Tải bản đầy đủ (.pdf) (68 trang)

RÈN LUYỆN KỸ NĂNG LẬP Ý TRONG KIỂU BÀI NGHỊ LUẬN VỀ MỘT HIỆN TƯỢNG ĐỜI SỐNG CHO HỌC SINH LỚP 11 TRƯỜNG THPT TRẦN HƯNG ĐẠO, HUYỆN TIÊN LỮ, TỈNH HƯNG YÊN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (677.46 KB, 68 trang )



BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC




PHẠM VĂN QUANG



RÈN LUYỆN KỸ NĂNG LẬP Ý TRONG KIỂU BÀI
NGHỊ LUẬN VỀ MỘT HIỆN TƯỢNG ĐỜI SỐNG CHO
HỌC SINH LỚP 11 TRƯỜNG THPT
TRẦN HƯNG ĐẠO, HUYỆN TIÊN LỮ,
TỈNH HƯNG YÊN



KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC







SƠN LA, NĂM 2013



BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC




PHẠM VĂN QUANG



RÈN LUYỆN KỸ NĂNG LẬP Ý TRONG KIỂU BÀI
NGHỊ LUẬN VỀ MỘT HIỆN TƯỢNG ĐỜI SỐNG CHO
HỌC SINH LỚP 11 TRƯỜNG THPT
TRẦN HƯNG ĐẠO, HUYỆN TIÊN LỮ,
TỈNH HƯNG YÊN

CHUYÊN NGÀNH: PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TIẾNG VIỆT


KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC


Người hướng dẫn: Ths. Nguyễn Thùy Dung



SƠN LA, NĂM 2013

LỜI CẢM ƠN


Để hoàn thành được khóa luận này, trước tiên em xin chân thành cảm ơn cô
giáo – Thạc sĩ Nguyễn Thùy Dung đã hướng dẫn, chỉ bảo tận tình và giúp đỡ em
rất nhiều trong quá trình làm khóa luận. Cảm ơn sự ủng hộ, động viên góp ý của
các thầy giáo, cô giáo trong khoa Ngữ văn và các bạn sinh viên lớp K50 – ĐHSP
Văn –GDCD.
Trong quá trình làm khóa luận, em cũng luôn nhận được sự giúp đỡ và tạo
điều kiện về cơ sở vật chất, tài liệu tham khảo của thư viện và một số Phòng,
Ban, Khoa trực thuộc Trường Đại Học Tây Bắc.
Đồng thời, em cũng xin chân thành cảm ơn các thầy cô ở trường THPT
Trần Hưng Đạo, huyện Tiên Lữ, tỉnh Hưng Yên đã tạo điều kiện giúp đỡ em
trong quá trình làm khóa luận.
Cuối cùng, cho phép em một lần nữa được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới
sự động viên, giúp đỡ của các thầy cô giáo, các bạn sinh viên và các đơn vị nói
trên, đặc biệt cho em gửi lời cảm ơn chân thành đến Cô giáo – Thạc sĩ Nguyễn
Thùy Dung.

Sơn La, tháng 5 năm 2013
Sinh viên
Phạm Văn Quang






MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU 1
1. Lý do chọn đề tài 1
2. Lịch sử vấn đề 2
3. Phạm vi và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài 5

4. Mục đích nghiên cứu 6
5. Phương pháp nghiên cứu 6
5.1. Phương pháp nghiên cứu lý thuyết 6
5.2. Phương pháp khảo sát thực tế 7
5.3. Phương pháp thống kê - phân loại 7
5.4. Phương pháp thực nghiệm……………………………………………… 7
6. Kết cấu của khóa luận. 7
7. Đóng góp của khóa luận 8
PHẦN NỘI DUNG 9
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN 9
1.1. Cơ sở lý luận 9
1.1.1. Khái quát văn nghị luận và bài nghị luận về một hiện tượng đời sống 9
1.1.2. Quan niệm về lập ý trong bài nghị luận về một hiện tượng đời sống 12
1.1.2.1. Lập ý 12
1.1.2.2. Bản chất lập luận của việc lập ý 13
1.1.2.3. Bản chất tư duy của việc lập ý 13
1.1.2.4. Các bước của lập ý 14
1.1.2.5. Quy trình lập ý của một bài văn nghị luận về một hiện tượng đời
sống…………………………………………………………………………… 15
1.1.2.5.1. Phân tích đề 16
1.1.2.5.2. Tìm ý 18
1.1.2.5.3. Lập dàn ý 19
1.2. Cơ sở thực tiễn 21
1.2.1. Khảo sát chương trình Sách giáo khoa 21

1.2.2. Khảo sát năng lực lập ý của học sinh 22
1.2.3. Thực trạng giảng dạy của giáo viên 23
CHƯƠNG 2. RÈN LUYỆN KỸ NĂNG LẬP Ý TRONG KIỂU BÀI NGHỊ
LUẬN VỀ HIỆN TƯỢNG ĐỜI SỐNG CHO HỌC SINH LỚP 11 25
2.1. Yêu cầu đối với mô hình và quy trình chung khi làm một bài văn nghị

luận xã hội đối với học sinh THPT 25
2.1.1. Yêu cầu mô hình ý 25
2.1.2. Quy trình chung khi làm một bài văn nghị luận về một hiện tượng đời
sống 27
2.2. Rèn luyện kỹ năng lập ý cho bài văn nghị luận về một hiện tượng đời
sống 27
2.2.1. Rèn luyện kỹ năng lập ý qua việc tích hợp với giờ đọc văn 27
2.2.2. Rèn luyện kỹ năng lập ý trong phân môn làm văn 29
2.2.2.1. Rèn luyện kỹ năng lập ý trong giờ lý thuyết làm văn 29
2.2.2.2. Rèn luyện kỹ năng lập ý trong giờ thực hành làm văn 31
2.2.2.3. Rèn luyện kỹ năng lập ý trong giờ trả bài làm văn 32
2.2.3. Rèn luyện kỹ năng lập ý qua giải các bài tập về nhà 35
2.2.3.1. Một số nguyên tắc cơ bản khi xây dựng hệ thống bài tập rèn luyện kỹ
năng lập ý ở nhà 35
2.2.3.2. Thực hành lập ý cho một số đề bài tiêu biểu 36
CHƯƠNG 3: THỰC NGHIỆM 43
3.1. Thực nghiệm dạy học 43
3.1.1. Mục đích của thực nghiệm 43
3.1.2. Yêu cầu thực nghiệm 43
3.1.3. Đối tượng thực nghiệm 43
3.1.4. Nội dung thực nghiệm 44
3.1.5. Cách thức thực hiện 44
3.1.6. Cách thức đánh giá 44
3.1.7. Đánh giá kết quả 45
3.1.8. Thực nghiệm khả năng lập ý của học sinh 45

3.1.8.1. Phép đo 1: Đánh giá năng lực lập ý của học sinh qua dàn ý 45
3.1.8.2. Phép đo 2: Đánh giá năng lực lập ý của học sinh qua bài làm hoàn
chỉnh 48
KẾT LUẬN 52

TÀI LIỆU THAM KHẢO







1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Nghị luận xã hội là một loại văn bản không xa lạ gì trong nhà trường
phổ thông, nhưng lâu nay vẫn chưa được chú ý đúng mức trong các kỳ thi, kiểm
tra, đánh giá, nhất là thi tốt nghiệp và thi vào đại học. Bắt đầu từ kỳ thi tốt
nghiệp THPT và đại học năm 2008 – 2009 yêu cầu viết bài nghị luận xã hội đã
có trong đề thi và được xã hội hưởng ứng, ca ngợi. Tuy nhiên, để viết một bài
văn nghị luận xã hội không phải dễ. Một thực tiễn cho thấy ở các trường phổ
thông và ngay cả những bài thi tuyển sinh vào CĐ – ĐH vẫn không ít bài chưa
tiếp cận được đề, lạc đề, lan man trong việc giải quyết vấn đề. Dẫn đến kết quả
viết bài của học sinh trong kiểu bài nghị luận xã hội, đặc biệt là trong kiểu bài
nghị luận xã hội về một hiện tượng đời sống xã hội vẫn còn nhiều hạn chế cần
phải khắc phục. Một trong những hạn chế lớn nhất của học sinh là không biết
tìm ý cho đề nghị luận xã hội. Sở dĩ như vậy là do tâm lý và kỹ năng làm văn
của học sinh. Theo như GS.TS Trần Đình Sử đã khẳng định: “Nói đến làm văn
nghị luận trong nhà trường học sinh thường ngại ngùng thấy khó, khô khan, ít
hứng thú, nhiều khi nhìn thấy đề văn mà cảm thấy đầu óc trống rỗng”. Vậy phải
làm thế nào để khắc phục được tình trạng nêu trên? Câu hỏi đặt ra là cần phải
tìm ra 1 phương pháp cụ thể để giúp cho học sinh dễ dàng hơn khi viết bài. Mà
trong đó, cần phải định hướng cho học sinh ngoài việc nắm vững kiến thức còn
cần phải thành thạo trong khâu lập ý. Để lập được một dàn ý chính xác thì cần

phải tìm và sắp xếp cho thích hợp. Đó được coi là một thao tác rất quan trọng để
chuẩn bị cho việc viết bài nghị luận xã hội về một hiện tượng đời sống.
1.2. Qua quá trình khảo sát thực tiễn dạy học ở trường THPT Trần Hưng
Đạo, huyện Tiên Lữ, tỉnh Hưng Yên, chúng tôi thấy tình hình học tập môn Ngữ
văn không mấy được khả quan. Bởi phần lớn các em đều có thiên hướng về các
khối tự nhiên, khoa học kỹ thuật,… và quan niệm Ngữ văn là một môn không
mấy quan trọng nên không quan tâm và chú ý tới. Do vậy, khả năng viết bài của
các em còn kém, thiếu ý, lặp ý, lộn xộn, sơ sài và còn rất lan man trong việc giải
quyết các vấn đề đặt ra. Nhưng tại sao lại có tình trạng như thế xảy ra? Có thể
nói rằng nghị luận xã hội là một loại văn bản khó trong đó kiểu bài nghị luận về
một hiện tượng đời sống có yêu cầu rất cao, đòi hỏi học sinh phải tư duy, suy
nghĩ và biết vận dụng sáng tạo những kiến thức từ thực tế vào quá trình viết bài
mà không thể chép được từ một tài liệu có sẵn.
Hơn nữa, kiểu ra đề của bài nghị luận xã hội phong phú và đa dạng hơn so
với nghị luận văn học. Trong khi đó, tài liệu phục vụ cho việc dạy và học kiểu

2
bài nghị luận xã hội còn hạn chế và chất lượng chưa cao nên chưa đáp ứng được
yêu cầu dạy và học của thầy và trò ở ngoài nhà trường phổ thông. Đặc biệt, vấn đề
cần bàn bạc về một hiện tượng đời sống lại càng không phải dễ dàng gì. Bởi trong
cuộc sống đang diễn ra hiện nay đặt ra rất nhiều vấn đề, rất nhiều những hiện
tượng cần phải bàn bạc, có những hiện tượng tích cực nhưng cũng có những hiện
tượng tiêu cực diễn ra trong đời sống. Đòi hỏi các em cần phải trình bày suy nghĩ,
chính kiến của mình một cách nghiêm túc, chín chắn và chính xác về một vấn đề,
một hiện tượng có ý nghĩa xã hội đặt ra cho mình, lứa tuổi của mình. Không phải
các em thích viết gì thì viết, viết tùy tiện như trong sinh hoạt hàng ngày mà các
em cần phải có những suy nghĩ, nhận thức để tìm ra và sắp xếp các ý theo một trật
tự hợp lý. Những điều đó đã khẳng định rằng lập ý là một khâu rất quan trọng
trong khi làm một bài văn nghị luận. Có thể nói, lập ý là nền móng của cả bài
viết, nền móng có chắc chắn, bền vững thì mới xây dựng được một căn nhà hoàn

thiện, lập ý cũng như vậy, lập ý có đúng, có trúng mới viết được một bài văn độc
đáo. “Đúng, trúng và độc đáo” chính là tiêu chí để viết một bài văn nghị luận có
chất lượng cao. Để đạt được điều đó thì yêu cầu học sinh phải có kỹ năng thành
thạo trong khâu lập ý.
1.3. Tuy có nhiều nhà nghiên cứu quan tâm đến kỹ năng này song vẫn còn
mang tính khái quát, ít có tài liệu đề cập sâu sắc đến khâu lập ý trong kiểu bài
nghị luận xã hội về một hiện tượng đời sống. Từ những lý do trên, chúng tôi đã
lựa chọn đề tài: “Rèn luyện kỹ năng lập ý trong kiểu bài nghị luận về một hiện
tượng đời sống cho học sinh lớp 11 trường THPT Trần Hưng Đạo, huyện Tiên
Lữ, tỉnh Hưng Yên”. Mục đích của chúng tôi là muốn góp phần vào việc rèn
luyện kỹ năng lập ý cho học sinh lớp 11 nói riêng, toàn thể học sinh nói chung
trong kiểu bài nghị luận xã hội về một hiện tượng đời sống nhằm khắc phục
những hạn chế mà các em còn mắc phải trong khi lập ý.
2. Lịch sử vấn đề
Trong văn học, văn nghị luận là một loại văn bản có lịch sử ra đời từ xa
xưa và trở thành một bộ phận không thể thiếu trong thi cử. Tuy nhiên, những tài
liệu nhằm dạy học cách rèn luyện về kỹ năng lập ý trong văn nghị luận lại chưa
phong phú. Phần lớn những tài liệu, sách viết ra đều mang tính chất để phục vụ
cho nhu cầu “sao chép” còn sách để định hướng cách làm cho học sinh thì chưa
có nhiều. Nhiều sách mang tính chất là tham khảo nhưng thực chất mục đích
cuối cùng là để học sinh sao chép lại những kiến thức ở trong sách tham khảo.
Còn hầu hết, những sách mang tính chất hướng dẫn cách làm cho học sinh,
chẳng hạn về tìm hiểu đề, lập ý, lập dàn ý,… thì hầu như chưa có. Hơn nữa, các

3
tài liệu về nghị luận lại mang tính lịch sử, hay thay đổi theo các thời kỳ lịch sử
nên các đề bài để rèn luyện kỹ năng lập ý cũng thay đổi cho phù hợp với các
thời đại khác nhau, tài liệu cũng đi theo những hướng khác nhau. Đặc biệt, các
tài liệu về nghị luận xã hội lại có vẻ khan hiếm hơn, không dễ tìm như nghị luận
văn học.

Văn nghị luận đã được hình thành từ trong thi cử thời phong kiến. Trong xã
hội phong kiến, văn nghị luận được coi là một môn học rất quan trọng và được
đưa vào trong quá trình thi cử, chẳng hạn như văn sách, kinh nghĩa. Có thể nói,
văn nghị luận là một loại văn bản đã ra đời từ rất sớm, nhằm mục đích phục vụ
cho thi cử. Còn đến thời kỳ thực dân Pháp xâm lược nước ta với tư cách là sang
nước ta để “khai hóa dân trí” tại các nhà trường Pháp – Việt, văn nghị luận cũng
được đưa vào giảng dạy, nhưng lý thuyết về việc lập ý cho văn nghị luận chưa
được khai thác sâu. Cách dạy học về lập ý của thầy và trò ở thời kỳ này chủ yếu
là mang tính khuôn mẫu, công thức. Giáo viên áp đặt đối với học sinh trong
giảng dạy văn nghị luận nên học sinh không thể bày tỏ được những quan điểm,
suy nghĩ và những chính kiến của mình. Lý do dẫn đến những điều đó là do tính
quy phạm và thể lệ của trường thi gây nên. Như vậy, văn nghị luận lại không
mang đúng với bản chất của nó là đưa ra những quan điểm, chính kiến của
người viết, không phải là việc bàn bạc những vấn đề đặt ra trong xã hội mà chỉ
là sự dập khuôn máy móc mà thầy áp đặt đối với học sinh.
Đề cập đến kỹ năng lập ý phải nói đến tác giả Phan Kế Bình qua cuốn
“Việt Hán văn khảo”[3]. Trong cuốn Việt Hán văn khảo, ông đã đề cập tới kỹ
năng lập ý trong mục “Thể cách văn chương và luận về phép làm văn”. Ngoài
ra, ông còn trình bày thêm về quá trình lập ý phải tuân thủ theo ba bước cụ thể
như sau:
- Lập định chủ yếu.
- Cấu tứ.
- Bố cục.
Trong đó, lập định chủ yếu tức là việc xác định ý chính yếu không thể thiếu
trong một bài viết còn cấu tứ làm phần xác lập ý cho bài văn, nhưng đây là
những ý chính – nhỏ hơn. Cuối cùng là thao tác để đưa các ý trên vào một hệ
thống có trật tự và đảm bảo tính mạch lạc về cả nội dung và hình thức.
Còn đối với Giáo sư Dương Quảng Hàm trong cuốn “Việt Nam văn học sử
yếu”[ 5], ông cũng dành hẳn chương chín để nêu lên đặc điểm và cách thức làm
các lối văn cử nghiệp viết bằng chữ nho. Như vậy, người viết như đã được đặt ra


4
một khuôn mẫu trước nên không cần phải sáng tạo gì thêm. Trong lịch sử, kỹ
năng lập ý trong văn nghị luận cũng không được nghiên cứu một cách cụ thể và
thực sự sâu sắc.
Còn đối với nghị luận xã hội, các tài liệu về lập ý còn rất nhiều hạn chế.
Giai đoạn 1954 – 1975, các tài liệu dạy về làm văn nghị luận xã hội có những tài
liệu tiêu biểu phải kể đến là Nghị luận luân lí và văn chương (1960) của Nguyễn
Duy Nhường[6], Luân lí phổ thông (1962) của Lê Thái Ất [2],… Tuy nhiên, ở
giai đoạn này hầu hết các tài liệu chưa hề đề cập tới kỹ năng lập ý trong văn
nghị luận xã hội, hoặc có đề cập tới thì cũng nghiên cứu một cách chung chung,
chưa đi vào vấn đề cụ thể.
Cho đến những năm gần đây, việc nghiên cứu về lập ý trong văn nghị luận
tiếp tục được khai thác và phát triển hơn, trong đó phải kể đến tác giả Đỗ Ngọc
Thống với cuốn “Rèn luyện kỹ năng lập ý cho học sinh THPT ở kiểu bài nghị
luận văn học” [11] hay trong cuốn “Dạy và học văn nghị luận xã hội” [10].
Ông cũng đã đề cập đến việc lập ý, tuy nhiên ông lại không đi khai thác sâu
vào kỹ năng lập ý mà ông chỉ định hướng cho học sinh về việc luyện tập và gợi
ý cách lập ý với từng kiểu bài nghị luận dưới dạng các đề bài cụ thể. Trong đó,
cuốn sách Làm văn của ông với Nguyễn Thành Thi, Phạm Minh Diệu(2007)
[12], nhóm tác giả này đã dành riêng chương thứ 4 của cuốn sách ( từ trang
165 đến trang 213) để bàn về nghị luận. Trong đó, nhóm tác giả đã đề cập tới
kĩ năng lập ý trong văn nghị luận xã hội trong 3 trang từ trang 206 đến trang
208 với 2 bước sau:
Bước 1: Dựa vào yêu cầu và chỉ dẫn của đề để tìm ra vấn đề trọng tâm và
các ý lớn mà bài viết cần làm sáng tỏ.
Bước 2: Tìm ý nhỏ bằng cách đặt ra các câu hỏi, vận dụng những hiểu biết
về văn học và cuộc sống xã hội để trả lời những câu hỏi đó.
Hay trong cuốn Làm văn (Giáo trình đào tạo giáo viên THCS)[1], tác giả
Lê A đã đề cập khá chi tiết đến kĩ năng lập ý trong văn nghị luận. Tuy nhiên, tác

giả vẫn chưa đưa ra được các bước và thao tác được dùng trong văn nghị luận xã
hội mà chỉ có các bước, các thao tác giành chung cho cả nghị luận xã hội và
nghị luận văn học. Vì vậy, mặc dù tác giả có đề cập tới kĩ năng lập ý nhưng vẫn
chưa có sự phân chia một cách rõ ràng trong từng kiểu bài nghị luận.
Đề cập tới lập ý trong kiểu bài nghị luận xã hội một cách hoàn chỉnh nhất
có thể kể đến cuốn Làm văn 11 do Trần Thanh Đạm chủ biên[4]. Tác giả đã đưa
2 bước của lập ý:

5
Bước 1: Tìm hiểu đề bài với các thao tác cụ thể sau:
- Đọc kĩ và phát hiện các yêu cầu của đề bài.
- Xác định thể loại.
- Xác định phạm vi tư liệu.
- Xác định các yêu cầu mà đề bài phải đáp ứng.
Bước 2: Tạo dựng ý:
- Định hướng thái độ đối với vấn đề nêu nên ở đề bài.
- Tìm và lựa chọn ý.
- Sắp xếp các ý theo một trình tự hợp lí.
- Tìm dẫn chứng.
Thực tế lại cho thấy rằng những bước và thao tác tác giả đưa ra còn rất
chung chung rất khó có thể vận dụng vào thực tiễn giảng dạy trong nhà trường.
Có thể thấy được rằng kĩ năng lập ý là một trong những kĩ năng cơ bản,
quan trọng và rất cần thiết đối với học sinh. Tuy nhiên, kĩ năng này chủ yếu
được đề cập trong nghị luận văn học, còn các tài liệu về lập ý trong nghị luận xã
hội còn rất nhiều hạn chế. Song sự đóng góp của tất cả những nhà nghiên cứu
đều đáng được ghi nhận, công lao to lớn đó đã đóng góp rất nhiều vào việc
nghiên cứu khoa học nhằm phát triển nền khoa học nước nhà.
3. Phạm vi và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
Văn nghị luận bao gồm nghị luận văn học và nghị luận xã hội, mỗi một loại
lại đem đến một ý nghĩa riêng, một tầm quan trọng riêng và những đặc trưng riêng.

Nhưng đã là kiểu bài nghị luận thì chúng đều phải đưa ra những lý lẽ, luận điểm
của người viết đối với vấn đề được nêu ra. Trong đó để làm được một bài văn nghị
luận về một hiện tượng đời sống đòi hỏi học sinh ngoài những kiến thức sách vở
còn phải biết vận dụng linh hoạt tri thức từ ngoài thực tế cuộc sống. Bởi cuộc
sống đang diễn ra với muôn hình muôn vẻ nên để làm được một bài văn nghị luận
xã hội có chất lượng cao học sinh cần phải rèn luyện nhiều kỹ năng, trong đó kỹ
năng lập ý đòi hỏi học sinh cần phải rèn luyện để sử dụng một cách thành thục để
trở thành một kỹ sảo trong khi làm bài văn nghị luận xã hội.
Qua đó, chúng tôi đã xác định rõ ràng nhiệm vụ mà luận văn cần nghiên
cứu đó là:
- Tìm hiểu về thực trạng kỹ năng lập ý của học sinh lớp 11, trường THPT
Trần Hưng Đạo, huyện Tiên Lữ, tỉnh Hưng Yên.

6
- Nghiên cứu cơ sở lý thuyết và thực tiễn dạy học về bài nghị luận về một
hiện tượng đời sống cho học sinh lớp 11 tại trường THPT Trần Hưng Đạo,
huyện Tiên Lữ, tỉnh Hưng Yên.
- Nêu lên những định hướng cho việc tiến hành rèn luyện kỹ năng lập ý,
xây dựng nên phương pháp thích hợp cho việc dạy học nghị luận về một hiện
tượng đời sống.
- Tiến hành thực nghiệm dạy học để kiểm tra kết quả sau khi thực hiện luận văn.
4. Mục đích nghiên cứu
Có thể nói, kỹ năng lập ý là một kỹ năng cơ bản và quan trọng cần rèn
luyện để giúp cho học sinh có thể viết tốt bài văn nghị luận xã hội nói chung và
nghị luận xã hội về một hiện tượng đời sống nói riêng. Nhận thấy được tầm quan
trọng của kỹ năng lập ý, chúng tôi đã lựa chọn đề tài nghiên cứu này với mục đích
cung cấp cho giáo viên và học sinh hệ thống kiến thức, thao tác, kỹ năng cũng
như cách thức dạy học lập ý cho kiểu bài nghị luận xã hội nói chung và nghị
luận về một hiện tượng đời sống nói riêng. Từ đó, khắc phục được tình trạng yếu
kém của học sinh trong việc lập ý cho kiểu bài nghị luận xã hội về một hiện

tượng đời sống.
Ngoài ra, chúng tôi nhận thấy việc rèn luyện kỹ năng lập ý cũng chính là
góp phần hình thành đầu óc thiết kế, một thứ lao động có ý thức. Bởi vì, trong
quá trình lập ý muốn có ý hay thì phải suy nghĩ, phải tìm hiểu, tìm tòi thì mới
tìm được những ý hay.
5. Phương pháp nghiên cứu
Trong luận văn, chúng tôi đã sử dụng những phương pháp chủ yếu để phục
vụ cho quá trình nghiên cứu đề tài. Đó là những phương pháp sau:
5.1. Phương pháp nghiên cứu lý thuyết
Trong luận văn của chúng tôi, thực nghiệm là một yếu tố rất quan trọng bởi
qua quá trình thực nghiệm thì mới khẳng định được tính khách quan của những
phương pháp mà luận văn đã đề xuất. Tuy nhiên, chúng tôi cũng không bác bỏ
những vai trò mà phương pháp nghiên cứu lý thuyết đã đem lại. Bởi có những định
hướng về mặt lý thuyết thì học sinh mới có thể làm một bài thực hành tốt được.
Trên cơ sở đó, chúng tôi sử dụng để làm tài liệu cho việc khẳng định tính
đúng đắn và khoa học của khóa luận.



7
5.2. Phương pháp khảo sát thực tế
Ngoài việc vận dụng lý thuyết vào để nghiên cứu song “học phải đi đôi với
hành” nên chúng tôi đã sử dụng phương pháp khảo sát thực tế để tự kiểm tra,
đánh giá những phương pháp mà luận văn đã đề xuất.
5.3. Phương pháp thống kê - phân loại
Sau khi thực hiện phương pháp khảo sát thực tế, chúng tôi còn tiếp tục sử
dụng phương pháp thống kê – phân loại để tổng hợp những kết quả thực nghiệm
vừa thu được. Qua đó, có thể nhận thấy được tỉ lệ khá – giỏi, đạt yêu cầu –
không đạt yêu cầu, kết quả đạt được sau khi thực nghiệm.
5.4. Phương pháp thực nghiệm

Để kiểm tra, đánh giá hiệu quả của những biện pháp mà luận văn đã đề
xuất, chúng tôi đã sử dụng phương pháp thực nghiệm. Chúng tôi đã thực nghiệm
dạy học nhằm đưa ra những hình thức rèn luyện kỹ năng lập ý mà luận văn đã đề
xuất vào việc dạy học cụ thể ở trường THPT để đánh giá hiệu quả của những
biện pháp đó.
Ngoài những phương pháp đã sử dụng trên, trong luận văn, chúng tôi còn
sử dụng các phương pháp như:
- Phương pháp phân tích
- Phương pháp so sánh
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tất cả những phương pháp trên đã giúp
cho việc nghiên cứu của chúng tôi diễn ra một cách thuận lợi và dễ dàng hơn rất
nhiều. Nhờ vào đó mà chúng tôi có thể hoàn thành được khóa luận.
6. Kết cấu của khóa luận.
Kết cấu khóa luận gồm có 3 phần: Mở đầu, nội dung và kết luận.
1. Phần mở đầu: Gồm có lý do chọn đề tài, lịch sử vấn đề, phạm vi và
nhiệm vụ nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu, kết cấu và đóng góp của
khóa luận.
2. Phần nội dung:
Chương 1. Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn
Ở chương này, chúng tôi đã đề ra cơ sở lý luận và cơ sở thục tiễn để bắt đầu
cho viêc nghiên cứu. Về cơ sở lý luận, chúng tôi đã khái quát về văn nghị luận,
về kiểu bài nghị luận về một hiện tượng đời sống xã hội và những quan niệm về
lập ý trong kiểu bài nghị luận về một hiện tượng đời sống. Về cơ sở thực tiễn,

8
chúng tôi đã nêu ra khảo sát về chương trình trong SGK, khảo sát năng lực lập ý
của học sinh và thực trạng giảng dạy của giáo viên.
Chương 2. Rèn luyện kĩ năng lập ý cho học sinh lớp 11, trường THPT Trần
Hưng Đạo, huyện Tiên Lữ, tỉnh Hưng Yên
Ở chương này, chúng tôi đã yêu cầu về mô hình ý, quy trình chung khi làm

một bài văn nghị luận về một hiện tượng đời sống. Ngoài ra, chúng tôi còn đề
xuất một số biện pháp nhằm rèn luyện kỹ năng lập ý cho học sinh như: Rèn
luyện kỹ năng lập ý trong giờ đọc văn, rèn luyện kỹ năng lập ý trong phân môn
Làm văn, rèn luyện kỹ năng lập ý qua giải các bài tập về nhà.
Chương 3. Thực nghiệm
Ở chương 3, chúng tôi đã tiến hành dạy thực nghiệm nhằm mục đích để
kiểm tra, đánh giá tính khả thi của những phương pháp đã đề trên để rèn luyện
kỹ năng lập ý cho học sinh.
3. Kết luận
7. Đóng góp của khóa luận
Trong việc nghiên cứu khoa học, chúng tôi biết rằng đây là một công việc
không hề dễ dàng gì song chúng tôi cũng muốn đóng góp một phần công sức
nhỏ nhoi của mình vào việc nghiên cứu khoa học để khoa học ngày càng phát
triển hơn nữa. Chúng tôi cũng mong muốn rằng khóa luận này của chúng tôi có
những đóng góp nhất định cho việc nghiên cứu khoa học vào việc hệ thống một
cách tương đối trọn vẹn các tài liệu đề cập tới lập ý cho kiểu bài nghị luận về
một hiện tượng đời sống. Từ đó, luận văn có thể áp dụng vào quá trình dạy học
cho học sinh THPT nói chung, học sinh lớp 11 nói riêng. Như vậy, lập ý có một
vai trò rất quan trọng trong việc dạy và học ở THPT.
Khoá luận của chúng tôi còn đưa ra những lý thuyết về kĩ năng lập ý và tổ
chức dạy thử nghiệm cho học sinh lớp 11 tại trường THPT Trần Hưng Đạo,
huyện Tiên Lữ, tỉnh Hưng Yên. Do đó, chúng tôi có cơ sở để đưa ra giải pháp để
khắc phục những hạn chế mà học sinh còn gặp phải trong khi viết một bài văn
nghị luận về một hiện tượng đời sống.
Hơn nữa, luận văn còn mang tính tham khảo cho giáo viên và học sinh
nhằm phục vụ cho mục đích hỗ trợ cho việc dạy và học văn nghị luận ở ngoài
nhà trường phổ thông.

9
PHẦN NỘI DUNG

CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Khái quát văn nghị luận và kiểu bài nghị luận về một hiện tượng
đời sống
Theo sách giáo khoa Ngữ văn lớp 10, tập 2 – nâng cao đã định nghĩa: “
Văn nghị luận là bài văn trình bày tư tưởng, quan điểm của người viết về một
vấn đề.[7,96 ]. Còn hiểu theo một cách đơn giản thì văn nghị luận có nghĩa là sự
bàn bạc, thảo luận để đi tới khẳng định hay bác bỏ một vấn đề nào đó. Muốn
làm được bài văn nghị luận đòi hỏi người viết phải có lập luận của mình để bác
bỏ hay khẳng định một vấn đề nào đó. Mà muốn lập luận được thì lại phải nhờ
vào lí lẽ và dẫn chứng. Vì vậy, lý lẽ, dẫn chứng chính là phương tiện, còn lập
luận chính là phương thức để nghị luận. Muốn nghị luận được thì cần phải đảm
bảo đầy đủ 3 yếu tố trên.
Những vấn đề mà văn nghị luận hay đề cập tới là những vấn đề về chính
trị, xã hội hay văn học. Văn nghị luận có ý nghĩa vô cùng quan trọng, nó có tác
động sâu sắc tới quá trình nhận thức của con người. Bởi nhận thức của con
người thường diễn ra theo trình tự từ cảm tính đến lý tính, từ thực tiễn sinh động
đến tư duy trìu tượng rồi lại trở về với thực tiễn.
Văn nghị luận có thể giúp cho quá trình nhận thức trở lên sâu sắc, toàn diện
hơn không những về vẻ bề ngoài mà còn cả bản chất bên trong của sự vật, hiện
tượng. Do vậy, học sinh học văn nghị luận có khả năng rèn luyện tư duy, nhận
thức đối với những vấn đề được nêu ra.
Ngoài ra, văn nghị luận còn là một phương tiện để nhận thức thế giới, nhận
thức bằng tư duy lý tính, trìu tượng hóa và khái quát hóa.
Trong văn nghị luận muốn lý giải, phân tích vấn đề cần phải sử dụng lập
luận, lý lẽ, dẫn chứng để làm sáng tỏ vấn đề. Còn đối với văn chương nghệ thuật
thì lại dùng ngôn ngữ hoa mỹ, hình tượng nghệ thuật để thổi hồn vào hiện thực
mà sáng tạo nghệ thuật. Tuy nhiên, văn nghị luận không phải không dùng ngôn
ngữ hình tượng, gợi cảm, không phải không có cảm xúc mà văn nghị luận cũng
có tâm tư, tình cảm của người viết, từ đó mới có thể bày tỏ được những chính

kiến của mình nhằm thuyết phục người đọc và người nghe.
Hơn nữa, văn nghị luận còn là loại chuyên dùng để bàn bạc, bình luận về
một vấn đề nào đó. Bởi nghị luận còn có nghĩa là bàn để cho ra sự phải trái hay
là bàn bạc một cách có phương pháp về một vấn đề nào đó.

10
Cho nên, nghị luận còn được dùng làm vũ khí chiến đấu trong cách mạng,
cho nên phong cách nghị luận cũng là phong cách của ngôn ngữ chính luận. Dạy
văn nghị luận cho học sịnh cũng là việc đào tạo và bồi dưỡng nguồn nhân lực
mới để phục vụ cho công cuộc bảo vệ và phát triển đất nước theo hướng xã hội
chủ nghĩa.
Mặt khác, nghị luận còn nhằm mục đích giải quyết các vấn đề về xã hội
chính trị hay văn học. Để giải quyết vấn đề đó, văn nghị luận phải đứng trên lập
trường của chủ nghĩa Mac – Lênin, quan điểm duy vật biện chứng cho nên dạy
học văn nghị luận cũng là điều kiện giáo dục hoàn thiện việc rèn luyện tư duy,
hoàn chỉnh quá trình nhận thức của học sinh, đồng thời có tác dụng rèn luyện
bản lĩnh, lập trường, tư tưởng góp phần bồi dưỡng nhân cách con người mới,
con người xã hội chủ nghĩa.
Nói tóm lại, mục đích cuối cùng của văn nghị luận là tạo ra những tác động
tích cực đến con người và những mối quan hệ của con người với con người
trong xã hội. Giúp cho con người và xã hội ngày càng hoàn thiện hơn nữa.
Trong văn nghị luận, có sự phân chia ra thành hai bộ phận chính là: nghị
luận văn học và nghị luận xã hội. Trong đó, nghị luận xã hội là một loại văn bản
không còn gì xa lạ đối với học sinh trong nhà trường phổ thông. Đây cũng là
một bộ phận văn học có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc dạy học và trong
thi cử. Theo như Từ điển Hán- Việt, “ nghị luận” là dùng lý luận để phân tích ý
nghĩa phải trái, bàn bạc mở rộng vấn đề. Còn “ xã hội” trước hết là một tập thể
người cùng sống, gắn bó với nhau trong quan hệ sản xuất và các quan hệ khác.
Cũng có thể hiểu, xã hội là những gì thuộc về quan hệ giữa người với người về
các mặt kinh tế, chính trị, triết học, lịch sử, ngôn ngữ [10,5]. Qua đó, chúng ta

có thể hiểu khái niệm về văn nghị luận như sau:
Theo như PGS.TS Đỗ Ngọc Thống cho rằng: “ Nghị luận xã hội là thể văn
hướng tới phân tích, bàn bạc về một vấn đề liên quan đến các mối quan hệ của
con người trong đời sống xã hội”. [10,3].
Còn trong SGK Ngữ văn lớp 12, tập 1, Nâng cao cũng khẳng định rằng:
“Văn nghị luận xã hội là những kiểu bài văn bàn về các vấn đề xã hội – chính
trị: một tư tưởng đạo lý, một lối sống cao đẹp, một hiện tượng tích cực hoặc tiêu
cực của đời sống, một vấn đề thiên nhiên, môi trường. [9,22]
Như vậy, những vấn đề về văn nghị luận nói chung và văn nghị luận xã hội
nói riêng đều đòi hỏi phải nắm vững được những yêu cầu cơ bản thế nào mới là
văn nghị luận và thế nào mới là bài văn nghị luận hay. Một bài nghị luận xã hội
phải bám sát yêu cầu của đề bài khi viết, đó là phải tập trung hướng tới luận đề

11
của bài viết. Mặc dù ý kiến có mở rộng, đi sâu đến đâu đi nữa nhưng vẫn phải
xoay quanh vấn đề được đặt ra, phải làm sáng tỏ, phải có hiểu biết vững chắc về
vấn đề được nói đến. Người viết phải có ý thức triển khai thành những luận
điểm chặt chẽ, nhất quán, không được tản mạn dẫn đế sự lan man, xa đề hay lạc
đề. Trong văn nghị luận nói chung và trong văn nghị luận xã hội nói riêng thì lỗi
lớn nhất của một bài nghị luận là lạc đề. Để khắc phục lỗi này thì người viết phải
đặc biệt chú ý tới các thao tác trước khi viết bài, đặc biệt là thao tác lập ý có ý
nghĩa vô cùng quan trọng. Thực trạng lại cho thấy các em học sinh lại thường
không chú ý tới thao tác lập ý trong khi viết bài văn nghị luận.
Ngoài ra, khi làm một bài văn nghị luận xã hội muốn làm sáng tỏ vấn đề thì
đòi hỏi người viết phải tìm được những dẫn chứng xác đáng, giàu sức thuyết
phục. Dẫn chứng nêu ra phải được mọi người công nhận đó là đúng, từ đó sẽ
thuyết phục được người đọc và người nghe. Để làm được điều đó thì người viết
cũng phải tuân thủ những yêu cầu về hành văn, tức là phải chú ý tới ngôn ngữ.
Ngôn ngữ sử dụng phải mang tính toàn dân và trong sáng. Ngoài ra, người viết
cũng cần phải tuân thủ theo tính trật tự và tính mạch lạc. Tức là những ý kiến

nào cần sắp xếp trước thì xếp trước, ý nào sau thì phải sắp xếp sau, các ý có ý
nghĩa tương đương thì phải sử dụng những kí hiệu giống nhau, không được lộn
xộn, phải đảm bảo tính mạch lạc của văn bản.
Văn nghị luận xã hội đòi hỏi mang màu sắc về chính trị - xã hội. Do vậy
học sinh cần phải có những hiểu biết về chính trị, pháp luật, hay những kiến thức
cơ bản về truyền thống lịch sử, văn hóa, đạo đức dân tộc, hay những thông tin
thời sự cập nhật… Để viết được bài nghị luận xã hội hay, học sinh cần nắm
vững những kiến thức về mặt xã hội để bài viết mang tính khách quan hơn.
Nghị luận xã hội trong nhà trường phổ thông bao gồm 3 dạng chính:
- Bàn về một vấn đề tư tưởng, đạo lý thông qua những nhận xét, phán đoán
về tinh thần, tình cảm, đạo lý, lối sống…
- Bàn về một hiện tượng, con người, sự việc có thật trong cuộc sống ở mọi
phương diện và mọi khía cạnh của nó.
- Bàn về một vấn đề xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học.
Mỗi một dạng lại mang những nét đặc trưng riêng, tuy nhiên chúng đều
thuộc vào một phong cách ngôn ngữ, đó là phong cách ngôn ngữ chính luận.
Trong những dạng bài nghị luận xã hội đó thì kiểu bài nghị luận về một hiện
tượng đời sống là kiểu bài nghị luận rất đặc trưng, có vai trò rất quan trọng trong
việc dạy và học văn nghị luận xã hội. Ở dạng này thì thường nêu lên một hiện

12
tượng, một vấn đề có tính thời sự được dư luận xã hội trong nước và nước ngoài,
cũng như cộng đồng quốc tế quan tâm. Có những hiện tượng tích cực song cũng
có những hiện tượng tiêu cực để làm sáng tỏ vấn đề đó. Văn nghị luận xã hội đã
đem những vấn đề đó ra để bàn bạc, để rồi đi tới kết luận khẳng định hay là bác
bỏ những hiện tượng đó.
Vì vậy, nghị luận xã hội đã đóng góp một vai trò rất quan trọng và trở
thành một bộ phận không thể nào thiếu được trong việc dạy và học văn nghị
luận xã hội trong nhà trường phổ thông.
1.1.2. Quan niệm về lập ý trong bài nghị luận xã hội về một hiện tượng

đời sống
Trong văn nghị luận, mỗi loại văn bản lại có những nội dung cấu thành
tương ứng với văn bản đó. Trong đó thì ý là một đơn vị cơ sở vô cùng quan
trọng, là hệ thống khung làm lên nội dung cơ bản của một bài viết. Ý chính là
những ý kiến, ý kiến là yếu tố cấu thành lên nội dung của văn bản nghị luận.
1.1.2.1. Lập ý
Hiểu về ý trong văn nghị luận thì được hiểu một cách khá thống nhất. Ý là
một cơ sở quan trọng để tạo nên một văn bản. Ý là những nội dung chính tạo
nên nội dung cơ bản của bài viết. Đó là một thành phần góp phần cấu thành văn
bản, nếu không có hệ thống các ý thì sẽ không tạo nên được văn bản nghị luận.
Như vậy, nếu hiểu ý là nội dung chính cần được trình bày góp phần làm sáng tỏ
vấn đề cần trình bày thì lập ý chính là một quá trình để hình thành các nội dung
cơ bản của bài viết trước khi diễn đạt thành một bài văn thông qua một quá trình
tư duy một cách có ý thức. Trong quá trình đó sẽ hình thành nên nội dung cơ
bản của một văn bản thông qua hệ thống ý mà những kết quả đó trước tiên được
thể hiện bằng lời. Như vậy, quá trình lập ý chính là một quá trình định ra trong
đầu óc những nội dung chính, những ý cơ bản sẽ được thể hiện bằng lời, hay
trên mặt chữ theo một trật tự hợp lý, đó chính là một hệ thống xương sống tạo
nên văn bản.
Ở nhà trường THPT, học sinh được tiếp xúc với các dạng đề văn tạo nên
những tình huống có vấn đề. Do vậy, các em có thể lập ý cho một đề văn, đó
chính là một quá trình tư duy về một tình huống có vấn đề nhằm đưa ra những ý
kiến, quan điểm của học sinh về một vấn đề nào đó sau đó thì lựa chọn và sắp
xếp thành một nội dung chính vào bố cục của bài văn. Lập ý là học sinh phải
vận dụng hết khả năng để suy nghĩ, suy nghĩ một cách có ý thức để tìm ra những
ý làm sáng tỏ nội dung của đề bài đã đưa ra. Như vậy, các ý mà học sinh dự định
sẽ triển khai đó chính là kết quả của một quá trình chọn lọc và sắp xếp góp phần

13
tạo nên văn bản. Lập ý giúp cho học sinh có thể bao quát được những nội dung

chính của văn bản, xác định được phương hướng cho bài làm nhờ đó mà tránh
được tình trạng xa đề, lạc đề, lặp ý hay thiếu ý,… để đảm bảo tính mạch lạc và
thống nhất cho văn bản cần trình bày. Ngoài ra, dàn ý còn giúp cho học sinh có
thể phân phối thời gian trong khi làm bài để tránh tình trạng thiếu thời gian, hay
những chỗ cần chú trọng triển khai thì lại làm sơ qua, chú trọng vào những chỗ
không cần thiết. Lập ý là một quá trình rất quan trọng không thể bỏ qua được,
nếu mà lập ý mà sai hay thiếu thì sẽ dẫn đến bài làm đi sai hướng hay không
hoàn chỉnh. Do vậy, trong khi lập ý học sinh phải hết sức chú ý không được chủ
quan hay xem nhẹ quá trình này.
1.1.2.2. Bản chất lập luận của việc lập ý
Một bài văn nghị luận có thực sự thành công hay không phải phụ thuộc vào
khả năng thuyết phục người đọc bởi bài viết của mình. Muốn như vậy phải đảm
bảo bài viết phải có lí lẽ rõ ràng, rành mạch, phải tìm được hệ thống dẫn chứng
chính xác, xác đáng, giàu sức thuyết phục. Việc định ra một hệ thống ý phải dựa
trên cơ sở nền tảng là các yếu tố về lí lẽ và dẫn chứng. Một hiện tượng xảy ra
trong đời sống xã hội thường có rất nhiều những ý kiến khác nhau, có thể là
đồng tình mà cũng có thể là bác bỏ, bởi mỗi một người lại có một ý kiến riêng,
có những cái nhìn ở những bình diện khác nhau. Nhưng dù ở góc độ hay bình
diện nào thì cái đích cuối cùng của người viết vẫn là phải đưa ra một kết luận
nào đó. Con đường từ lí lẽ để đi đến một kết luận, đó là cả một quá trình được
gọi là lập luận. Lập luận là việc đưa ra những lí lẽ nhằm dẫn dắt người đọc đi
đến kết luận mà người viết đưa ra. Đó cũng chính là quan hệ giữa luận điểm,
luận cứ với kết luận mà người viết định đưa ra. Việc lựa chọn, sắp xếp các ý
thành hệ thống phụ thuộc vào kết luận, chịu sự chi phối của kết luận.
1.1.2.3. Bản chất tư duy của việc lập ý
Văn nghị luận giúp cho quá trình nhận thức sâu sắc và mạnh mẽ. Vì vậy,
việc lập ý cũng là việc tác động sâu sắc đến quá trình tư duy. Lập ý được coi là
một hoạt động, là kết quả của quy luật tư duy, quá trình tư duy và hoạt động tư
duy. Công việc lập ý bình thường phải rèn luyện chia thành nhiều bước nhỏ,
người viết buộc phải thể hiện trên giấy để có thể kiểm tra, chỉnh sửa và bổ sung.

Đây mới là bước đầu của sự rèn luyện cho kĩ năng lập ý. Cho đến khi kĩ năng
lập ý đã trở lên thành thục thì người viết vẫn phải lập ý nhưng công việc lúc này
không phải là viết ra giấy mà là thực hiện ngay trong đầu. Lúc đó, việc lập ý đã
trở thành một kĩ sảo đối với người viết. Để đạt được điều đó thì cần phải trải qua
một quá trình rèn luyện lâu dài. Ngoài ra, trong khi lập ý người viết phải xác

14
định đúng hệ thống ý theo những cấp độ tương ứng: ý cùng loại, ý không cùng
loại, ý khái quát, ý triển khai. Trong hệ thống ý, các ý phải bổ sung cho nhau,
không được loại trừ nhau, ý trên không được phủ định ý dưới, hay ý trên ngược
với ý dưới. Trong đó, luận điểm được coi là ý lớn, tuy nhiên trong quá trình làm
bài thì hệ thống đó có thể thay đổi để cho phù hợp hơn và làm sáng rõ vấn đề
hơn cả luận điểm.
Để có một hệ thống ý hoàn chỉnh thì đòi hỏi phải trải qua một quá trình
phát hiện, điều chỉnh và phát triển thêm các ý. Để đạt được điều đó thì phải phụ
thuộc vào quá trình tư duy và nhận thức của mỗi con người trong quá trình viết
văn. Bởi lập ý là một thao tác rất phức tạp, nhất là đối với kiểu bài nghị luận về
một hiện tượng đời sống. Vì kiểu bài này đòi hỏi người viết phải có nhận thức
sâu, rộng về mọi lĩnh vực đời sống, xã hội và có khả năng tư duy cao kết hợp
với kĩ năng lập ý tốt mới có thể viết được một bài văn nghị luận hay.
1.1.2.4. Các bước của lập ý
Nói đến các bước của lập ý thì hiện nay vẫn chưa có sự thống nhất và chưa
có sự phân biệt rõ ràng về vấn đề này. Có nhiều những quan điểm khác nhau của
nhiều tác giả bàn về vấn đề này. Như trong sách Làm văn của tác giả Lê A cho
rằng lập ý là tìm ý [1,148]. Còn theo tác giả Trần Thanh Đạm trong cuốn sách
Làm văn 10 thì lại nhập lập ý với lập dàn ý [4,20].
Còn tác giả Đỗ Ngọc Thống thì lại cho rằng lập ý là một quá trình bao gồm
cả các bước tìm hiểu đề ( hay phân tích đề) – tìm ý – lập dàn ý [12,168]… Nói
chung, mỗi một tác giả lại có những quan điểm khác nhau, nhưng không phải
những quan điểm đó không có ý nghĩa, mà mỗi quan điểm đó đều có những ý

nghĩa nhất định, nhưng lại không thể thống nhất được về các bước lập ý trong
văn nghị luận. Vì vậy, cần phải tìm ra một quan điểm để thống nhất giữa những
quan niệm đó.
Chính vì vậy, chúng tôi đã dựa vào bản chất và mục đích của các thao tác
để tạo ra khái niệm. Mỗi một thao tác lại có bản chất và mục đích khác nhau.
Lập ý có bản chất và mục đích là định ra những nội dung cơ bản, những ý
nghĩa cơ bản và cách thức để triển khai những nội dung cơ bản, những ý nghĩa
cơ bản ấy được sắp xếp vào bố cục gồm có 3 phần chính là mở bài, thân bài và
kết bài nhằm mục đích làm sáng tỏ vấn đề cần nghị luận.
Bản chất và mục đích của tìm hiểu đề là để tìm hiểu, để phân tích đề bài
mục đích là tìm ra sự chỉ dẫn cho việc tìm ý. Tìm hiểu đề là cơ sở cho việc tìm
ý, có tìm hiểu đề một cách tỉ mỉ, chính xác thì mới có thể tìm ý đúng được.

15
Còn tìm ý lại có bản chất và mục đích là nêu ra tất cả những ý chính liên
quan tới nội dung mà bài viết cần làm sáng tỏ. Lập ý là một quá trình để đi tìm
luận điểm, luận cứ của bài viết nhằm làm sáng tỏ luận đề.
Bản chất và mục đích của lập dàn ý là có thể sắp xếp các ý đã tìm được
theo một hệ thống nhất định và theo một trật tự hợp lý để có thể làm sáng tỏ vấn
đề cần nghị luận( hay làm sáng tỏ luận đề).
Mỗi một thao tác lại có những bản chất và mục đích khác nhau, nhưng
chúng đều có một mục đích chung đó là nhằm làm sáng tỏ luận đề của đề bài
nêu ra. Mặc dù vậy, chúng ta cũng không thể đồng nhất chúng lại với nhau,
không thể đánh đồng lập ý với phân tích đề, tìm ý và lập dàn ý.
Lập ý là quá trình bao gồm từ lúc học sinh bắt đầu đọc đề bài cho đến khi
làm thành một bài hoàn chỉnh. Vì vậy, lập ý có thể coi là một quá trình bao gồm
có 3 bước: phân tích đề( hay tìm hiểu đề), tìm ý và lập dàn ý. Tất cả những thao
tác trên đều nhằm mục đích phục vụ cho việc lập một dàn ý rồi tiếp tục triển
khai viết thành một bài hoàn chỉnh. Tuy nhiên, một bài làm có một dàn ý đích
thực thì chỉ có thể hình thành khi mà vấn đề đặt ra ở đề bài được giải quyết trọn

vẹn, tức là bài làm hoàn thành một cách cơ bản. Còn dàn ý mà được lập ra trước
lúc viết bài chỉ là một dàn ý phác thảo để vạch ra phương hướng, con đường để
có phương án để làm sáng tỏ vấn đề mà thôi. Giữa một dàn ý đích thực với một
dàn ý phác thảo là hai quá trình có khoảng cách rất xa nhau. Dàn ý phác thảo là
cơ sở để xây dựng lên một bài làm hoàn chỉnh. Để lấp khoảng cách đó thì học
sinh phải suy nghĩ để diễn đạt thành lời văn để tạo thành một bài viết hoàn
chỉnh. Để thực hiện quá trình đó thì học sinh phải có kiến thức, phải có những
hiểu biết thì mới có thể thực hiện được. Những kiến thức đó là kết quả của một
quá trình tư duy có chọn lọc và lựa chọn kiến thức để tránh sự nhầm lẫn. Trong
nhà trường THPT, học sinh mới chỉ được hướng dẫn về cách làm một dàn ý
phác thảo.
1.1.2.5. Quy trình lập ý của một bài văn nghị luận về một hiện tượng đời
sống
Với quan niệm, lập ý là một quá trình được bắt đầu thực hiện từ lúc học
sinh bắt đầu đọc đề bài cho đến khi làm thành một bài văn hoàn chỉnh. Lúc đó,
vấn đề được đặt ra ở luận đề được làm sáng tỏ. Ngoài ra, căn cứ vào quá trình
học tập và giảng dạy ở ngoài nhà trường, chúng tôi đã đưa ra quy trình lập dàn ý
đại cương gồm các bước như sau:
Bước 1: Phân tích đề

16
- Đọc kỹ đề bài
- Xác định kiểu và dạng đề bài
- Xác định vấn đề cần nghị luận( luận đề)
- Xác định thao tác nghị luận chính
- Xác định phạm vi, tài liệu nghị luận
Bước 2: Tìm ý
- Mô tả lại sự vật, hiện tượng một cách khái quát, ngắn gọn
- Giải thích (từ ngữ, hình ảnh, thuật ngữ, chi tiết, khái niệm, câu chủ
đề,…)

- Nêu các biểu hiện hoặc các mặt đúng sai của vấn đề cần nghị luận
- Nêu và phân tích tác dụng và tác hại
- Nêu và phân tích nguyên nhân, tư tưởng và nguyên nhân xã hội sâu
xa của sự vật, hiện tượng
- Bày tỏ quan điểm, thái độ khen chê, đồng tình hay bác bỏ với sự vật,
hiện tượng và đề ra phương hướng hành động của bản thân
Bước 3: Lập dàn ý
1. Mở bài: Xác định kiểu mở bài (trực tiếp, gián tiếp,…)
2. Thân bài:
- Sắp xếp các luận điểm, luận cứ theo một trình tự hợp lý
- Xác định mức độ triển khai luận điểm, luận
3. Kết bài: Xác định kiểu kết bài ( mở, đóng)
1.1.2.5.1. Phân tích đề
Phân tích đề (tìm hiểu đề) là sự tiếp xúc trực tiếp với đề, đọc và nghiền
ngẫm để nhận thức đúng và đủ các ý nghĩa và yêu cầu của đề bài.
Ở bước phân tích đề chúng ta cần thực hiện những thao tác cụ thể sau:
(1) Đọc kỹ đề bài
Đây là thao tác trước tiên cần thực hiện. Cần đọc một cách kỹ lưỡng, suy
nghĩ xem đề bài nói về vấn đề gì, chú ý không bỏ sót một chi tiết nào để tránh
những sai sót không đáng có. Sau khi đọc kỹ đề bài, bước đầu cần hình thành
một ấn tượng chung, một ý niệm đại thể, một nhận thức sơ bộ về vấn đề đặt ra.

17
(2) Xác định kiểu và dạng đề bài
Đối với kiểu bài nghị luận về một hiện tượng trong đời sống, chúng ta có
thể quy vào hai dạng chính: Dạng đề nổi và dạng đề chìm.
Dạng đề nổi là dạng đề mà yêu cầu về nội dung (luận đề) có thể bao gồm
cả thao tác nghị luận chính, phạm vi và tài liệu nghị luận được nêu ra trực tiếp
và rõ ràng ngay trong đề bài.
Dạng đề chìm là dạng đề mà yêu cầu về nội dung (luận đề) có thể bao gồm

những thao tác nghị luận chính, phạm vi và tài liệu nghị luận không được nêu ra
trực tiếp và rõ ràng ngay trong đề bài.
Mỗi kiểu đề bài và dạng đề bài có những đặc trưng khác nhau, yêu cầu
khác nhau và cách làm khác nhau. Vì thế, xác định kiểu đề bài và dạng đề bài là
một trong những việc quan trọng giúp chúng ta xác định luận đề và tìm luận
điểm nhanh chóng, chính xác
(3) Xác định vấn đề cần nghị luận (luận đề)
Có thể nói luận đề là cái đích nội dung cụ thể, trực tiếp mà toàn bài phải
hướng tới làm sáng tỏ. Đây cũng là chủ đề, là ý tổng quát chung cho cả bài văn,
là lời phát biểu chính xác và cô đọng về toàn bộ nội dung bài viết.
Xác định luận đề không chỉ là việc quan trọng nhất mà còn là việc khó nhất
của phần phân tích đề. Vì thế, phải dành nhiều thời gian để làm tốt công việc
này. Đừng vội vã bắt tay vào làm khi mà chưa xác định được luận đề sẽ dẫn đến
những sai lầm trong khi làm bài. Khi đã xác định được luận đề rồi thì việc tìm ý,
viết nhập đề phải bắt đầu từ ý chính ấy, thân bài phải bàn rộng ý chính ấy và kết
luận cũng không được xa rời ý chính ấy. Luận đề của đề nghị luận xã hội về một
hiện tượng đời sống rất phong phú và phức tạp, tùy từng kiểu và dạng đề cụ thể
mà chúng ta có cách giải quyết khác nhau.
Đối với dạng đề bài đóng: Xác định luận đề bằng cách trả lời câu hỏi: Đề
bài yêu cầu nghị luận về vấn đề gì? Và tìm ngay câu trả lời trong đề bài.
Đối với dạng đề bài mở: Xác định luận đề bằng cách thực hiện tuần tự
những việc sau:
- Xác định các từ ngữ, chi tiết then chốt (là những từ ngữ, chi tiết lặp đi lặp
lại, gợi hình tượng, những thuật ngữ, những cụm từ ngữ đóng vai trò là câu chủ
đề,…) trong đề bài
- Giải thích ý nghĩa của các từ ngữ then chốt, chi tiết vừa tìm được

18
- Đặt ý nghĩa của các từ ngữ, chi tiết then chốt vào trong chỉnh thể của đề
bài và khái quát thành luận đề

(4) Xác định thao tác nghị luận chính
Thao tác nghị luận chính là thao tác mà người viết bài nghị luận phải sử
dụng thường xuyên và chủ đạo nhất trong quá trình làm bài của mình. Thông
thường khi viết một bài văn nghị luận chúng ta phải sử dụng rất nhiều thao tác,
tuy nhiên trong các thao tác chúng ta sử dụng sẽ có một thao tác chính. Nếu
không chú ý đến vấn đề này, chúng ta rất dễ bị lạc về thể loại mà bài viết yêu
cầu. Thực tế làm bài của học sinh có rất nhiều trường hợp như thế xảy ra.
(5) Xác định phạm vi, tư liệu nghị luận
Khi xác định được phạm vi nghị luận và tư liệu nghị luận, người viết sẽ
tránh được tình trạng lan man – đề cập đến nội dung mà đề bài không yêu cầu,
cũng như tình trạng chưa thực hiện hết những khía cạnh mà đề bài yêu cầu.
Đồng thời biết tìm và sử dụng hợp lý nguồn tư liệu trong đời sống xã hội để
phục vụ có hiệu quả và đúng yêu cầu mà đề bài đề ra. Đối với nghị luận xã hội
về một hiện tượng đời sống thì nguồn tư liệu hầu như không giới hạn, chỉ có
điều người viết lưu ý sử dụng các tư liệu thuộc về xã hội phải nhiều hơn các tư
liệu về văn học nghệ thuật trong một bài văn mà thôi.
1.1.2.5.2. Tìm ý
Tìm ý là chỉ ra, nêu ra tất cả các ý chính liên quan tới nội dung mà bài viết
cần làm sáng tỏ dựa vào luận đề. Có thể hiểu rằng, tìm ý là việc triển khai luận
đề thành các luận điểm. Chính vì thế khi tìm ý phải lấy luận đề làm trung tâm để
tiến tới và hình thành các luận điểm, đồng thời bám sát vào kiểu và dạng đề bài
mà hình thành luận điểm.
Đối với kiểu đề nghị luận về một hiện tượng trong đời sống, xác định luận
điểm chính bằng cách thực hiện tuần tự những việc sau:
- Mô tả, kể lại sự việc, hiện tượng một cách khái quát, ngắn gọn
- Giải thích (từ ngữ, hình ảnh, thuật ngữ, chi tiết, khái niệm, câu trích dẫn,
câu chủ đề,…)
- Nêu các biểu hiện hoặc các mặt đúng, sai của vấn đề cần nghị luận
- Nêu và phân tích tác dụng, tác hại
- Nêu và phân tích nguyên nhân tư tưởng và nguyên nhân xã hội sâu xa của

sự việc, hiện tượng

19
- Bày tỏ quan điểm, thái độ khen, chê đối với sự việc, hiện tượng và
phương hướng hành động của bản thân
Ví dụ với đề bài: Anh (chị) hãy trình bày suy nghĩ của mình về “bệnh thành
tích” – một “căn bệnh” gây tác hại không nhỏ đối với sự phát triển của xã hội
hiện nay. Dựa vào những gợi ý tìm ý (tìm luận điểm) cho kiểu đề nghị luận về
một sự việc – hiện tượng trong đời sống, chúng ta có thể tìm được những ý sau:
- Giải thích thế nào là “bệnh thành tích”?
- Nêu các biểu hiện của bệnh thành tích trong học tập và cuộc sống
- Nêu và phân tích các mặt sai trái và tác hại của bệnh thành tích
- Nêu và phân tích nguyên nhân tư tưởng và nguyên nhân xã hội sâu xa của
bệnh thành tích
- Bày tỏ quan điểm đối với bệnh thành tích và phương hướng hành động
của bản thân.
Sau khi xác định được luận điểm chính của bài làm, chúng ta tiếp tục tìm
các luận cứ then chốt cho luận điểm vừa xác định. Tuy nhiên, nghị luận xã hội là
một thể loại có phạm vi kiến thức rất phong phú và đa dạng. Tùy từng đề bài cụ
thể, từng luận điểm cụ thể, từng đối tượng học sinh cụ thể, từng hoàn cảnh thực
tế cụ thể, từng vùng miền cụ thể mà ta có cách hướng dẫn cụ thể. Hơn thế, trong
thực tế học tập của học sinh thì việc xác lập luận cứ cho luận điểm không có tính
khả thi cao, trong quá trình giảng dạy với số tiết quá ít ỏi của phân phối chương
trình thì giáo viên cũng không có cơ hội để dạy cho học sinh đến nơi đến chốn
công việc này và như mục đích ở trên của luận văn đã nêu (chỉ hướng dẫn học
sinh lập dàn ý đại cương – dàn ý bao gồm luận đề và luận điểm) tác giả luận văn
chỉ có thể đi sâu vào phần tìm luận điểm cho luận đề và đi lướt qua phần tìm
luận cứ cho luận điểm.
1.1.2.5.3. Lập dàn ý
Tìm được các luận điểm ( tức là các ý lớn), thậm chí là các luận cứ (tức là

các ý nhỏ) rồi chưa phải đã kết thúc quá trình lập ý, chưa phải đã là một dàn ý
“tối ưu” (nhất là khi ý nghĩ ngổn ngang, ồ ạt kéo tới, người viết chỉ mới kịp ghi
lại). Chính vì thế chúng ta cần phải có thao tác lựa chọn và sắp xếp ý tức là phải
có thao tác lập dàn ý. Việc lựa chọn và sắp xếp ý phụ thuộc vào hai yếu tố chủ
quan và khách quan.
Yếu tố khách quan là do bản thân bản thân nội dung luận đề của bài viết có
logic nội tại của nó. Logic này buộc người viết phải lựa chọn ý này mà không

×