Tải bản đầy đủ (.pdf) (79 trang)

Hướng dẫn học sinh THPT rút ra bài học nhận thức trong giờ học nghị luận về một hiện tượng đời sống (2016)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (793.08 KB, 79 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN

NGUYỄN THÀNH LĂNG

HƯỚNG DẪN HỌC SINH THPT
RÚT RA BÀI HỌC NHẬN THỨC
TRONG GIỜ HỌC NGHỊ LUẬN VỀ
MỘT HIỆN TƯỢNG ĐỜI SỐNG

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Phương pháp dạy học Ngữ văn

Người hướng dẫn khoa học
TS. PHẠM KIỀU ANH

HÀ NỘI - 2016


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành và lòng biết ơn sâu sắc tới cô giáo, TS.
Phạm Kiều Anh - người đã trực tiếp hướng dẫn, giúp đỡ, chỉ bảo tận tình để tôi
hoàn thành khóa luận này.
Tôi cũng xin bày tỏ lòng biết ơn của mình tới các thầy, cô giáo trong khoa
Ngữ Văn, đặc biệt là các thầy cô trong tổ Phương pháp dạy học Ngữ văn, trường
Đại học Sư phạm Hà Nội 2 và các bạn sinh viên trong nhóm khóa luận đã tạo điều
kiện giúp đỡ tôi hoàn thành khóa luận.
Tôi xin trân trọng cảm ơn!
Hà Nội, ngày 19 tháng 04 năm 2016
Sinh viên thực hiện


Nguyễn Thành Lăng


LỜI CAM ĐOAN
Khóa luận được hoàn thành dưới sự hướng dẫn trực tiếp của cô giáo Phạm
Kiều Anh. Tôi xin cam đoan:
- Khóa luận là kết quả nghiên cứu, tìm tòi của riêng tôi.
- Các tư liệu được trích dẫn trong khóa luận là trung thực.
- Kết quả khóa luận chưa từng được công bố ở bất cứ công trình nghiên cứu nào.
Nếu sai, tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Hà Nội, ngày 19 tháng 04 năm 2016
Tác giả

Nguyễn Thành Lăng


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

CH

Câu hỏi

GD & ĐT

Giáo dục và đào tạo

GV

Giáo viên


HS

Học sinh

NXB

Nhà xuất bản

NLXH

Nghị luận xã hội

SGK

Sách giáo khoa

SGV

Sách giáo viên

THCS

Trung học cơ sở

THPT

Trung học phổ thông

TP


Thành phố

XHCN

Xã hội chủ nghĩa


MỤC LỤC

Trang
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
1. Lí do chọn đề tài ..................................................................................................1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ...................................................................................2
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu ..........................................................................5
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu ...........................................................................6
5. Phương pháp nghiên cứu .....................................................................................6
6. Đóng góp của khóa luận ......................................................................................7
7. Bố cục của khóa luận ...........................................................................................7
NỘI DUNG ................................................................................................................8
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN ................................8
1.1. Những vấn đề chung về bài học nhận thức ...................................................8
1.2. Những cơ sở lí luận của giáo dục học và tâm lí học .....................................8
1.2.1. Cơ sở giáo dục học .................................................................................8
1.2.2. Cơ sở tâm lí học ....................................................................................11
1.3. Những cơ sở lí luận của nghị luận về một hiện tượng đời sống .................12
1.3.1. Khái niệm nghị luận về một hiện tượng đời sống .................................12
1.3.2. Đặc trưng cơ bản của dạng bài nghị luận về một hiện tượng đời sống
.........................................................................................................................13



1.4. Cơ sở thực tiễn.............................................................................................15
1.4.1. Điều tra, khảo sát thực trạng dạy học bài “Nghị luận về một hiện
tượng đời sống” ở trường THPT ....................................................................15
1.4.2. Đánh giá chung .....................................................................................19
CHƯƠNG 2. DẠY HỌC BÀI NGHỊ LUẬN VỀ MỘT HIỆN TƯỢNG ĐỜI
SỐNG KẾT HỢP VỚI HƯỚNG DẪN HỌC SINH RÚT RA BÀI HỌC
NHẬN THỨC .......................................................................................................20
2.1. Mục đích của việc dạy bài “Nghị luận về một hiện tượng đời sống” .........20
2.2. Bài “Nghị luận về một hiện tượng đời sống” trong SGK Ngữ văn 12 ........20
2.2.1. Cấu trúc bài học....................................................................................20
2.2.2. Những kiến thức và kỹ năng cần đạt trong bài “Nghị luận về một hiện
tượng đời sống” ..............................................................................................21
2.3. Cơ sở của việc hướng dẫn học sinh rút ra bài học nhận thức con người học
sinh trong bài “Nghị luận về một hiện tượng đời sống” ....................................24
2.4. Xác định nội dung kiến thức có thể rút ra bài học nhận thức cho học sinh
THPT trong giờ “Nghị luận về một hiện tượng đời sống”.................................25
2.4.1. Rút ra bài học nhận thức cho học sinh khi phân tích ngữ liệu ............. 25
2.4.2. Rút ra bài học nhận thức cho học sinh khi liên hệ bản thân ................ 28
2.4.3. Rút ra bài học nhận thức cho học sinh khi thực hiện các bài luyện tập .......... 29
2.5. Quy trình dạy bài “Nghị luận về một hiện tượng đời sống” có kết hợp việc
hướng dẫn học sinh rút ra bài học nhận thức .....................................................32
2.5.1. Sử dụng câu hỏi để kiểm tra bài cũ ...................................................... 33


2.5.2. Giới thiệu bài mới ................................................................................. 34
2.5.3. Hướng dẫn học sinh tham gia bài học thông qua hệ thống câu hỏi ..... 35
2.5.4. Hướng dẫn học sinh rút ra kết luận ...................................................... 37
2.5.5. Thực hành ............................................................................................. 37
CHƯƠNG 3. THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM ......................................................40
3.1. Mục đích thực nghiệm .................................................................................40

3.2. Đối tượng thực nghiệm................................................................................40
3.3. Địa bàn thực nghiệm ...................................................................................41
3.4. Thời gian thực nghiệm ................................................................................41
3.5. Nội dung thực nghiệm .................................................................................41
3.6. Kết quả thực nghiệm ...................................................................................54
KẾT LUẬN ..............................................................................................................58
TÀI LIỆU THAM KHẢO
CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ
PHỤ LỤC


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Tích hợp là một trong những xu thế dạy học hiện đại đang được quan
tâm nghiên cứu và áp dụng vào nhà trường ở nhiều nước trên thế giới. Ở nước ta,
tích hợp đã và đang tiếp tục được quán triệt và áp dụng vào đổi mới giáo dục phổ
thông. Làm văn là một trong “tam vị nhất thể” của môn Ngữ văn. Mục đích của
việc dạy học phân môn này ở trường phổ thông là giúp cho các em biết tạo lập các
kiểu văn bản thiết yếu, phục vụ cho nhu cầu và cuộc sống của từng cá nhân. Theo
đó, khi vận dụng quan điểm tích hợp vào dạy học phân môn này, GV có nhiều điều
kiện để củng cố và mở rộng cho HS những kiến thức, kỹ năng có liên quan, tránh
được những vướng mắc dư thừa chồng chéo nội dung khi dạy Đọc hiểu văn bản,
Tiếng Việt. Hiện nay, cùng với quan niệm học văn là học những điều cơ bản về
cuộc sống để có thể trở thành người công dân có ích của xã hội, nhiều nội dung kiến
thức, kỹ năng của Làm văn đã được trình bày theo hướng gắn liền với thực tế cuộc
sống. NLXH - trong đó có nghị luận về một hiện tượng đời sống cũng được triển
khai với dụng ý đó.
1.2. Đạo đức là một phạm trù rộng lớn và trừu tượng trong cuộc sống xã hội.
Nó được coi là thước đo đánh giá giá trị, nhân cách của con người. Để vươn tới sự
hoàn thiện trước hết con người phải vươn lên về đạo đức. Văn kiện Hội nghị lần thứ

IX, Ban Chấp hành Trung ương khóa X đã đánh giá một trong những mặt hạn chế
yếu kém trong lĩnh vực giáo dục như sau: Trong sự nghiệp giáo dục toàn diện dạy
làm người và dạy nghề là yếu kém nhất, giáo dục về lý tưởng sống, phẩm chất đạo
đức yếu. HS thiếu hiểu biết về truyền thống văn hóa, lịch sử dân tộc của Đảng về
quyền lợi nghĩa vụ công dân, chất lượng giáo dục còn buông lỏng, nhất là giáo dục
đạo đức lối sống của HS, sinh viên có nhiều biểu hiện rất đáng lo ngại. Nhà tâm lý
học Vũ Kim Thanh từng cho rằng: Nếu không có sự quan tâm đúng mức, chúng ta
sẽ mất cả một thế hệ. Nhận định trên đã khẳng định việc giáo dục đạo đức HS thông

1


qua các môn học trong nhà trường là cần thiết. Vì thế, bên cạnh việc trang bị cho
HS hệ thống kiến thức và những kỹ năng cơ bản, GV còn phải quan tâm tới việc
hướng dẫn các em biết rút ra những bài học nhận thức đã học để ứng dụng trong
cuộc sống hàng ngày. Với những nội dung kiến thức có tính thực tiễn cao như
NLXH, trong quá trình dạy học, GV có thể phối hợp cung cấp kiến thức, kỹ năng và
cả giáo dục HS thông qua những bài học nhận thức.
1.3. Khi dạy học, GV phải hướng tới ba nhiệm vụ cơ bản là kiến thức, kỹ
năng và thái độ. Đó cũng là tiền đề để hình thành và phát triển năng lực người học.
Vì thế, chúng ta cần tìm ra những hình thức để giáo dục thái độ, nhận thức cho HS
trong từng bài học, từng nội dung học tập giúp các em trở thành những con người
không chỉ có tài mà còn có cả đức, để các em trưởng thành và là người có ích cho
xã hội.
Xuất phát từ những lí do trên, chúng tôi chọn nghiên cứu đề tài “Hướng dẫn học
sinh THPT rút ra bài học nhận thức trong giờ học Nghị luận về một hiện tượng đời
sống”.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
2.1. Lịch sử nghiên cứu dạy học bài “Nghị luận về một hiện tượng đời sống”
Bắt nguồn từ nhu cầu của cuộc sống, của xã hội và quay trở lại phục vụ cuộc

sống xã hội, văn nghị luận có vai trò to lớn đối với mỗi con người. Cũng bởi thế,
các nhà nghiên cứu đã dành nhiều sự quan tâm và nghiên cứu về kiểu văn bản này.
Các nhà khoa học khi nghiên cứu về văn nghị luận đều khẳng định: Văn
nghị luận là loại văn trong đó người viết (người nói) sử dụng lí luận, bao gồm lí lẽ,
dẫn chứng, trình bày những ý kiến của mình để làm rõ một vấn đề nào đó, qua đó
thuyết phục người đọc (người nghe) hiểu, tin theo những ý kiến đó. Văn nghị luận
bao gồm nghị luận văn học và NLXH.

2


Xét riêng về NLXH, chúng ta có thể nhận thấy đó là một dạng của văn bản
nghị luận, nó hướng tới mục đích là bàn luận về các vấn đề liên quan đến các mối
quan hệ của con người nhằm tạo ra những tác động tích cực đến con người và
những mối quan hệ giữa người với người trong đời sống xã hội. Cũng bởi thế, đối
tượng được bàn luận trong đó khá rộng lớn. Đó có thể là những câu chuyện, những
lời nói, những hành động, việc làm của những con người trong cuộc sống hàng
ngày; đó cũng có thể là những quan điểm sống, những vấn đề, hiện tượng xoay
quanh cuộc sống con người trong xã hội. Trong chương trình Ngữ văn, Nghị luận về
một hiện tượng đời sống được triển khai dạy từ THCS và THPT. Theo đó, đã có
một số nhà khoa học nghiên cứu về việc dạy học kiểu bài này, có thể kể tới những
công trình như:
Các tác giả: Đỗ Ngọc Thống, Phạm Minh Hiếu, Nguyễn Thành Thi trong
cuốn Làm văn có đánh giá về văn bản NLXH. Ở đây, các tác giả đã chỉ ra phạm trù
của NLXH đó là: Nghị luận chính trị; nghị luận đạo đức, tư tưởng; nghị luận hiện
tượng đời sống xã hội. Bên cạnh đó, trong cuốn sách này các tác giả cũng lưu ý một
số điểm khác nhau khi làm đề văn NLXH với nghị luận văn học, giữa nghị luận về
một hiện tượng đời sống với nghị luận về một tư tưởng, đạo lí. Tuy nhiên, các tác
giả chưa nêu ra cách dạy học hiệu quả cho dạng bài nghị luận này một cách cụ thể.
Nhóm tác giả Nguyễn Trọng Hoàn trong cuốn Văn nghị luận trong chương

trình Ngữ văn Trung học cơ sở cũng chỉ ra cách phân loại căn cứ vào nội dung bài
học sẽ có các loại sau: nghị luận chính trị (đề tài là các vấn đề chính trị), nghị luận
xã hội (đề tài là các vấn đề xã hội), nghị luận đạo đức (đề tài là các vấn đề đạo đức,
nhân sinh quan), nghị luận văn học (đề tài là các vấn đề trong văn học)… Ở đây, tác
giả tách nghị luận chính trị, nghị luận đạo đức thành kiểu bài riêng không nằm trong NLXH
như các tác giả trong cuốn Làm văn. Dù phân chia như vậy, song các tác giả cũng đã đề cập
đến sự khác nhau về đề tài của các kiểu bài và đặc trưng cơ bản của NLXH.
Trong cuốn Rèn luyện kĩ năng văn nghị luận của Bảo Quyến, tác giả cũng đã
bàn về văn nghị luận. Theo Bảo Quyến, văn nghị luận cũng được phân làm hai loại:
3


Nghị luận văn học và NLXH. Trong văn NLXH lại bao gồm nhiều dạng khác nhau như:
Nghị luận đạo đức, tư tưởng; nghị luận về một hiện tượng đời sống… Tuy nhiên, cuốn sách
này cũng chưa bàn luận nhiều tới việc dạy học văn nghị luận, trong đó có nghị luận về một
hiện tượng đời sống. Cũng bàn đến phương pháp dạy học kiểu bài nghị luận, trong
cuốn Hướng dẫn chương trình SGK lớp 12 môn Ngữ văn, các tác giả đã nêu ra quy
trình dạy học bài Nghị luận về một hiện tượng đời sống. Theo đó, quy trình dạy học
kiểu bài này gồm các bước (Bước 1: Tìm hiểu đề, xác định yêu cầu đề bài; Bước 2:
Tìm ý và lập dàn ý; Bước 3: Xây dựng dàn ý; Bước 4: HS thảo luận để rút ra cách
làm và sau đó đọc phần Ghi nhớ; Bước 5: Luyện tập thực hành).
Như vậy, cho đến nay có khá nhiều công trình nghiên cứu bàn về văn nghị
luận nói chung và nghị luận về một hiện tượng đời sống nói riêng. Đa phần các
công trình nghiên cứu đó mới chỉ đề cập đến các bước làm bài nghị luận về một
hiện tượng đời sống hay những cách hiểu chung chung về kiểu bài này. Trong khi
đó, việc giáo dục đạo đức HS nhằm mục đích giáo dục HS cả về kiến thức, kỹ năng
và thái độ giúp các em có sự phát triển toàn diện cả về nhận thức và nhân cách
dường như chưa được chú trọng.
2.2. Lịch sử nghiên cứu dạy học bài “Nghị luận về một hiện tượng đời
sống” có kết hợp với việc hướng dẫn học sinh rút ra bài học nhận thức

Bàn về vấn đề giáo dục nhận thức về đạo đức, con người HS, có thể kể tới
một số công trình như:
TS. Phạm Thị Kim Anh trong Tạp chí Giáo dục và Xã hội, số 38 (99) tháng 5
- 2014, khi bàn về Đạo đức học sinh đang thách thức năng lực giáo dục của người
thầy, đã đề cập đến vấn đề giáo dục con người HS. Trong phần mở đầu, TS. Phạm
Thị Kim Anh viết: Trong những năm gần đây nhiều câu chuyện buồn liên tiếp xảy
ra như: trò tạt cả chậu axít vào người thầy vì không được nâng điểm thi, kiện lại
thầy vì bị phạt hít đất trong giờ thể dục (ở Thành phố Hồ Chí Minh); rút dây nịt
quất vào đầu, vào mặt thầy giáo đến khi ngất xỉu chỉ vì thầy gọi giám thị mời trò ra

4


khỏi lớp do đánh cờ, la ó trong giờ học (ở An Giang); lao vào đánh hội đồng khi bị
thầy tát (ở Bình Định),… để thầy bị sa thải và còn biết bao trường hợp chặn đánh
thầy giữa đường, ngang nhiên thách thức lại thầy cô giáo, hỗn láo với thầy cô trong
giờ học,… đang làm dư luận xã hội dậy sóng và làm dấy lên nhiều câu hỏi: “Phải
chăng đã đến thời thầy phải sợ trò”. Những biểu hiện trên cho thấy chúng ta cần
phải chú trọng, quan tâm tới giáo dục đạo đức, nhân cách và lối sống của thanh
thiếu niên, trong đó có HS. Hiện nay, cùng với nhiệm vụ đổi mới toàn diện giáo
dục, Bộ GD & ĐT đã xác định dạy học các tri thức khoa học phải hướng tới nhiệm
vụ hình thành năng lực, các tri thức cũng phải gắn liền với thực tế để các em có thể
có những trải nghiệm sáng tạo; hình thành con người HS toàn diện ở các phương
diện trí, thể, mĩ để các em trở thành những công dân có ích cho xã hội. Với tinh
thần trên, có thể thấy việc dạy và học các phân môn, trong đó có cả dạy học những
tri thức Làm văn đều có thể gắn với mục đích giáo dục nhân cách HS. Tuy nhiên,
trên thực tế, khi khảo sát và tìm hiểu các công trình nghiên cứu việc dạy học Làm
văn nói chung, Làm văn nghị luận trong đó có dạy học bài Nghị luận về một hiện
tượng đời sống, chúng tôi nhận thấy các công trình đó chưa chú trọng tới giáo dục
đạo đức, nhân cách cho HS mà mới chỉ dừng lại ở việc hướng dẫn HS biết cách tích

hợp kiến thức và kỹ năng để tạo lập văn bản. Đây chính là những gợi dẫn để chúng
tôi triển khai đề tài này.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Khi nghiên cứu đề tài này, chúng tôi hướng đến các mục đích sau:
- Hệ thống những cơ sở khoa học khi dạy học một nội dung kiến thức trong
chương trình Ngữ văn THPT có hướng tới việc giáo dục HS thông qua những bài
học nhận thức.
- Bước đầu đề xuất những hình thức hướng dẫn HS rút ra bài học nhận thức
nhằm giáo dục nhân cách các em.

5


- Góp phần nhỏ bé vào việc tìm ra những cách tổ chức hoạt động dạy học bài
Nghị luận về một hiện tượng đời sống đạt hiệu quả.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu của đề tài, khóa luận tập trung vào những
nhiệm vụ chủ yếu sau:
- Tổng hợp những tri thức cơ bản về bài học nhận thức, về nghị luận xã hội.
- Khảo sát cơ sở thực tiễn của đề tài.
- Nêu ra cách vận dụng những kiến thức để giáo dục con người HS trong giờ
Nghị luận về một hiện tượng đời sống.
- Bước đầu kiểm chứng tính khả thi của những đề xuất được nêu ra.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Khoá luận tập trung tìm hiểu cách hướng dẫn HS rút ra những bài học nhận
thức trong giờ học làm văn nghị luận xã hội nhằm mang tới cho các em những hiểu
biết, những suy nghĩ, nhận thức để hình thành những con người có ích cho xã hội.
4.2. Phạm vi nghiên cứu

Gắn với nội dung đề tài, chúng tôi xác định phạm vi nghiên cứu của đề tài là
bài Nghị luận về một hiện tượng đời sống, được dạy cho HS lớp 12 - THPT.
5. Phương pháp nghiên cứu
Thực hiện đề tài này, chúng tôi sử dụng những phương pháp chính sau:
5.1. Phương pháp thống kê
Phương pháp này được sử dụng để phân loại và phân tích kết quả khảo sát
thực trạng của HS trước khi tiến hành thực nghiệm.
5.2. Phương pháp hệ thống hoá
Sử dụng phương pháp này nhằm hệ thống hoá các tri thức, lí thuyết về tích
hợp, về các kỹ năng viết bài văn NLXH trong SGK Ngữ văn 12.

6


5.3. Phương pháp so sánh đối chiếu
Phương pháp này sử dụng khi tiến hành so sánh các dạng bài NLXH nhằm
làm nổi bật vấn đề nghiên cứu trong đề tài.
5.4. Phương pháp thực nghiệm
Phương pháp này được sử dụng khi tổ chức thực nghiệm để chứng minh tính
khả thi của thiết kế, từ đó rút ra kết luận chung, cần thiết cho những đề xuất được
nêu ở chương 2.
6. Đóng góp của khóa luận
Khóa luận đi sâu vào việc hướng dẫn cho HS THPT rút ra bài học nhận thức
trong giờ Nghị luận về một hiện tượng đời sống nhằm hướng tới việc giáo dục nhân
cách HS ngoài việc trang bị tri thức. Đồng thời, góp phần nhỏ bé vào việc tìm ra
những cách tổ chức hoạt động dạy học bài Nghị luận về một hiện tượng đời sống đạt
hiệu quả.
7. Bố cục của khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, phần nội dung
của khóa luận được triển khai cụ thể thành 3 chương:

- Chương 1. Cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn
- Chương 2. Dạy học bài Nghị luận về một hiện tượng đời sống kết hợp với
hướng dẫn học sinh rút ra bài học nhận thức
- Chương 3. Thực nghiệm sư phạm

7


NỘI DUNG
CHƯƠNG 1.
CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN
1.1. Những vấn đề chung về bài học nhận thức
Trong quá trình giáo dục, mỗi môn học có nhiệm vụ giáo dục con người HS
ở những phương diện cụ thể. Theo đó, khi tiến hành hoạt động dạy học, dựa vào các
nội dung học tập mà GV hướng dẫn HS tìm ra những bài học nhận thức cho cuộc
sống. Đây là một việc làm quan trọng bởi bài học nhận thức là điều kiện cần thiết để
giúp các em phát triển thái độ và nhân cách bản thân, biết đánh giá đúng mình trong
mối quan hệ với con người và môi trường xung quanh. Thông qua bài học nhận
thức, HS có cơ hội khám phá và phát triển kinh nghiệm thiết yếu nhằm phục vụ cho chính
cuộc sống của các em. Vậy, thế nào là bài học nhận thức trong quá trình giáo dục? Hiểu
một cách đơn giản nhất, bài học nhận thức chính là những bài học, những tri thức cụ
thể được rút ra sau một quá trình chiếm lĩnh tri thức. Thông qua hoạt động nhận
thức của chủ thể HS, các em rút ra được những kinh nghiệm, những hiểu biết về
thực tế cuộc sống. Qua đó các em biết nhìn nhận, biết tự đánh giá về bản thân trong
các mối quan hệ về xã hội. Như vậy, có thể nói trong quá trình giáo dục, việc hướng
dẫn HS rút ra bài học nhận thức là một hoạt động cơ bản, giúp con người có điều
kiện để hình thành và phát triển nhân cách bản thân. Muốn việc làm này đạt hiệu
quả, khi hướng dẫn HS rút ra bài học nhận thức, GV đóng vai trò vô cùng quan
trọng. GV phải là những người nhiệt huyết, cởi mở, biết lắng nghe những tâm sự và
mong muốn của HS.

1.2. Những cơ sở lí luận của giáo dục học và tâm lí học
1.2.1. Cơ sở giáo dục học
Mục đích của giáo dục xét đến cùng là đào tạo con người nhằm đáp ứng tốt
nhất những yêu cầu của xã hội. Về cơ bản, công việc giáo dục thực chất là công

8


việc xây dựng, phát triển và hoàn thiện nhân cách HS. Hướng dẫn HS rút ra bài học
nhận thức trong quá trình giáo dục chính là việc làm nhằm hình thành, phát triển và
bồi dưỡng nhân cách của các em. C. Mác nói: Bản chất của “con người đặc thù” là
“phẩm chất xã hội”. Bởi: Nhân cách là tổ hợp những đặc điểm, những thuộc tính
tâm lý của cá nhân quy định bản sắc và giá trị xã hội của con người [20, tr. 197].
Với quan niệm trên, có thể nhận thấy nhân cách không phải là cái bẩm sinh, có sẵn.
Nó được hình thành và phát triển thông qua quá trình sống, hoạt động và giao tiếp của chủ
thể. Các nhà khoa học xác định quá trình hình thành và phát triển nhân cách con người phụ
thuộc vào các nhân tố sau đây:
Thứ nhất, di truyền. Di truyền không quyết định trực tiếp đến sự hình thành và
phát triển nhân cách của cá nhân nhưng nó lại là tiền đề vật chất, là cơ sở sinh học
cho sự hình thành và phát triển nhân cách của cá nhân. Thừa hưởng những đặc tính
di truyền tốt từ thế hệ trước là điều kiện thuận lợi cho sự phát triển toàn diện của
một nhân cách. Vì thế, chúng ta cần biết tận dụng tốt yếu tố di truyền để đạt đến sự
phát triển đỉnh cao.
Thứ hai, giao tiếp. Thông qua quá trình giao tiếp, con người lĩnh hội nhiều
nguồn tri thức, kinh nghiệm, kỹ năng… từ người khác, đồng thời điều chỉnh, thay
đổi bản thân cho phù hợp với những yêu cầu của của xã hội. Chính vì thế, giao tiếp
giúp cá nhân tăng trưởng về lượng để biến đổi về chất trong quá trình phát triển
nhân cách.
Thứ ba, môi trường. Đây là yếu tố quyết định sự hình thành và phát triển nhân
cách. Con người sống không thể tách rời môi trường. Yếu tố này có ảnh hưởng đến

sự hình thành và phát triển nhân cách của cá nhân ở các phương diện như môi
trường tự nhiên, môi trường gia đình, môi trường xã hội (đặc biệt là nhóm và tập
thể). Trong đó, gia đình là môi trường đầu tiên có vai trò định hướng tới nhân cách
của con người.

9


Thứ tư, giáo dục. Giáo dục đóng vai trò chủ đạo trong quá trình hình thành và
phát triển nhân cách của cá nhân. Thông qua hoạt động giáo dục, cá nhân được tác
động có mục đích, có phương pháp và có kế hoạch để thay đổi theo những chuẩn
mực, giá trị xã hội quy định. Tuy nhiên, giáo dục không phải là chiếc chìa khóa vạn
năng có thể mở mọi cánh cửa đã bị khóa chặt. Muốn phát triển nhân cách, khả năng
tự giáo dục cũng là yếu tố quan trọng.
Thứ năm, hoạt động của cá nhân. Loài người phát triển, hoàn thiện và tiến hóa
như hiện nay chủ yếu nhờ vào hoạt động. Có thể nói, hoạt động là phương thức tồn
tại của loài người, nó cũng là yếu tố quyết định trực tiếp đến sự hình thành và phát
triển nhân cách của từng cá nhân. Không chỉ có vậy, nó còn phản ánh tính tích cực
trong nhân cách con người. Vì thế, để hoàn thiện về nhân cách, cá nhân phải tích
cực, chủ động tham gia các hoạt động của nhóm và cộng đồng.
Trong quá trình phát triển nhân cách con người HS, giáo dục nhận thức và đạo
đức HS có ý nghĩa không nhỏ. Nó giúp cho HS từ những tri thức khoa học cơ bản,
biết vận dụng vào quá trình tự suy nghĩ, đánh giá đúng sai, phải trái, biết soi lại
mình và cũng biết bày tỏ những tâm tư tình cảm của mình. Từ đó, các em sẽ tự điều
chỉnh hành vi, cách cư xử sao cho đúng đắn, phù hợp trong các mối quan hệ với
người khác, biết hướng cuộc sống của mình vào những mục tiêu cao cả.
Làm văn là một phần kiến thức và kỹ năng quan trọng, HS được học từ Tiểu
học đến THPT. Bản chất của Làm văn là giúp cho HS biết cách tạo lập những kiểu
văn bản mà con người thường sử dụng trong đời sống hàng ngày. Theo đó, khi trình
bày những vấn đề của cuộc sống, con người cũng cần phải biết thể hiện những suy

nghĩ, nhận thức, tình cảm, thái độ và chính kiến của bản thân về cuộc sống. Văn bản
nghị luận, trong đó có NLXH được giới thiệu trong chương trình cũng nhằm mục
đích trên. Có thể nói, hướng dẫn HS tạo lập văn bản NLXH trước hết là giúp cho
các em biết và có những kỹ năng thiết yếu tạo lập một kiểu văn bản được con người
sử dụng khá phổ biến trong cuộc sống hàng ngày. Hơn nữa, gắn với những vấn đề
thuộc về đời sống xã hội, trong quá trình tạo lập văn bản, người tạo lập bao giờ
10


cũng phải thể hiện nhận thức và chính kiến của bản thân. Như vậy, khi bàn luận các
vấn đề của đời sống xã hội, người tạo lập ít nhiều đều phải thể hiện bóng dáng con
người mình. Bởi lẽ, trước những đề bài NLXH, HS phải thể hiện những hiểu biết,
thái độ của bản thân về các vấn đề đạo lí, hiện tượng cuộc sống, nhân cách con
người. Cũng thông qua đó, HS có thể phát triển ý thức tự trao đổi, xây dựng cho
mình một nhân cách tốt đẹp, hình thành cho mình những phẩm chất tốt theo đúng
yêu cầu của xã hội hiện đại, biết tạo cho mình những cách ứng xử hợp tình, hợp lí
và phù hợp với hoàn cảnh, điều kiện sống cụ thể của mỗi cá nhân. Đó là quá trình
giáo dục và tự giáo dục nhằm trang bị một hành trang thực tế sống thiết yếu để các
em có thể tự tin bước vào đời.
1.2.2. Cơ sở tâm lí học
Lứa tuổi HS THPT thuộc giai đoạn đầu trong quá trình trưởng thành. Đây là
giai đoạn phát triển khá ổn định về thể chất và tâm lí, không có những biến động
hay thay đổi về tâm sinh lý như ở giai đoạn trước đó. Tuy nhiên, ở giai đoạn này,
con người có nhiều nét tâm lí mới được hình thành và phát triển mạnh mẽ, ảnh
hưởng sâu sắc đến sự phát triển nhân cách nói chung của các em như tình yêu nam
nữ, vị trí trong gia đình và xã hội, tính tích cực, năng động trong hoạt động xã hội,
khả năng tự ý thức phát triển mạnh, tâm thế coi mình là người lớn, muốn tự khẳng
định mình, thế giới quan ngày càng hoàn thiện, khát vọng thành đạt kéo theo ý thức
về việc chọn lựa nghề nghiệp tương lai và khả năng tập trung, nỗ lực phấn đấu để
đạt được mục tiêu… Có thể nói, HS THPT có sự phát triển khá hoàn thiện cả về

tâm lý, sinh lý và khả năng tư duy trừu tượng, khả năng khái quát cao. Không chỉ
vậy, khả năng độc lập vận dụng những hiểu biết của bản thân vào giải quyết các vấn
đề của cuộc sống cũng được các em phát triển. Đây là điều kiện thuận lợi cho việc
hướng dẫn các em rút ra những bài học nhận thức khi học Làm văn NLXH.

11


1.3. Những cơ sở lí luận của nghị luận về một hiện tượng đời sống
1.3.1. Khái niệm nghị luận về một hiện tượng đời sống
Xung quanh chúng ta hàng ngày có biết bao chuyện, sự việc hoặc hiện tượng
tốt, xấu xảy ra. Trước những hiện tượng đời sống ấy, con người luôn đưa ra những
lời bàn luận, đánh giá nhằm mục đích nhận thức và phản ánh được sự vật, hiện
tượng trong đời sống khách quan. Khi bàn luận, dù người nói (người viết) bàn luận
về vấn đề nào thì chúng cũng thuộc kiểu văn bản NLXH về một hiện tượng đời
sống. Như vậy, hiểu một cách khái quát, nghị luận về một hiện tượng đời sống là
một dạng bài sử dụng phương thức lập luận nhằm bàn định các vấn đề về hiện
tượng đời sống để cho người đọc (người nghe) hiểu đúng, hiểu rõ, hiểu sâu để đồng
tình hay phản đối trước những hiện tượng đó. Nói cách khác, nghị luận về một hiện
tượng đời sống là bàn về một sự việc, hiện tượng có ý nghĩa đối với xã hội. Sự việc,
hiện tượng đó có thể là đáng khen, đáng chê hay có vấn đề cần suy nghĩ. Ví dụ sau
đây chính là một văn bản nghị luận về một hiện tượng đời sống.
Bệnh lề mề
Trong đời sống hiện nay có một hiện tượng khá phổ biến, mọi người đều thấy,
nhưng thường bỏ qua. Đó là bệnh lề mề mà coi thường giờ giấc là một biểu hiện
[...] Cuộc sống văn minh hiện đại đòi hỏi mọi người phải tôn trọng lẫn nhau và hợp
tác với nhau. Những cuộc họp không thật cần thiết thì không nên tổ chức. Nhưng
những cuộc họp cần thiết thì mọi người cần tự giác tham dự đúng giờ. Làm việc
đúng giờ là tác phong của người có văn hoá.
(Theo phụ lục 1, Phương Thảo - Theo SGK Ngữ văn 9, tập 2, Tr. 20, NXB Giáo dục)

Trong bài viết trên, tác giả đã đưa ra những lời bàn bạc trước một hiện tượng
hết sức phổ biến trong đời sống hàng ngày - đó là sự chậm chạp, lề mề ở một số
người. Hiện tượng này đã trở thành một thói quen và lâu dần trở thành “căn bệnh”,
của một bộ phận không nhỏ trong xã hội. Sau khi nêu lên vấn đề cần bàn luận là
hiện tượng “bệnh lề mề”, người viết đã chỉ ra những biểu hiện (coi thường giờ giấc,
đến muộn so với giờ hẹn,...) và nguyên nhân (thiếu trách nhiệm, không coi trọng

12


việc chung; thiếu tự trọng, không tôn trọng người khác). Thông qua giải thích, phân
tích, người viết tỏ rõ thái độ phê phán đối với hiện tượng lề mề, xem đây như một
thứ bệnh gây tác hại đối với sự tiến bộ của xã hội, và từ đó rút ra giải pháp khắc
phục căn bệnh này. Cách thực hiện bàn luận vấn đề như vậy thực chất là người viết
đã tạo lập một văn bản nghị luận về một hiện tượng đời sống.
1.3.2. Đặc trưng cơ bản của dạng bài nghị luận về một hiện tượng đời sống
1.3.2.1. Nghị luận về một hiện tượng đời sống có phạm vi đề tài rộng
Nghị luận về một hiện tượng đời sống là dạng văn bản mà ở đó đối tượng
được bàn luận là những vấn đề, những hiện tượng trong đời sống hàng ngày. Có thể
nhận thấy, những vấn đề của đời sống xã hội rất đa dạng, phong phú, biểu hiện ở
nhiều mức độ, tính chất khác nhau. Đó có thể là một việc làm, một lời nói, một hành
động, một sự kiện nào đó của một cá nhân hay của xã hội. Đó còn có thể là những
hiện tượng xảy ra trong đời sống xã hội liên quan đến các lĩnh vực của đời sống xã
hội như văn hoá phong tục, tập quán, đạo đức... Do vậy, đề tài của nghị luận về một
hiện tượng đời sống có phạm vi hết sức rộng rãi. Ngữ liệu dưới đây là một minh
chứng cho dạng văn bản này.
Thực trạng ô nhiễm môi trường nước ta hiện nay
Một vấn đề nóng bỏng, gây bức xúc trong dư luận xã hội cả nước hiện nay là
tình trạng ô nhiễm môi trường sinh thái do các hoạt động sản xuất và sinh hoạt của
con người gây ra […] Theo báo cáo của Chương trình môi trường của Liên hợp

quốc, thành phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh đứng đầu châu Á về mức độ ô
nhiễm bụi.

(Theo phụ lục 2, Theo Bộ Tài nguyên và Môi trường)

Bài viết trên đây đã bàn về một hiện tượng đang được mọi người trong xã
hội quan tâm, đó là: Ô nhiễm môi trường sinh thái. Cụ thể, tác giả bài viết đã chỉ rõ
thực trạng ô nhiễm môi trường sinh thái là do các hoạt động sản xuất và sinh hoạt
của con người gây ra. Từ việc chỉ rõ nguyên nhân, tác giả bài viết cũng đã nêu ra
những tác hại của việc ô nhiễm môi trường ấy gây ảnh hưởng không nhỏ tới chất
lượng cuộc sống của con người. Qua ví dụ trên, ta có thể nhận thấy phạm vi bàn
13


luận của nghị luận về một hiện tượng đời sống là rất rộng rãi. Tất cả những vấn đề,
hiện tượng trong đời sống hàng ngày đều được đem ra nghị luận, dù là tốt hay xấu,
dù là đúng hay sai, dù là lợi hay hại…
1.3.2.2. Nghị luận về một hiện tượng đời sống mang tính thực tế, tính thời sự
Nghị luận về một hiện tượng đời sống có đề tài hết sức rộng rãi. Đó là tất cả
các vấn đề, hiện tượng luôn tồn tại và diễn ra trong đời sống hàng ngày. Vì thế có
thể nói, nghị luận về một hiện tượng đời sống mang tính thực tế cao. Trong bài
Thực trạng ô nhiễm môi trường nước ta hiện nay, người viết đã bàn về một thực tế
đang diễn ra phổ biến trên toàn cầu - hiện tượng ô nhiễm môi trường sinh thái. Đây
là hiện tượng không hề xa lạ với mỗi người trong chúng ta. Hàng ngày, hàng giờ
mỗi chúng ta đều chứng kiến hiện tượng ô nhiễm môi trường do ảnh hưởng từ hoạt
động sản xuất và sinh hoạt của con người. Bàn về vấn đề này, tác giả đã chỉ rõ đối
tượng gây ô nhiễm môi trường chủ yếu là hoạt động sản xuất của nhà máy trong các
khu công nghiệp, hoạt động làng nghề và sinh hoạt tại các đô thị lớn: những số liệu
cụ thể, những khu vực ô nhiễm có mức độ ô nhiễm cao... được tác giả nêu ra cho
thấy biểu hiện và mức độ ô nhiễm môi trường hiện nay. Không chỉ có vậy, tác giả

bài viết đã phân tích tác hại của sự phát triển các khu công nghiệp, làng nghề (cánh
đồng hạn hán, ngập úng và ô nhiễm nguồn nước tưới; người dân phải sống chung
với khói bụi, uống nước từ nguồn ô nhiễm chất thải công nghiệp...). Có thể khẳng
định, với những biểu hiện được nêu ra, tác giả đã mang tới cho độc giả những trăn
trở về thực tế môi trường hiện nay.
Mặt khác, những vấn đề, hiện tượng trong đời sống xã hội khi được đưa ra
bàn luận còn là những vấn đề, những hiện tượng đang tồn tại hiện hữu trong xã hội,
nó phản ánh sự biến động trong xã hội. Do đó, nghị luận về một hiện tượng đời
sống mang tính thời sự. Có thể xem xét đặc điểm này của nghị luận về một hiện
tượng đời sống qua bài Sự khan hiếm nước ngọt:
Nhìn vào bản đồ thế giới, đâu đâu ta cũng thấy mênh mông là nước. Đại
dương bao quanh lục địa. Rồi mạng lưới sông ngòi chằng chịt. Lại có những hồ lớn
14


nằm sâu trong đất liền lớn chẳng kém gì biển cả […] Vì vậy, cùng với việc khai thác
các nguồn nước ngọt để dùng, con người ngày càng phải sử dụng một cách hợp lí, tiết kiệm
tài nguyên nước.

(Theo phụ lục 3, Báo Nhân Dân, số ra ngày 15 - 6 - 2003)

Từ một vấn đề rất thiết thực trong cuộc sống của người dân trên nhiều quốc
gia, tác giả bài viết đã triển khai vấn đề theo hai ý đối lập nhau: Nhu cầu về nước
ngọt ngày càng tăng cao và nguồn cung cấp nước ngọt ngày càng khan hiếm. Để
triển khai vấn đề này, tác giả nêu ra một nhận xét: nhiều người trong chúng ta tin
rằng thiếu gì thì thiếu chứ con người và muôn loài trên quả đất không bao giờ thiếu
nước. Sau đó, tác giả đã chứng minh cho quan điểm sai lầm thông qua hàng loạt các
dẫn chứng thuyết phục: Hai phần ba nước trên hành tinh là nước mặn; hầu hết số
nước ngọt đang ở trạng thái đóng băng; số nước ít ỏi con người có thể dùng được lại
bị chính con người làm cho cạn kiệt (gây ô nhiễm, khai thác vô tội vạ…). Như vậy

đủ thấy tiêu đề bài viết mà tác giả đưa ra là hoàn toàn xác thực. Sau nữa, tác giả tiếp
tục chứng minh ý kiến đó bằng những dẫn chứng cụ thể: khoảng hai tỉ người đang
thiếu nước ngọt, lượng nước có hạn trong khi nhu cầu về nước ngày càng tăng cao,
tỉ lệ thuận với sự phát triển của xã hội. Từ những con số thống kê hết sức cụ thể,
những dẫn chứng được lấy từ thực tế, ta có thể khẳng định đây là một văn bản nghị
luận giàu sức thuyết phục, mang tính thực tế rõ rệt.
1.4. Cơ sở thực tiễn
1.4.1. Điều tra, khảo sát thực trạng dạy học bài “Nghị luận về một hiện
tượng đời sống” ở trường THPT
1.4.1.1. Điều tra, thăm dò, dự giờ GV
Để đánh giá đúng thực tế dạy học bài Nghị luận về một hiện tượng đời sống,
chúng tôi tiến hành thăm dò, điều tra, dự giờ GV qua hoạt động giảng dạy Ngữ văn.
Cụ thể:
 Phát phiếu thăm dò ý kiến GV

15


Trước hết, chúng tôi tiến hành thăm dò ý kiến của GV thông qua các phiếu
thăm dò. Phiếu điều tra gồm 10 phiếu, được phát cho GV tổ Văn, trường THPT Lí
Thường Kiệt - Long Biên - Hà Nội (Nội dung phiếu theo phụ lục 4). Sau khi tiếp
nhận ý kiến của đội ngũ GV, chúng tôi nhận thấy:
Câu 1. Chúng tôi nhận được rất nhiều câu trả lời khác nhau về tầm quan
trọng của bài Nghị luận về một hiện tượng đời sống, song đa số các ý kiến đó vẫn có
những quan điểm chung cho rằng: Bài học Nghị luận về một hiện tượng đời sống
ngoài việc truyền thụ kiến thức và rèn luyện kỹ năng còn có tầm quan trọng đặc
biệt. Nó hình thành cho HS những hiểu biết cơ bản về thực tế cuộc sống, rút ra được
những bài học cần thiết để hình thành và phát triển nhân cách, giúp các em có lối
sống lành mạnh, có được những cách ứng xử thông minh trong từng trường hợp của
đời sống, xã hội.

Câu 2. Ở câu hỏi (CH) này, đa số các ý kiến đều cho rằng: Mặc dù GV nhận
thức rõ được tầm quan trọng của việc giáo dục đạo đức, nhân cách HS nhưng trong
bài học cụ thể thì việc giáo dục các em vẫn chưa được kết hợp nhuần nhuyễn với
các bài học kiến thức, kỹ năng. Vì vậy, quá trình dạy học vẫn chưa đạt được hiệu
quả cao nhất, chưa có sự linh hoạt để phù hợp. Điều đó dẫn tới thực tế là việc hình
thành nhân cách HS chưa thu được nhiều kết quả.
Câu 3. Thời lượng tiết học bài Nghị luận về một hiện tượng đời sống chỉ có
một tiết nên việc dạy học theo quan điểm tích hợp giữa kiến thức, kỹ năng và giáo
dục con người HS gặp khó khăn do thiếu thời gian. Đa số GV đều đưa ra được
những thuận lợi và khó khăn khi soạn giáo án bài Nghị luận về một hiện tượng đời
sống theo hướng mới tập trung vào bài học nhận thức đồng thời qua đó giáo dục
con người HS.
- Thuận lợi: Bài giảng có tính thực tế cao nên nhiều HS đã chú ý tham gia
vào nội dung bài học; GV có nhiều sự chủ động cho bài giảng của mình; HS hứng

16


thú với những hình thức học mới, nội dung đa dạng; HS chủ động tiếp xúc với
SGK, phát huy cao độ tính tích cực của HS.
- Khó khăn: GV phải đặt ra những CH gợi mở liên quan đến nhiều lĩnh vực của đời
sống, xã hội để giúp HS tri nhận được kiến thức của bài học một cách hiệu quả; GV cần
nhiều thời gian để soạn bài vì phải kết hợp kiến thức, kỹ năng nhằm có thể hướng
dẫn HS rút ra những bài học trừu tượng.
Qua việc khảo sát trên, chúng tôi nhận thấy đa số GV đã có nhận thức đúng
đắn bản chất của việc kết hợp bài học kiến thức và bài học kỹ năng với giáo dục HS
trong dạy học Ngữ văn nói chung và trong bài Nghị luận về một hiện tượng đời
sống nói riêng. Tuy nhiên, việc áp dụng nó vào thực tiễn dạy học còn chưa phổ biến
bởi sự hạn chế về thời gian cũng như phương thức thực hiện. Vì thế, sự kết hợp giữa
rèn luyện kỹ năng Làm văn với việc hướng dẫn HS rút ra bài học nhận thức chưa

đạt hiệu quả.
 Dự giờ GV
Bên cạnh việc phát phiếu thăm dò ý kiến GV, chúng tôi cũng tiến hành dự
giờ bài Nghị luận về một hiện tượng đời sống tại lớp 12A2 trường THPT Lí Thường
Kiệt (Long Biên - Hà Nội). Qua dự giờ, chúng tôi nhận thấy: Nhìn chung, GV đã áp
dụng đúng theo quy trình dạy học một giờ dạy Làm văn, đồng thời cũng từng bước
thay đổi các hoạt động dạy học nhằm hướng tới mục đích rèn luyện kỹ năng và phát
triển năng lực cho HS. Cũng vì thế, trong giờ học, GV đã tổ chức các hình thức học
tập đa dạng, ít nhiều đã tạo điều kiện để HS có những hoạt động trải nghiệm và từng bước
hướng dẫn HS sáng tạo khi tạo lập văn bản nghị luận. Tuy nhiên, GV còn quá khô cứng
trong việc áp dụng quan điểm tích hợp vào dạy học Làm văn, điều đó gây khó khăn không
nhỏ trong việc giáo dục kiến thức, kỹ năng cũng như con người HS.
1.4.1.2. Điều tra, khảo sát đối tượng HS

17


Bên cạnh việc thăm dò, khảo sát ý kiến của GV, chúng tôi cũng tiến hành
thăm dò thái độ, ý kiến của HS - chủ thể trung tâm của quá trình dạy học. Đối tượng
được điều tra, khảo sát là HS lớp 12, trường THPT Lí Thường Kiệt (Long Biên - Hà
Nội). Chúng tôi tiến hành điều tra về thái độ, không khí học tập, kết quả học tập
trước và trong quá trình GV dạy bài Nghị luận về một hiện tượng đời sống để có cơ
sở đối chiếu. Phiếu điều tra gồm 50 phiếu, được phát cho HS trường THPT Lí
Thường Kiệt - Long Biên - Hà Nội (Nội dung phiếu theo phụ lục 5). Với các CH
trong phiếu, chúng tôi nhận thấy:
Câu 1. Ở CH này, đa số các em trả lời rằng chưa thực sự thích học văn và
đặc biệt là Làm văn bởi các em nhận thấy học phân môn này khô khan, máy móc, phải vận
dụng nhiều kỹ năng tạo lập văn bản. Viết bài là việc làm mà nhiều em thấy không thích thú.
Câu 2. Bước đầu đã có một số HS có hứng thú với bài học Nghị luận về một
hiện tượng đời sống. Điều này thể hiện trực tiếp qua việc các em rất hăng hái xây

dựng bài, thái độ học tập tích cực, chăm chú nghe giảng. Ngoài ra, các em còn thích
học bài Nghị luận về một hiện tượng đời sống bởi lẽ dạng bài này có nội dung kiến
thức các em được chứng kiến từ thực tế cuộc sống; hơn nữa, dạng bài nghị luận này,
các em đã được học ở những lớp dưới.
Câu 3. Có rất nhiều câu trả lời khác nhau nhưng đa số các em đều nhận thấy
rằng khi tiến hành trình bày những nội dung cơ bản cho từng yêu cầu khi Nghị luận
về một hiện tượng đời sống, các em phải thực hiện một thao tác là liên hệ bản thân.
Như vậy, ngoài việc huy động vốn nhận thức, kỹ năng làm bài, các em còn có thể tự
rút được cho mình những bài học, những lối sống, cách sống đúng, sống đẹp trong
đời sống xã hội, rút ra được những bài học về cách ứng xử hợp lí, hợp tình…
Có thể nói, từ việc điều tra thực tiễn phía HS chúng tôi nhận thấy việc tích
hợp bài học kiến thức, kỹ năng với việc giáo dục nhân cách HS là việc làm có thể
thực hiện và cần thiết. Nhờ đó, HS có nhận thức đầy đủ, toàn diện cả về kiến thức
sách vở cũng như kiến thức, kỹ năng, thái độ trong cuộc sống.

18


×