Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

khảo sát về tiềm năng của năng lượng gió trên thế giới và ở Việt Nam, phương pháp đánh giá tiềm năng của năng lượng gió.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (366.39 KB, 20 trang )

Tiểu luận môn: Quản lý bền vững các nguồn năng lượng GVHD: TS. Lê Chí Hiệp
MỤC LỤC
Trang
Chương I
MỞ ĐẦU 1
Chương II
TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN NĂNG LƯỢNG GIÓ TRÊN
THẾ GIỚI
2.1 Khái niệm năng lượng gió 2
2.2 Tình hình phát triển năng lượng gió trên thế giới 2
2.2.1. Khái quát tình hình phát triển năng lượng gió trên thế giới 2
2.2.2 Khái quát tình hình sử dụng năng lượng gió trên thế giới 3
2.2.3. Tiềm năng phát triển năng lượng gió trên thế giới 5
2.3 Phát triển năng lượng gió – kinh nghiệm của một số nước 6
Chương III
TIỀM NĂNG PHÁT TRIỂN NĂNG LƯỢNG GIÓ Ở VIỆT NAM VÀ
PHƯƠNG PHÁP ĐÁNH GIÁ TIỀM NĂNG CỦA NĂNG LƯỢNG GIÓ
3.1 Tiềm năng phát triển năng lượng gió ở Việt Nam 10
3.1.1 Tổng quan về năng lượng điện ở Việt Nam 10
3.1.2 Tiềm năng phát triển năng lượng gió ở Việt Nam 11
3.1.3 Khung pháp lý cho năng lượng gió 11
3.2 Phương pháp đánh giá tiềm năng của năng lượng gió 12
3.2.1 Công việc xử lý số liệu đo 12
3.2.2 Phân bố Weibull 13
KẾT LUẬN 17
TÀI LIỆU THAM KHẢO 19
HVTH: Lê Nguyễn Thùy Giang
1
Tiểu luận môn: Quản lý bền vững các nguồn năng lượng GVHD: TS. Lê Chí Hiệp
Chương I
MỞ ĐẦU


Nhân loại đang bước vào thập niên đầu của thế kỷ XXI. Thiếu hụt năng
lượng và vấn nạn ô nhiễm môi trường đang là những mối đe dọa sự phát triển
bền vững của ngôi nhà chung “trái đất” của chúng ta. Ngay cả nguồn thủy điện
tưởng như vô hại đến môi trường thì nay người ta đã phải quan tâm đến những
hậu quả nghiêm trọng là làm mất cân bằng sinh thái. Do vậy, việc khai thác và
sử dụng các nguồn năng lượng mới và tái tạo như năng lượng hạt nhân, năng
lượng địa nhiệt, năng lượng gió, năng lượng Mặt Trời là hướng đi quan trọng
trong quy hoạch phát triển năng lượng, đảm bảo an ninh năng lượng cho mỗi
quốc gia.
Khi mức sống của người dân càng cao, trình độ sản xuất của nền kinh tế
ngày càng hiện đại thì nhu cầu về năng lượng cũng ngày càng lớn, và việc thỏa
mãn nhu cầu này thực sự là một thách thức đối với hầu hết các quốc gia. Ở Việt
Nam, sự khởi sắc của nền kinh tế từ sau Đổi Mới làm nhu cầu về điện gia tăng
đột biến trong khi năng lực cung ứng chưa phát triển kịp thời. Nếu tiếp tục đà
này, nguy cơ thiếu điện vẫn sẽ còn là nỗi lo thường trực của ngành điện lực Việt
Nam cũng như của các doanh nghiệp và người dân cả nước.
Với giá dầu lên cao, năng lượng trở thành một vấn đề cấp bách cho mọi
quốc gia, từ nước phát triển cho tới những nước đang phát triển. Giá dầu lên kéo
theo giá các năng lượng khác như khí đốt, than cũng tăng thêm vào đó là vấn đề
môi trường.
Năng lượng từ dầu khí đã đẩy mạnh cách mạng sản xuất của nhân loại
trong trăm năm nay. Nhưng nguồn năng lượng này đang có xu hướng giảm.
Theo ước tính, trữ lượng dầu sẽ hết trong 100 năm nữa. Tìm nguồn năng lượng
mới tốt nhất là một nguồn năng lượng tái tạo đã trở thành một giấc mơ cần biến
thành hiện thực, một nhu cầu, một bài toán cho nhân loại. Trong đó năng lượng
gió đang có những bước phát triển rất đáng kể. Nó được xem như dạng năng
lượng ưu việt trong tương lai, vô tận và là nguồn năng lượng thân thiện với môi
trường. Nội dung bài tiểu luận sẽ khảo sát về tiềm năng của năng lượng gió trên
thế giới và ở Việt Nam, phương pháp đánh giá tiềm năng của năng lượng gió.
HVTH: Lê Nguyễn Thùy Giang

2
Tiểu luận môn: Quản lý bền vững các nguồn năng lượng GVHD: TS. Lê Chí Hiệp
Chương II
TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN NĂNG LƯỢNG
GIÓ TRÊN THẾ GIỚI
2.1 Khái niệm năng lượng gió
Gió là một dạng của năng lượng mặt trời. Gió được sinh ra là do nguyên
nhân mặt trời đốt nóng khí quyển, do trái đất xoay quanh mặt trời và do sự
không đồng đều trên bề mặt trái đất. Luồng gió thay đổi tuỳ thuộc vào địa hình
trái đất, luồng nước, cây cối, con người sử dụng luồng gió hoặc sự chuyển động
năng lượng cho nhiều mục đích như: đi thuyền, thả diều và phát điện.
Năng lượng gió được mô tả như một quá trình, nó được sử dụng để phát ra
năng lượng cơ hoặc điện. Tuabin gió sẽ chuyển đổi từ động lực của gió thành
năng lượng cơ. Năng lượng cơ này có thể sử dụng cho những công việc cụ thể
như là bơm nước hoặc các máy nghiền lương thực hoặc cho một máy phát có thể
chuyển đổi từ năng lượng cơ thành năng lượng điện.
2.2 Tình hình phát triển năng lượng gió trên thế giới
2.2.1. Khái quát tình hình phát triển năng lượng gió trên thế giới
Trong năm 2003, ngành năng lượng có tốc độ phát triển nhanh nhất không
phải nhiệt điện, năng lượng nguyên tử mà là gió - thứ năng lượng tự nhiên đã
được người Ai Cập sử dụng cách đậy 7000 năm.
Bộ năng lượng Mỹ đã công bố một nghiên cứu mới về nguồn năng lượng
phát triển nhanh nhất. Kết quả cho thấy, năng lượng gió đã tăng trưởng 159% ở
Mỹ và 87% ở châu Âu, trong khoảng thời gian 2000 - 2003 (Nguồn: dịch vụ
đánh giá của Standard and Poor), qua mặt tất cả các nguồn năng lượng khác về
tốc độ tăng trưởng.
Sự chuyển biến về cơ cấu năng lượng diễn ra đặc biệt nhanh chóng tại châu
Âu, trong đó Anh Quốc là nước đi đầu. Trong năm qua, dự án xây dựng nhà
máy năng lượng gió với 1000 turbine gió tại bờ biển Anh Quốc và Wales đã
hoàn thành phần đấu thầu. Anh Quốc hi vọng sẽ thoả mãn 10% nhu cầu năng

lượng đất nước từ các nguồn năng lượng xanh như gió và ánh sáng mặt trời.
Hoa Kỳ cũng hi vọng năng lượng gió sẽ là nhân tố chủ đạo trong việc chuyển
đổi cơ cấu năng lượng nước Mỹ. Theo tính toán của bộ năng lượng Hoa Kỳ,
lượng turbine phủ trên 6% diện tích nước Mỹ đủ sản xuất lượng điện gấp rưỡi
nhu cầu hiện tại của Hoa Kỳ.
Tuy nhiên, năng lượng gió cũng gặp những trở ngại đáng kể để đưa vào ứng
dụng rộng rãi. Ngoài sự thất thường của gió, các vùng thích hợp để sản xuất điện
HVTH: Lê Nguyễn Thùy Giang
3
Tiểu luận môn: Quản lý bền vững các nguồn năng lượng GVHD: TS. Lê Chí Hiệp
gió đại trà lại cách khu dân cư quá xa. Trong bản báo cáo của bộ năng lượng
Mỹ, nơi thích hợp nhất để sản xuất năng lượng là đảo Aleutian, cách miền Tây
Alaska 1000 dặm về phía biển.(Theo ABC News)
2.2.2 Khái quát tình hình sử dụng năng lượng gió trên thế giới
Hiện nay có hàng ngàn điều hành tuốc bin gió đang hoạt động, với tổng vị trí
công suất của 121.188 MW trong đó điện gió tại châu Âu chiếm 55% (2008).
Thế giới tăng công suất điện gió hơn 4 lần vào giữa 2000 và 2006, tăng gấp đôi
mỗi ba năm 81% việc lắp đặt điện gió là ở Mỹ và châu Âu. Những chia sẻ của
năm quốc gia hàng đầu về lắp đặt mới giảm từ 71% trong năm 2004 xuống còn
62% vào năm 2006, nhưng tăng tới 73% vào năm 2008 như là những quốc gia:
Hoa Kỳ, Đức, Tây Ban Nha, Trung Quốc và Ấn Độ đã thấy năng lực tăng
trưởng đáng kể trong 2 năm qua.
Đến năm 2010, Hiệp hội Năng lượng gió thế giới đoán rằng sẽ có 160 GW
công suất sẽ được sản xuất trên toàn thế giới, tăng từ 73,9 GW vào cuối năm
2006, ngụ ý một mức tăng trưởng dự đoán lưới của hơn 21% / năm.
Đan Mạch tạo ra gần 1% lượng điện quốc gia của mình với điện gió – đạt tỷ
lệ cao nhất so với bất cứ nước nào, và đứng thứ chín trên thế giới trong tổng số
năng lượng gió. Đan Mạch khá nổi bật trong việc sản xuất và sử dụng tua bin
gió, với 1 cam kết thực hiện trong những năm 1970 để cuối cùng sản xuất 1 nửa
lượng diện năng quốc gia bằng sức gió.

Trong những năm gần đây, Mỹ đã bổ sung điện gió vào lưới điện của mình
nhiều hơn bất kỳ quốc gia nào khác, với 1 tốc độ tăng trưởng với công suất điện
tăng 45% [16,8 GW] vào năm 2007 và vượt chuẩn công suất của Đức trong năm
2008. California là 1 trong những vườn ươm của ngành công nghiệp hiện đại,
năng lượng gió, và dẫn đầu Hoa Kỳ về công suất trong nhiều năm, tuy nhiên,
vào cuối năm 2006, Texas đã trở thành bang đứng đầu về điện từ gió và tiếp tục
mở rộng. Vào cuối năm 2008, Taxas đã có 7.116 MW cài đặt, có thể xếp thứ sáu
trên thế giới, nếu Texas là 1 quốc gia riêng biệt. Iowa và Minnesota mỗi đã tăng
lên hơn 1 GW cài đặt vào cuối năm 2007; trong năm 2008 có thêm tiểu bang
Oregon, Washington, và Colorado. Năng lượng gió ở Mỹ đã tăng tới 31,8%
trong tháng 2, 2007 từ tháng 2, 2006. Sản lượng trung bình của 1 MW điện gió
tương đương với mức tiêu thụ điện trung bình là khoảng 250 hộ gia đình người
Mỹ. Theo Hiệp hội Năng lượng gió Mỹ, gió sẽ tạo ra đủ điện trong năm 2008
lên hơn 1% (tương đương 4.500.000 hộ gia đình) của tổng điện ở Mỹ, tăng từ
dưới 0,1% vào năm 1999. Bộ năng lượng Mỹ đã nghiên cứu về đã ký kết gió thu
hoạch ở Đồng bằng Lớn tại tiểu bang Texas, Kansas, Bắc Dakota và có thể cung
HVTH: Lê Nguyễn Thùy Giang
4
Tiểu luận môn: Quản lý bền vững các nguồn năng lượng GVHD: TS. Lê Chí Hiệp
cấp đủ điện cho cả nước, và rằng các trang trại gió ngoài khơi có thể cùng làm 1
công việc như nhau. Ngoài ra, các nguồn tài nguyên gió trên và xung quanh Hồ
Lớn, có thể được thu hồi với công nghệ hiện có, có thể tự cung cấp 80% như
điện năng nhiều như Hoa Kỳ và Canada đang tạo ra từ nguồn tài nguyên không
tái tạo, với chỉ 1 sự chia sẻ của Michigan cũng bằng đến 1 phần ba nhu cầu hiện
tại về điện của Mỹ.
Trung Quốc đã đặt mục tiêu ban đầu được tạo ra từ 30.000 MW vào năm
2020 từ các nguồn năng lượng tái tạo, nhưng đã đạt 22.500 MW vào cuối năm
2009 và có thể dễ dàng vượt qua 30.000 MW vào cuối năm 2010. Năng lượng
gió bản địa có thể tạo lên đến 253.000 MW. 1 bộ luật năng lượng tái tạo đã được
thông qua vào tháng 11 năm 2004, sau Hội nghị Năng lượng gió Thế giới được

đồng tổ chức bởi Trung Quốc và Hiệp hội Năng lượng gió thế giới. Đến năm
2008, điện gió ở Trung Quốc ngày càng tăng nhanh hơn so với chỉ tiêu, và quả
thật nhanh hơn về tỷ lệ phần trăm so với ở bất cứ quốc gia lớn khác, đã tăng hơn
gấp đôi mỗi năm kể từ năm 2005. Hoạch định chính sách tăng gấp đôi điện gió
của họ cho đến năm 2010, sau khi các ngành công nghiệp gió đạt được mục tiêu
ban đầu của 5 GW ba năm trước hạn. Hiện tại xu hướng đề nghị 1 công suất
thực tế sản xuất gần 20 GW vào năm 2010, Trung Quốc theo đuổi Hoa Kỳ để
dẫn đầu trên thế giới về điện gió.
Ấn Độ đứng thứ 5 trên thế giới với tổng công suất năng lượng gió 9.587 MW
trong năm 2008, hoặc 3% của tất cả điện sản xuất tại Ấn Độ. The World Wind
Energy Conference in New Delhi in November 2006 has given additional
impetus to the Indian wind industry. Hội nghị Năng lượng gió thế giới tại New
Delhi tháng 11 2006 đã thêm động lực cho ngành công nghiệp gió Ấn Độ. Lng
Muppandal ở bang Tamil Nadu, Ấn Độ, có nhiều trang trại tuốc bin gió ở vùng
lân cận của nó, và là 1 trong những trung tâm khai thác năng lượng gió lớn ở Ấn
Độ, dẫn đầu bởi các công ty như Suzlon, Vestas, Micon và 1 số công ty khác.
Mexico mới đây đã mở dự án điện gió La Venta II như 1 bước quan trọng
trong việc giảm mức tiêu thụ nhiên liệu hóa thạch của Mexico. Dự án 88 MW
này là dự án điện gió đầu tiên ở Mexico, cung cấp 13% nhu cầu về điện của
bang Oaxaca. Năm 2012 dự án sẽ có công suất 3.500 MW.
Một thị trường đang phát triển khác là Brazil, với tiềm năng gió là 143 GW.
Chính quyền liên bang đã tạo ra 1 chương trình ưu đãi, được gọi là Proinfa, để
xây dựng năng lực sản xuất với công suất 3.300 MW năng lượng tái tạo cho năm
2008, trong đó 1.422 MW thông qua năng lượng gió. Chương trình tìm kiếm để
sản xuất 10% điện cho Brazil thông qua các nguồn tái tạo.
HVTH: Lê Nguyễn Thùy Giang
5
Tiểu luận môn: Quản lý bền vững các nguồn năng lượng GVHD: TS. Lê Chí Hiệp
Nam Phi đã đề xuất 1 trạm nằm về phía bắc Bờ Tây của cửa sông Olifants
gần thị trấn Koekenaap, phía đông Vredendal ở tỉnh Western Cape. Trạm này

được đề xuất để có tổng sản lượng 100 MW, mặc dù có những cuộc đàm phán
để tăng gấp đôi khả năng này. Nhà máy có thể hoạt động vào năm 2010.
Pháp đã công bố 1 mục tiêu 12.500 MW được sản xuất vào năm 2010, mặc
dù trong vài năm qua họ sản xuất ngắn hạn.
Canada có kinh nghiệm phát triển nhanh chóng năng lực gió giữa 2000 và
2006, với tổng công suất lắp đặt tăng từ 137 MW đến 1.451 MW, và tỷ lệ tăng
trưởng hàng năm là 38%. Đặc biệt tăng trưởng nhanh chóng thấy rõ vào năm
2006, với tổng công suất tăng gấp đôi từ 684 MW vào cuối năm 2005. Sự tăng
trưởng này đã được bảo đảm bằng các biện pháp gồm các mục tiêu sản xuất, ưu
đãi và hỗ trợ kinh tế chính trị. Ở Quebec, các tỉnh sở hữu tiện ích điện có kế
hoạch mua 1 bổ sung 2.000 MW vào năm 2013. Năm 2025, Canada sẽ đạt công
suất 55.000 MW năng lượng gió, hay 20% năng lượng mà đất nước cần.
2.2.3. Tiềm năng phát triển năng lượng gió trên thế giới
HVTH: Lê Nguyễn Thùy Giang
6
Tiểu luận môn: Quản lý bền vững các nguồn năng lượng GVHD: TS. Lê Chí Hiệp
Năng lượng gió có sẵn trong bầu khí quyển lớn hơn nhiều so với mức tiêu thụ
năng lượng thế giới hiện nay. Những nghiên cứu toàn diện nhất vào năm 2005
đã tìm ra tiềm năng của năng lượng gió trên đất liền và gần bờ là khoảng 72
TW, tương đương với 54.000 MToE (triệu tấn dầu tương đương) / năm, hoặc
hơn 5 lần sử dụng năng lượng hiện nay của thế giới trong tất cả các hình thức có
tiềm năng. Tiềm năng này sẽ đưa vào tài khoản địa phương duy nhất với tốc độ
gió trung bình hàng năm ≥ 6,9 m / s tại 80 m. Nghiên cứu này giả định sáu tuốc
bin đường kính 77m, 1,5 megawatt/km
2
vào khoảng 13% tổng diện tích đất trên
toàn cầu (mặc dù đất đó cũng sẽ có thể dùng vào tiện ích khác như nông
nghiệp). Các tác giả thừa nhận rằng có nhiều rào cản thực tế cần phải được khắc
phục để đạt công suất lý thuyết này. Giới hạn thực tế để khai thác năng lượng
gió sẽ được thiết lập bởi các yếu tố kinh tế và môi trường, từ các nguồn lực có

sẵn lớn hơn bất kỳ phương tiện thiết thực để phát triển nó.
2.3 Phát triển năng lượng gió – kinh nghiệm của một số nước
Mặc dù điện gió bắt đầu được thế giới để ý đến từ 25 năm trước, nhưng chỉ
trong gần 10 năm trở lại đây nó mới khẳng định được vị trí trên thị trường năng
lượng thế giới khi sản lượng điện gió tăng trưởng một cách ngoạn mục với tốc
độ 28%/năm, cao nhất trong tất cả các nguồn năng lượng hiện có. Sự phát triển
thần kỳ này của điện gió có được là nhờ vào một số thay đổi quan trọng trong
thời gian qua.
Đầu tiên phải kể đến những tiến bộ về công nghệ có tính đột phá trong thời gian
qua đã giúp giảm giá thành điện gió xuống nhiều lần, đồng thời tăng công suất,
hiệu quả, và độ tin cậy của các trạm điện gió. Cụ thể là nếu như vào năm 1990,
công suất trung bình của một trạm điện gió ở Đan Mạch và Đức chỉ vào khoảng
200 KW, thì đến năm 2002 đã lên tới 1,5 MW và hiện nay các nước này đang
phát triển các tuốc bin lớn cỡ 5-10 MW nhằm phát triển các trạm điện gió trên
thềm lục địa. Hiệu quả của các trạm điện gió này cũng được cải thiện từ 2 đến
3% mỗi năm, góp phần vào việc giảm 30% giá thành điện gió trong vòng 12
năm.
Một lý do quan trọng nữa giải thích sự phát triển đột biến của điện gió trong 10
năm trở lại đây là nguy cơ khủng hoảng năng lượng của các nước đã phát triển
cũng như mối quan tâm ngày càng cao của các nước này về bảo vệ môi trường
đã tiếp thêm sức mạnh cho những nỗ lực tìm kiếm các dạng năng lượng tái tạo
thân thiện với môi trường, trong đó điện gió hiển nhiên là một ứng cử viên sáng
giá.
HVTH: Lê Nguyễn Thùy Giang
7
Tiểu luận môn: Quản lý bền vững các nguồn năng lượng GVHD: TS. Lê Chí Hiệp
Trong các nước chủ trương phát triển năng lượng gió, Đức vẫn là nước dẫn đầu
với công suất vào cuối năm 2004 lên tới 16.649 MW, chiếm hơn 30% tổng công
suất điện gió của thế giới. Ngay sau Đức là Tây Ban Nha và Mỹ lần lượt chiếm
19% và 16% tổng công suất điện gió thế giới. Một điều đáng lưu ý là không chỉ

các nước đã phát triển mà cả một số nước đang phát triển (đặc biệt là những
nước đông dân như Ấn Độ và Trung Quốc) cũng quyết định đầu tư để phát triển
điện gió. Trong phần dưới đây, chúng tôi xin giới thiệu kinh nghiệm phát triển
điện gió của ba nước Ấn Độ, Trung Quốc, và Philippines là ba nước có trình độ
phát triển không quá cách biệt đối với Việt Nam.
Các bài học của Ấn Độ, Trung Quốc và Philippines
 Ấn Độ
Ấn Độ là một trong hai nước đang phát triển nằm trong Top 10 nước dẫn đầu về
công suất điện gió (nước kia là Trung Quốc). Năm 2004, công suất điện gió tăng
thêm của Ấn Độ đứng thứ ba trên thế giới, chỉ sau CHLB Đức, Tây Ban Nha,
đứng trên cả Anh và Mỹ. Các nỗ lực này đã đưa Ấn Độ vươn lên hàng thứ năm
trên thế giới về công suất. Tính đến tháng 3/2005, công suất điện gió của Ấn Độ
đạt mức 3.595 MW, và chỉ riêng trong năm 2004 Ấn Độ đã lắp đặt mới được
1.112 MW, đạt mức tăng trưởng 45%. Nếu lấy năm 2000 làm mốc, khi Ấn Độ
mới chỉ có 1.220 MW điện gió, thì chỉ sau 5 năm, công suất điện gió của Ấn Độ
đã tăng lên 3 lần.
Năm 1980 đánh dấu bước khởi đầu của chiến lược phát triển năng lượng gió của
Ấn Độ khi Cơ quan Nguồn năng lượng (sau chuyển thành Bộ Năng lượng) của
nước này được thành lập nhằm mục đích đa dạng hóa nguồn năng lượng để phục
vụ cho sự phát triển nhanh của nền kinh tế (tốc độ tăng trưởng bình quân của Ấn
Độ trong 10 năm qua là khoảng 6-7 %/năm). Cơ quan này đã tiến hành nghiên
cứu, xác định, và triển khai các dự án năng lượng gió và sau đó đưa vào kinh
doanh. Chính phủ Ấn Độ cũng đã ban hành một số chính sách ưu đãi để hỗ trợ
cho dự án. Các công ty công nghiệp và thương mại, đặc biệt là các công ty tư
nhân, đã tận dụng những ưu đãi này của nhà nước để tiến hành đầu tư một cách
mạnh mẽ. Kết quả là các công ty này (trong đó 97% là các công ty tư nhân) đã
tự sản xuất được các bộ phát điện, và hơn thế, một số nhà sản xuất đã có thể bắt
đầu xuất khẩu sản phẩm của mình.
Bài học của Ấn Độ cho thấy một khi có chính sách khuyến khích đúng đắn, kết
hợp với những nghiên cứu kỹ thuật công phu và định hướng chính sách phát

triển rõ ràng của nhà nước thì các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp tư
nhân năng động, sẽ mạnh dạn đầu tư và phát triển thị trường điện gió một cách
HVTH: Lê Nguyễn Thùy Giang
8
Tiểu luận môn: Quản lý bền vững các nguồn năng lượng GVHD: TS. Lê Chí Hiệp
tương đối hiệu quả mà không cần sự can thiệp và đầu tư lớn của nhà nước. Nếu
như các nguồn năng lượng thủy điện và hạt nhân đòi hỏi mức độ đầu tư ban đầu
rất lớn và tiềm tàng mức độ ảnh hưởng ngoại tác (externality) cao, và vì vậy
thường đòi hỏi sự can thiệp của nhà nước, thì các trạm điện gió có quy mô vừa
phải hoàn toàn nằm trong tầm với của các nhà đầu tư tư nhân. Tất nhiên, nhà
nước cần tạo cơ sở và hành lang pháp lý cũng như có những biện pháp kiểm tra,
giám sát cần thiết để đảm bảo những đầu tư của khu vực tư nhân không đi ngược
lại lợi ích của xã hội.
 Trung Quốc
Với một bờ biển dài, Trung Quốc là một quốc gia có nhiều tiềm năng về năng
lượng gió. Dự án điện gió thử nghiệm đầu tiên của Trung Quốc được bắt đầu từ
năm 1986. Trong 20 năm qua, tận dụng các khoản viện trợ nước ngoài và các
khoản vay lãi suất thấp, Trung Quốc đã phát triển thêm nhiều khu điện gió, hòa
mạng vào lưới điện quốc gia. Năm 1994, Bộ trưởng Bộ Năng lượng Điện của
Trung Quốc đã ra quyết định đẩy mạnh phát triển năng lượng gió, một quyết
định hết sức khó khăn. Lý do là vì vào thời điểm đó, năng lượng gió trên thế giới
vẫn chưa phát triển, đồng thời nhiệt điện than khá rẻ và vẫn còn tương đối dồi
dào. Hiểu được điểm yếu này của điện gió so với các nguồn năng lượng truyền
thống khác, Bộ Năng lượng của Trung Quốc đã định hướng phát triển điện gió
thông qua việc giảm giá thành bằng cách phát triển những dự án quy mô lớn,
đồng thời địa phương hóa các nhà máy sản xuất tuốc-bin gió. Chính quá trình
địa phương hóa các nhà máy sản xuất tuốc-bin đã góp phần quyết định vào việc
giảm giá thành, đồng thời giúp phát triển kinh tế địa phương, đặc biệt là ở những
vùng sâu, vùng xa nhờ đảm bảo cung ứng điện ổn định, tăng nguồn thu thuế, và
tạo thêm công ăn việc làm cho địa phương.

Với tiền đề chính sách đúng đắn đó, thị trường điện gió ở Trung Quốc được hình
thành, và đến cuối năm 2004 Trung Quốc đã có 43 khu điện gió với tổng công
suất là 850 MW. Trong năm 2005, có thêm 450 MW được đưa vào vận hành.
Hướng tới tương lai xa hơn, chính phủ Trung Quốc đặt mục tiêu đến năm 2020,
công suất điện gió của nước này sẽ tăng lên tới 20.000 MW gấp 20 lần công suất
hiện tại.
 Philippines
Trong thập kỷ tới, Philippines có triển vọng trở thành quốc gia dẫn đầu về năng
lượng gió trong khu vực Đông Nam Á. Một sự hợp tác chặt chẽ giữa chính phủ
và thành phần kinh tế tư nhân được xác lập với mục tiêu đạt công suất tối thiểu
là 417 MW điện gió trong vòng 10 năm tới. Dựa vào những nghiên cứu của
HVTH: Lê Nguyễn Thùy Giang
9
Tiểu luận môn: Quản lý bền vững các nguồn năng lượng GVHD: TS. Lê Chí Hiệp
phòng thí nghiệm quốc gia về năng lượng tái tạo, Philippines quy hoạch một khu
vực được đánh giá là rất tốt để phát triển năng lượng gió với diện tích lên tới
10.000 km2 cho dự án phát triển điện gió. Theo tính toán, tiềm năng về công
suất gió của khu vực này lên tới hơn 70.000 MW, có thể cung cấp khoảng 195 tỷ
kWh mỗi năm. Các nghiên cứu triển khai cho dự án này hiện vẫn đang được tiếp
tục và bước đầu đưa vào thực tế.
HVTH: Lê Nguyễn Thùy Giang
10
Tiểu luận môn: Quản lý bền vững các nguồn năng lượng GVHD: TS. Lê Chí Hiệp
Chương III
TIỀM NĂNG PHÁT TRIỂN NĂNG LƯỢNG GIÓ
Ở VIỆT NAM VÀ PHƯƠNG PHÁP ĐÁNH GIÁ TIỀM NĂNG
CỦA NĂNG LƯỢNG GIÓ
3.1 Tiềm năng phát triển năng lượng gió ở Việt Nam
3.1.1 Tổng quan về năng lượng điện ở Việt Nam
Cuối năm 2007 tổng công suất các nguồn năng lượng đã được lắp đặt bao gồm:

Nguồn năng lượng Công suất (MW) Tỷ lệ (%)
Hydro 5410 36,0
Dầu 717 4,5
Than 1920 13,0
Khí đốt 6664 44,0
Năng lượng khác 481 2,5
Nguồn: Viện Năng lượng, 2008
Tuy nhiên Việt Nam vẫn thiếu điện trầm trọng:
2006: 12.352 MW sản xuất 60,60 tỷ KWh.
2010: dự kiến 19.550MW sản xuất 112,658 tỷ KWh
2020: dự kiến 48.642 MW sản xuất 294,01 tỷ KWh
Thiếu hụt 4.000 MW Việt Nam phải nhập của Lào 2.000 MW, Trung quốc
1.000KW, Campuchia 1.000MW
Nhu cầu điện tiêu dùng của Việt Nam tăng hơn 10%/năm cho đến năm
2020. Hiện tại, Việt nam phải nhập khẩu điện từ Trung Quốc để chống việc
thiếu điện tại miền Bắc.
Để cơ bản đáp ứng được nhu cầu về tiêu dùng điện nội bộ, Việt nam đã
có kế hoạch xây dựng thêm 32 nhà máy điện. Tập đoàn Điện lực Việt Nam
(EVN), Công ty Nhà nước, có kế hoạch đưa vào hoạt động 16 nhà máy thủy
điện tăng công suất phát điện cho nhà máy điện than lên 400MW trong các năm
tới trong khi tập đoàn Than Việt nam sẽ xây dựng thêm 8 nhà máy điện chạy
than.
Năng lượng gió tại Việt nam cho tới hiện tai chỉ mới được khai thác một
số lượng nhỏ với sản lượng đầu ra dao động từ 150-200W. Lượng điện tạo ra
được sử dụng chủ yếu cho bơm nước tưới tiêu và nạp pin năng lượng. Hiện thời,
hơn 1,500 turbin gió với năng suất từ 15-200W đã được lắp đặt tại các vùng
nông thôn và hải đảo tại Việt nam cho tiêu dùng hộ gia đình. Tổng công suất lắp
HVTH: Lê Nguyễn Thùy Giang
11
Tiểu luận môn: Quản lý bền vững các nguồn năng lượng GVHD: TS. Lê Chí Hiệp

đặt cho các hệ thống điện gió tại các vùng sâu vùng xa ở Việt nam là 1.25MW
(cuối năm 2008). Các nghiên cứu sản xuất chỉ tập trung vào nhũng turbine gió
nhỏ với công suất tối đa là 500W
3.1.2 Tiềm năng phát triển năng lượng gió ở Việt Nam
Việt nam được ước tính có tiềm năng gió rất cao với tổng diện tích vùng
lãnh thổ có tiềm năng khai thác gió xấp xỉ 9% tổng diện tích quốc gia. Nằm
trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa với đường bờ biển dài, Việt nam có lợi thế
rất lớn về phát triển năng lượng gió. Ngân hàng thế giới (World Bank) đã tiến
hành một bản khảo sát chi tiết về năng lượng gió ở vùng Đông Nam Á (SEA)
bao gồm cả Việt nam, do tiến hành trong chương trình Năng lượng bền vững và
thay thế. Theo kết quả của nghiên cứu này, Việt nam có tiềm năng về năng
lượng gió lớn nhất trong khu vực so với các nước láng giềng như Campuchia,
Lào, Thái Lan. Hơn thế nữa, vùng duyên hải miền Nam và nam trung bộ của
Việt nam đặc biệt hứa hẹn về tiềm năng khai thác năng lượng gió vì vận tốc gió
rất cao và mật độ dân cư thưa thớt. 8.6% tổng diện tích Việt nam được đánh giá
là có tiềm năng từ “cao” đến “rất cao” cho việc phát triển các turbine gió lớn
(vận tốc gió >7m/s)
Tổng tiềm năng về năng lượng gió của Việt nam được ước tính là 513,360
MW – cao gấp 6 lần công suất dự kiến của ngày điện Việt nam vào năm 2020.
Trong đó, hai vùng giàu tiềm năng nhất để phát triển năng lượng gió của
nước ta là Sơn Hải (Ninh Thuận) và vùng đồi cát ở độ cao 60-100m phía tây
Hàm Tiến đến Mũi Né (Bình Thuận). Gió vùng này không những có vận tốc
trung bình lớn mà còn có một thuận lợi khác, đó là số lượng các cơn bão khu
vực ít và gió có xu thế ổn định. Đây là những điều kiện rất thuận lợi để phát
triển năng lượng gió. Trong những tháng có gió mùa, tỷ lệ gió Nam và Đông
Nam lên đến 98% với vận tốc trung bình 6-7m/s, tức là vận tốc có thể xây dựng
các trạm điện gió công suất 3-3,5MW. Thực tế là người dân khu vực Ninh
Thuận cũng đã tự chế tạo một số máy phát điện gió cỡ nhỏ để thắp sáng.
3.1.3 Khung pháp lý cho năng lượng gió
Chính phủ Việt Nam đã nhận thấy tầm quan trọng của năng lượng tái tạo.

Vào năm 1999, Chính phủ Việt nam đã ban hành Bản Kế hoạch hành động cho
năng lượng tái tạo (do Tập đoàn Điện lực VN và Ngân hàng thế giới hợp tác xây
dựng). Bản Kế hoạch hành động đề ra Khung pháp lý 10 năm mà sẽ được tiến
hành 5 năm/lần với sự giúp đỡ của các tổ chức quốc tế nhằm đẩy nhanh tốc độ
phát triển và tăng cường việc sử dụng năng lượng tái tạo cho điện khí hóa nông
thôn và điện nối lưới.
HVTH: Lê Nguyễn Thùy Giang
12
24
24
1

=
=i
ii
tb
tV
V
Tiểu luận môn: Quản lý bền vững các nguồn năng lượng GVHD: TS. Lê Chí Hiệp
Đến năm 2020, ước tính 5% nguồn năng lượng của Việt nam sẽ được tạo
ra từ nguồn năng lượng tái tạo. Để có thể đạt được mục tiêu này, mỗi năm cần
phải có từ 100MW đến 200MW điện gió được hòa lưới. Viện Năng lượng đã
xây dựng tổng sơ đồ phát triển năng lượng tái tạo cho Việt nam đến năm 2015
tầm nhìn đến năm 2025 trong đó tập trung chủ yếu vào việc đề ra các mục tiêu
chiến lược, xây dựng kịch bản phát triển năng lượng tái tạo và đề xuất các chính
sách cho việc phát triển năng lượng tái tạo tại Việt nam. Tuy nhiên, hiện nay
chưa có cơ chế hỗ trợ cho các nhà đầu tư năng lượng tái tạo để đảm bảo cho việc
đầu tư của họ.
Để hỗ trợ các nhà đầu tư nước ngoài, Chính phủ Việt nam đã quyết định
xem năng lượng tái tạo là lĩnh vực xứng đáng được hưởng những cơ chế hỗ trợ.

Hiện nay các nhà đầu tư vào lĩnh vực năng lượng tái tạo có thể được hưởng một
số chính sách ưu đãi như miễn thuế nhập khẩu cho các trang thiết bị máy móc,
miễn thuế sử dụng đất trong một thời hạn nhất định. Vào ngày 02/08/2007,
Chính phủ Việt nam đã ra quyết định số 130/2007/QD-TTg về cơ chế tài chính
và các chính sách cho các Dự án đầu tư triển khai theo cơ chế phát triển sạch
(CDM).
Vào ngày 04/07/2008 Bộ Tài chính và Bộ Tài nguyên môi trường đã ra
Thông tư liên tịch số 58/2008/TTLT-BTC-BTN&MT hướng dẫn thực hiện các
quy định đề ra theo Quyết định số 130/2007/QD-TTg.
Thông tư liên tịch này cũng đã miêu tả rất rõ về đối tượng được hưởng ưu
đãi, các điều kiện để nhận ưu đãi, cách thức tính toán mức ưu đãi cho một đơn vị
điện sản xuất, mức ưu đãi được hưởng hàng năm, các điều khoản ưu đãi, quy
trình nộp hồ sơ xin ưu đãi cho các dự án CDM tại Việt nam.
3.2 Phương pháp đánh giá tiềm năng của năng lượng gió
3.2.1 Công việc xử lý số liệu đo
Từ số liệu đo được, ta sẽ lập các biểu mẫu:
1- Vận tốc gió theo từng giờ trong ngày (từ giờ thứ 1 đến giờ thứ 24 trong
ngày) vào mùa đông, vào mùa hè và trung bình trong năm.
2- Vận tốc gió trung bình theo từng ngày trong năm.
3- Vận tốc gió trung bình theo từng tháng trong năm.
Từ các biểu mẫu này, ta lập các đồ thị:
1) Đồ thị bar V=f (giờ trong ngày) giờ trong ngày: 1,2, ,24
Từ đồ thị này tìm: (v- m/s)
- Vận tốc gió trung bình trong ngàyV
tb
:
HVTH: Lê Nguyễn Thùy Giang
13
)1(
30

30
1

=
=
i
ii
tb
tV
V
Tiểu luận môn: Quản lý bền vững các nguồn năng lượng GVHD: TS. Lê Chí Hiệp
2) Đồ thị bar V=f (giờ trong tháng)
Vận tốc gió trung bình trong tháng
3) Căn cứ biểu mẫu V=f (giờ trong ngày) (của giá trị trung bình trong cả
năm), ta lập bảng tần suất xuất hiện từng vận tốc gió theo số giờ trong ngày hay
theo số giờ trong tháng. Từ bảng này, lập đồ thị bar tần suất xuất hiện=f(V) (tần
suất xuất hiện – tính theo thời gian: số giờ trong tháng)
Lập thêm đồ thị XY-Scatter tần suất xuất hiện=f(V).
4- Lập bảng phân bố luỹ tích số giờ có gió mà V gió < V gió tham chiếu.
Cột thứ I của bảng này là các khoảng vận tốc gió, cột thứ II là số giờ
có vận tốc gió đó xuất hiện, cột thứ III là số giờ luỹ kế. Cụ thể, gọi cột
1 của hàng thứ i là cột i,1. Cột thứ 2 là cột i,j-1 thì cột luỹ kế là cột i,j.
Giá tri của cột
i,3
= Giá trị của cột
i-1, j
+ giá trị cột
i,2
.
Vẽ đồ thị phân bố luỹ tích số giờ có gió mà V gió < V gió tham chiếu.

(trục tung là % luỹ kế (cột 4). Trục hoành là các khoảng giá trị của V. (cột 1)
Lấy phương trình giải tích của đồ thị phân bố luỹ tích số giờ có gió mà V
gió < V gió tham chiếu. Phương trình này * cần ở dạng tuyến tính. Và chú ý
tuyến tính hoá đường cong đồ thị tần suất xuất hiện=f(V) trong phạm vi
V=0.7*Vtb đến V=2*Vtb.
Từ đồ thị tần suất xuất hiện=f(V) và đồ thị phân bố luỹ tích số giờ có gió
mà V gió < V gió tham chiếu ta có thể định tính được trạng huống của gió tại
vùng khảo sát.
Song để có cách nhìn tổng quan, và chính xác, ta cần sử dụng hàm phân
bố thống kê toán học Weibull. Sử dụng hàm Weibull sẽ vừa định tính và định
lượng trạng huống của gió tại vùng này, vừa có thể từ đó tính được mật độ năng
lượng gió. Có thể căn cứ thêm vào các thông số của tuabin gió dự kiến sẽ được
lắp đặt để tính ra điện năng mà nó sản xuất.
3.2.2 Phân bố Weibull
Nhận xét từ đồ thị tần suất vận tốc gió và đồ thị phân bố luỹ tích đã nói ở
trên, nếu ta lấy trục hoành theo V/V
tb
thì ta sẽ có đồ thị của các đại lượng tương
tự, rất tiện lợi cho việc so sánh trạng huống của các vùng gió khác nhau. Những
trạng huống này có thể được mô hình hoá bằng hàm thống kê toán học Weibull
hay Rayleigh. Nhờ hai hàm phân bố này ta có thể đoán định số giờ làm việc có
HVTH: Lê Nguyễn Thùy Giang
14
)2(

=


0
)( dVVVfV

dVVfVV )()(
2
0
2

−=


σ
)7(














−−=
k
c
V
VF exp1)(
)8(






















==
− kk
c
V
c
V
c
k
dV

dF
Vf exp)(
1
)9(
dyeyX
yx −




0
1
)(
)10(
)12(
Tiểu luận môn: Quản lý bền vững các nguồn năng lượng GVHD: TS. Lê Chí Hiệp
hiệu quả của tuabin gió và điện năng thu được từ các máy phát điện bằng tuabin
gió.
Hàm Weibull:
Hàm Weibull F(V) mô tả số thời gian hoặc số % thời gian mà gió có vận
tốc nhỏ hơn một vận tốc quy chiếu:
F(V)=P (V<=V∋) (không thứ nguyên) (3)
Hàm Weibull f(V) mô tả mật độ phân bố tần suất Vgió:
f(V)=dF(V)/dV (s/m) (4)
hoặc
Hàm S(V) được định nghĩa là thời gian mà V>=V∋ tức là S(V)=1 - F(V) =
P (V>=V∋)
Vận tốc trung bình có thể tìm được từ biểu thức:
(m/s)
Và lệch sai tiêu chuẩn σ bằng:

(m
2
/s
2
)
Phân bố Weibull:
Đặc tính của phân bố Weibull biểu thị bởi hai nhân tử đặc tính: nhân tử k
(không thứ nguyên) và nhân tử thang độ c (m/s). Nhân tử k đặc trưng cho dạng
đường cong phân bố. Nhân tử c đặc trưng cho thang độ của trục toạ độ gọi là
tham số tiêu độ.
Hàm số phân bố luỹ tích F(V):
Hàm phân bố tần suất mật độ vận tốc f(V):
V
tb
có thể biểu thị qua k và c; hoặc c là hàm của V
tb
và k. Các tích phân
trên rất khó giải, do vậy để đơn giản người ta đưa vào hàm Gamma Γ:
HVTH: Lê Nguyễn Thùy Giang
15
``)()(
0
dVVfvF
V

=
)5(
)6(







+Γ=

k
cV
1
1
)11(























+Γ−−=

k
k
V
V
k
VF
1
1exp1)(























+Γ−






Γ








=
−−
k
kk
k
V
V
kk
V

V
V
k
Vf
1
1exp
1
)(
)13(
















−=

2
4
exp1)(

V
V
VF
π
















−=
−−
2
2
4
exp.
2
)(
V
V

V
V
Vf
ππ
)14(
)15(
Tiểu luận môn: Quản lý bền vững các nguồn năng lượng GVHD: TS. Lê Chí Hiệp
Suy ra
Thay (11) vào biểu thức F(V) và f(V) ta được:
Hàm phân bố Rayleigh là trường hợp riêng của hàm Weibull, khi
k=2.
Do khi k=2 thì Γ
2
(1+1/2)=π/4, lúc này F(v) và f(v) trở thành:
Hàm Γ
k
(1+1/k) có thể được tính gần đúng bằng hàm Gamma G hoặc tra
từ số tay toán học. G=0.2869 1/k + 0.6880 k
0.1
.
Chú ý rằng cần lấy giá trị trục tung của đồ thị f(V) nhân lên 10 lần.
Tìm các nhân tử Weibull từ bảng số liệu về gió:
Sau khi đã có các số liệu đo đầy đủ, ta có thể tính được các giá trị của các
nhân tử k và c của hàm Weibull. Có ba phương pháp để xác định các giá trị này:
- Phương pháp dùng đồ thị hệ trục toạ độ Weibull
- Phương pháp phân tích lệch sai tiêu chuẩn
- Phương pháp phân tích hệ số đường cong năng lượng.
Trong bài này tác giả trình bày phương pháp thứ nhất và thứ ba.
Phương pháp dùng đồ thị hệ trục toạ độ Weibull
Bằng cách chuyển đường cong đồ thị Weibull sang dạng tuyến tính thì dễ

dàng xác định giá trị của k và c. Lúc này tang của góc nghiêng đường Weibull
tuyến tính chính là k. Cách làm:
Trục tung (hàm luỹ tích F(V)) có thang độ chia theo lnln[1-F(V)]
-1
. Trục
hoành có thang độ chia theo ln(V).Lúc này đồ thị hàm Weibull sẽ có dạng
HVTH: Lê Nguyễn Thùy Giang
16
3
____
____
tb
E
Vtheotinhluongnang
dungkhaluongnangtong
k
=
)16(
)
1
1(/)
3
1(
3
kk
k
E
+Γ+Γ=
3
1

1
3
1
1








=
=
=
N
n
n
N
n
n
E
V
N
V
N
k
)17(
)18(
3

2
1

= Vk
A
P
E
ρ
Tiểu luận môn: Quản lý bền vững các nguồn năng lượng GVHD: TS. Lê Chí Hiệp
đường thẳng. Đường thẳng này được đặt vào đồ thị qua hai cặp giá trị của
phương trình giải tích của đố thị phân bố luỹ tích số giờ có gió mà V gió < V gió
tham chiếu (đã nói ở phần *). Đo độ nghiêng của đường đồ thị tuyến tính này,
chính là hàm lượng giác tang của nó. Chính là k. Từ giao điểm của đường này
với đường F(V)=0.632 chiếu xuống trục hoành, ta có giá trị của c.
Phương pháp dùng hệ số đường cong năng lượng
Golding định nghĩa hệ số đường cong năng lượng k
E
như sau:
Mật độ công suất: P(V)/ A= 0.5.ρ.V
3
(W/m
2
)
Suy từ công thức trên cho hàm f(V), được:
Quan hệ giữ k
E
và k theo đồ thị H.1:
Có thể tìm k
E
theo biểu thức:

Như vậy, sau khi đã có k
E
ta sẽ tính mật độ năng lượng (W/m
2
):
KẾT LUẬN
Năng lượng gió được đánh giá là thân thiện nhất với môi trường và ít gây
ảnh hưởng xấu về mặt xã hội. Để xây dựng một nhà máy thủy điện lớn cần phải
HVTH: Lê Nguyễn Thùy Giang
17
Tiểu luận môn: Quản lý bền vững các nguồn năng lượng GVHD: TS. Lê Chí Hiệp
nghiên cứu kỹ lưỡng các rủi ro có thể xảy ra với đập nước. Ngoài ra, việc di dân
cũng như việc mất các vùng đất canh tác truyền thống sẽ đặt gánh nặng lên vai
những người dân xung quanh khu vực đặt nhà máy, và đây cũng là bài toán khó
đối với các nhà hoạch định chính sách. Hơn nữa, các khu vực để có thể quy
hoạch các đập nước tại Việt Nam cũng không còn nhiều.
Song hành với các nhà máy điện hạt nhân là nguy cơ gây ảnh hưởng lâu
dài đến cuộc sống của người dân xung quanh nhà máy. Các bài học về rò rỉ hạt
nhân cộng thêm chi phí đầu tư cho công nghệ, kĩ thuật quá lớn khiến càng ngày
càng có nhiều sự ngần ngại khi sử dụng loại năng lượng này.
Các nhà máy điện chạy nhiên liệu hóa thạch thì luôn là những thủ phạm
gây ô nhiễm nặng nề, ảnh hưởng xấu đến môi trường và sức khỏe người dân.
Hơn thế nguồn nhiên liệu này kém ổn định và giá có xu thế ngày một tăng cao.
Khi tính đầy đủ cả các chi phí ngoài – là những chi phí phát sinh bên cạnh
những chi phí sản xuất truyền thống, thì lợi ích của việc sử dụng năng lượng gió
càng trở nên rõ rệt. So với các nguồn năng lượng gây ô nhiễm (ví dụ như ở nhà
máy nhiệt điện Ninh Bình) hay phải di dời quy mô lớn (các nhà máy thủy điện
lớn), khi sử dụng năng lượng gió, người dân không phải chịu thiệt hại do thất
thu hoa mầu hay tái định cư, và họ cũng không phải chịu thêm chi phí y tế và
chăm sóc sức khỏe do ô nhiễm.

Ngoài ra với đặc trưng phân tán và nằm sát khu dân cư, năng lượng gió
giúp tiết kiệm chi phí truyền tải. Hơn nữa, việc phát triển năng lượng gió ở cần
một lực lượng lao động là các kỹ sư kỹ thuật vận hành và giám sát lớn hơn các
loại hình khác, vì vậy giúp tạo thêm nhiều việc làm với kỹ năng cao.
Tuy nhiên, điểm bất thuận lợi chính yếu của nguồn năng lượng nầy là việc
phải tùy thuộc vào thiên nhiên. Dù công nghiệp gió đang phát triển cao, và giá
thành của một turbine gió giảm dần từ hơn 10 năm qua, mức đầu tư ban đầu cho
nguồn năng lượng nầy vẫn còn cao hơn mức đầu tư các nguồn năng lượng cổ
điển.
Gió đến từ thiên nhiên cho nên gió không đáp ứng trọn vẹn được những
nhu cầu cần thiết của con người, vì con người không thể kiểm soát được nguồn
gió và nguồn điện năng nầy không thể giữ lại được nguồn điện dư thừa, trừ khi
chuyển điện qua các bình điện dự trử rất tốn kém và không có hiệu quả kinh tế.
Nguồn gió nhiều và điều đặn thường ở khu vực xa thành phố, do đó ngoài
việc xử dụng tại chỗ, điện năng từ gió khó được chuyển về các khu đông dân cư.
Do đó, trước khi có những biện pháp nhằm giải quyết các thuận lợi trên, năng
HVTH: Lê Nguyễn Thùy Giang
18
Tiểu luận môn: Quản lý bền vững các nguồn năng lượng GVHD: TS. Lê Chí Hiệp
lượng từ gió có thể xem như một nguồn năng lượng dự phòng ngoài các nguồn
năng lượng chính yếu khác.
Dĩ nhiên không có một nguồn năng lượng nào mà không ảnh hưởng đến
môi trường. Trong trường hợp năng lượng gió, ảnh hưởng cần phải lưu tâm là
các turbine gió gây ra tiếng động làm đảo lộn các luồng sóng trong không khí có
thể làm xáo trộn hệ sinh thái của các loài chim hoang dã và làm nhiễu xạ trở
ngại chính cho việc phát tuyến trong truyền thanh và truyền hình (Các bất thuận
lợi nầy đã được giải quyết bằng kỹ thuật làm cánh quạt mới to và cao hơn hiện
tại, do đó quạt sẽ quây chậm hơn, không làm đão lộn phương hướng di chuyển
của chim muông và giảm thiểu sự biến đổi của hệ sinh thái chung quanh).
Xuất phát từ nhu cầu thực tiễn sử dụng năng lượng hiện tại và những ưu

nhược điểm của nguồn tài nguyên năng lượng gió. Nhận thấy, Việt Nam hoàn
toàn có thể phát triển ngành phong điện do có tiềm năng năng lượng gió lớn.
Tuy nhiên, cần nghiên cứu địa điểm xây dựng cũng như giới hạn về số lượng
các nhà máy phong điện trên lãnh thổ Việt Nam nhằm đáp ứng nhu cầu năng
lượng và bảo vệ môi trường.
Bên cạnh đó Nhà nước cần nghiên cứu bổ sung vào hệ thống chính sách,
các cơ chế hỗ trợ phát triển ngành phong điện, thu hút vốn đầu tư nước ngoài
theo hình thức BOT. Nhằm tăng tính cạnh tranh trong sản xuất và cung ứng điện
giữa đơn vị nhà nước và tư nhân, góp phần làm giảm áp lực thiếu điện cung cấp
sinh hoạt và sản xuất.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
HVTH: Lê Nguyễn Thùy Giang
19
Tiểu luận môn: Quản lý bền vững các nguồn năng lượng GVHD: TS. Lê Chí Hiệp
1. Tài liệu “Báo cáo nghiên cứu khả thi đầu tư xây dựng nhà máy điện Phương
Mai” ***. Sản lượng điện là 67 triệu kWh/nam – 2005.
2. “Wind Energy Handbook” của Jon Wiley & Sone – 2006.
3. “Phong năng khái luận” của E.H. Lysen. 6/1986.
4. “Phong lực cơ thiết kế dữ ứng dụng” của Chu Thành Danh và các tác giả
khác – 8/1990.
5. www.thiennhien.net
6. www.tuoitre.com.vn
7. www. windenergy.org.vn
HVTH: Lê Nguyễn Thùy Giang
20

×