Tải bản đầy đủ (.pdf) (77 trang)

bài giảng đa dạng sinh học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.45 MB, 77 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC QUẢNG BÌNH
KHOA NÔNG – LÂM – NGƢ

BÀI GIẢNG
(Lưu hành nội bộ)

“ĐA DẠNG SINH HỌC”
(Dành cho Đại học Lâm nghiệp)

Tác giả: ThS. Nguyễn Thị Hƣơng Bình
ThS. Nguyễn Thị Quỳnh Phƣơng

Năm 2016


LỜI NÓI ĐẦU
Bài giảng Đa dạng sinh học được biên soạn cho các lớp Đại học Lâm nghiệp làm
tài liệu học tập. Bài giảng cung cấp những kiến thức cơ bản nhất cho sinh viên về sự đa
dạng sinh học. Đây là môn học cơ sở cho sinh viên áp dụng vào những ngành học của
mình.
Bài giảng này được biên soạn dựa trên cơ sở tham khảo một số tài liệu giáo trình có
liên quan của nhiều tác giả.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng, song không thể tránh khỏi những sai sót. Rất mong sự
đóng góp ý kiến của các thầy cô giáo và các bạn để giúp tôi hoàn thiện bài giảng được tốt
hơn.
Chân thành cảm ơn!
Tác giả.


MỤC LỤC
Chƣơng 1: Khái niệm về đa dạng sinh học ............................................................................... 1


1.1. Khái niệm về đa dạng sinh học ...................................................................................... 1
1.1.1. Đa dạng di truyền .............................................................................................. 1
1.1.2. Đa dạng loài ....................................................................................................... 2
1.1.3. Đa dạng hệ sinh thái .......................................................................................... 4
1.2. Định lượng đa dạng sinh học ......................................................................................... 7
1.3. Sự phong phú của đa dạng sinh học ở một số vùng trên thế giới .................................. 8
1.4. Những giá trị của đa dạng sinh học ............................................................................... 10
1.4.1. Giá trị trực tiếp .................................................................................................. 10
1.4.2. Giá trị gián tiếp .................................................................................................. 11
Chƣơng 2: Những mối đe dọa đối với đa dạng sinh học .......................................................... 12
2.1. Khái niệm về suy thoái đa dạng sinh học ...................................................................... 12
2.2. Thang bậc phân hạng mức đe doạ của IUCN ................................................................ 14
2.3. Khái niệm về tuyệt chủng .............................................................................................. 18
2.3.1. Tuyệt chủng là một quá trình tự nhiên .............................................................. 18
2.3.2. Tuyệt chủng do con người gây ra ...................................................................... 19
2.3.3. Sự tuyệt chủng hàng loạt ................................................................................... 20
2.4. Nguyên nhân gây suy thoái đa dạng sinh học ............................................................... 20
2.4.1. Khai thác quá mức ............................................................................................. 20
2.4.2. Sự du nhập các loài ngoại lai ............................................................................. 21
2.4.3. Sự phá hủy những nơi cư trú ............................................................................. 22
2.4.4. Ô nhiễm môi trường .......................................................................................... 23
2.4.5. Biến đổi khí hậu toàn cầu .................................................................................. 24
Chƣơng 3: Cơ sở và phƣơng thức bảo tồn đa dạng sinh học ................................................. 25
3.1. Khái niệm bảo tồn đa dạng sinh học ............................................................................. 25
3.2. Các cơ sở của bảo tồn đa dạng sinh học ........................................................................ 25
3.3. Các nguyên tắc cơ bản của bảo tồn đa dạng sinh học ................................................... 26
3.4. Các phương thức bảo tồn chính ..................................................................................... 27
3.4.1. Phương phức bảo tồn nguyên vị ........................................................................ 27
3.4.2. Phương thức bảo tồn chuyển vị ......................................................................... 28
3.4.2.1. Vườn thú ............................................................................................. 29

3.4.2.2. Bể nuôi ................................................................................................ 29
3.4.2.3. Vườn thực vật ..................................................................................... 29
3.4.2.4. Ngân hàng hạt giống – gen ................................................................. 29
3.4.3. Sự liên hệ giữa hai phương thức bảo tồn ........................................................... 30
Chƣơng 4: Tổ chức quản lý bảo tồn đa dạng sinh học ............................................................ 31
4.1. Tổ chức quản lý đa dạng sinh học tại các khu bảo tồn .................................................. 31
4.1.1. Sự hình thành các khu bảo tồn ........................................................................... 31
4.1.2. Các khu bảo tồn trên thế giới ............................................................................. 32
4.1.3. Tính hiệu quả của các khu bảo tồn .................................................................... 32
4.1.4. Xác định các ưu tiên cho bảo tồn đa dạng sinh học .......................................... 32
4.1.5. Các phương pháp tiếp cận khi thành lập khu bảo tồn ....................................... 33
4.1.6. Thiết kế các khu bảo tồn .................................................................................... 33
4.1.7. Quản lý các khu bảo tồn .................................................................................... 34
4.2. Phối hợp và hỗ trợ trong bảo tồn đa dạng sinh học ....................................................... 34


4.2.1. Nâng cao nhận thức về bảo tồn đa dạng sinh học ............................................. 35
4.2.2. Khuyến khích lợi ích kinh tế và phối hợp với người dân địa phương trong hoạt
động bảo tồn ................................................................................................................ 35
4.3. Phát triển bền vững và bảo tồn ...................................................................................... 36
4.3.1. Tài trợ quốc tế và phát triển bền vững ............................................................... 36
4.3.2.Các ngân hàng phát triển quốc tế và việc suy thoái hệ sinh thái ....................... 37
4.4. Luật pháp liên quan đến bảo tồn đa dạng sinh học ........................................................ 38
4. 4.1. Vai trò của luật pháp trong bảo tồn đa dạng sinh học ...................................... 38
4.4.2. Các thoả hiệp quốc tế về bảo tồn đa dạng sinh học ........................................... 39
4.4.3. Luật pháp của mỗi quốc gia ............................................................................... 39
Chƣơng 5: Bảo tồn đa dạng sinh học ở Việt Nam .................................................................... 41
5.1. Cơ sở tạo nên đa dạng sinh học ở Việt Nam ...........................................................................41
5.2. Mức độ đa dạng sinh học ở Việt Nam ........................................................................... 41
5.3 Thực trạng suy thoái đa dạng sinh học ở Việt Nam ....................................................... 46

5.4. Nguyên nhân gây suy thoái đa dạng sinh học Việt Nam ............................................... 49
5.5. Bảo tồn đa dạng sinh học ở Việt Nam ........................................................................... 51
5.5.1. Bảo tồn nguyên vị .............................................................................................. 51
5.5.2. Bảo tồn chuyển vị .............................................................................................. 54
5.5.3. Luật pháp Việt Nam liên quan đến bảo tồn đa dạng sinh học ........................... 55
Chƣơng 6: Lập kế hoạch, phƣơng pháp điều tra giám sát ĐDSH .......................................... 56
6.1. Sự cần thiết của giám sát, đánh giá đa dạng sinh học ................................................... 56
6.2. Phân tích xác định nhu cầu giám sát đánh giá ĐDSH ................................................... 56
6.2.1. Một số nguyên tắc định hướng điều tra, giám sát bảo tồn ................................. 56
6.2.2. Nội dung của điều tra giám sát đa dạng sinh học .............................................. 58
6.2.3. Phương pháp xác định nhu cầu giám sát, đánh giá ĐDSH ................................ 59
6.3. Lập kế hoạch giám sát, đánh giá đa dạng sinh học ....................................................... 59
6.3.1. Tiến trình ........................................................................................................... 59
6.3.2. Phương pháp lập kế hoạch ................................................................................. 60
6.4. Phương pháp điều tra giám sát đa dạng sinh học .......................................................... 61
6.4.1. Điều tra giám sát đa dạng loài động vật ............................................................ 61
6.4.2. Điều tra, giám sát đánh giá đa dạng loài thực vật .............................................. 70
6.4.3. Giám sát tác động của con người đến khu bảo tồn ............................................ 71


Chƣơng 1: KHÁI NIỆM VỀ ĐA DẠNG SINH HỌC
1.1. Khái niệm về đa dạng sinh học
Theo ước tính gần đây nhất thì có đến 12 định nghĩa khác nhau về đa dạng sinh học
(Gaston and Spicer, 1998). Tuy nhiên trong số này thì định nghĩa được sử dụng trong Công ước
đa dạng sinh học (1992) được coi là "toàn diện và đầy đủ nhất" xét về mặt khái niệm. Trong thực
tế thuật ngữ đa dạng sinh học được dùng lần đầu tiên vào năm 1988 và sau khi Công ước Đa dạng
sinh học được ký kết (5/6/1992) thì nó đã được dùng phổ biến hơn.
Theo Công ước Đa dạng sinh học, khái niệm "Đa dạng sinh học" (biodiversity,
biological diversity) có nghĩa là sự khác nhau giữa các sinh vật sống ở tất cả mọi nơi, bao
gồm: các hệ sinh thái trên cạn, trong đại dương và các hệ sinh thái thuỷ vực khác, cũng như

các phức hệ sinh thái mà các sinh vật là một thành phần,...; thuật ngữ này bao hàm sự khác
nhau trong một loài, giữa các loài và giữa các hệ sinh thái.
Trong Công ước về đa dạng sinh học, thuật ngữ đa dạng sinh học được dùng để chỉ sự
phong phú và đa dạng của giới sinh vật từ mọi nguồn trên trái đất, nó bao gồm sự đa dạng trong
cùng một loài, giữa các loài và sự đa dạng hệ sinh thái (Gaston and Spicer, 1998). Như vậy đa
dạng sinh học là toàn bộ các dạng sống trên trái đất, bao gồm tất cả các nguồn tài nguyên di
truyền, các loài, các hệ sinh thái và các tổ hợp sinh thái. Đa dạng sinh học thường được thể hiện ở
3 cấp độ: đa dạng trong loài (đa dạng di truyền), giữa các loài (đa dạng loài) và các hệ sinh thái
(đa dạng hệ sinh thái).
1.1.1. Đa dạng di truyền
Khái niệm
Từ lâu nay chúng ta đã biết rằng sự tồn tại của một loài có được là nhờ quá trình sản xuất
và sự sao chép lại các tính trạng và tính chất của cơ thể từ thế hệ này sang thế hệ khác qua sự di
truyền.
Đa dạng di truyền là phạm trù chỉ mức độ đa dạng của biến dị di truyền, đó chính là sự
khác biệt về di truyền giữa các xuất xứ, quần thể và giữa các cá thể trong một loài hay một quần thể
dưới tác dụng của đột biến, đa bội hoá và tái tổ hợp.
Biến dị là những biến đổi của sinh vật do những nguyên nhân khác nhau, sự sai khác của
con cái so với bố mẹ, sự đa dạng về các tính trạng và tính chất của các cá thể trong một quần thể
hoặc nhóm sinh vật. Thực chất biến dị là kết quả của các tương hỗ phức tạp giữa các yếu tố khác
nhau như đột biến, phản ứng với sự đa dạng của môi trường sống, kích thước quần thể, phương
thức sinh sản hay mức độ lai chéo. Biến dị di truyền là cơ sở của tiến hoá và công tác cải thiện
giống. Cơ sở vật chất di truyền của các loài sinh vật là các axit nucleic, gồm 2 loại đó là ADN
(axit deoxinucleic) và ARN (axit ribonucleic). Trong quá trình tiến hoá của sinh vật từ thấp lên
cao, hàm lượng ADN trong nhân tế bào cũng được tăng lên. Đó là một biểu hiện của sự đa dạng di
truyền. Vật liệu di truyền của sinh vật chứa đựng nhiều thông tin về đặc điểm, tính chất của loài và
các cá thể. Do vậy sự đa dạng về vật chất di truyền đã tạo nên sự đa dạng của thế giới sinh vật.
Các cá thể trong một quần thể thường có kiểu gen khác nhau. Sự khác nhau giữa các
cá thể (kiểu hình) là do tương tác giữa kiểu gen và môi trường tạo ra. Đa dạng di truyền cho
phép các loài thích ứng được với sự thay đổi của môi trường. Thực tế cho thấy những loài

quý hiếm thường phân bố hẹp và do đó thường đơn điệu về gen (lượng biến dị nhỏ) so với các
loài phổ biến, phân bố rộng (lượng biến dị lớn). Do vậy loài quí hiếm thường rất nhạy cảm với
sự biến đổi của môi trường và hậu quả là dễ bị tuyệt chủng.
1


Một số nhân tố ảnh hưởng đến đa dạng di truyền
* Những nhân tố làm giảm đa dạng di truyền
+ Phiêu bạt gen
Đây là quá trình thường xuất hiện trong các quần thể nhỏ, gây nên biến đổi về tần số gen.
Quần thể nhỏ thường có số cá thể ít do đó khi giao phối ngẫu nhiên thì tần số gen sau giao phối đôi
khi bị lệch vì các alen ở quần thể nhỏ có tần số khác với các quần thể lớn. Ví dụ một quần thể gồm
10 gen trong đó có 5A và 5B. Đối với quần thể lớn, sau giao phối ngẫu nhiên các thế hệ sau thường
vẫn có tần số gen như ban đầu. Tuy nhiên với quần thể nhỏ chỉ cần một vài cá thể không tham gia
vào quá trình giao phối hoặc khả năng sinh sản kém, hoặc là tỉ lệ sống kém là tần số gen có thể bị
biến đổi hoàn toàn, lệch so với tần số gen ban đầu chẳng hạn thành 6A và 4B hoặc là 7A và 3B,
thậm chí thành 9A và 1B (Nguyễn Hoàng Nghĩa, 1999).
+ Chọn lọc tự nhiên và nhân tạo
Trong quá trình tiến hoá thì bằng con đường chọn lọc tự nhiên, từ một loài tổ tiên ban đầu
đã sinh ra các loài khác nhau. Tuy nhiên quá trình chọn lọc tự nhiên lại làm giảm lượng biến dị
bởi vì quá trình này liên quan đến sự đào thải các cá thể kém thích nghi và giữ lại các cá thể thích
nghi nhất với môi trường sống.
Khác với chọn lọc tự nhiên, chọn lọc nhân tạo là chọn lọc có định hướng do con người
tiến hành nhằm đáp ứng các mục tiêu đề ra. Bởi vì con người chỉ chọn lọc một số cá thể và
loài nhất định và lai tạo chúng để đáp ứng nhu cầu của mình cho nên sẽ làm giảm lượng biến
dị di truyền. Thực tế là khi một số loài ít ỏi được gây trồng trên diện rộng sẽ dẫn đến hiện
tượng xói mòn di truyền. Xói mòn di truyền sẽ làm giảm sự đa dạng của các nguồn gen bên
trong mỗi loài và làm mất đi các biến dị di truyền cái mà các nhà chọn giống cần phải có để
triển khai công tác cải thiện giống. Có thể nói rằng những giống cây trồng và vật nuôi được
con người lai tạo và sử dụng đều có nền tảng di truyền hẹp hơn so với các loài hoang dã.

* Những nhân tố làm tăng đa dạng di truyền
+ Đột biến gen
Đột biến gen là những biến đổi xảy ra trong các gen. Các đột biến gen chính là nguồn
tạo ra các gen mới và là cơ sở của biến dị di truyền. Đột biến có tác dụng làm tăng lượng biến
dị, cũng có nghĩa là làm tăng tính đa dạng sinh học và đảm bảo cho sự ổn định của loài.
+ Sự di trú
Sự xâm nhập (di trú) của các các thể lạ có thể làm thay đổi tần số gen trong quần thể
tại chỗ. Mức độ thay đổi phụ thuộc vào mức độ của sự di trú và sự sai khác về tần số gen giữa
các cá thể cũ và cá thể mới.
Tất cả các nhân tố như là chọn lọc, đột biến, phiêu bạt gen, sự di trú, cách li chính là
các yếu tố chủ chốt tham gia vào quá trình tiến hoá của sinh giới, đôi khi còn được coi là động
lực chính của quá trình tiến hoá.
1.1.2. Đa dạng loài
Khái niệm
Đa dạng loài là phạm trù chỉ mức độ phong phú về số lượng loài hoặc số lượng các
phân loài (loài phụ) trên trái đất, trong một vùng địa lý, một quốc gia hay trong một sinh
cảnh nhất định.
Loài là những nhóm cá thể khác biệt với các nhóm khác về mặt sinh học và sinh thái. Các
cá thể trong loài có vật chất di truyền giống nhau và có khả năng trao đổi thông tin di truyền (giao
phối, thụ phấn) với nhau và cho các thế hệ con cái có khả năng tiếp tục sinh sản. Như vậy các cá
2


thể trong loài chứa toàn bộ thông tin di truyền của loài, do đó tính đa dạng loài hoàn toàn bao trùm
tính đa dạng di truyền và nó được coi là quan trọng nhất khi đề cập đến tính đa dạng sinh học.
Sự đa dạng về loài trên thế giới được thể hiện bằng tổng số loài có mặt trên toàn cầu. Tuy
nhiên số lượng cá thể của loài cũng rất quan trọng khi đo đếm sự đa dạng loài. Theo dự đoán của các
nhà phân loại học, có thể có từ 5 - 30 triệu loài sinh vật trên trái đất, trong đó chiếm phần lớn vi sinh
vật là côn trùng. Thực tế hiện chỉ có khoảng trên 1,4 triệu loài sinh vật đã được mô tả (Wilson, 1998
trích trong Phạm Nhật, 1999), trong đó tập trung chủ yếu là các loài động thực vật cỡ lớn, có giá trị

về nhiều mặt (Bảng 1). Do vậy còn rất nhiều loài chưa được biết đến, nhiều môi trường sống chưa
được điều tra nghiên cứu kĩ như vùng biển sâu, vùng san hô hoặc đất vùng nhiệt đới.
Bảng 1.1: Số loài sinh vật đã được mô tả trên thế giới
Các nhóm
R
Số lƣợng loài
r
r
rriA
rp*
A i sống
1
Vertebrates
Động vật
có xương
Tên Tiếng Việt các nhóm
Mammals
Động vật có vú
5.490
Birds

Chim

10.027

Reptiles

Bò sát

9.084


Amphibians

Lưỡng cư

Fishes



6.638
31.600
62.839

Tong
Invertebrates

Động vật không xương sống

Insects

Côn trùng

Molluscs

Thân Mềm

Crustaceans

Giáp xác


Corals

San hô

2.175

Arachnids

Nhện

102.000

Velvet worms

Giun móc

165

Horseshoe Crabs

Sam

Others

Các nhóm khác

1.000.000
85.000
47.000


4
68.658
1.305.250

Tổng
Plants

Thực vật

Mosses

Rêu

Fern and Allies

Dương xỉ

12.000

Gymnosperms

Hạt trần

1.052

Flowering Plants

Thực vật có hoa

Green algae


Tảo lục

Red algae

Tảo đỏ

16.236

268.000
4.242
6.144
307.674

Tổng
Others

Các nhóm khác

Lichens

Địa y

Mushrooms

Nấm

Brown algae

Tảo nâu


17.000
31.496
3.127
3


Tổng

51.623
1.727.386

Tổng
nhóm
(Craigcác
Hilton-Taylor,
Caroline M Pollock et al., 2008)
Những nhân tố ảnh hưởng đến đa dạng loài
* Sự hình thành loài mới
Một loài có thể được hình thành thông qua quá trình tiến hoá. Trong quá trình hàng
triệu năm tiến hoá, loài mới thường được hình thành qua 2 con đường đó là quá trình đa bội
hoá và quá trình hình thành loài địa lí (N.H.Nghĩa, 1999).
Một phần thực vật xuất hiện chủ yếu thông qua quá trình đa bội hoá: bội hoá số lượng thể
nhiễm sắc trong loài ban đầu hoặc trong các cá thể lai của 2 loài (Nguyễn Hoàng Nghĩa, 1999).
Trong thực tế đa bội hoá chỉ có ý nghĩa đối với một số nhóm động vật nhưng nó lại có nghĩa rất to
lớn đối với thực vật và là một yếu tố tiến hoá quan trọng. Hiện tượng đa bội hoá cho phép một loài
thực vật xâm lấn có thể lai hữu thụ với một loài bản địa và có thể sinh ra một loài mới. Sự nhân đôi
của thể nhiễm sắc đã biến loài mới sinh ra hoàn toàn bất thụ với loài ban đầu và loài mới được hình
thành.
Gần đây người ta bắt đầu nói đến một quá trình hình thành loài mới đó là loài mới được

hình thành ngay trong cùng một vùng phân bố với loài ban đầu như hiện tượng đa bội hoá
nhưng không có nguồn gốc đa bội hoá. Quá trình này ngược với quá trình hình thành loài địa lí
khi mà loài mới được hình thành từ một địa điểm khác với loài ban đầu. Quá trình này thường
được mô tả nhiều nhất cho các nòi côn trùng sống trên các cây chủ khác nhau (Wilson 1988
trích trong Nguyễn Hoàng Nghĩa, 1999). Tính đặc hữu về cây chủ là một hiện tượng phổ biến ở
thế giới côn trùng.
Lý thuyết tiến hoá hiện đại cho thấy hầu hết sinh vật hình thành loài mới thông qua
cách li địa lý, cách li sinh sản và quá trình này được gọi là hình thành loài địa lí. Ví dụ: Hạt
giống của một loài cây từ đất liền được phát tán ra đảo thông qua gió, bão hoặc các loài
chim,… quần thể loài cây đó được tạo thành trên đảo sau nhiều năm, nhiều thế hệ sẽ khác với
quần thể ở đất liền. Trong những điều kiện hoàn toàn mới loài sẽ phải thay đổi để thích nghi
và đó là cơ sở để tạo nên các loài mới.
* Sự mất loài (tuyệt chủng)
Nếu như quá trình hình thành loài mới làm tăng tính đa dạng loài thì sự tuyệt chủng sẽ
làm giảm tính đa dạng sinh học. Sự mất loài (tuyệt chủng) sẽ được nghiên cứu kĩ trong phần
"suy thoái đa dạng sinh học".
1.1.3. Đa dạng hệ sinh thái
Khái niệm
Hệ sinh thái là một đơn vị cấu trúc và chức năng của sinh quyển bao gồm các quần xã sinh
vật, đất đai và các yếu tố khí hậu. Quần xã sinh vật được xác định bởi các loài sinh vật trong một
sinh cảnh nhất định vào một thời điểm nhất định cùng với mối quan hệ qua lại giữa các cá thể
trong loài và giữa các loài với nhau. Quần xã sinh vật có quan hệ với môi trường vật lý tạo thành
hệ sinh thái. Các loài trong hệ sinh thái tạo thành một chuỗi thức ăn liên kết với nhau một cách
chặt chẽ và tạo thành một qui luật nhất định góp phần duy trì sự cân bằng sinh thái.
Sự phong phú của môi trường trên cạn và dưới nước trên trái đất tạo lên một số lượng
lớn các hệ sinh thái khác nhau. Sự đa dạng của các hệ sinh thái được thể hiện qua sự đa dạng
về sinh cảnh, cũng như mối quan hệ giữa các quần xã sinh vật và các quá trình sinh thái trong
sinh quyển.
Việc xác định hệ sinh thái hay sinh cảnh trên thực tế là rất khó khăn vì ranh giới của
4



chúng không rõ ràng. Những sinh cảnh rộng lớn trên quả đất bao gồm rừng nhiệt đới, những
cánh đồng cỏ, đất ngập nước, rừng ngập mặn… Những hệ sinh thái có thể là một hồ nước,
rừng cây hay đồng ruộng.
Trên thế giới bao gồm nhiều chỉnh thể sinh vật. Sự phân chia đó tuỳ thuộc vào điều
kiện khí hậu và các sinh vật sống trên đó. Một chỉnh thể bao gồm nhiều hệ sinh thái khác
nhau. Các chỉnh thể sinh vật trên thế giới bao gồm có:
Đài nguyên hay đồng rêu (Tundra)
Đồng rêu bao quanh bắc cực và vành đai phần bắc của lục địa Âu Á, Bắc Mỹ, chiếm
khoảng 20% diện tích trái đất. Đây là một vùng nhiều đầm lầy giá lạnh, băng tuyết với nhiều
đụn rêu rãi rác. Mùa đông dài khắc nghiệt, mùa hè ngắn. Số loài thực vật rất ít, chủ yếu là rêu,
địa y và cỏ bông lau, phong lùn và liễu miền cực. Động vật đặc trưng là hươu tuần lộc, hươu
kéo xe, thỏ, có sói Bắc cực, gấu trắng Bắc cực, chim cánh cụt,…Nhiều loài chim sống thành
từng bầy lớn, chúng di cư xuống vùng vĩ độ thấp để tránh rét mùa đông.
Rừng mưa nhiệt đới (Tropical rain forests)
Xuất hiện ở vùng gần xích đạo. Khí hậu luôn ấm (từ 20 đến 250C) lượng mưa dồi dào
(ít nhất 1900 mm/năm). Rừng mưa là một biome có độ giàu có nhất, cả về độ đa dạng và tổng
sinh khối. Rừng mưa nhiệt đới có cấu trúc phức tạp, với nhiều cấp độ của đời sống. Hơn một
nửa các dạng sống trên cạn xuất hiện trong biom này.
Trong khi nhiều động vật sống trên mặt đất, thì hầu hết các động vật rừng mưa nhiệt
đới có đời sống trên các cây gỗ. Các động vật đó trải qua toàn bộ đời sống của chúng trên tán
rừng. Các loại côn trùng ở các rừng mưa nhiệt đới rất phong phú và phần lớn trong số chúng
là chưa được xác định. Mối là đặc trưng cho sự phân hủy của chu trình dinh dưỡng của gỗ.
Chim có xu hướng màu sắc sáng, thường tạo cho chúng tìm kiếm thức ăn như các loài sâu
ngoại lai. Bò sát và lưỡng thê xuất hiện nhiều. Khỉ hầu (Lemurs), Cu li (sloths), và khỉ
(monkeys) ăn các loài trái cây trong rừng mưa nhiệt đới. Nhóm loài ăn thịt lớn nhất là nhóm
mèo. Sự xâm chiếm và phá hủy nơi ở đang là nguy cơ cho các loài động vật, thực vật ở đây.
Một vài rừng nhiệt đới ở Ấn Độ, Đông Nam Á, Tây Phi, Trung và Nam Mỹ có tính
mùa và các cây ở đó rụng lá vào mùa khô.

Rừng ôn đới (temperate forests)
Sinh cảnh rừng ôn đới xuất hiện ở miền đông của Bắc Mỹ, Đông Á, và nhiều nước
Châu Âu. Lượng mưa nhiều từ 750-1500 mm. Sự phát triển theo mùa được xác định rõ ràng
giữa 140 đến 300 ngày. Các loài thực vật ưu thế bao gồm sồi, thích, và những cây gỗ lớn lá
rụng khác. Cây gỗ của rừng lá rụng có tán lá rộng, trong đó chúng rụng đi vào mùa thu và
mọc trở lại vào mùa xuân. Mật độ tán lá cho phép sự phát triển tốt cho các tầng cây bụi ở bên
dưới, một tầng cây thảo, và sau đó thường được bao phủ bởi rêu và dương xỉ. Sự sắp xếp bên
dưới này đã cung cấp nhiều nơi ở cho nhiều loại côn trùng và chim. Các rừng lá rụng ngoài ra
còn chứa nhiều thành phần của họ gậm nhấm, trong đó chúng cấp thức ăn cho linh miêu, chó
sói, và cáo (foxes). Ngoài ra vùng này là nơi ở của nai và gấu đen. Mùa Đông ở đây không
lạnh như ở rừng phương bắc, vì vậy mà nhiều loài bò sát và lưỡng thê có khả năng sống sót.
Đồng cỏ (Grasslands)
Các đồng cỏ xuất hiện trong vùng nhiệt đới và ôn đới với lượng mưa thấp hay mùa khô
kéo dài. Các đồng cỏ xuất hiện ở Mỹ, Châu Phi, Châu Á, và Úc. Đất ở vùng này rất dày và phì
nhiêu, vì vậy rất phù hợp cho nông nghiệp. Các đồng cỏ hoàn toàn không có cây gỗ, và có thể
cung cấp lượng cỏ lớn cho các loài động vật ăn cỏ. Các đồng cỏ tự nhiên đã từng bao phủ hơn
40% bề mặt trái đất.
5


Hầu hết các đồng cỏ ngày nay được sử dụng cho phát triển mùa màng, đặc biệt lúa mỳ
và ngô. Các loài cỏ là thực vật chiếm ưu thế, trong khi đó động vật ăn cỏ và các loài đào hang
là động vật chiếm ưu thế.
Các đồng cỏ ôn đới bao gồm các thảo nguyên ở Nga, Các đồng hoang ở Nam Mỹ, và
các đồng cỏ (prairies) ở Bắc Mỹ. Đời sống của động vật bao gồm chuột, chó đồng, thỏ, và các
động vật khác sử dụng nhóm này làm thức ăn. Các đồng cỏ chứa một lượng cỏ lớn cho trâu bò
và loài linh dương sừng dài, nhưng với những hoạt động của con người, một lượng lớn đồng
cỏ đã bị suy thoái.
Vùng cây bụi thấp (savanna) là một dạng đồng cỏ của nhiệt đới nhưng có một vài cây
gỗ. Savanna chứa nhiều loài động vật ăn cỏ nhất (linh dương sừng dài, ngựa vằn, linh dương

đầu bò và một số các loài khác). Môi trường ở đây cung cấp một quần thể lớn các loài ăn thịt
như sư tử, báo ghepa (cheetahs), linh cẩu, và báo (leopards). Các thực vật nhỏ hơn không bị
tiêu thụ bởi các loài ăn cỏ, chúng bị tấn công bởi mối và các loài phân hủy khác.
Cây bụi (Shrubland, Chaparral)
Sinh cảnh cây bụi được ưu thế bởi các cây bụi nhưng lá nhỏ có màu xanh đậm
thường có màng dày, biểu bì có sáp, và thân dưới đất dày vì vậy có thể chống chịu vào mùa hè
khô và hay cháy. Một số loài cây lá tiêu giảm và phát triển thành gai. Các vùng cây bụi xuất
hiện một phần ở Nam Mỹ, phía Tây Úc, miền trung Chile, và xung quanh biển Địa Trung Hải.
Cây bụi dày đặc ở California, ở đó mùa hè nóng và rất khô, được gọi là chaparral. Loại cây
bụi ở Địa Trung Hải thiếu một tầng dưới và có lớp mùn rác ở bề mặt đất do vậy cũng rất dễ
cháy. Hạt của nhiều loài có đòi hỏi về sức nóng và hoạt động tạo sẹo do lửa để kích thích sự
nảy mầm. Khu hệ động vật rất khác nhau giữa các vùng trong biome này và thường có tính
đặc hữu.
Sa mạc (Deserts)
Các sa mạc được đặc trưng bởi điều kiện khô và biên độ nhiệt lớn. Không khí khô dẫn
đến biên độ nhiệt độ rộng vào ban ngày. Hoang mạc khác nhau nhiều phụ thuộc vào lượng
mưa, khoảng dưới 250 mm/năm. Một số hoang mạc khô đến nổi không có một loài thực vật
nào có thể sống được. Ví dụ sa mạc Naomid ở Châu Phi, sa mạc Atacama-Sechura ở Chi lê
và Pêru. Các loài cây trong sinh cảnh này đã phát sinh một loạt các thích nghi để lấy nước và
chống chịu với điều kiện nhiệt độ khắc nghiệt. Như cây có rể sâu để hút nước, lá biến thành
gai nhọn,… Số loài động vật ít, động vật có xương sống cở lớn như lạc đà một bướu, linh
dương, báo, sư tử,… Các loài gậm nhấm trong đất (chuột túi và chuột đàn) rất phong phú.
Hầu hết các loài chim là chim chạy. Trong số các loài sâu bọ cánh cứng, họ Tenebrinidae
chiếm ưu thế và là những loài đặc trưng của sa mạc. Sự thích ứng của động vật với đời sống
hoang mạc rất rõ, biểu hiện ở những đặc điểm chống khô nóng. Ngoài ra có hiện tượng di cư
theo mùa, ngủ hè hay dự trữ thức ăn, sinh sản đồng loạt vào thời kỳ có độ ẩm cao.
Rừng lá kim (Taiga, Boreal Forest)
Rừng lá kim phân bố rộng ở hầu hết các vùng phía Bắc của Bắc Âu và Bắc Mỹ. Ngoài
ra, rừng này còn có vành đai xuất hiện ở một vài nơi khác, ở đó có các tên gọi khác nhau: khi
nó ở gần các đỉnh núi gọi là rừng lá kim ở núi; và rừng mưa ôn đới dọc theo bờ biến Thái

Bình Dương cho đến Nam California. Lượng mưa thấp khoảng 100 đến 400 mm/năm và có
mùa sinh trưởng ngắn. Mùa đông lạnh và ngắn, trong khi đó mùa hè có xu hướng ấm. Rừng lá
kim đặc trưng bởi các loài cây thẳng như Vân sam, Lãnh sam, Thiết sam và Thông. Các loài
cây gỗ này có lá và vỏ bảo vệ dày, cũng như lá có dạng kim có thể chịu đựng trọng lượng của
tuyết tích tụ lại. Các khu rừng lá kim hạn chế với các loài cây tầng thấp, và bề mặt đất được
bao phủ bởi một lớp rêu và địa y. Thông, Tùng-bách, cây Dương đỏ, cây Phong và cây Phi lao
6


là những loài cây phổ biến; chó sói, gấu Mỹ và tuần lộc là các loài động vật phổ biến. Tính ưu
thế của một số loài được thể hiện rõ ràng, nhưng tính đa dạng thấp khi so sánh với các khu
sinh quyển ôn đới và nhiệt đới.
Các khu sinh học ở nƣớc
Môi trường nước ít khắc nghiệt hơn so với môi trường trên cạn. Các sinh vật thuỷ sinh
bơi lội trong nước nhờ vào lực đẩy của nước và không phải đối phó với tình trạng khô hạn.
Các chất dinh dưỡng hoà tan chi phối sự phân bố của các sinh vật. Các khu sinh học ở nước
được chia thành khu sinh học nước ngọt và khu sinh học biển.
Khu sinh học biển:
Khu sinh học biển chứa nhiều muối hoà tan hơn khu sinh học nước ngọt. Có hai phân
hạng trong khu sinh học này đó là quần xã sống đáy và quần xã sống trong tầng nước. Theo
độ sâu, quần xã sống đáy được chia thành vùng ven bờ và vùng sâu. Quần xã sống trong tầng
nước được chia thành quần xã sống trôi nổi và quần xã tự bơi. Tầng nước từ 200 mét trở lên
có ánh sáng xâm nhập vào được gọi là tầng giàu dinh dưỡng.
Khu sinh học nước
Khu sinh học nước ngọt được chia thành 2 vùng là khu sinh học nước chảy và khu sinh học
nước đứng. Nước trong các thuỷ vực nước ngọt lớn thường có sự phân tầng nhiệt độ. Ở một
số hồ lớn vùng ôn đới thường có hiện tượng chu chuyển nước theo mùa, nhờ đó các chất dinh
dưỡng được đưa từ tầng sâu lên tầng mặt, giúp cho sự phát triển của các sinh vật nổi trong hồ.
Những nhân tố ảnh hưởng
Môi trường vật lý có ảnh hưởng đến cấu trúc và tính chất của quần xã sinh vật, ngược lại

quần xã sinh vật cũng có những ảnh hưởng tới tính chất vật lý của hệ sinh thái. Ví dụ ở các hệ sinh
thái trên cạn, tốc độ gió, độ ẩm, nhiệt độ ở một địa điểm nhất định có thể bị chi phối bởi thảm thực
vật, hệ động vật có mặt ở đó. Trong hệ sinh thái thuỷ vực, những đặc điểm của nước như độ
trong, độ đục, độ muối và các loại hoá chất khác, độ nông sâu đã chi phối đến các loài sinh vật và
cấu trúc quần xã sinh vật. Nhưng ngược lại các quần xã sinh vật như quần xã tảo, dải san hô có
ảnh hưởng đến môi trường vật lý.
Trong những quần xã sinh vật, một số loài có vai trò quyết định đến khả năng tồn tại,
phát triển của một số lớn các loài khác, người ta gọi đó là những loài ưu thế. Những loài ưu thế
này có ảnh hưởng đến cấu trúc quần xã sinh vật nhiều hơn so với tổng số cá thể của các loài
hay sinh khối của chúng. Do vậy những loài ưu thế nên được ưu tiên trong công tác bảo tồn.
1.2. Định lƣợng đa dạng sinh học
Trong nghiên cứu đa dạng sinh học việc mô tả quy mô của đa dạng loài cũng rất quan
trọng. Do vậy các chỉ số toán học về đa dạng đã được phát triển để bao hàm đa dạng loài ở các
phạm vi địa lí khác nhau (3 mức độ).
+ Đa dạng alpha (): là tính đa dạng xuất hiện trong một sinh cảnh hay trong một quần xã.
Ví dụ: sự đa dạng của các loài cây gỗ, các loài thú, chim…. trong một kiểu rừng hoặc quần xã.
+ Đa dạng beta (): là tính đa dạng tồn tại giữa các sinh cảnh hay là giữa các quần xã
trong một hệ sinh thái. Vì vậy nếu sự khác nhau giữa các sinh cảnh càng lớn thì tính đa dạng
beta càng cao.
+ Đa dạng gama (): là tính đa dạng tồn tại trong một quy mô địa lý rộng hơn. Ví dụ:
sự đa dạng của các loài cây gỗ, các loài thú, chim…trong những sinh cảnh khác nhau, cách xa
nhau của cùng một vùng địa lý.
Nghiên cứu quy mô đa dạng sinh học theo hệ thống trên có ý nghĩa quan trọng đối với
7


việc xem xét quy mô khi thiết lập các ưu tiên trong công tác bảo tồn.
Sự đa dạng về loài đã tạo cho các quần xã sinh vật khả năng phản ứng và thích nghi tốt
hơn đối với những thay đổi của điều kiện ngoại cảnh. Chức năng sinh thái của một loài có ảnh
hưởng trực tiếp đến cấu trúc của quần xã sinh vật và bao trùm hơn là lên cả hệ sinh thái. Ví

dụ: Sự có mặt của một loài cây gỗ (sung, si, dẻ…) không chỉ tăng thêm tính đa dạng của quần
xã sinh vật mà còn góp phần tăng tính ổn định của chính loài đó thông qua mối quan hệ khăng
khít giữa chúng với các loài khác. Các loài sinh vật khác phụ thuộc vào loài cây này vì đó là
nguồn thức ăn của chúng (Khỉ, Vượn, Sóc…) hoặc loài cây này có thể phát triển hay mở rộng
vùng phân bố (thụ phấn, phát tán, hạt giống…) nhờ các loài khác.
1.3. Sự phong phú của đa dạng sinh học ở một số vùng trên thế giới
Môi trường giàu có nhất về số lượng loài có lẽ ở các rừng nhiệt đới, rạn san hô, các hồ
lớn ở vùng nhiệt đới và ở các biển sâu. Sự phong phú về loài cũng tìm thấy ở các sinh cảnh
khô cạn vùng nhiệt đới như các rừng lá rụng, cây bụi, đồng cỏ và sa mạc và ở các cây bụi ôn
đới thuộc khí hậu Địa Trung Hải, như ở Nam Mỹ, Nam California và Tây Nam Australia.
Trong các rừng mưa nhiệt đới, tính đa dạng sinh học chủ yếu dựa vào nhóm động vật phong
phú nhất là lớp côn trùng. Trong các rạn san hô, và các biển sâu, sự đa dạng sinh học thuộc
nhiều ngành và lớp khác nhau. Sự đa dạng trong các biển sâu nhờ vào diện tích lớn, tính ổn
định của môi trường cũng như vào sự biệt hoá của các loại nền đáy khác nhau.
Đa dạng loài lớn nhất là ở vùng rừng nhiệt đới. Mặc dù rừng nhiệt đới chỉ chiếm 7%
diện tích trái đất, chúng chứa hơn 1/2 loài trên thế giới. Đánh giá này chỉ dựa vào các mẫu côn
trùng và chân khớp, là những nhóm chính về số loài trên thế giới. Đánh giá về số lượng các
loài côn trùng chưa được mô tả ở rừng nhiệt đới nằm trong phạm vi từ 5 đến 30 triệu loài;
hiện tại, con số 10 triệu loài là tạm chấp nhận và được sử dụng nhiều trong các tài liệu hiện
nay. Nếu là 10 triệu loài, có nghĩa là côn trùng chiếm đến 90% số loài trên thế giới.
Khoảng 40% loài thực vật có hoa trên thế giới (100.000 loài) ở vùng nhiệt đới, trong khi
30% loài chim trên thế giới phụ thuộc vào những khu rừng nhiệt đới.
Rạn san hô tạo nên một nơi tập trung khác về loài. Các loài san hô bé nhỏ tạo ra các hệ
sinh thái san hô vĩ đại, là vùng biển tương đương với rừng nhiệt đới về sự phong phú loài và độ
phức tạp. Rạn san hô lớn nhất thế giới là rạn San Hô Lớn (Great Barrier Reefs) ở bờ biển phía
đông nước Úc, có diện tích là 349.000 km2. Rạn san hô này có hơn 300 loài san hô, 1500 loài
cá, 4000 loài thân mềm, 5 loài rùa biển và là nơi sinh sản của khoảng 252 loài chim. Rạn san hô
này chiếm 8% loài cá trên thế giới mặc dù chúng chỉ chiếm 0,1% diện tích đại dương.
Đối với hầu hết các nhóm sinh vật, sự đa dạng loài tăng về hướng nhiệt đới. Ví dụ như
Kenia có 308 loài thú, trong khi đó Pháp chỉ có 113 loài mặc dù hai nước này có cùng diện

tích. Sự tương phản này đặc biệt chặt chẻ đối với cây cỏ và thực vật có hoa: một hecta rừng
Amazon ở Peru hay vùng đất thấp ở Malaisia có thể có đến hơn 200 loài cây, trong khi đó ở
rừng Châu Âu hay nước Mỹ thì chỉ có khoảng 30 loài trong cùng diện tích. Kiểu đa dạng của
các loài trên đất liền cũng giống như ở biển, nghĩa là cũng gia tăng sự đa dạng loài về phía
nhiệt đới. Ví dụ rạn San hô lớn ở Úc, phía Bắc có 50 giống trong khi phía Nam chỉ có 10
giống san hô.
Nhân tố lịch sử cũng rất quan trọng trong việc xác định kiểu phân bố đa dạng về loài.
Những vùng đất cổ có nhiều loài hơn các vùng đất mới. Các vùng có tuổi địa chất già
hơn có nhiều thời gian hơn để nhận được các loài phát tán từ các nơi khác và cũng có nhiều
thời gian hơn để các loài thích nghi đáp ứng với các điều kiện địa phương.
8


Sự phong phú về loài cũng bị ảnh hưởng bởi các biến đổi về địa hình, khí hậu và môi
trường địa phương. Trong các quần xã trên cạn, sự giàu có về loài theo xu hướng tăng ở các
địa hình thấp, tăng theo lượng bức xạ của mặt trời và tăng theo lượng mưa. Sự thay đổi lớn về
nhiệt độ theo mùa là một nhân tố khác ảnh hưởng nhiều đến số lượng loài ở vùng ôn đới.
Sự phong phú loài cũng có thể lớn hơn ở những nơi có địa hình phức tạp, để tạo nên
những sự cách ly di truyền, thích ứng địa phương, và sự biệt hoá có thể xảy ra. Những vùng
có tính địa chất phức tạp, tạo ra một sự đa dạng về các loại đất, có ranh giới rõ rệt, dẫn đến sự
đa dạng trong các quần xã và các loài có sự thích nghi với mỗi loại đất riêng.
Nguyên nhân tại sao vùng nhiệt đới lại có tính đa dạng cao hơn những vùng khác vẫn
còn đang tranh cãi nhưng một số thuyết thống nhất lí giải như sau:
+ Trong suốt thời gian biến đổi địa chất thì vùng nhiệt đới có khí hậu tương đối ổn định hơn
so với vùng ôn đới do vậy nhiều loài có thể đảm bảo được cuộc sống tại chỗ trong khi các loài
ở vùng ôn đới thường phải di cư để tránh rét.
+ Các quần xã sinh vật ở vùng nhiệt đới được hình thành từ lâu đời hơn so với vùng ôn đới.
Chính vì vậy các loài ở vùng nhiệt đới có thời gian tiến hoá lâu đời hơn và do vậy có khả năng
thích nghi cao hơn với môi trường sống.
+ Nhiệt độ và độ ẩm cao ở vùng nhiệt đới tạo điều kiện thuận lợi cho nhiều loài mà chúng

không thể tồn tại ở vùng ôn đới di chuyển đến và định cư tại vùng nhiệt đới.
+ Tỷ lệ giao phấn của thực vật vùng nhiệt đới cao hơn vùng ôn đới do sự hỗ trợ của khí hậu
cũng như côn trùng.
+ Vùng nhiệt đới tiếp nhận nhiều năng lượng mặt trời trong năm hơn do đó các quần xã sinh
vật vùng nhiệt đới cũng có sức sản xuất sinh khối cao hơn. Chính điều này đã giúp ích cho sự
phân bố của các loài, đó là cung cấp các yêu cầu cần thiết cho sự phân bố của các loài.
Về thực vật đến nay đã thống kê được khoảng 90.000 loài có mặt ở vùng nhiệt đới.
Vùng nhiệt đới Nam Mỹ là nơi giàu loài nhất chiếm 1/3 tổng số loài. Braxin có 50.000 loài cây
có hoa; Colombia có 35.000 loài; Venezuela có 15-25.000 loài. Vùng châu Phi kém đa dạng
hơn Nam mỹ; Tanzania 10.000 loài, Camơrun 8000 loài. Trong khi đó toàn bộ vùng Bắc Mỹ,
Âu, Á chỉ có 50.000 loài. Vùng Đông Nam Á có tính đa dạng khá cao, theo Van Steenis, 1971
và Yap, 1994 có tới 25 000 loài chiếm 10% số loài thực vật có hoa trên thế giới, trong đó có
40% là loài đặc hữu, Inđônesia có 20. 000 loài, Malaysia và Thái Lan có 12.000 loài, Đông
Dương có 15.000 loài (Phạm Nhật, 1999). Tuy nhiên các nhà khoa học mới chỉ ước lượng số
lượng tương đối các loài sinh vật trong các hệ sinh thái và có khoảng 80% số loài ở cạn. Con số
này hoàn toàn chưa chính xác, có thể ở đại dương và các vùng bờ biển có mức đa dạng cao hơn.
Bảng 1.2: Đa dạng loài thú ở một số nước thuộc các vùng địa lí khác nhau
Nƣớc nhiệt đới
số loài
Nƣớc ôn đới
số loài
Mexico
439
Ac-hen-tina
255
Kenya
308
Ôxtralia
299
Zaire

409
Canada
163
Nigeria
274
Pháp
113
Thái Lan
263
Nhật Bản
186
Malaixia
292
Anh
77
Việt Nam
224
Mỹ
367
Nguồn: Phạm Nhật (1999, 2001)

9


1.4. Những giá trị của đa dạng sinh học
1.4.1. Giá trị trực tiếp
Giá trị trực tiếp là những giá trị thu được từ các sản phẩm sinh vật được con người trực
tiếp khai thác và sử dụng. Các giá trị này thường được tính toán dựa trên số liệu điều tra ở
những điểm khai thác và đối chiếu với số liệu thống kê việc xuất nhập khẩu của cả nước. Giá
trị trực tiếp được chia thành giá trị sử dụng cho tiêu thụ và giá trị sử dụng cho sản xuất.

1.4.1.1. Giá trị sử dụng cho tiêu thụ
Giá trị sử dụng cho tiêu thụ được đánh giá bao gồm các sản phẩm tiêu dùng cho cuộc
sống hàng ngày như: củi đốt và các loại sản phẩm khác cho tiêu dùng cho gia đình. Các sản
phẩm này không xuất hiện trên thị trường nên hầu như chúng không đóng góp gì vào tổng thu
nhập quốc dân, nhưng nếu không có những nguồn tài nguyên này thì cuộc sống con người sẽ
gặp những khó khăn nhất định. Sự tồn tại của con người không thể tách rời các loài sinh vật.
Thế giới sinh vật mang lại cho con người nhiều sản phẩm mà con người đã, đang và sẽ sử
dụng như: thức ăn, gỗ, củi, nguyên liệu, dược liệu…
Một trong những nhu cầu cần thiết của con người đối với tài nguyên sinh vật là nguồn
đạm động vật. Ngoài nguồn từ vật nuôi, ở nhiều vùng miền núi hàng năm còn thu được một lượng
lớn thịt động vật rừng. Ở nhiều vùng châu Phi thịt động vật hoang dã chiếm một tỷ lệ lớn trong
bữa ăn hàng ngày. Ví dụ ở Botswanna khoảng 40%, Nigeria 20%, Zaire 75% (Myers 1988b trong
Phạm Nhật, 1999). Ở Botswana khoảng 3 triệu tấn thịt thỏ được khai thác hàng năm. Cá cũng là
nguồn đạm quan trọng, hàng năm trên thế giới tiêu thụ khoảng 100 triệu tấn cá (FAO 1988). Phần
lớn số cá đánh bắt này được sử dụng ngay tại địa phương.
Ở Việt Nam theo thống kê ban đầu có khoảng 73 loài thú, 130 loài chim và hơn 50 loài
bò sát có giá trị kinh tế. Cá biển cũng là nguồn thực phẩm quan trọng, hàng năm nước ta khai
thác khoảng 1,2 - 1,3 triệu tấn cá (Phạm Thược 1993 trong Phạm Nhật, 1999). Ngoài ra con
người còn sử dụng hàng ngàn loài cây làm thức ăn, thức ăn gia súc, lấy gỗ, chiết xuất tinh dầu,...
Giá trị sử dụng cho tiêu thụ của từng sản phẩm có thể xác định bằng cách khảo sát
xem phải cần bao nhiêu tiền để mua một sản phẩm tương tự trên thị trường khi cộng đồng
không còn khai thác tài nguyên thiên nhiên.
1.4.1.2. Giá trị sử dụng cho sản xuất
Giá trị sử dụng cho sản xuất là giá trị thu được thông qua việc bán các sản phẩm thu
hái, khai thác được từ thiên nhiên trên thị trường như củi, gỗ, song mây, cây dược liệu, hoa
quả, thịt và da động vật hoang dã. Giá trị sản xuất của các nguồn tài nguyên thiên nhiên là rất
lớn ngay cả ở những nước công nghiệp. Tại Mỹ hàng năm có khoảng 4,5% tổng giá trị thu
nhập quốc dân tương đương 87 tỷ đô la thu được bằng cách này hay cách khác từ các loài
hoang dã (Allen, 1986 trong Phạm Nhật, 1999). Ở các nước đang phát triển, đặc biệt là vùng
nông thôn miền núi thì giá trị này còn cao hơn nhiều.

Giá trị sản xuất lớn nhất cuả nhiều loài là khả năng cung cấp nguồn nguyên vật liệu
cho công nghiệp, nông nghiệp và là cơ sở để cải thiện giống cây trồng, vật nuôi phục vụ sản
xuất nông lâm nghiệp. Đặc biệt quan trọng là nguồn gen lấy từ các loài hoang dã có khả năng
kháng bệnh cao và chống chịu được điều kiện ngoại cảnh bất lợi tốt hơn. Các loài hoang dã
còn là nguồn cung cấp dược liệu quan trọng. Rất nhiều dược phẩm được điều chế từ cây, cỏ,
nấm và các loài vi sinh vật. Ở Việt Nam qua điều tra sơ bộ có khoảng 3.200 loài cây và 64
loài động vật đã được con người sử dụng làm dược liệu và thuốc chữa bệnh (Võ Văn Chi,
1997).

10


1.4.2. Giá trị gián tiếp
Giá trị gián tiếp là những lợi ích do đa dạng sinh học mang lại cho cả cộng đồng. Như vậy giá
trị gián tiếp của đa dạng sinh học bao gồm cả chất lượng nước, bảo vệ đất, dịch vụ nghỉ mát, thẩm mỹ,
phục vụ giáo dục, nghiên cứu khoa học, điều hoà khí hậu và tích luỹ cho xã hội tương lai. Giá trị gián
tiếp cũng bao gồm các quá trình xảy ra trong môi trường và các chức năng bảo vệ của hệ sinh thái. Đó
là những lợi ích không đo đếm được và nhiều khi là vô giá. Vì những lợi ích này không phải là hàng
hoá nên thường không được tính đến trong quá trình tính GDP của quốc gia. Tuy nhiên chúng lại đóng
vai trò rất quan trọng trong việc duy trì những sản phẩm tự nhiên mà nền kinh tế quốc gia phụ thuộc.
Giá trị gián tiếp của đa dạng sinh học bao gồm:
1.4.2.1. Giá trị sinh thái
Các hệ sinh thái là cơ sở sinh tồn của sự sống trên trái đất trong đó có loài người. Hệ sinh thái
rừng nhiệt đới được xem như là lá phổi xanh của trái đất. Đa dạng sinh học là nhân tố quan trọng để
duy trì các quá trình sinh thái cơ bản như: quang hợp của thực vật, mối quan hệ giữa các loài, bảo vệ
nguồn nước, điều hoá khí hậu, bảo vệ và làm tăng độ phì đất, hạn chế sự xói mòn của đất và bờ
biển…tạo môi trường sống ổn định và bền vững cho con người. Con người không thể sống được nếu
thiếu không khí, chính hệ thực vật đã và đang cung cấp miễn phí lượng ôxi khổng lồ cho cuộc sống
của hàng tỷ người trên trái đất. Đa dạng sinh học còn góp phần tạo ra các dịch vụ nghỉ ngơi và du lịch
sinh thái. Hiện nay du lịch sinh thái được xem xét như là một trong những biện pháp hiệu quả đối với

việc bảo vệ đa dạng sinh học, nhất là khi chúng được tổ chức, phối hợp chặt chẽ với chương trình quản
lý và bảo tồn tổng hợp. Tuy vậy cần chú ý đến việc tổ chức cho du khách quan sát những vấn đề cần
thiết liên quan đến bảo vệ môi trường, tài nguyên; tránh những hành động tiêu cực hay việc xây dựng
những cơ sở hạ tầng quá khang trang, hiện đại có thể sẽ trở thành mối đe doạ đối với đa dạng sinh học.
1.4.2.2. Giá trị khoa học và giáo dục
Nhiều sách giáo khoa được biên soạn, nhiều chương trình vô tuyến và phim ảnh được
xây dựng về chủ đề bảo tồn thiên nhiên với mục đích giáo dục và giải trí. Một số lượng lớn
các nhà khoa học chuyên ngành, các nhà sinh thái học và những người yêu thích thiên nhiên
đã tham gia tìm hiểu và nghiên cứu thiên nhiên mà không phải tiêu tốn nhiều tiền và không
đòi hỏi nhiều loại dịch vụ cao cấp. Những hoạt động khoa học này cũng mang lại lợi nhuận
kinh tế cho những khu vực nơi họ tiến hành quan sát nghiên cứu. Ngoài lợi ích về kinh tế còn
là khả năng nâng cao kiến thức, tăng cường tính giáo dục và tăng vốn sống cho con người
giúp cho con người hiểu rõ hơn về giá trị của đa dạng sinh học.
1.4.2.3. Giá trị văn hoá và đạo đức
Ngoài những giá trị về kinh tế và sinh thái, đa dạng sinh học còn có nhiều giá trị về văn hoá và
đạo đức mà nó dựa trên các nền tảng về kinh tế. Hệ thống giá trị của hầu hết các tôn giáo, triết học và
văn hoá cung cấp những nguyên tắc và đạo lý cho việc bảo tồn loài. Những nguyên tắc, triết lý này
được con người hiểu và quán triệt một cách dễ dàng, giúp cho con người biết bảo vệ cả những loài
không mang lai giá trị kinh tế lớn.
Một trong những quan niệm về đa dạng sinh học mang tính đạo đức là các loài sinh vật
sinh ra đều có quyền đựơc tồn tại. Quan niệm này dựa trên giá trị nội tại của các loài mà
không liên quan đến sự cần thiết của con người hay giá trị sử dụng của loài. Do vậy con người
hoàn toàn không có quyền tiêu diệt các loài mà ngược lại phải tôn trọng sự tồn tại của các loài
và phải nỗ lực hành động nhằm hạn chế sự tuyệt chủng của loài. Sự tôn trọng cuôc sống con
người và đa dạng văn hoá phải được đặt ngang với sự tôn trọng đa dạng sinh học. Con người
phải chịu trách nhiệm quản lý trái đất, nếu như chúng ta làm tổn hại nguồn tài nguyên thiên
nhiên trên trái đất và làm cho nhiều loài bị đe doạ tuyệt chủng, thì những thế hệ tiếp sau sẽ
phải trả giá bởi sự mất mát này.
11



CHƢƠNG 2: NHỮNG MỐI ĐE DỌA ĐỐI VỚI ĐA DẠNG SINH HỌC
2.1. Khái niệm về suy thoái đa dạng sinh học
2.1.1. Khái niệm
Suy thoái đa dạng sinh học có thể hiểu là sự suy giảm tính đa dạng, bao gồm sự suy giảm
loài, nguồn gen và hệ sinh thái, từ đó làm suy giảm giá trị, chức năng của đa dạng sinh học. Sự
suy thoái đa dạng sinh học được thể hiện ở các mặt:
- Hệ sinh thái bị biến đổi
- Mất loài
- Mất (giảm) đa dạng di truyền
Mất loài, sự xói mòn di truyền, sự du nhập xâm lấn của các loài sinh vật ngoại lai, sự
suy thoái các hệ sinh thái tự nhiên, nhất là rừng nhiệt đới đang diễn ra một cách nhanh chóng
chưa từng có mà nguyên nhân chủ yếu là do tác động của con người.
Một quần xã sinh vật, hệ sinh thái có thể bị suy thoái trong một vùng, song nếu tất cả các
loài nguyên bản vẫn còn sống sót thì quần xã và hệ sinh thái đó vẫn còn tiềm năng phục hồi.
Tương tự đa dạng di truyền sẽ giảm khi kích thước quần thể bị giảm nhưng loài đó vẫn có khả
năng tái tạo lại sự đa dạng di truyền nhờ đột biến và tái tổ hợp. Tuy nhiên, khi một loài bị tuyệt
chủng thì những thông tin di truyền chứa trong bộ máy di truyền của loài đó sẽ mất đi, loài đó
khó có khả năng để phục hồi và con người sẽ còn ít cơ hội để nhận biết tiềm năng của loài đó.
2.1.2. Quá trình suy thoái đa dạng sinh học
Cùng với những biến cố về lịch sử, về kinh tế xã hội, đa dạng sinh học trên toàn cầu đã
và đang bị suy thoái nghiêm trọng. Một trong những dấu hiệu quan trọng nhất của sự suy
thoái đa dạng sinh học là sự tuyệt chủng loài do môi trường sống bị thay đổi.
Khái niệm tuyệt chủng có nhiều nghĩa khác nhau. Một loài bị coi là tuyệt chủng khi
không còn một cá thể nào của loài đó còn sống sót ở bất kỳ đâu trên thế giới. Ví dụ: loài chim
Vermivora bachmaii, cá thể cuối cùng của loài này được nhìn thấy trong những năm của thập
kỷ 60. Loài mà chỉ còn một số cá thể còn sót lại nhờ sự chăm sóc, nuôi trồng của con người
thì được coi là đã bị tuyệt chủng trong hoang dã, ví dụ loài Hươu sao (Cervus nippon) ở Việt
Nam. Một loài được coi là tuyệt chủng cục bộ nếu như nó không sống sót tại những nơi chúng
đã từng sống, nhưng người ta vẫn tìm thấy chúng tại những nơi khác trong thiên nhiên.

Một số nhà sinh thái học sử dụng cụm từ “loài bị tuyệt chủng về phương diện sinh thái học”,
có nghĩa là số lượng cá thể của loài còn lại ít đến mức ảnh hưởng của nó không còn ý nghĩa đến những
loài khác trong quần xã. Ví dụ: loài Hổ (Panthera tigris) hiện nay bị tuyệt chủng về phương diện sinh
thái học, điều này có nghĩa là số lượng hổ hiện nay còn trong thiên nhiên rất ít và tác động của chúng
đến quần thể động vật mồi là không đáng kể.
Ngoài ra trong nghiên cứu đa dạng sinh học còn có một hiện tượng khác, đó là “cái chết đang
sống”. Khi quần thể của loài có số lượng cá thể dưới mức báo động, nhiều khả năng loài sẽ bị tuyệt
chủng. Đối với một số quần thể trong tự nhiên, một vài cá thể vẫn còn có thể sống sót dai dẳng vài
năm, vài chục năm; chúng có thể vẫn sinh sản nhưng số phận cuối cùng của chúng vẫn là sự tuyệt
chủng (nếu như không có sự can thiệp của công nghệ sinh học). Cây lấy gỗ là một ví dụ điển hình, một
cây sống tách biệt, không sinh sản có thể sống đến hàng trăm năm. Những loài này được coi là hiện
thân của “cái chết đang sống” mặc dù về phương diện chuyên môn nó chưa bị tuyệt chủng nếu như
một vài cá thể của loài vẫn sống, nhưng lúc này quần thể không thể tồn tại và sinh sản một cách khoẻ
mạnh, sung sức nữa. Dù muốn hay không tương lai của loài cũng chỉ giới hạn trong vòng đời của
những cá thể còn sống sót đó.
12


Sự sống xuất hiện cách đây 3 - 4 tỷ năm và tính phức tạp của sự sống bắt đầu tăng dần
từ đầu kỷ Cambrian (cách ngày nay khoảng 600 triệu năm). Cùng với sự tăng tính đa dạng
sinh học là sự tuyệt chủng bắt đầu xuất hiện. Trong giai đoạn từ kỷ Cambrian đến nay, các
nhà cổ sinh học cho rằng có ít nhất 5 lần bị tuyệt chủng hàng loạt:
- Tuyệt chủng lần thứ nhất diễn ra vào cuối kỷ Ordovican (cách đây khoảng 450 triệu
năm), khoảng 12% các họ động vật biển và 60% số loài động thực vật bị tuyệt chủng.
- Tuyệt chủng lần thứ hai diễn ra vào cuối kỳ Devon (cách đây khoảng 365 triệu năm)
và kéo dài khoảng 7 triệu năm đã gây nên sự biến mất của 60% tổng số loài còn lại sau lần
tuyệt chủng lần thứ nhất.
- Tuyệt chủng lần thứ ba là nghiêm trọng nhất kéo dài khoảng 1 triệu năm diễn ra vào
kỷ Permian (cách đây khoảng 242 triệu năm) đã xoá sổ 54% số họ và khoảng 77 - 96% số loài
động vật biển, 2/3 số loài bò sát, ếch nhái và 30% số bộ côn trùng.

- Tuyệt chủng lần thứ tư xảy ra vào cuối kỷ Triassic (cách đây khoảng 210 triệu năm)
với khoảng 20% số loài sinh vật trên trái đất bị tiêu diệt. Hai đợt tuyệt chủng thứ ba và thứ tư
quá gần nhau vì vậy quá trình phục hồi lại hoàn toàn phải mất khoảng 100 triệu năm (Wilson,
1992 trong N.H.Nghĩa, 1999).
- Tuyệt chủng lần thứ năm diễn ra vào cuối kỷ Cretacis và đầu kỷ Tertiary (cách đây
khoảng 65 triệu năm). Đây được coi là lần tuyệt chủng nổi tiếng nhất. Ngoài các loài thằn lằn
khổng lồ, hơn một nửa loài bò sát và một nửa loài sống ở biển đã bị tuyệt chủng.
Theo Wilson (1992 trong N.H.Nghĩa, 1999) thì ngoài nguyên nhân do thiên thạch ở
lần tuyệt chủng thứ năm và một phần do núi lửa phun trào ở lần thứ ba, sự tuyệt chủng còn lại
là do hiện tượng băng hà toàn cầu.
2.1.3. Mức độ suy thoái đa dạng sinh học
Theo cách tính của các nhà khoa học thì tốc độ tuyệt chủng trung bình trong quá khứ
vào khoảng 9% trên một triệu năm (Raup, 1978), tức là khoảng 0,000009% trong một năm.
Như vậy cứ 5 năm mất khoảng một loài trong 2 triệu loài có trong quá khứ. Điều này có thể
thấp hơn so với thực tế vì các nhà khoa học đã không tính được sự mất đi của các loài đặc
hữu. Nếu vậy tốc độ tuyệt chủng cao nhất có thể là 2 loài mỗi năm (N.H.Nghĩa, 1999).
Mặc dù số lượng loài đã bị tuyệt chủng chỉ là những con số ước lượng vì chúng ta
chưa thống kê được chắc chắn có bao nhiêu loài, song trên cơ sở nghiên cứu các nhà khoa học
cho rằng có khoảng 85 loài thú và 113 loài chim đã bị tuyệt chủng từ những năm 1600, tương
ứng 2,1% các loài thú và 1,3% các loài chim. Chim và thú là những loài được nghiên cứu kĩ
và do đó được biết đến nhiều nhất. Tốc độ tuyệt chủng đặc biệt tăng nhanh từ khi xuất hiện xã
hội loài người, nếu tốc độ tuyệt chủng tự nhiên trong quá khứ là 1 loài/năm thì tốc độ tuyệt
chủng hiện nay là 1 loài/giờ, trong đó nguyên nhân chính là do tác động của con người
(Bryant, 2004). Tốc độ tuyệt chủng tăng nhanh cho thấy những mối đe doạ với đa dạng sinh
học đã trở nên nghiêm trọng.
Tốc độ tuyệt chủng đặc biệt lớn ở các đảo vì đảo không những là nơi tập trung các loài
đặc hữu mà nó còn bị khống chế về mặt không gian. Hầu hết sự tuyệt chủng của các loài thú,
chim, bò sát và ếch nhái được biết đến trong vòng 350 năm trở lại đây hầu hết là sống trên đảo
và hơn 80% các loài thực vật đặc hữu trên các đảo hiện nay đều đang bị đe đoạ tuyệt chủng.
Từ các nghiên cứu về những quần xã sống trên đảo, MacArthur và Wilson (1963 trong

N.H.Nghĩa, 1999) đã đưa một quy luật chung về phân bố đa dạng sinh học và nó được gọi là
Mô hình địa lý sinh học đảo. Mô hình này cho thấy rằng mối quan hệ giữa số loài với diện
tích và thường tuân theo quy luật. Những đảo có diện tích rộng sẽ có nhiều loài hơn đảo có
diện tích hẹp. Các đảo lớn cũng cho phép các loài cách biệt về địa lý tồn tại với quần thể có
13


kích thước lớn hơn và do đó làm giảm xác suất tuyệt chủng của các loài.
Mô hình địa lý sinh học đảo cũng được sử dụng để dự tính, dự báo số lượng và tỷ lệ
loài có thể bị tuyệt chủng một khi nơi cư trú của chúng bị huỷ hoại (Simberloff, 1986 trong
Phạm Nhật, 1999). Diện tích nơi cư trú bị thu hẹp làm giảm khả năng cung cấp của nơi sống.
Mô hình này cũng được mở rộng sự áp dụng đối với các khu bảo tồn, nơi được bao bọc bởi
các hệ sinh thái bị tổn thương và nơi cư trú bị huỷ hoại. Các khu này cũng được coi như
những hòn đảo trên biển và đang bị khai thác làm cho nơi cư trú của các loài bị thu hẹp. Mô
hình này cho rằng nếu 50% diện tích của đảo (và các khu bảo tồn) bị huỷ hoại thì khoảng 10%
số loài trên đảo sẽ bị tuyệt chủng. Nếu 90% nơi cư trú bị phá hoại thì 50% số loài bị mất và khi
99% nơi cư trú bị mất thì 75% số loài sẽ bị mất.
Rừng nhiệt đới là nơi sinh sống của phần lớn các loài sinh vật trên thế giới cho nên nếu
rừng nhiệt đới tiếp tục bị suy thoái và nạn phá rừng còn tiếp tục cho đến khi chỉ còn lại các Khu
bảo tồn thì khoảng 2/3 số loài thực vật và chim sẽ bị tuyệt chủng (Simberloff, 1986 trong Phạm
Nhật, 1999). Nhiều nhà khoa học dự đoán rằng sẽ mất 5 - 10% số loài vào những năm 1990 2020, bình quân mỗi ngày mất đi 40 - 140 loài. Có thể sẽ bị mất khoảng 25% số loài vào năm
2050.
2.2. Thang bậc phân hạng mức đe doạ của IUCN
Thang bậc phân hạng mức đe doạ năm 1994 của IUCN hiện đang được sử dụng có cấu
trúc các thang bậc phân hạng mức đe doạ được mô tả tóm lược sơ đồ:
Tuyệt chủng - EX
Đủ dẫn
liệu

Tuyệt chủng ngoài thiên

nhiên – EW
Rất nguy cấp - CR
Bị đe doạ

Nguy cấp - EN

Sẽ nguy cấp - VU
Đánh giá

Phụ thuộc bảo tồn - CD
Ít nguy cấp - LR

Sắp bị đe dọa - NT
Ít lo ngại - IC
Thiếu dẫn liệu - DD
Không đánh giá - NE

Sơ đồ 2.1: Cấu trúc các cấp đe doạ (IUCN, 1994)
Thang bậc phân hạng mức đe doạ cụ thể:
+ Các bậc phân hạng chính
- Bị tuyệt chủng - EX (Extinct):
Một đơn vị phân loại được coi là tuyệt chủng khi chắc chắn cá thể cuối cùng của đơn
vị phân loại đó đã bị tiêu diệt.
- Tuyệt chủng trong hoang dã - EW (Extinct in the wild):
Một loài được coi là tuyệt chủng trong hoang dã khi biết được loài đó chỉ tồn tại trong
điều kiện nuôi trồng nằm ngoài phạm vi phân bố lịch sử cuả loài đó. Loài được coi là tuyệt
14


chủng trong hoang dã khi những nỗ lực điều tra tại những vùng sống của loài đã biết hoặc

những sinh cảnh có hi vọng gặp được vào những thời điểm thích hợp (theo ngày, mùa, năm)
khắp các vùng phân bố lịch sử của nó, mà vẫn không tìm ra một cá thể nào. Các cuộc điều tra
vượt quá khung thời gian của một vòng đời hoặc tuổi thọ của chúng
- Rất nguy cấp - CR (Critical Endangered):
Một loài được coi là rất nguy cấp khi nó phải đối mặt với những mối đe doạ tuyệt chủng tự
nhiên rất lớn trong một tương lai gần, theo định nghĩa từ mục A - E dưới đây:
A. Quần thể đang bị suy giảm theo những hình thức sau:
1. Các ước lượng chỉ ra rằng quần đã bị hoặc có xu thế hoặc nghi có sự suy giảm 80%
trong vòng 10 năm hoặc trong 3 thế hệ vừa qua, được xác định bởi:
(a) Quan sát trực tiếp
(b) Chỉ số của độ phong phú phù hợp với phân loại đó
(c) Sự suy giảm trong vùng chiếm cứ
(d) Mức độ khai thác hiện tại hoặc xu hướng khai thác
(e) Hậu quả của du nhập loài mới, bệnh dịch, tạp lai, ô nhiễm, kí sinh
2. Sự suy giảm ít nhất 80%, có xu hướng hoặc nghi có thể sẽ xảy ra trong 10 năm tới hoặc
trong 3 thế hệ dựa trên cơ sở xác địmh của bất kỳ điểm (b),(c),(d) hay (e) ở trên
B. Phạm vi xuất hiện ước lượng nhỏ hơn 100km2 hay vùng chiếm cứ nhỏ hơn 10km2, và
được chỉ ra bởi các ước lượng sau:
1. Bị phân cách nghiêm trọng hay được biết chỉ tồn tại trong một điểm duy nhất
2. Tiếp tục suy giảm qua quan sát hoặc có thể gặp phải trong các trường hợp:
(a) Phạm vi xuất hiện
(b) Diện tích chiếm cứ
(c) Diện tích, phạm vi hay chất lượng sinh cảnh
(d) Số lượng cá thể trưởng thành
3. Những thay đổi cực kỳ bất thường theo các điểm sau:
(a) phạm vi xuất hiện
(b) diện tích chiếm cứ
(c) số địa điểm phân bố hay số lượng các quần thể phụ
(d) số lượng cá thể trưởng thành
C. Quần thể được ước lượng còn ít hơn 250 cá thể trưởng thành và:

1. Số lượng đó vẫn tiếp tục suy giảm ít nhất 25% trong 3 năm tới ở 1 thế hệ hoặc nhiều hơn.
2. Quần thể vẫn tiếp tục giảm qua quan sát hoặc có thể gặp phải về số lượng các cá thể
trưởng thành và cấu trúc quần thể nằm trong các dạng:
(a) bị chia cắt nghiêm trọng
(b) tất cả các cá thể đều nằm trong một quần thể phụ duy nhất
D. Quần thể có số lượng dưới 50 cá thể trưởng thành.
E. Các phân tích trữ lượng chỉ ra rằng khả năng tuyệt chủng trong tự nhiên ít nhất là
dưới 50% trong vòng 10 năm hoặc là 3 thế hệ hay bất cứ khi nào dài hơn.
- Nguy cấp - EN (Endangered)
Một loài được coi là nguy cấp khi nó chưa phải là nguy cấp cao nhưng nó đang phải đối mặt
với những mối đe doạ tuyệt chủng tự nhiên rất lớn trong một tương lai gần theo định nghĩa từ mục
A - E dưới đây:
A. Quần thể đang bị suy giảm theo một trong các hình thức sau:
1. Các quan sát, ước lượng chỉ ra rằng quần đã bị/có xu thế hoặc nghi có sự sự suy
15


giảm ít nhất 50% trong vòng 10 năm hoặc trong 3 thế hệ vừa qua hoặc lâu hơn, được xác đinh
bởi:
(a) Quan sát trực tiếp
(b) Một chỉ số của độ phong phú sát thực với đơn vị phân loại đó
(c) Suy giảm trong vùng chiếm cứ
(d) Mức độ khai thác hiện tại hoặc có xu hướng khai thác
(e) Hậu quả của du nhập loài mới, tạp lai, bệnh dịch, ô nhiễm hay ký sinh
2. Sự suy giảm ít nhất 50%, có xu hướng hoặc nghi sẽ có thể gặp phải trong 10 năm tới hoặc
trong 3 thế hệ tới hoặc lâu hơn dựa vào trên cơ sở xác định của bất kỳ điểm (b), (c), (d) hoặc (e) ở
trên.
B. Phạm vi xuất hiện ước lượng nhỏ hơn 5000km2 hoặc vùng chiếm cứ nhỏ hơn 500 km2
và được chỉ ra bởi các ước lượng sau:
1. Bị phân cách nghiêm trọng hay được biết chỉ tồn tại trong 5 điểm

2. Tiếp tục suy giảm qua quan sát hoặc gặp phải trong các trường hợp sau:
(a) phạm vi xuất hiện
(b) diện tích chiếm cứ
(c) diện tích, phạm vi hay chất lượng sinh cảnh
(d) số địa điểm phân bố hay số lượng quần thể phụ
(e) số lượng cá thể trưởng thành
3. Những thay đổi cực kỳ bất thường theo các điểm sau:
(a) phạm vi xuất hiện
(b) diện tích chiếm cứ
(c) số địa điểm phân bố hay số lượng các quần thể phụ
(d) số lượng cá thể trưởng thành
C. Quần thể được ước lượng còn ít hơn 2500 cá thể trưởng thành và:
1. Số lượng đó vẫn tiếp tục suy giảm ít nhất 20% trong 5 năm tới ở 1 thế hệ hoặc nhiều hơn.
2. Quần thể vẫn tiếp tục giảm qua quan sát hoặc có thể gặp phải về số lượng các cá thể
trưởng thành và cấu trúc quần thể nằm trong các dạng:
(a) bị chia cắt nghiêm trọng
(b) tất cả các cá thể đều nằm trong một quần thể phụ duy nhất
D. Quần thể được ước lượng ít hơn 250 cá thể trưởng thành
E. Các phân tích số lượng chỉ ra rằng khả năng tuyệt chủng trong tự nhiên ít nhất là dưới
20% trong vòng 20 năm hoặc 5 thế hệ.
- Sắp nguy cấp - VU (Vulnerable):
Một loài được coi là sắp nguy cấp khi nó chưa phải nguy cấp cao hay nguy cấp nhưng đang
phải đối mặt với những mối đe doạ tuyệt chủng tự nhiên rất lớn trong một tương lai theo định nghĩa
từ mục A - D dưới đây:
A. Quần thể đang bị suy giảm theo một trong các hình thức sau:
1. Các quan sát, ước lượng chỉ ra rằng quần đã bị/có xu thế hoặc nghi có sự suy giảm ít nhất
20% trong vòng 10 năm hoặc trong 3 thế hệ vừa qua hoặc lâu hơn, được xác định bởi:
(a) Quan sát trực tiếp
(b) một chỉ số của độ phong phú sát thực với đơn vị phân loại đó
(c) suy giảm trong vòng chiếm cứ

(d) mức độ khai thác hiện tại hoặc có xu hướng khai thác.
(e) hậu quả của du nhập loài mới, tạp lai, bệnh dịch, ô nhiễm hay ký sinh
2. Sự suy giảm ít nhất 20%, có xu hướng hoặc nghi sẽ có thể gặp phải trong 10 năm tới hoặc
16


trong 3 thế hệ tới hoặc lâu hơn dựa trên cơ sở xác định của bất kỳ điểm (b), (c), (d) hoặc (e) ở trên.
B. Phạm vi xuất hiện ước lượng nhỏ hơn 20.000km2 hoặc vùng chiếm cứ nhỏ hơn 2000
km2 và được chỉ ra bởi các ước lượng sau:
1. Bị phân cách nghiêm trọng hay được biết chỉ tồn tại trong dưới 10 điểm duy nhất.
2. Tiếp tục suy giảm qua quan sát hoặc có thể gặp phải trong các trường hợp:
(a) phạm vi xuất hiện
(b) diện tích chiếm cứ
(c) diện tích, phạm vi hay chất lượng sinh cảnh
(d) số địa điểm phân bố hay số lượng quần thể phụ
(e) số lượng cá thể trưởng thành
3. Những thay đổi cực kỳ bất thường theo các điểm sau:
(a) phạm vi xuất hiện
(b) diện tích chiếm cứ
(c) số địa điểm phân bố hay số lượng các quần thể phụ
(d) số lượng cá thể trưởng thành
C. Quần thể được ước lượng còn ít hơn 10.000 cá thể trưởng thành và:
1. Số lượng đó vẫn tiếp tục suy giảm ít nhất 10% trong 10 năm tới ở 1 thế hệ hoặc nhiều hơn.
2. Quần thể vẫn tiếp tục giảm qua các năm quan sát hoặc có thể gặp phải về số lượng các cá
thể trưởng thành và cấu trúc quần thể nằm trong các dạng:
(a) bị chia cắt nghiêm trọng
(b) tất cả các thể đều nằm trong một quần thể phụ duy nhất
D. Qui mô quần thể là rất nhỏ hoặc quần thể giới hạn dưới 1000 cá thể trưởng thành.
E. Các phân tích số lượng chỉ ra rằng khả năng tuyệt chủng trong tự nhiên ít nhất là 10%
trong vòng 100 năm.

- Đe doạ thấp - LR (Lower Risk):
Một loài được coi là bị đe doạ thấp khi nó đã được đánh giá là không thoả mãn các tiêu
chuẩn đánh giá của mức nguy cấp cao, nguy cấp hay sắp nguy cấp. Loài được coi là đe doạ thấp có
thể chia ra ba mức phụ sau:
A. Phụ thuộc bảo tồn - CD (Conservation Dependent): Loài là trọng tâm của chương trình
bảo tồn riêng cho loài hoặc chương trình bảo tồn vùng sống, do đó loài đang được quan tâm nhưng
nếu chương trình bảo tồn ngừng thì loài sẽ rơi vào một trong những mức độ đe doạ đã nêu ở trên
trong vòng 5 năm tới.
B. Gần bị đe doạ - NT (Near Threatened): Loài không được xác định ở mức độ phụ thuộc
bảo tồn, song gần với mức sắp nguy cấp.
C. Ít quan tâm - LC (Least Concern): Loài chưa được xếp vào cấp phụ thuộc bảo tồn hoặc
gần bị đe doạ.
+ Các nhóm chưa được xếp hạng:
- Thiếu số liệu - DD (Data Deficient):
Loài thiếu số liệu là loài không đủ thông tin để đánh giá trực tiếp hay gián tiếp hiểm hoạ
tuyệt chủng dựa vào phân bố hoặc tình trạng quần thể. Loài được xếp vào mức này có thể được
nghiên cứu rất nhiều và có những hiểu biết về sinh học của chúng, song lại thiếu những số liệu đáng
tin cậy về mức độ phong phú hay phân bố. Vì vậy, thiếu số liệu không phải là thứ hạng bị đe doạ
hay đe doạ thấp. Những loài được liệt kê vào nhóm này cần có thêm nhiều thông tin để trong tương
lai có thể xếp nó vào một mức đe doạ nào đó trong số các mức đe doạ kể trên.
- Chƣa đƣợc đánh giá - NE (Not Evaluated)
Loài chưa được đánh giá theo bất cứ tiêu chuẩn nào mà IUCN đã đưa ra.
17


* Cần lưu ý: Trong Sách Đỏ Việt Nam, phần động vật (1992) và phần Thực vật (1996) đã
sử dụng các cấp đánh giá cũ của IUCN (1978) và một số điểm khác như sau:
+ Hiếm - R (Rare): Gồm những taxon (nhóm đã được phân loại) có phân bố hẹp, nhất là
những chi, giống đơn loài, có số lượng ít, tuy hiện nay chưa phải là đối tượng đang hoặc sẽ bị đe doạ
nhưng sự tồn tại lâu dài của chúng là rất mỏng manh.

+ Bị đe doạ - T (Threatened): Là những taxon thuộc một trong những cấp đe doạ kể trên
nhưng chưa đủ tư liệu để xếp chúng vào cấp cụ thể nào.
+ Không biết chính xác - IK (Insufficiently Known): Là những taxon còn nghi ngờ và không
biết chắc chắn chúng thuộc loại nào trong các cấp trên vì thiếu thông tin. Do vậy cần nghiên cứu
thêm để xác định cụ thể mức đe doạ của chúng.
Bảng 2.2. Số loài động vật bị đe doạ và tuyệt chủng, tổng hợp từ danh mục các loài bị đe
doạ của IUCN (1996)
Mức độ
Rất
nguy Nguy cấp
Sắp
nguy Bị đe doạ
Tuyệt chủng
Lớp
cấp
cấp
169
315
612
1096
89
Thú
Chim
168
235
704
1107
108
Bò sát
41

59
153
253
21
Lưỡng cư
18
31
75
124
5
Côn trùng
44
116
377
537
73
Các loài khác
471
423
1194
2088
343
Nguồn: Bryant (2004)
2.3. Khái niệm về tuyệt chủng
Khái niệm tuyệt chủng có rất nhiều ý nghĩa và khác nhau tùy thuộc vào từng bối cảnh
cụ thể. Một loài bị coi là tuyệt chủng (extinct) khi không còn một cá thể nào của loài đó còn
sống sót tại bất kỳ nơi nào trên thế giới. Nếu như một số cá thể của loài còn sót lại chỉ nhờ vào
sự kiểm soát, chăm sóc, nuôi dưỡng của con người, thì loài này được coi là đã bị tuyệt chủng
trong thiên nhiên hoang dã (extinct in the wild). Trong hai trường hợp trên, các loài có thể coi
như bị tuyệt chủng trên phạm vi toàn cầu (globally extinct). Một loài bị coi là tuyệt chủng cục

bộ (locally extinct) nếu như chúng không còn sống sót tại nơi chúng đã từng sinh sống, nhưng
người ta vẫn còn tìm thấy chúng tại những nơi khác trong thiên nhiên. Một số nhà sinh học sử
dụng cụm từ loài bị tuyệt chủng về phương diện sinh thái học (ecologically extinct), điều đó
có nghĩa là số lượng cá thể loài còn lại ít đến nổi tác dụng của nó không có chút ý nghĩa nào
đến những loài khác trong quần xã.
Một vấn đề quan trọng đối với sinh học bảo tồn đó là khi nào thì một loài sẽ tuyệt chủng
bởi sự giảm thiểu đáng kể phạm vi của nó, hay là sự suy thoái và chia cắt nơi sống?
Khi quần thể của loài có số lượng cá thể hạ xuống ở mức độ báo động nhất định, nhiều
khả năng loài sẽ bị tuyệt chủng. Trong một số quần thể một vài cá thể có thể sống dai dẳng vài
năm hay vài thập kỷ, thậm chí có thể sinh sản, nhưng rồi cuối cùng số phận của nó cũng bị tuyệt
chủng. Đặc biệt trong các loại cây gỗ, các cá thể bị cách ly, không sinh sản có thể tồn tại đến hàng
trăm năm. Những loài này được coi là “cái chết đang sống”. Nói một cách nghiêm túc thì loài
không bị tuyệt chủng vì một số cá thể còn sống, nhưng quần thể không còn sinh sản nữa, do vậy,
tương lai của nó được giới hạn trong quãng thời gian ngắn ngủi của các cá thể còn lại.
2.3.1. Tuyệt chủng là một quá trình tự nhiên
Sự đa dạng loài trên thế giới đã được tăng lên kể từ khi cuộc sống được hình thành. Sự gia
tăng này không đều, hay đúng hơn mang tính chất của các thời kỳ có tỷ lệ hình thành loài cao, theo
18


sau đó là thời kỳ thay đổi không đáng kể và giai đoạn tuyệt chủng hàng loạt (mass extinction). Điều
đó được coi như là hậu quả của một số vấn đề nguy hại có qui mô lớn, như là sự tràn ngập của nham
thạch núi lửa, sự va chạm của các thiên thạch gây ra những sự thay đổi mạnh mẽ trong khí hậu trái
đất làm nhiều loài không còn khả năng tồn tại. Tuy nhiên, sự tuyệt chủng loài xảy ra thậm chí không
bắt nguồn từ những xáo động to lớn. Lý thuyết tiến hóa nói rõ rằng một loài có thể bị dồn vào tuyệt
chủng do không cạnh tranh nổi với một loài khác hay do bị ăn thịt. Một loài có thể tiến hóa từ một
loài khác để đáp ứng với những thay đổi của môi trường hay là do sự thay đổi ngẫu nhiên của quỹ
gen. Hiện tại chúng ta cũng không biết đầy đủ những nhân tố xác định sự phồn thịnh hay suy thoái
của một loài, nhưng ít nhất chúng ta có thể khẳng định rằng sự tuyệt chủng là một hiện tượng nằm
trong chu trình vận động của tự nhiên tương tự như sự hình thành loài.

2.3.2. Tuyệt chủng do con ngƣời gây ra
Các nhóm sinh vật tiến hóa cao như côn trùng, động vật không xương và các loài thực
vật có hoa, đạt đến sự đa dạng nhất vào khoảng 30.000 năm trước. Tuy nhiên, kể từ thời gian
đó, sự giàu có về loài đã giảm do sự gia tăng của quần thể người.
Tác động dễ nhận thấy đầu tiên về hoạt động của con người vào tỷ lệ tuyệt chủng có
thể thấy vào sự sa sút các loài thú lớn ở Australia và Nam, Bắc Mỹ vào thời gian mà con
người bắt đầu thống trị hai lục địa này từ hàng ngàn năm trước. Chỉ một thời gian ngắn sau
khi con người đặt chân đến, 74% đến 86% các loài thú lớn, có trọng lượng hơn 40 kg, trong
các vùng này bị tuyệt chủng. Nguyên nhân trực tiếp của sự tuyệt chủng này có thể là do săn
bắn, và nguyên nhân gián tiếp là do đốt rừng và khai hoang.
Tỷ lệ tuyệt chủng được biết rõ nhất là về chim và thú do chúng là những loài tương đối
lớn, được nghiên cứu kỹ và dễ làm cho người ta chú ý. Tỷ lệ tuyệt chủng của các loài còn lại chỉ là
dự đoán. Tuy vậy, tỷ lệ tuyệt chủng ngay cả của chim và thú cũng không chắc chắn, do một số
loài được coi là tuyệt chủng thì được phát hiện lại, các loài khác được cho là hiện đang có thì có
thể thật sự đã tuyệt chủng. Dựa vào các chứng cứ có sẵn thì khoảng 85 loài thú và 113 loài chim
đã bị tuyệt chủng từ năm 1600, tương ứng với 2,0% các loài thú và 1,3% các loài chim. Trong khi
những con số ban đầu này có vẻ như chưa ở mức báo động thì xu hướng tuyệt chủng tăng rất
nhanh trong khoảng 150 năm lại đây.
Tỷ lệ tuyệt chủng của chim và thú vào khoảng 1 loài trong 10 năm trong thời gian từ 1600
-1700, nhưng tỷ lệ này tăng lên 1 loài/năm trong thời gian từ 1850 -1950. Sự gia tăng tỷ lệ tuyệt
chủng loài là một sự chỉ định về tính nghiêm trọng của vấn đề đe dọa đa dạng sinh học. Nhiều loài
còn chưa bị tuyệt chủng nhưng đã bị hao hụt rất nhiều do các hoạt động của con người và chỉ tồn
tại với số lượng rất thấp. Những loài này cũng được coi là tuyệt chủng sinh thái và chúng không
còn vai trò gì trong tổ chức quần xã. Tương lai của nhiều loài là không chắc chắn. Khoảng 11%
các loài chim tồn tại trên trái đất đang bị đe dọa tuyệt chủng cũng với tỷ lệ như thế cho các loài
thú (Bảng 2.2.). Sự đe dọa đối với các loài cá nước ngọt và thân mềm cũng ở mức trầm trọng
tương tự. Các loài thực vật cũng bị đe dọa, nhất là nhóm cây hạt trần.
Bảng 2.3: Số loài bị đe dọa tuyệt chủng trong các nhóm động vật và thực vật chính

19



2.3.3. Sự tuyệt chủng hàng loạt
Theo các nhà khoa học, tuyệt chủng hàng loạt là những sự kiện tuyệt chủng xảy ra ở
qui mô lớn, đã tác động đến sinh vật trong các môi trường khác nhau ở đất liền và biển, gây ra
những mất mát nặng nề về số lượng trong các bậc phân loại.
* Tuyệt chủng hàng loạt trong quá khứ.
Theo một đánh giá về số loài đã tồn tại trên trái đất thì có đến 99,9% số loài đã bị
tuyệt chủng. Hay nói một cách khác, số các loài động vật, thực vật, vi sinh vật hiện có chỉ
chiếm 0,1% tổng số loài đã từng sống trên hành tinh.
Trong lịch sử tiến hoá của trái đất, hầu hết các loài bị mất đi do các thời kỳ tuyệt
chủng, trong đó có 5 thời kỳ tuyệt chủng hàng loạt nghiêm trọng kéo dài trong thời gian 350
triệu năm. Năm thời kỳ tuyệt chủng hàng loạt này được xác định qua việc nghiên cứu các dẫn
chứng của những thay đổi các hoá thạch động, thực vật. Ordovician muộn (440 triệu năm
trước): khí hậu toàn cầu ấm lên gây ra sự tuyệt chủng của một phần lớn các loài trong đại
dương. Devonian muộn (360 triệu năm trước): nhiều quá trình ảnh hưởng đến sự tuyệt chủng
trong giai đoạn này đó là những tác động bên ngoài trái đất, mức nước biển thay đổi, thay đổi
khí hậu và hiệu ứng lạnh toàn cầu.
Trong số 5 sự kiện tuyệt chủng hàng loạt thì sự kiện được con người biết rõ nhất xảy
ra ở kỷ phấn trắng và kỷ thứ ba (Cretaceous và Tertiary), còn gọi là thời kỳ K/T, cách đây 66
triệu năm trước. Đây là thời kỳ các giống động vật biển bị mất trong diện rộng, tạo ra những
thay đổi cơ bản trong các hệ sinh thái trên cạn và sự biến mất của khủng long. Khi khủng long
bị mất đi và các cấu trúc của hệ sinh thái thay đổi, các loài thú có cơ hội để gia tăng về kích
thước và đa dạng hoá loại hình. Trong thời kỳ tiến hoá đổi mới này, các loài linh trưởng phát
triển mạnh và loài người (Homo sapiens) xuất hiện.
* Tuyệt chủng hàng loạt ngày nay
Tuyệt chủng hàng loạt trong giai đoạn hiện nay, hay còn gọi là tuyệt chủng hàng loạt
thứ 6, xảy ra vào kỷ Pleistocent từ hơn 1 triệu năm trước. Đây là thời kỳ có những biến động
lớn về khí hậu toàn cầu, sự dâng cao và hạ thấp mức nước biển cùng với sự mở rộng vùng
phân bố của loài người từ Châu Phi, Châu Âu, Á đến các vùng khác trên thế giới. Đặc tính

quan trọng nhất của sự tuyệt chủng trong giai đoạn này liên quan với sự lan rộng của loài
người trên khắp thế giới, trong đó các loài thú có kích thước lớn hơn 44 kg, bị tuyệt chủng đến
74 - 86%.
So với các sự kiện tuyệt chủng hàng loạt xảy ra trong quá khứ thì tuyệt chủng hàng
loạt trong giai đoạn hiện nay có tỷ lệ tuyệt chủng cao nhất. Tỷ lệ tuyệt chủng trung bình trong
quá khứ là 0,0001 đến 0,00001% số loài mỗi năm, trong khi đó tỷ lệ tuyệt chủng ở giai đoạn
hiện nay là 0,01% (gấp từ 100 -1000 lần tỷ lệ tuyệt chủng trong quá khứ).
Khác với các cuộc tuyệt chủng hàng loạt trong quá khứ, xảy ra chủ yếu do các hiện
tượng thiên nhiên, tuyệt chủng hiện nay chủ yếu do con người. Cứ 100 loài bị tuyệt chủng thì
có đến 99 loài là do con người. Ngoài ra, theo sau các cuộc tuyệt chủng hàng loạt trong quá
khứ là sự hình thành loài mới để bù đắp cho số loài bị mất đi, còn sự tuyệt chủng hàng loạt
giai đoạn hiện nay không kèm theo sự hình thành loài mới.
2.4. Nguyên nhân gây suy thoái đa dạng sinh học
2.4.1. Khai thác quá mức
Nhằm thoả mãn các nhu cầu của cuộc sống, con người đã thường xuyên săn bắn, hái
lượm thực phẩm và khai thác các nguồn tài nguyên khác. Khi dân số loài người vẫn còn ít và
phương pháp thu hái còn thô sơ, con người đã thu hái và săn bắt một cách bền vững mà không
làm cho các loài trở nên tuyệt chủng. Tuy vậy, khi dân số tăng lên, nhu cầu khai thác tài
20


nguyên cũng tăng theo. Các phương pháp thu hái dần dần được cải tiến và trở nên hữu hiệu
hơn. Việc khai thác quá mức là nguyên nhân thứ hai sau nguyên nhân mất nơi cư trú và là một
trong những nguyên nhân quan trọng dẫn các loài đến tuyệt chủng.
Trong luật lệ xã hội từ xa xưa, đã tồn tại những qui định nghiêm ngặt hạn chế việc
khai thác quá mức các nguồn tài nguyên thiên nhiên, ví dụ, quyền được phép săn bắn trong
một khu vực nhất định được kiểm soát rất chặt chẽ; một số khu vực hoàn toàn không được
phép săn bắn; cấm săn bắn các con cái, con non và theo những kích cở qui định; không được
săn bắn vào một số thời gian trong năm và vào một số thời gian trong ngày. Các quy định này
đảm bảo cho sự khai thác các nguồn tài nguyên được lâu dài hơn và bền vững hơn. Thế mà

trên thế giới ngày nay, các nguồn tài nguyên thiên nhiên đang bị khai thác bằng các phương
tiện nhanh nhất mà con người có thể có. Hễ có thị trường tiêu thụ sản phẩm là người dân sẽ
tìm cách khai thác tối đa nguồn tài nguyên của họ để sử dụng, để bán sản phẩm thu lợi nhuận
làm giàu. Việc khai thác quá mức các nguồn tài nguyên thường được đẩy mạnh hơn khi thị
trường thương mại có nhu cầu sử dụng một loài chưa hề được khai thác trước kia hoặc mới
chỉ được khai thác trong phạm vi một địa phương nhỏ hẹp.
Các nhà nghiên cứu trong lĩnh vực quản lý các loài hoang dã, đánh bắt cá và lâm
nghiệp đã cố gắng xây dựng một phương pháp tính toán mô hình để xác định số lượng tối đa
có thể khai thác được một cách bền vững của các nguồn tài nguyên. Lượng tối đa nguồn tài
nguyên có thể khai thác được một cách bền vững là sản lượng có thể thu hoạch hằng năm
tương đương với năng suất mà quần thể tự nhiên sản sinh ra được. Trong thực tế việc săn bắt
khai thác các loài theo định mức cho phép là khó thực hiện. Để thỏa mãn nhu cầu kinh doanh
buôn bán địa phương và duy trì việc làm, các chính phủ thường đặt ra mức kế hoạch khai thác
quá cao gây tổn hại đối với các nguồn tài nguyên. Một điều khó khăn nữa là dù định mức khai
thác có thể ổn định, nhưng bản thân nguồn tài nguyên tự nó lại biến đổi; việc đánh bắt cá theo
một định mức bình quân trong suốt cả năm vào thời điểm mà sản lượng nguồn cá bị suy giảm
do điều kiện thời tiết không bình thường có thể làm suy thoái hoặc hủy hoại nghiêm trọng
quần thể của loài cá này. Các loài di cư vượt qua biên giới hai quốc gia đi vào hải phận quốc
tế rất khó có thể được khai thác một cách bền vững do vấn đề phối hợp thực hiện các công
ước thỏa thuận quốc tế.
Điều hy vọng cho các loài đang bị khai thác quá mức là đến một lúc nào đó chúng chỉ
còn lại ít ỏi và sẽ không còn là đối tượng săn bắt thương mại và số lượng của chúng sẽ có điều
kiện để phục hồi.
2.4.2. Sự du nhập các loài ngoại lai
Phạm vi sống về địa lý của nhiều loài được giới hạn bởi các hàng rào do chính các yếu
tố môi trường và khí hậu tạo ra ngăn cản sự phát tán. Các sa mạc, đại dương, đỉnh núi, và
những dòng sông đều đã ngăn cản sự di chuyển của các loài. Con người đã làm thay đổi cơ
bản đặc tính này bằng việc vận chuyển phát tán các loài trên toàn cầu. Tại thời kỳ trước cách
mạng công nghiệp, con người mang các cây trồng và vật nuôi từ chổ này sang chỗ khác khi họ
tạo dựng những nơi định cư và các thuộc địa mới. Ngày nay đã có một lượng lớn các loài do

vô tình hay cố ý, được đem đến những khu vực không phải là nơi cư trú gốc của chúng.
Những loài đó đã được du nhập do các nguyên nhân sau đây:
* Chế độ thuộc địa của các nước Châu Âu: những người Châu Âu mang đến một vùng
thuộc địa mới mang theo các hàng trăm giống chim, thú của Châu Âu để làm cho phong cảnh
ở đây trở nên thân quen với họ cũng như tạo ra thú vui săn bắn.
* Nghề trồng cây cảnh và làm nông nghiệp: nhiều loài cây được mang đến và trồng tại
những vùng đất mới như cây cảnh, cây nông nghiệp hoặc cây cho chăn nuôi gia súc.
21


×