Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

Đánh giá tiềm năng và khả năng sử dụng nguồn tài nguyên thiên nhiên để phát triển kinh tế Việt Nam.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (103.48 KB, 13 trang )

Đánh giá tiềm năng và khả năng sử dụng nguồn tài
nguyên thiên nhiên để phát triển kinh tế Việt Nam.
Việt Nam là một quốc gia có nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú và đa
dạng. Chính đặc điểm độc đáo này đã giúp cho đất nước ta có những bước phát
triển lớn trong nền kinh tế nước nhà. Khi đi sâu nghiên cứu về đất nước và con
người Việt Nam thì chúng ta khơng thể khơng tìm hiểu về vấn đề kinh tế nước ta
trong q trình tồn cầu hóa.
Từ xưa cho đến nay ta luôn tự hào là một quốc gia “Rừng vàng biển bạc đất
phì nhiêu” cộng với tinh thần đoàn kết cùng truyền thống quý báu từ bao đời của
dân tộc đã tạo nên một đất nước Việt Nam đa dạng bản sắc văn hóa. Chúng ta là
một nước nhỏ nhưng lịch sử chứng minh trong các cuộc kháng chiến thì cho thấy
một đất nước mạnh mẽ hùng dũng vơ cùng. Tuy nhiên chúng ta cịn có nhiều mặt
yếu kém trong công tác quản lý khiến cho kinh tế nước ta còn khá lạc hậu so với
các nước khác trên thế giới. Nước ta ưu đãi được thượng đế ban cho nguồn tài
nguyên dồi dào. Chính tài nguyên thiên nhiên là tiềm năng rất lớn trong việc phát
triển kinh tế. Tuy nhiên câu hỏi đặt ra phải biết cách sử dụng hợp lý và tiết kiệm
nguồn tài ngun q báu đó.
Vấn đề khơng phải ở chỗ chúng ta biết được tiềm năng trong việc sử dụng
nguồn tài nguyên thiên nhiên để phát triển kinh tế Việt Nam mà là việc khai thác sử
dụng nguồn tài nguyên đó sao cho hợp lý để tạo ra sự phát triển bền vững. Nếu
không chúng ta sẽ đi vào vết xe đổ của Hà Lan năm 1977 mà người ta gọi là “Lời
nguyền tài nguyên”. Lời nguyền địa lý là nguyên nhân khách quan nên chúng ta
chỉ có thể tìm cách khắc phục nhưng lời ngun tài ngun thì khác. Nó chính là
nguyên nhân chủ quan do chính con người gây ra mà chúng ta phải biết cách phòng
tránh chứ nếu khơng hậu quả sẽ khó lường.


Điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên là cơ sở tiền đề cho tăng trưởng
và phát triển kinh tế, nhìn từ góc độ vĩ mơ một quốc gia trong quá trình phát triển
nếu biết tận dụng lợi thế của tự nhiên sẽ nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của
nền kinh tế. Lợi thế tự nhiên về cơ bản có hai yếu tố cấu thành là vị trí địa lý và tài


nguyên thiên nhiên. Trong phát triển kinh tế, vị trí địa lý sẽ làm tăng giá trị gia tăng
của hoạt động giao thông và thương mại, cịn tài ngun thiên nhiên sẽ có ưu thế về
cạnh tranh giá thành thông qua qui mô số lượng, chất lượng và tính chất đặc thù
của tài nguyên thiên nhiên mà quốc gia khác khơng thể có được do thiên nhiên ban
tặng.
Tài nguyên thiên nhiên gồm các dạng năng lượng vật chất, thông tin tồn tại
khách quan với ý muốn con người có giá trị tự thân con người có thể sử dụng trong
hiện tại và tương lai, phục vụ cho sự tồn tại và phát triển của loài người. Tài
nguyên thiên nhiên chia làm hai loại là tài nguyên tái tạo và tài nguyên không tái
tạo được. Tái nguyên tái tạo được ví dụ như nước ngọt, đất, sinh vật… là tài
ngun có thể tự duy trì hoặc tự bổ sung một cách liên tục khi được quản lý một
cách hợp lý. Tuy nhiên, nếu sử dụng không hợp lý, tài ngun tái tạo có thể bị suy
thối khơng thể tái tạo được. Ví dụ: tài ngun nước có thể bị ơ nhiễm, tài ngun
đất có thể bị mặn hố, bạc màu, xói mịn v.v... Tài ngun khơng tái tạo là loại tài
nguyên tồn tại hữu hạn, sẽ mất đi hoặc biến đổi sau q trình sử dụng. Ví dụ như tài
ngun khống sản của một mỏ có thể cạn kiệt sau khi khai thác. Tài nguyên gen di
truyền có thể mất đi cùng với sự tiêu diệt của các lồi sinh vật q hiếm.
Xét về tổng thể thì có thể thấy Việt Nam là một quốc gia có khá nhiều tiềm
năng về tài nguyên để phát triển kinh tế. Việt Nam nằm trên ngã sáu của các tuyến
giao thông thương mại quan trọng của thế giới (tuyến giao thông Bắc-Nam, ĐôngTây và Đông Bắc Á-Tây Nam Á). Việt Nam có diện tích tự nhiên khoảng


331.698km2, bờ biển dài hơn 3.260km, được xếp ở quy mơ trung bình, đứng thứ 59
trong tổng số 200 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới. Tuy nhiên, do dân số
đông (hơn 90 triệu người, xếp thứ 13 trên thế giới) nên bình qn diện tích tự nhiên
trên đầu người rất thấp (khoảng 0,38 ha), chỉ bằng 1/5 mức bình qn của thế giới
(1,96 ha). Việt Nam có sự đa dạng về địa chất, địa hình, tài nguyên khoáng sản
tương đối phong phú về chủng loại, một số loại có trữ lượng, tiềm năng tài nguyên
lớn có thể phát triển thành các ngành cơng nghiệp, như dầu khí, bơ-xít, ti-tan, than,
đất hiếm. Tiềm năng năng lượng tái tạo lớn, đặc biệt năng lượng gió, mặt trời, địa

nhiệt, sinh khối. Mặc dù tổng lượng nước mặt (khoảng 830 tỷ m3/năm), nước dưới
đất (khoảng 63 tỷ m3/năm) khá lớn, nhưng do địa hình hẹp, nhiều vùng dốc ra biển,
hơn 60% lượng nước mặt có nguồn gốc từ nước ngồi, nên tình trạng thiếu nước
cục bộ theo vùng và theo mùa vẫn xảy ra, có lúc, có nơi gay gắt. Trải dài trên nhiều
vĩ tuyến, từ nhiệt đới ẩm đến á nhiệt đới, với nhiều vùng núi cao, Việt Nam có
nhiều hệ sinh thái rừng với sự đa dạng và phong phú về các lồi động vật, thực vật.
Với diện tích vùng biển thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán trên 1
triệu km2, Việt Nam thực sự là một quốc gia biển với nhiều loại hình tài nguyên đa
dạng và phong phú, nhất là nguồn lợi thủy sản, tiềm năng vị thế phát triển giao
thông, cảng biển, du lịch...
Tài nguyên đất của Việt Nam rất đa dạng về chủng loại. Trong tổng số diện
tích trên 32 triệu ha đất thì nhóm đất đỏ vàng chiếm khoảng 21 triệu ha (70%), có
chất lượng tốt, độ phì nhiêu cao, thích hợp với các cây công nghiệp như cao su, hồ
tiêu, cà phê, ca cao, cây ăn quả cũng như các loại đặc sản như chè, quế, hồi và các
loại rau quả. Nhóm đất bồi tụ chiếm diện tích khoảng 20%, trong đó phần lớn là đất
nơng nghiệp có độ phì nhiêu cao, thích hợp với trồng lúa. Điều kiện tự nhiên Việt
Nam cho phép phát triển các cây công nghiệp có giá trị cao phục vụ xuất khẩu cũng
như có điều kiện đảm bảo vững chắc an ninh lương thực.


Một trong những tài nguyên thiên nhiên quan trọng, trực tiếp ảnh hưởng đến
sản xuất nông nghiệp và công nghiệp đó chính là nguồn nước. Việt Nam ln
khẳng định “nước là tài nguyên đặc biệt quan trọng, là thành phần thiết yếu của sự
sống và môi trường, quyết định sự tồn tại, phát triển bền vững của đất nước” và vì
vậy, Chính phủ Việt Nam ln nỗ lực tăng cường và kiện tồn, thể chế, chính sách
trong lĩnh vực tài nguyên nước, đẩy mạnh hợp tác với các quốc gia có chung
nguồn nước với Việt Nam cũng như hợp tác và tranh thủ sự hỗ trợ của các tổ chức
quốc tế, các quốc gia trên thế giới và khu vực để quản lý, bảo vệ hiệu quả tài
nguyên nước nhằm góp phần vào tiến trình phát triển bền vững của đất nước cũng
như của thế giới và khu vực. Nằm trong vùng nhiệt đới ẩm nên Việt Nam có nguồn

nước mặt phong phú với tổng lưu lượng 328 tỉ m3/ năm, trong đó lớn nhất ở vùng
đồng bằng sơng Hồng. Trữ lượng nước ngầm của Việt Nam đã được thăm dị
khoảng 3,3 tỉ m3/năm, phân bố khơng đều. Nguồn thuỷ năng có trữ lượng 270 tỉ
kWh, trong đó trữ lượng kinh tế 50-60 tỉ kWh, tương ứng với 12-15 triệu kW cơng
suất lắp máy, trong đó trên 50% tập trung tại hệ thống sông Hồng, 15% thuộc hệ
thống sông Đồng Nai, 30% ở miền Trung và Tây Nguyên. Nguồn thuỷ năng này là
cơ sở phát triển công nghiệp điện lực.
Nước cho nơng nghiệp: nước có vai trị chủ đạo trong những thành tựu đạt
được về sản xuất lúa gạo ở Việt Nam, góp phần quan trọng đưa Việt Nam trở thành
nước xuất khẩu gạo đứng đầu thế giới. Hiện nay, nước phục vụ cho sản xuất nông
nghiệp nhiều nhất ở hai vùng đồng bằng là đồng bằng sông Cửu Long và sông
Hồng, chiếm tỷ lệ 70% lượng nước sử dụng. Nước cũng đóng vai trị quyết định
trong sự tăng trưởng các sản phậm cây công nghiệp, như: chè, cà phê, hồ tiêu, mía
đường, cao su...
Trữ lượng tài ngun khống sản ở nước ta cũng là một lợi thế lớn cho phát
triển kinh tế. Trong nhóm khống sản nhiên liệu - năng lượng, Việt Nam có tiềm


năng về dầu khí với trữ lượng tiềm năng khoảng 10 tỉ tấn, trữ lượng khai thác dự
kiến 4-5 tỉ tấn dầu quy đổi, phân bố tại các bể trầm tích trải dài từ bắc đến nam là
Sơng Hồng, Phú Khánh, Cửu Long, Nam Côn Sơn, Malay - Thổ Chu, Tư Chính Vũng May và nhóm bể Hồng Sa, Trường Sa. Tiềm năng trữ lượng than Việt Nam
có thể đạt 220 tỉ tấn, trong số đó khoảng 10 tỉ tấn thuộc bể than Đông Bắc, hiện
đang khai thác (than antraxit 75%, than nâu 25%) và 210 tỉ tấn thuộc bể than đồng
bằng sông Hồng phân bố ở độ sâu 100-3.500 m, trên diện tích khoảng 3.500 km2.
Ở Việt Nam đã phát hiện nhiều tụ khống urani ở Đơng Bắc Bộ, Trung Trung Bộ và
Tây Nguyên. Tổng tài nguyên urani ở Việt Nam được dự báo trên 218.000 tấn
U308 có thể là nguồn nguyên liệu khoáng cho các nhà máy điện hạt nhân trong
tương lai. Về khoáng sản kim loại, tại Việt Nam đã tìm thấy hầu hết các loại
khống sản và đa phần có trữ lượng cơng nghiệp. Tuy nhiên, nổi bật hơn cả là
quặng sắt khoảng 1,8 tỉ tấn, trữ lượng đã thăm dò khoảng 1 tỉ tấn, tập trung tại khu

vực miền núi phía bắc và miền trung; bơ xít khoảng 6,6 tỉ tấn, trữ lượng đã thăm dò
4 tỉ tấn tập trung chủ yếu tại khu vực Tây Ngun; titan 1 tỉ tấn. Ngồi ra cịn có
mangan, crom, đồng, chì-kẽm, thiếc-vonfram, vàng,… nhưng trữ lượng khơng lớn.
Về nhóm khống sản phi kim loại, Việt Nam có tiềm năng về apatit (khoảng 2 tỉ tấn
ở Lào Cai) đá vôi, cao lanh, cát thuỷ tinh và đá quý.
Tài nguyên rừng ở Việt Nam khoảng trên 12 triệu ha, tỉ lệ che phủ 35%,
phân bố nhiều nhất ở Tây Nguyên, Bắc Trung Bộ và Bắc Bộ. Rừng Việt Nam
phong phú về chủng loại và hình thái phân bố. Trữ lượng gỗ hiện có khoảng trên
600 triệu m3, có nhiều đặc sản như các loại gỗ quý đinh, lim, sến, táu, nghiến, sao,
chò chỉ, lát hoa, mun, gụ, cẩm lai, giáng hương,… và dược liệu có giá trị kinh tế
cao như trầm hương, quế, hồi, trẩu, cánh kiến, trên 1.300 loại cây thuốc,… Việt
Nam có hệ động thực vật đa dạng với gần 15 nghìn lồi thực vật thuộc trên 300 họ,


trên 11 nghìn lồi động vật trong đó có nhiều loài quý hiếm được ghi vào sách Đỏ
của thế giới.
Việt Nam có vùng đặc quyền kinh tế biển khoảng 1 triệu km2, nguồn lợi hải
sản phong phú, có thể cho phép khai thác 1,5-2 triệu tấn hải sản hàng năm. Thềm
lục địa Việt Nam có trữ lượng dầu khí tương đối lớn. Với 3.260 km bờ biển,
100.000 ha đầm phá và vịnh kín, 200.000 ha bãi triều và ngập mặn, Việt Nam có
điều kiện thuận lợi để phát triển ni trồng thuỷ sản. Với trên 100 cửa sông, hàng
chục vịnh kín có mực nước sâu và diện tích lớn cùng vị trí địa lý thuận lợi, Việt
Nam có nhiều điều kiện phát triển giao thông đường thuỷ, phát triển kinh tế trên cơ
sở đẩy mạnh thơng thương quốc tế.
Hịa chung với tốc độ phát triển kinh tế của nhân loại thì nhu cầu tham quan
nghỉ dưỡng của con người càng tăng cao. Xét về nhu cầu và tiềm năng sẵn có của
tài nguyên du lịch cộng với lợi nhuận mà du lịch mang lại, Việt Nam đã từng bước
đưa du lịch trở thành nền kinh tế mũi nhọn. Vì vậy khi đánh giá tiềm năng trong
việc sử dụng tài nguyên thiên nhiên để phát triển kinh tế thì khơng thể không nhắc
đến tài nguyên du lịch của Việt Nam. Tài nguyên du lịch Việt Nam phong phú và đa

dạng cả về du lịch tự nhiên và du lịch văn hoá - lịch sử. Về du lịch tự nhiên, Việt
Nam có bờ biển dài hơn 3.260 km với hơn 3.000 hòn đảo lớn nhỏ. Trong suốt chiều
dài bờ biển có nhiều vùng có lợi thế du lịch, phân bố đều từ Bắc đến Nam (từ Trà
Cổ, Đồ Sơn, Sầm Sơn, Cửa Lị, qua Lăng Cơ, Đà Nẵng, Nha Trang, Phan Thiết,
Vũng Tàu đến Cơn Đảo, Phú Quốc,...) trong đó Vịnh Hạ Long đã được công nhận
là di sản thiên nhiên thế giới, Đà Nẵng, Nha Trang, Phan Thiết là những bãi biển
thuộc loại đẹp nhất thế giới. Phú Quốc là một trong số ít những điểm du lịch biển
hoang sơ cịn chưa được khai phá. 3/4 diện tích Việt Nam là vùng trung du miền
núi, với nhiều loại địa hình và cấu trúc địa chất khác nhau, ở các vĩ độ địa lý khác
nhau, độ cao với mặt biển khác nhau phù hợp với nhiều loại hình du lịch. Những


cánh rừng nhiệt đới với thảm thực vật và động vật phong phú, hệ thống sơng ngịi,
kênh rạch chằng chịt tổng hợp tạo nên những tổ hợp tài nguyên du lịch đặc thù. Cả
nước có 10 vườn quốc gia, gần 70 khu bảo tồn thiên nhiên, 21 khu bảo tồn văn hoá
lịch sử và nhiều địa điểm du lịch nổi tiếng, trong đó phải kể đến Vườn quốc gia
Phong Nha - Kẻ Bàng với con sông ngầm dài nhất thế giới đã được UNESCO công
nhận là di sản thiên nhiên thế giới, Sapa và núi Phan-xi-păng cao nhất Việt Nam, hồ
Ba Bể, Tam Đảo, Đà Lạt, đồng bằng sông Cửu Long… Vốn là cái nơi của nền văn
hố lúa nước và lịch sử chống ngoại xâm hàng ngàn năm, nền văn hoá chứa đựng
bản sắc của 54 dân tộc cùng những di sản kiến trúc - văn hoá nổi tiếng ở Huế, Hội
An, Mỹ Sơn, Thăng Long - Hà Nội và di sản phi vật thể như ca trù, nhã nhạc cung
đình Huế, cồng chiêng Tây Nguyên xứng đáng là nguồn tài nguyên du lịch vô giá
của Việt Nam.
Chúng ta đã biết tận dụng tài nguyên thiên nhiên để phát triển kinh tế nước
nhà. Thực tế cho thấy sau gần 30 năm đổi mới từ năm 1986 kinh tế nước ta đã có
sự phát triển dựa vào việc xuất khẩu tài nguyên thiên nhiên. Tốc độ tăng trưởng
kinh tế giai đoạn 2006-2010 đạt mức 7%, thấp hơn so với kế hoạch đặt ra (7,5-8%)
nhưng cao hơn mức bình quân khu vực Đông Nam Á; Giai đoạn 2011-2015 dự kiến
2 kịch bản đạt mức trung bình 6,5% hoặc 7% (2 kịch bản cho kinh tế Việt Nam

2011-2015 Chính phủ trình Quốc hội). Nhờ sự tăng trưởng liên tục dương đã đưa
nền kinh tế nước ta từ chỗ là quốc gia xếp hạng có thu nhập thấp, chúng ta đã vươn
lên trở thành nhóm nước có thu nhập trung bình thấp của thế giới 1109 USD năm
2015. Tuy nhiên bên cạnh những thành tựu đạt được, chúng ta cũng đã nhận thấy
chất lượng và hiệu quả của quá trình tăng trưởng vẫn chưa có nhiều cải thiện, tăng
trưởng vẫn chủ yếu dựa vào khai thác các lợi thế của tự nhiên sẵn có, sự đóng góp
của khoa học và cơng nghệ cho tăng trưởng nhỏ bé, năng lực cạnh tranh quốc gia,
doanh nghiệp và sản phẩm còn thấp. Mới đây theo báo cáo năng lực cạnh tranh


toàn cầu 2011-2012 tại diễn đàn kinh tế thế giới (WFF), Việt Nam tụt 6 bậc so với
năm 2010-2011, đứng thứ 65/142 các quốc gia được xếp hạng. Các chỉ số năng lực
cạnh tranh (GCI) có tới 10 trong tổng số 12 chỉ số chính của GCI bị mất điểm. Nếu
so với các nước trong khu vực Đông Nam Á, nước ta với vị trí thứ 65 trong bảng
xếp hạng năng lực cạnh tranh năm 2011 như Singapore, Malaysia, Indonesia,
Brunei khoảng cách của Việt Nam với các nước này càng xa (Singgapore xếp thứ 2,
Malaysia xếp thứ 21, Brunei xếp thứ 28 và Indonesia xếp thứ 46). Có rất nhiều
nguyên nhân gây ra tình trạng này. Thứ nhất là việc xuất khẩu tài nguyên thiên
nhiên một cách thiếu hợp lý. Xuất khẩu tài nguyên, khoáng sản đã và đang mang về
cho Việt Nam hàng chục tỉ đô la Mỹ mỗi năm. Nhưng, nhiều ý kiến cho rằng cách
phát triển kinh tế dựa vào tài ngun thơ chẳng khác gì “ăn thịt” chính mình. Ví dụ
như từ cuối năm 2005, sản lượng cà phê xuất khẩu của Việt Nam tăng gần 2,5 lần,
cao su (thiên nhiên) xuất khẩu cũng tăng hai lần. Nhưng thành quả này cũng phải
trả giá rất đắt, vì trong cùng thời gian đó, chỉ riêng ở khu vực Tây Nguyên 206.000
héc ta rừng đã biến mất. Hay năm 2012, tổng kim ngạch xuất khẩu các loại khoáng
sản trên 9,6 tỉ đơ la Mỹ, trong đó nhiều nhất vẫn là dầu thô (8,228 tỉ đô la Mỹ) và
than đá (1,238 tỉ đơ la Mỹ). Tuy nhiên, nếu tính cả giá trị của những ngành mà Việt
Nam đã phải trả giá bằng chính những tài nguyên quý giá nhất (rừng, đất đai) để có
được, thì sự phụ thuộc của nền kinh tế vào tài nguyên là rất lớn. Lợi nhuận đem lại
không đủ bù đắp thiệt hại. Thứ hai là máy móc thiết bị khoa học cơng nghệ yếu

kém. Hầu như máy móc thiết bị đều nhập từ nước ngồi và với trình độ cơng nghệ
thấp kém nhiều cơng nhân Việt Nam cịn khơng thể sử dụng thành thạo. Chúng ta
thu được 100 USD từ hàng may mặc nhưng phải nhập nguyên vật liệu lên tới 80
USD từ nước ngoài. Như vậy chúng ta chẳng khác nào một nước đi làm thuê.
Nguyên nhân thứ ba đó là hiểu biết của chúng ta về tiềm năng, trữ lượng, giá trị của
các nguồn tài nguyên của đất nước còn hạn chế; thông tin, dữ liệu về các nguồn tài
nguyên không đầy đủ, thiếu tồn diện, khơng thống nhất và chưa được chuẩn hóa.


Thứ tư nguồn lực tài nguyên chưa được cân đối, phân bổ hợp lý, sát với yêu cầu,
mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội; xung đột trong mục tiêu, lợi ích khai thác, sử
dụng, mất cân đối cung cầu về các nguồn tài nguyên đang gia tăng. Thứ 5 là việc
khai thác, sử dụng nhiều nhóm tài nguyên chưa hợp lý, kém hiệu quả và không bền
vững dẫn đến lãng phí nguồn lực quốc gia, một số nguồn tài nguyên bị suy thoái,
cạn kiệt.
Sự tụt hậu năng lực cạnh tranh, xét trong điều kiện thu hút đầu tư giữa các
nước ngày càng gay gắt đòi hỏi Đảng và Nhà nước ta cần phải có những điều chỉnh
về mặt chính sách nhằm nâng cao chất lượng tăng trưởng, tăng tính hiểu quả và sức
cạnh tranh của nền kinh tế thông qua xem xét lại khai thác, sử dụng hiệu quả tài
nguyên, tăng hàm lượng khoa học, giảm áp lực mơi trường góp phần chuyển đổi
mơ hình tăng trưởng và tái cấu trúc nền kinh tế phù hợp với xu thế phát triển mới.
Quản lý khai thác sử dụng tài nguyên hợp lý, tiết kiệm, bền vững. Áp dụng thành
tựu khoa học kỹ thuật vào trong sản xuất, học tập các nước phát triển trên thế giới.
Sử dụng đồng tiền có được nhờ xuất khẩu để nhập máy móc hiện đại, đầu tư đổi
mới công nghệ đi đôi với việc nâng cao trình độ tay nghề của các kỹ sư. Đẩy mạnh
công tác điều tra, đánh giá tiềm năng, trữ lượng, giá trị kinh tế, hạch toán, thiết lập
cơ sở dữ liệu, tài khoản các nguồn tài nguyên của đất nước. Chúng ta cần phải cơ
cấu lại ngành, vùng và thành phần kinh tế. Cần phải cơ cấu lại ngành nhằm hạn chế
bớt những ngành phụ thuộc nhiều vào khai thác tài nguyên thiên nhiên, nhất là tài
nguyên không tái tạo, giá trị gia tăng và hiệu quả kinh tế thấp; Những ngành có

cơng nghệ lạc hậu, sử dụng nhiều năng lượng và tốn kém tài nguyên, kém sức cạnh
tranh trên thị trường cũng cần phải được cân nhắc và dần dần loại bỏ; Ưu tiên các
ngành có cơng nghệ cao, chế biến sâu, khai thác và sử dụng hiệu quả tài nguyên
thiên nhiên, có khả năng cạnh tranh trong khu vực và trên thế giới. Đối với cơ cấu
vùng, tùy theo đặc trưng kinh tế-sinh thái của từng vùng để có sự ưu tiên đầu tư và


phát triển hợp lý, dựa vào khai thác về thế mạnh vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên và
tài nguyên thiên nhiên theo ưu thế của từng vùng cho phát triển kinh tế. Cần loại bỏ
đầu tư dàn trải như kiểu trước đây chưa tính tới ưu thế vùng, chẳng hạn như đối với
sản xuất xi măng hay một số khoáng sản kim loại khác mà chúng ta đã làm không
chỉ kém hiệu quả, sức cạnh tranh yếu mà cịn gây ra lãng phí tài ngun và hủy
hoại mơi trường. Tập trung vào một số vùng cơ bản có thế mạnh về vị trí địa lý,
điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên để đầu tư theo chiều sâu trên cơ sở có
luận chứng kinh tế-kỹ thuật, chứng minh được tính hiệu quả và vượt trội so với các
vùng khác đối với cùng loại tài nguyên. Phát triển sản xuất chun mơn hóa sản
phẩm theo đặc trưng vùng dựa trên lợi thế về điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên
nhiên và vị trí của vùng. Để thực hiện cơ cấu lại vùng, trước hết cần tiến hành quy
hoạch phát triển vùng, quy hoạch phát triển ngành chuyên môn hóa theo vùng trên
cơ sở ưu thế vùng về điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên. Quy hoạch này
là cơ sở để huy động nguồn lực đầu tư vào phát triển vùng. tái cấu trúc nền kinh tế
gắn với khai thác, sử dụng hiệu quả, tiết kiệm tài nguyên chính là thay đổi cơ cấu
ngành kinh tế, cơ cấu lãnh thổ và cơ cấu thành phần kinh tế nhằm phát huy hiệu
quả tốt nhất những ngành kinh tế khai thác và sử dụng tài nguyên hiệu quả, những
vùng có ưu thế về tài nguyên và những thành phần kinh tế đầu tư hiệu quả, tiết
kiệm trong khai thác và sử dụng tài nguyên. Đây chính là những nội dung bên trong
nhằm chuyển đổi mơ hình kinh tế từ phát triển theo chiều rộng sang kết hợp giữa
chiều rộng và chiều sâu, chuẩn bị cho nền kinh tế Việt nam bước sang phát triển ở
giai đoạn hai, giai đoạn tăng trưởng hiệu quả. Thực tế chứng minh kể từ khi mở
cửa, chúng ta đã có chính sách khuyến khích mọi thành phần cùng tham gia đầu tư

vào phát triển kinh tế, trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Tuy nhiên trải
qua thực tiễn tham gia của các thành phần kinh tế vừa qua cho thấy điều đáng lo
ngại là trong khi khu vực kinh tế trong nước nhập siêu lớn thì khu vực đầu tư nước
ngoài loại xuất siêu, đây là một sự mất cân đối nghiêm trọng, chứng tỏ các thành


phần kinh tế trong nước kém sức cạnh tranh, không hiệu quả so với đầu tư nước
ngồi. Như vậy có thể nhận định các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài đã tận dụng
tốt nguồn lực đầu vào trong nước, trong đó có tài nguyên thiên nhiên bản địa để tạo
ra hàng hóa xuất khẩu lớn. Đối với các thành phần kinh tế trong nước điều đáng lo
ngại là thành phần kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo, nhưng hoạt động kém hiệu
quả, quản trị yếu. Năm 2009 xét tỷ lệ đầu tư trong nước chiếm 46,5% trong đó Nhà
nước chiếm tới 22%, kinh tế tư nhân chỉ chiếm 10,4% , điều đó cho thấy Chính phủ
là Nhà đầu tư lớn trong nền kinh tế, chứa đựng nhiều rủi ro và hiệu quả không cao,
cần phải cơ cấu lại thành phần kinh tế, tăng tỷ lệ đầu tư của tư nhân và các thành
phần khác. Để tránh độc quyền và can thiệp sâu của thành phần kinh tế Nhà nước
đối với khai thác và sử dụng tài nguyên, đòi hỏi phải đẩy mạnh áp dụng công cụ thị
trường trong khai thác, sử dụng tài nguyên thiên nhiên như minh bạch hóa thơng tin
tài ngun, tiến hành đấu giá và xóa bỏ dần cơ chế xin cho trong cấp phép khai
thác và sử dụng tài nguyên. Tất cả các thành phần kinh tế đều bình đẳng trong khai
thác và sử dụng tài nguyên. Nhà nước sử dụng công cụ thuế để điều tiết khai thác
và sử dụng các loại tài nguyên khác nhau nhằm tạo ra thế cạnh tranh bình đẳng và
tăng nguồn thu tô tài nguyên vào ngân sách nhà nước.
Việt Nam đã tận dụng tiềm năng về tài nguyên thiên nhiên để phát triển kinh
tế tuy nhiên nếu lạm dụng quá mức sẽ để lại hậu quả về sau. Điều đáng lo ngại là
Việt Nam có phát triển sau thời kỳ đổi mới nhưng phát triển lại chủ yếu dựa vào
vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài và việc xuất khẩu tài nguyên thiên nhiên sẵn có.
Nhưng tài ngun thiên nhiên thì có hạn khơng thể khai thác sử dụng mãi được.
Vấn đề được đặt ra là phải quản lý một cách hợp lý, tích trữ nguồn tài nguyên cho
các thế hệ mai sau. Nhận thức được vấn đề này, trong văn kiện đại Hội đại biểu

Đảng toàn quốc lần thứ XI đã khẳng định một trong những định hướng mới cho
mục tiêu 5 năm 2011-2016 là “Chuyển đổi mơ hình tăng trưởng từ chủ yếu phát


triển theo chiều rộng sang phát triển hợp lý giữa chiều rộng và chiều sâu, vừa mở
rộng quy mô vừa chú trọng nâng cao chất lượng, hiệu quả, tính bền vững”. Lợi thế
vị trí địa lý và tài nguyên thiên nhiên cũng chỉ dừng lại ở tiềm năng nếu chúng ta
không biết tận dụng hoặc tận dụng không đúng những ưu thế này trong phát triển
kinh tế. Để khai thác các tiềm năng đó địi hỏi chúng ta phải nhìn nhận thấu đáo mơ
hình tăng trưởng, cấu trúc của nền kinh tế, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh
của nền kinh tế gắn với khai thác và sử dụng các nguồn tài nguyên thiên nhiên.
Nguồn tham khảo
1. Tạp chí cộng sản
2. Trang thông tin điện tử cục quản lý tài nguyên nước



×