tất cả thành viên trong lớp, không thiên
vị, không hề "ghét bỏ" mình (theo suy nghĩ của các em). Nhưng cần lưu ý: nếu
nghiêm khắc quá mức sẽ dẫn đến "phản sư phạm" và phản tác dụng.
- Ngọt dịu:
Giáo viên chủ nhiệm phải là người tận tụy với công việc, có tình yêu thương, tấm
lòng độ lượng và bao dung đối với học sinh. Tuy nhiên lòng yêu thương ấy không thể
pha trộn với những nết ủy mị, mềm yếu và thiếu sự đề ra yêu cầu nghiêm khắc đối
với các em, mà ngược lại. Biện pháp này sẽ xóa bỏ khoảng cách, làm cho học sinh
"chưa ngoan" cảm thầy mình không bị "ghét bỏ" hay bị "bỏ rơi". Tình cảm thầy trò
dần được hình thành, tạo điều kiện thuận lợi cho những tâm sự, những chia sẻ... Khi
đó những lời động viên, những định hướng của giáo viên chủ nhiệm sẽ đạt hiệu quả
cao.
* Động viên – Định hướng
- Động viên:


Trong việc giáo dục học sinh "chưa ngoan" thì sự động viên và khuyến khích có
vai trò rất quan trọng. Học sinh "chưa ngoan" đa số là những em có học lực yếu kém,
dẫn đến bất mãn, không thiết tha gì đến học tập, hay nói cách khác, không có động
cơ, ý thức học tập. Chính vì vậy giáo viên chủ nhiệm phải là người trực tiếp quan
tâm, động viên, khen tặng các em dù chỉ một thành tích nhỏ trên tinh thần "kiến tha
lâu cũng đầy tổ", "có công mài sắt, có ngày nên kim".
Cần huy động và vận hành cả guồng máy: Gia đình – giáo viên – đoàn thể - tổ

chức xã hội – bạn bè học sinh – và cả cá nhân học sinh "chưa ngoan" để động viên,
hỗ trợ, giúp đỡ các em có được tinh thần, động cơ, và ý thức trong rèn luyện đạo đức
và học tập
- Định hướng:
Học sinh "chưa ngoan" thường là những em không định hướng được mình cần
phải rèn luyện những gì để giúp ích cho bản thân mình để hoàn thành nhiệm vụ của
mình là học tốt và rèn luyện tốt. Chính vì vậy giáo viên chủ nhiệm sẽ là người giúp
các em biết quan tâm đến bản thân, gia đình... cũng như suy nghĩ đến việc học tập để
các em có hoài bão, ước mơ và cố gắng phấn đấu thức hiện ước mơ ấy để trở thành
người hữu ích.
* Tâm huyết – Trách nhiệm
Chính tâm huyết và trách nhiệm sẽ giúp cho giáo viên chủ nhiệm có được năng
lực "cảm hóa" học sinh nói chung, học sinh "chưa ngoan" nói riêng. Đó là năng lực
gây ảnh hưởng trực tiếp của mình đến với học sinh về mặt tình cảm và ý chí. Tâm
huyết và trách nhiệm nằm trong nhân cách của người thầy giáo. Giáo viên chủ nhiệm
phải dùng nhân cách của mình để làm tấm gương tác động vào học sinh, giáo dục các
em nên người. Đây chính là dùng nhân cách để giáo dục nhân cách.
Nhân cách của người giáo viên có vai trò quan trọng trong quá trình rèn luyện đạo
đức cho học sinh. Trong đối xử với học sinh phải thực sự trung thực, thẳng thắn, thể
hiện tinh thần trách nhiệm và phải thật cẩn thận. Bởi vì: "Tấm gương đạo đức bao giờ
cũng có giá trị hơn lời giáo huấn".
Có thể nói rằng chỉ có người giáo viên nào luôn ý thức sẽ cống hiến cả cuộc đời
mình cho sự nghiệp đào tạo và giáo dục thế hệ trẻ, lấy việc hy sinh phấn đấu hoàn
thành nhiệm vụ đào tạo con người làm hạnh phúc cao cả của đời mình thì mới có thể
thực hiện được chức năng "người kỹ sư tâm hồn" một cách xứng đáng.


Những kết quả đạt được:
Khá nhiều lần tôi thành công trong việc "cảm hóa" những học sinh "chưa ngoan"
cũng nhờ vào các phương pháp và quy tắc trên. Sau đây là một vài trường hợp điển

hình và kết quả đạt được:
Đầu năm 2012 – 2013, tôi nhận lớp 3 có số học sinh là 35 em trong đó có 2 em
thuộc dạng "chưa ngoan". Một em sống với mẹ không có bố. Em học sinh này có cá
tính là không sợ ai, vào lớp thì hay chọc phá bạn bè, thậm chí còn thường xuyên đánh
nhau trong giờ ra chơi. Mấy tháng đầu, em thường xuyên không thuộc bài và quên
đem dụng cụ học tập, còn kết quả học tập thì chỉ toàn điểm dưới trung bình. Sau
nhiều lần mời gia đình và tìm hiểu rõ hoàn cảnh, tôi đã quyết định thử nghiệm bằng
nhiều biện pháp giáo dục mà tôi có thể làm. Cuối năm, em đã trở thành một học sinh
ngoan kết quả học tập đạt loại khá môn Tiếng Việt còn môn Toán đạt 9 điểm. Em học
sinh thứ hai thì có hoàn cảnh khác hơn, có đủ cha mẹ những chẳng ai quan tâm đến
việc học hành của con cái vì lo bận làm ăn buôn bán. Em thường xuyên vi phạm nội
quy nhà trường và tỏ ra rất bướng bỉnh. Tôi đã gần gũi, chăm sóc, tận tình giúp đỡ và
kết quả cuối năm rất đáng khâm phục khi em nhận giấy khen với danh hiệu Học sinh
tiên tiến. Cuối năm học cả 2 em học sinh này có hạnh kiểm được xếp loại Thực hiện
đầy đủ.
Năm học 2013 – 2014, tôi "cảm hóa" được 3 em học sinh trên tổng số 23 em. Cuối
năm học lớp tôi có 100% số học sinh được xếp loại hạnh kiểm Thực hiện đầy đủ.Đặc
biệt những học sinh thuộc dạng cá biệt ( năm học 2012 – 2013) năm nay lên học ở
Trung học cơ sở đều là những học sinh ngoan (theo lời của gia đình các em và các
đồng nghiệp dạy ở trường THCS nơi các em học.)
Từ đầu năm học 2014 – 2015 đến nay tôi đã "cảm hóa" được 3/3 học sinh diện "chưa
ngoan", hiện nay đang có chiều hướng tiến bộ tốt. Kết quả so với đầu năm như sau:
SLHS
27

Tích cực
27

Chưa tích cực
0


Tôi tin rằng cuối năm học các em này có thể sẽ trở thành những con ngoan, trò
giỏi.
III. Phần kết luận


Giáo dục đạo đức không chỉ dừng lại ở việc hình thành thói quen, mà chủ yếu là
phải từ việc rèn luyện hành vi đạo đức để xây dựng cho được ở các em niềm tin, làm
cơ sở cho ứng xử thường xuyên, tạo kỹ năng đạo đức một cách bền vững.
Việc giáo dục nhân cách cho học sinh không thể thành công trong một sớm một
chiều, mà là cả một quá trình và không thể chỉ thực hiện bởi giáo viên chủ nhiệm lớp,
mà cần phải có sự phối hợp với Giáo viên bộ môn, Ban giám hiệu và các tổ chức
đoàn thể trong trường, có sự gắn kết của các bậc phụ huynh, các tổ chức xã hội thì
công tác giáo dục học sinh "chưa ngoan" mới đạt được kết quả tích cực và bền vững.
Điều kiện mấu chốt để đi đến thành công trong việc giáo dục đạo đức cho học sinh
đó là phải xuất phát từ tình thương yêu học sinh và lòng say mê nghề nghiệp; phải có
tâm huyết và lương tâm đạo đức của một nhà giáo.
1. Ý nghĩa của sáng kiến kinh nghiệm:
Với những phương pháp và quy tắc nêu trên, tôi hy vọng công tác giáo dục học
sinh "chưa ngoan" sẽ có những bước chuyển biến mới. Sáng kiến này có thể sẽ góp
phần đem lại hiệu quả cao trong công tác chủ nhiệm lớp ở tiểu học nói chung và ở lớp
2 nói riêng. Thực hiện sáng kiến này sẽ tránh được các biện pháp giáo dục máy móc
cũ kỹ bằng răn đe, dọa nạt,...
Sáng kiến kinh nghiệm này có thể áp dụng trong việc giáo dục đạo đức cho học
sinh toàn cấp Tiểu học đồng thời có thể áp dụng đối với những học sinh "chưa ngoan"
ở bậc Trung học cơ sở.
2. Những kiến nghị, đề xuất:
Qua thời gian nghiên cứu áp dụng, bản thân tôi nhận thấy để đề tài đạt được kết
quả tốt, tôi có một số đề xuất như sau:
- Đối với Ban giám hiệu và các đoàn thể trong nhà trường, cần có sự quan tâm chỉ

đạo và giúp đỡ giáo viên chủ nhiệm lớp trong việc giáo dục đạo đức của học sinh nói
chung, học sinh "chưa ngoan" nói riêng.
- Tổng phụ trách Đội cần quan tâm hơn nữa để hỗ trợ kịp thời khi cần thiết góp
phần làm công tác giáo dục đạo đức cho học sinh "chưa ngoan" ngày càng có nhiều
kết quả hơn.



×