Tải bản đầy đủ (.pdf) (106 trang)

Truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa nhìn từ lí luận về giới (LV thạc sĩ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.53 MB, 106 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC

NGUYỄN ĐẮC HẬU

TRUYỆN NGẮN CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA
NHÌN TỪ LÍ LUẬN VỀ GIỚI
(So sánh với một số sáng tác sau 1975 của Nguyễn Minh Châu)

Chuyên ngành: VĂN HỌC VIỆT NAM
Mã số: 60 22 01 21

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. TRẦN NHO THÌN

Thái Nguyên, 2016

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN




i

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự
hướng dẫn khoa học của PGS. TS Trần Nho Thìn. Các nội dung nghiên cứu,
kết quả nghiên cứu trong công trình này là trung thực và chưa công bố dưới
bất kì hình thức nào.
Tác giả luận văn


Nguyễn Đắc Hậu

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN




ii

LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới Thầy giáo - PGS.TS
Trần Nho Thìn - người đã nhiệt tình hướng dẫn tôi hoàn thành luận văn thạc
sĩ. Đồng cảm ơn các thầy giáo, cô giáo trong khoa Văn – Xã hội, trường Đại
học Khoa học - Đại học Thái Nguyên, các thầy cô giáo thuộc Viện Văn học
đã giảng dạy và tạo điều kiện giúp đỡ.
Xin chân thành cảm ơn những người thân, bạn bè, đồng nghiệp đã
khích lệ, giúp đỡ, động viên tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu
Thái Nguyên, tháng 5 năm 2016
Tác giả luận văn

Nguyễn Đắc Hậu

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN




iii

MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU ......................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài ....................................................................................................... 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ...................................................................................... 4
3. Đối tượng và mục tiêu nghiên cứu ........................................................................ 7
3.1. Đối tượng nghiên cứu .............................................................................. 7
3.2. Mục tiêu nghiên cứu ................................................................................ 7
4. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu ................................................................ 8
4.1. Nhiệm vụ nghiên cứu .............................................................................. 8
4.2. Phương pháp nghiên cứu ......................................................................... 8
5. Phạm vi nghiên cứu ................................................................................................. 9
6. Cấu trúc của luận văn .............................................................................................. 9
7. Đóng góp của luận văn............................................................................................ 9
NỘI DUNG ................................................................................................................. 10
Chƣơng 1: VẤN ĐỀ GIỚI VÀ SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN MINH
CHÂU THỜI KỲ SAU NĂM 1975 ...................................................................... 10
1.1. Vấn đề Giới ........................................................................................... 10
1.1.1 Khái niệm giới (Gender) ...................................................................... 10
1.1.2. Văn hóa ứng xử giới trong xã hội Việt Nam ........................................ 11
1.2. Sáng tác của Nguyễn Minh Châu thời kỳ sau năm 1975 ........................ 18
1.2.1. Khái lược về vai trò người mở đường cho công cuộc đổi mới văn học
dân tộc ......................................................................................................... 18
1.2.2. Đổi mới về ý thức nghệ thuật .............................................................. 20
1.2.3. Đổi mới quan niệm về con người ........................................................ 22
1.2.4. Đổi mới trên phương diện nghệ thuật tự sự ....................................... 23
1.2.5. Hình tượng vật nữ trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu sau 1975 ... 25

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN





iv

Chƣơng 2: TINH THẦN PHÊ PHÁN ĐỐI VỚI VĂN HÓA NAM
QUYỀN VÀ Ý THỨC NỮ QUYỀN CỦA TÁC GIẢ ..................................... 27
2.1. Nhân vật người chồng – hiện thân của tư tưởng nam quyền .................. 29
2.1.1. Vấn đề đối xử với thân thể phụ nữ ...................................................... 29
2.1.2. Câu chuyện đẻ nhiều con .................................................................... 39
2.2. Người vợ như là sản phẩm của tư tưởng nam quyền .............................. 44
2.2.1.Tư tưởng chấp nhận đòn roi, không đấu tranh..................................... 46
2.2.2. Tư tưởng chấp nhận sinh đẻ nhiều, dẫn đến cuộc sống nheo nhóc ...... 56
2.2.3. Chấp nhận bất bình đẳng về phân công lao động gia đình ................. 59
2.3. Thái độ của các nhân vật : Phùng, Đẩu, Phác, cô con gái....................... 64
2.3.1. Thái độ của phóng viên Phùng và chánh án Đẩu ................................ 65
2.3.2. Thái độ của thằng Phác và đứa con gái ............................................. 66
Chƣơng 3: NGHỆ THUẬT KỂ CHUYỆN........................................................ 71
3.1. Người kể chuyện và điểm nhìn trần thuật .............................................. 71
3.1.2. Người kể chuyện ................................................................................ 71
3.1.3. Điểm nhìn trần thuật .......................................................................... 76
3.2. Xây dựng chân dung nhân vật .............................................................. 79
3.2.1. Chân dung người chồng………………………………………………..…..78
3.2.2. Chân dung người vợ…………………………………………………………80
3.3. Ngôn ngữ nhân vật ................................................................................ 83
3.3.1. Ngôn ngữ người chồng ....................................................................... 84
3.3.2. Ngôn ngữ người vợ ..................................................................... ……86
3.4. Không gian và thời gian nghệ thuật……………………………………...88
3.4.1. Không gian nghệ thuật………………………………………………………88
3.4.2. Thời gian nghệ thuật………………………………………………………..92
KẾT LUẬN ................................................................................................................ 95
TÀI LIỆU THAM KHẢO

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN




v

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN




1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Bàn về văn học, đại văn hào Nga M.Goki đã khẳng định “Văn học là
nhân học” - tức văn học là con người. Con người luôn là đối tượng phản ánh trung
tâm của văn học, là mục đích hướng đến trong hành trình sáng tạo của mỗi nhà văn.
Từ cuộc sống bước vào văn học, con người không chỉ mang đặc điểm giai cấp mà
còn có thuộc tính “giới”. Trong đó, giới là phạm trù chỉ quan niệm, vai trò và mối
quan hệ xã hội giữa nam giới và nữ giới, do đó giới là một phương diện không thể
thiếu của con người và sự tồn tại xã hội của con người. Theo đó, bất cứ một sáng
tác văn chương nào cũng đều ẩn chứa vấn đề về giới. Bởi vậy, lí luận về giới cần
được vận dụng làm cơ sở cho nghiên cứu và phê bình văn học.
1.2. Trong thực tế sáng tác, không có một tác phẩm văn học nào ra đời từ
một mảnh đất trống. Một tác phẩm nghệ thuật chân chính bao giờ cũng được thai
nghén, được hạ sinh trong một môi trường, một đời sống văn hoá nhất định mà ở
đó nhà văn đã được đằm mình, được hấp thụ các giá trị văn hoá để hình thành nên
những tư tưởng thẩm mĩ tiến bộ cho thời đại mình. Do vậy, khi nghiên cứu, cần

đặt tác phẩm trong bối cảnh văn hoá, xã hội mà nó ra đời mới có thể lí giải thoả
mãn những thông điệp nghệ thuật được nhà văn kí thác.
1.3. Ở Việt Nam, truyền thống văn hóa ứng xử giới là nam quyền (trước đây
thường gọi là “phụ quyền”- nhưng khái niệm phụ quyền không bao quát hết) theo
đó, nam giới xác lập quyền lực đối với người phụ nữ trên tất cả mọi phương diện
chính trị, đạo đức, thẩm mỹ... Tư tưởng nam quyền tạo nên sự bất công trong cách
nhìn nhận và đánh giá, ứng xử của nam giới đối với nữ giới. Tư tưởng này không
những chi phối hành vi ứng xử của nam giới mà của cả nữ giới, kể cả cách nhìn và
ứng xử của chính người phụ nữ về bản thân mình. Điều này thể hiện rõ nét trong
các sáng tác văn học Việt Nam từ xưa đến nay, trong đó có những tác phẩm đang
được tiếp nhận trong nhà trường phổ thông.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN




2

1.4. Lí luận phương Tây cho rằng: Sáng tác bao giờ cũng là sự hồi đáp, đối
thoại với những vấn đề cuộc sống của thời đại. Điều này không chỉ hiển nhiên đúng
với nền văn học phương Tây mà đúng cả với văn học tiến bộ nhân loại nói chung
cũng như văn học Việt Nam nói riêng. Tính chất hồi đáp, đối thoại giữa văn học và
thời đại đã phản ánh ở những vấn đề nhức nhối trong đời sống. Văn học Việt Nam
giai đoạn sau 1975 đứng trước cuộc đổi thay vĩ đại của lịch sử dân tộc cũng đã kịp
thời có bước chuyển mình nhanh chóng để cất lên tiếng nói của thời đại về những
vấn đề trong cuộc sống. Là nhà văn lớn của nền văn học hiện đại Việt Nam, sự
nghiệp văn chương lớn lao của Nguyễn Minh Châu đã phản ánh một cách trung
thực quá trình vận động của văn xuôi Việt Nam nói riêng và cả nền văn học Việt
Nam nói chung trước và sau năm 1975. Nhà văn Nguyễn Khải cho rằng Nguyễn

Minh Châu xứng đáng là “người kế tục xuất sắc những bậc thầy của nền văn xuôi
Việt Nam và cũng là người mở đường rực rỡ cho cho những cây bút trẻ sau này”.
Nếu như trước năm 1975, ngòi bút của ông mang đậm chất sử thi và cảm hứng lãng
mạn thì giai đoạn sau năm 1975, sáng tác của Nguyễn Minh Châu lại chuyển sang
cảm hứng thế sự, đời tư, hướng đến con người cá nhân trong cuộc sống mưu sinh
thường nhật, gắn với sự chuyển biến trong đổi mới ý thức nghệ thuật, đổi mới cách
nhìn, sự khám phá và thể hiện về con người với tinh thần nhân văn cao đẹp, nhất là
khi ta nhìn từ góc độ văn hóa giới.Với những đóng góp nói trên, nhiều truyện ngắn
của Nguyễn Minh Châu đã được tuyển chọn đưa vào giảng dạy trong nhà trường
như Bến quê, Bức tranh và đặc biệt là Chiếc thuyền ngoài xa.
1.5. Là tác phẩm có vị trí quan trọng trong văn nghiệp của Nguyễn Minh
Châu, kết tinh những thành tựu và tư tưởng nghệ thuật của ông trong chặng đường
đổi mới, cũng là tác phẩm xuất sắc của nền văn học hiện đại Việt Nam nhưng Chiếc
thuyền ngoài xa cho đến nay vẫn tồn tại nhiều bất cập trong vấn đề tiếp nhận. Bất
cập rõ nhất là việc lý giải hình tượng người đàn bà hàng chài bị chồng đánh đập mà
vẫn cắn răng chịu đựng như là biểu hiện của đức tính đẹp của người phụ nữ, người
vợ Việt Nam, là hiện thân của vẻ đẹp khuất lấp. Như luận văn chúng tôi sẽ chỉ rõ,
đây là cách phân tích cũ, thậm chí vô tình phục vụ cho quyền lợi của những người
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN




3

đàn ông, những người chồng bạo hành và xem thường quyền sống của những người
phụ nữ, những người vợ, điều này dễ nhận thấy nếu chúng ta liên hệ đến Luật
phòng, chống bạo lực gia đình” của Việt Nam 1. Bộ luật được thông qua muộn hơn
thời điểm ra đời Chiếc thuyền ngoài xa hai mươi mốt năm, đủ để thấy mẫn cảm
nhân đạo, nữ quyền của Nguyễn Minh Châu đi trước thời đại như thế nào.

Tất nhiên, có thể khi sáng tác Chiếc thuyền ngoài xa, bản thân Nguyễn Minh
Châu chưa nghĩ đến sự cần thiết của một bộ luật phòng chống bạo lực gia đình.
Nhưng nghiên cứu văn bản trong trường hợp này là phân tích cái vô thức đã hướng
dẫn nhà văn quan sát, miêu tả đối tượng, cái vô thức có nền tảng nhân bản, chống
nam quyền, ủng hộ nữ quyền. Một cách đọc cập nhật lý thuyết hiện đại theo chúng
tôi, phải tính đến điều này.
Nguyên nhân của tình trạng tiếp nhận và phê bình này là do lý luận về giới,
những tri thức về thân phận phụ nữ trong xã hội nam quyền chưa được vận dụng để
làm cơ sở nghiên cứu và phê bình tác phẩm. Nhà nghiên cứu Trần Nho Thìn trong
bài viết Ứng dụng lý luận văn học hiện đại trong giảng dạy văn học đã chỉ ra sự bất
cập, hạn chế của thực tế tiếp nhận tác phẩm văn học trong nhà trường: “Con người
như một đối tượng phản ánh trung tâm của văn học không chỉ là con người giai cấp
mà còn là con người có thuộc tính “giới”. Nhưng sách giáo khoa của ta không thèm
đoái hoài đến phê bình nữ quyền - một lí luận văn học chú ý đến giới, đến nữ tính
trong văn học (…). Nếu người soạn sách giáo khoa biết đặt những tác phẩm có
nhân vật người phụ nữ vào trong trường văn hóa của xã hội nam quyền truyền
thống, hẳn sẽ chỉ ra được hướng tiếp cận thích đáng và nhân bản” [40]. Có vị trí
quan trọng trong chương trình Ngữ văn trung học phổ thông, truyện ngắn “Chiếc
thuyền ngoài xa” cần được soi chiếu, lí giải ở nhiều hướng tiếp cận, trong đó tiếp

1

“Luật phòng, chống bạo lực gia đình” được Quốc hội thông qua ngày 21-11-2007 , điều 2 “Các hành vi bạo
lực gia đình” (trích)
1) Các hành vi bạo lực gia đình gồm:
a) hành hạ, ngược đãi, đánh đập hoặc hành vi cố ý khác xâm hại đến sức khỏe, tính mạng;
b) lăng mạ hoặc hành vi cố ý khác xúc phạm danh dự, nhân phẩm;
đ) cưỡng ép quan hệ tình dục;

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN





4

nhận từ lí luận về giới sẽ mang đến những phát hiện mới mà các cách nghiên cứu
khác không có được.
Với những lí do trên, chúng tôi đã lựa chọn đề tài “Truyện ngắn Chiếc
thuyền ngoài xa nhìn từ lý luận về Giới” để triển khai thành một luận văn tốt
nghiệp. Lựa chọn đề tài này, chúng tôi mong muốn đưa đến một cái nhìn đầy đặn,
một sự lí giải mới về giá trị của văn phẩm. Đồng thời muốn làm rõ những đóng góp,
những cống hiến quan trọng mang tính chất bước ngoặt của Nguyễn Minh Châu đối
với công cuộc hiện đại hoá nền văn học Việt Nam.
Đây là một nghiên cứu trường hợp (case study), hy vọng qua một giọt nước
để thấy cả biển cả. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp cần thiết, chúng tôi sẽ liên hệ,
so sánh Chiếc thuyền ngoài xa với một số sáng tác của Nguyễn Minh Châu sau
1975 có sự tương đồng để làm rõ vấn đề.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Trong quá trình khảo sát lịch sử tiếp nhận truyện ngăn Chiếc thuyền ngoài
xa, chúng tôi nhận thấy có nhiều bài viết, nghiên cứu về tác phẩm này như sau:
Năm 1987 trên Tạp chí Văn học số 3, nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân có bài
Truyện ngắn Nguyễn Minh Châu những năm 1980 đã nhận xét: “Chiếc thuyền
ngoài xa là truyện ngắn thể hiện khá nhiều nghịch lý. Vẻ đẹp toàn bích của cảnh
chiếc thuyền trong sương sớm trên bức ảnh nghệ thuật trái ngược với đời sống thực
trong chiếc thuyền ấy. Nỗi đau khổ bị đánh đập, hành hạ của người đàn bà chài
lưới trái ngược với việc chị ta không muốn ly dị anh chồng vũ phu. Ý đồ cứu giúp
tốt đẹp của người kể chuyện xưng “tôi” và người bạn chánh án phố huyện của anh
trái ngược với sự từ chối của nạn nhân v.v…”. [1]. Như vậy, Lại Nguyên Ân là một
trong những người đầu tiên phát hiện ra sự nghịch lý trong tác phẩm giữa một bên

là vẻ đẹp thơ mộng với một bên là hiện thực khổ đau mà người đàn bà hàng chài
phải chấp nhận.
Cũng theo hướng đó, nhà nghiên cứu Trần Đình Sử trong Bến quê - một
phong cách trần thuật có chiều sâu (Báo văn nghệ, số 8, ngày 21/2/1987) đã có cho
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN




5

rằng: “Chiếc thuyền ngoài xa là truyện về “nghịch lí của đời thường". [17, tr.385],
là “những suy nghĩ da diết về chân lý nghệ thuật và đời sống”. [17, tr.387].
Nhà nghiên cứu Đỗ Ngọc Thạch trong bài Đổi mới quyết liệt Nguyễn Minh
Châu (Báo Văn nghệ số 49, 50 ngày 5/12/1987) đã nhận xét: “Trong cuộc sống của
những người dân chài lam lũ đó, luôn tiềm ẩn những bi kịch không thể lường hết.
Có thể nói, với Chiếc thuyền ngoài xa, nhà văn đã nói về những nghịch lý tồn tại
như một sự thật hiển nhiên trong đời sống con người. Bằng thái độ cảm thông và sự
hiểu biết sâu sắc về con người, ông đã cung cấp cho ta cái nhìn toàn diện về cái đẹp
cuộc sống, hiểu cả bề mặt lẫn chiều sâu” [34]. Nhà nghiên cứu Đỗ Ngọc Thạch
ngoài việc đề cập đến việc “nghịch lý tồn tại như một hiển nhiên trong đời sống”
còn chỉ ra được nhà văn đã cho ta “cái nhìn toàn diện về cái đẹp cuộc sống”.
Năm 1989, N. Nikulin trong công trình Nguyễn Minh Châu và sáng tác của
anh do Lại Nguyên Ân dịch, đăng trên Báo Văn nghệ, số 50 ngày 16/12/1989 đã
lưu ý đến trách nhiệm của người nghệ sỹ trước cuộc sống, trước con người:
“Truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa xua tan làn khói lãng mạng phủ lên hình ảnh
đã trở nên quen thuộc về một ngư phủ dưới cánh buồm mờ ảo trong không gian xa
rộng của biển cả. Người chủ thuyền trở nên hung bạo vì cuộc sống trống rỗng và tẻ
nhạt, luôn đánh đập người vợ. Nhưng truyện còn có ý nghĩa rộng lớn hơn: nó
dường như khơi gợi người ta nên nhìn kĩ vào những gì ẩn sau cái vẻ đẹp điền viên

bề ngoài để nhớ đến trách nhiệm của nghệ sĩ trước cuộc sống, trước con người”
[17, tr.476, 477].
Năm 1995, trong Hội thảo 5 năm ngày mất Nguyễn Minh Châu, nhà nghiên
cứu Đinh Trí Dũng trong bài “Nguyễn Minh Châu và sự trăn trở của một ngòi bút
đầy trách nhiệm” có nhận xét: “Truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa, thông qua
câu chuyện đầy nghịch lí của cuộc đời, Nguyễn Minh Châu muốn nói đến một sự
thực trong nghệ thuật (...) đằng sau bức ảnh con thuyền mờ sương rất đẹp mà anh
tình cờ chụp được là số phận đớn đau của một người phụ nữ (...). Vì vậy người
nghệ sĩ không thể đơn giản và sơ lược khi nhìn cuộc sống của con người”.[15,
tr.311]
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN




6

Nhà nghiên cứu Dương Thị Thanh Hiên trong bài “Truyện ngắn Nguyễn
Minh Châu’’ trên Tạp chí nhà văn, số 7 – 2001 cho rằng: “Ở Chiếc thuyền ngoài xa
thì nghịch lí đặt ra ở một vẻ đẹp điền viên tươi sáng lại chứa đựng bao cảnh đời
ngang trái, xót xa. Sự thật ẩn kỹ đằng sau màn sương lãng mạn khiến nhà nghệ sĩ
duy mĩ phải sững sờ trước tình cảnh bất ngờ và bất nhẫn hiện hình của cái đẹp là
sự xấu xa, độc ác, là sự cam chịu, nhẫn nhục, cảnh khốn cùng”. [15, tr.319]
Tác giả Trịnh Thu Tuyết trong bài:“Một số cốt truyện trong truyện ngắn
Nguyễn Minh Châu” đã khẳng định :“Trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa,
từ một xung đột đầy nghịch lí, Nguyễn Minh Châu đặt ra một vấn đề nhận thức
cần suy nghĩ (...). Hình ảnh người đàn bà xấu xí, mệt mỏi, nhẫn nhục; người
chồng độc ác, vũ phu đau đớn và bi kịch của cuộc đời họ như là một thứ thuốc rửa
quái đản làm những thước phim huyền diệu bỗng hiện nên một màu sắc khủng
khiếp (...). Những con người u tối và đau khổ ấy vừa là nạn nhân của cuộc sống

đói nghèo, lam lũ, nhưng trong một lúc nào đó, họ cũng có thể trở thành quỷ dữ
đày đọa trước hết là những người thân khốn khổ của mình”. [ 15, tr.325-326]
Năm 2002, cùng cách nhìn như N. Nikulin, Nguyễn Trọng Hoàn trong công
trình Tiếp tục hành trình đọc Nguyễn Minh Châu: “Chiếc thuyền ngoài xa phê
phán cái nhìn lãng mạn một chiều về cuộc sống, đồng thời đặt ra trách nhiệm của
người nghệ sĩ phải đào sâu, khám phá để tìm ra bản chất của hiện thực”.
Năm 2008, nhóm tác giả Sách giáo viên Ngữ văn 12 Chương trình Chương
trình nâng cao đã có hướng dẫn chi tiết về việc đọc - hiểu văn bản truyện ngắn
Chiếc thuyền ngoài xa: “Chiếc thuyền ngoài xa rất tiêu biểu cho hướng tiếp cận đời
sống từ góc độ thế sự của nhà văn giai đoạn sáng tác thứ hai.(...) Gánh nặng mưu
sinh đè trĩu trên đôi vai cặp vợ chồng hàng chài, giam hãm họ trong cảnh tăm tối,
đói khổ, bấp bênh. Người chồng tha hóa dần dần, trở thành kẻ vũ phu, thô bạo.
Người vợ vì thương con nên phải nhẫn nhục chịu đựng sự ngược đãi của người
chồng (…). Đó không phải kiểu vẻ đẹp chói sáng, hào hùng mà là những hạt ngọc
khuất lấp, lẫn trong cái lấm láp làm lũ của đời thường” [29, tr.63]. Nhóm tác giả đã
định hướng việc đọc hiểu hình tượng người đàn bà hàng chài, nhân vật chính của
tác phẩm theo hướng ca ngợi vẻ đẹp khuất lấp “không phải kiểu vẻ đẹp chói sáng,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN




7

hào hùng mà là những hạt ngọc khuất lấp”. Theo cách này, việc một phụ nữ bị
chồng đánh đập nhưng không phản kháng, đấu tranh mà vẫn hy sinh vì đàn con
được xem là đẹp. Lối phẩm bình này theo lối cũ đưa đến việc hiểu tác phẩm chưa
thật sự khách quan.
Năm 2010, nhà nghiên cứu Chu Văn Sơn trong bài viết: Nguyễn Minh Châu
và thi pháp “gói rào”trong Chiếc thuyền ngoài xa (3/2010) cho rằng: “Thói tàn

nhẫn của người đàn ông cũng như sự chịu đựng vô lí của người đàn bà, thật oái
oăm đã trở thành một phong tục lâu đời” [12, tr.367]. Về hình tượng nhân vật
người đàn bà hàng chài, nhà nghiên cứu nhấn mạnh vào “đức hy sinh lớn lao của
tình mẫu tử” ở người đàn bà như một vẻ đẹp “phía sau” sự “nhẫn nhục”; “Thì ra,
phía sau cái dáng chịu đòn đến trơ lì vô cảm kia của người vợ, là sự kiên cường,
gan góc. Phía sau bộ dạng, chịu xúc phạm đến nhẫn nhục, lì lợm, là đức hy sinh
lớn lao của tình mẫu tử” [12, tr.367].
Như vậy, nhìn lại lịch sử tiếp nhận truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa, chúng
tôi nhận hầu hết các nhà nghiên cứu đều tiếp cận truyện ngắn này từ cách tiếp nhận
cũ, chưa có ai tiếp cận văn phẩm này từ điểm nhìn văn hóa ứng xử giới là văn hóa
nam quyền. Tuy nhiên, trên cơ sở những bài viết đó, người viết sẽ học tập được
nhiều điều hữu ích trong quá trình triển khai đề tài.
3. Đối tƣợng và mục tiêu nghiên cứu
3.1. Đối tƣợng nghiên cứu
Đề tài là Truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa nhìn từ lý luận về Giới, vì vậy
chúng tôi chỉ tập trung tìm hiểu, nghiên cứu tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa đặt
trong bối cảnh văn hoá truyền thống. Như đã nói, khi triển khai đề tài, chúng tôi có
so sánh với một số truyện ngắn tiêu biểu khác có phản ánh văn hóa ứng xử giới của
Nguyễn Minh Châu sau 1975.
3.2. Mục tiêu nghiên cứu
Thực hiện đề tài Truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa nhìn từ lý luận về
Giới, chúng tôi nhằm thực hiện 3 mục tiêu sau:

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN




8


- Làm rõ sự ảnh hưởng của xã hội nam quyền đã chi phối đến cách ứng xử,
nếp nghĩ, ngôn ngữ, hành động của các nhân vật trong truyện ngắn Chiếc thuyền
ngoài xa , không chỉ đối với nhân vật nam giới mà cả nhân vật nữ giới, để từ đó chỉ
ra sự cần thiết phải thay đổi tận gốc rễ văn hóa của xã hội nam quyền.
- Bổ sung cách đọc từ góc nhìn văn hóa ứng xử giới để đọc và giảng dạy
truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa
- Từ góc nhìn đó, thấy được những đóng góp riêng, độc đáo của Nguyễn
Minh Châu trong sự nghiệp văn học tiến bộ, vì con người của mình.
4. Nhiệm vụ và phƣơng pháp nghiên cứu
4.1. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được các mục tiêu nghiên cứu, chúng tôi thực hiện các nhiệm vụ sau:
- Tìm hiểu một số tác giả viết về giới trong xã hội nam quyền trong dòng
chảy văn chương dân tộc làm tiền đề lý luận cho đề tài.
- Tìm hiểu về đặc điểm của xã hội nam quyền và việc vận dụng lý thuyết giới
vào nghiên cứu văn học hiện nay.
- Tìm hiểu một số các bài viết nghiên cứu về Nguyễn Minh Châu và các
nghiên cứu về truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa có so sánh với các sáng tác của
Nguyễn Minh Châu.
4.2. Phƣơng pháp nghiên cứu
Triển khai đề tài theo hướng một nghiên cứu trường hợp (case study),
chúng tôi đã sử dụng những phương pháp sau:
- Phương pháp tiếp cận từ góc nhìn văn hoá học
- Phương pháp phân tích.
- Phương pháp so sánh.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN





9

5. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của đề tài giới hạn ở truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa
của Nguyễn Minh Châu. Cụ thể là Truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa nhìn từ lý
luận về Giới. Tuy nhiên, trong quá trình triển khai đề tài, chúng tôi sẽ tiến hành
khảo cứu một số truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu sau 1975 để đối chiếu.
Ngoài ra đề tài còn nghiên cứu các vấn đề về đặc điểm của xã hội nam
quyền, về ứng xử giới trong xã hội Việt Nam nhằm phục vụ cho công tác nghiên
cứu truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa.
6. Cấu trúc của luận văn
Luận văn của chúng tôi ngoài phần mở đầu, phần kết luận, phần nội dung
gồm có 3 chương:
- Chương 1: Vấn đề giới và sáng tác của Nguyễn Minh Châu sau năm 1975.
- Chương 2: Tinh thần phê phán đối với văn hóa nam quyền và ý thức nữ
quyền của tác giả.
- Chương 3: Nghệ thuật kể chuyện.
7. Đóng góp của luận văn
- Về mặt lí luận: Luận văn khẳng định tính khả thi - hiệu quả của phương
pháp tiếp nhận tác phẩm văn chương từ góc nhìn văn hoá, lý luận về giới trong bối
cảnh xã hội nam quyền.
- Về thực tiễn: Đề tài đã góp phần giải quyết những tình huống trong tiếp
nhận khi bổ sung cách đọc từ góc nhìn văn hóa ứng xử giới để đọc và giảng dạy
truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN





10

NỘI DUNG
Chƣơng 1
VẤN ĐỀ GIỚI VÀ SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN MINH CHÂU THỜI KỲ SAU
NĂM 1975
Như trên đã nói, chúng tôi dành chương đầu tiên này để giới thuyết về về vấn
đề Giới và Sáng tác của Nguyễn Minh Châu sau năm 1975 để làm cơ sở cho những
phân tích và kiến giải ở những chương sau.
1.1. Vấn đề Giới
Để tạo tiền đề nghiên cứu Truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa từ lý luận về
giới, chúng tôi đi vào triển khai vấn đề về giới trong bối cảnh xã hội nam quyền ở
Việt Nam, đồng thời sơ lược diện mạo ứng xử giới trong văn học Việt Nam. Đây là
cơ sở lý luận và thực tiễn tạo điểm tựa khoa học cho chúng tôi nghiên cứu đề tài.
1.1.1 Khái niệm giới (Gender)
Trong nghiên cứu khoa học, giới là một thuật ngữ được sử dụng khá phổ
biến ở nhiều lĩnh vực nghiên cứu. Tùy theo hướng tiếp cận và mục đích ở mỗi
ngành sẽ có cách định nghĩa khác nhau về thuật ngữ này. Ở đây, chúng tôi dùng
khái niệm giới tương đương với khái niệm gender trong tiếng Anh (Từ điển Bách
khoa toàn thư mở Wikipedia dịch: gender là giới tính xã hội). [32]. (Trung văn dịch
là: xã hội tính biệt - sự khác biệt của giới tính trên phương diện xã hội).
Trong thực tiễn, thuật ngữ giới (gender) thường bị sử dụng nhầm lẫn với giới
tính (sex). Giới tính (sex) chỉ sự khác biệt giữa nam và nữ về mặt sinh học, gen và
các yếu tố di truyền khác (Trung văn dịch là tính) thì giới chỉ về sự kiến tạo xã hội
về văn hóa đối với sự khác biệt giữa nam và nữ, nói cách khác giới là khái niệm chỉ
đặc trưng xã hội gán cho nam và nữ. Gender xem xét giới tính trên phương diện xã

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN





11

hội, do đó giới là sản phẩm mang tính xã hội - văn hóa. Ở mỗi nền văn hóa, mỗi một
thời đại thì nam nữ lại có một cách ứng xử giới riêng, có một hệ giá trị riêng.
Ở phương Tây, vào năm 1949 nữ nhà văn Pháp Simone de Beauvoir cho rằng
người phụ nữ và nam giới không phải bẩm sinh mà có, họ là sản phẩm của văn hóa
xã hội. Trong cuốn Giới thứ hai (The second sex) bà đã đưa ra một luận điểm rất
nổi tiếng : “Người ta không sinh ra đã là phụ nữ, người ta trở thành phụ nữ”. Về
mặt bẩm sinh, con người chỉ là đàn ông hay đàn bà theo nghĩa giải phẫu sinh lý. Chỉ
trong quá trình sống, tương tác xã hội, tương tác đàn ông-đàn bà, do kết quả của văn
hóa giáo dục trong gia đình, nhà trường và xã hội mà dần dần hình thành người phụ
nữ hay người nam giới với tâm lý, hành vi, ngôn ngữ, ứng xử riêng.
Văn hóa ứng xử giới thay đổi trong không gian và trong thời gian. Chúng ta
tưởng là về bản chất, người phụ nữ e lệ, rụt rè, nhưng hóa ra không phải thế. Nếu
sang các nước Tây Âu hay Mỹ, ta sẽ thấy ở đó, phụ nữ rất mạnh mẽ, tự tin, khác với
phụ nữ Việt Nam.
Ngày xưa, ca dao tục ngữ “kích động” tinh thần nam quyền ở người chồng
Làm trai rửa bát quét nhà, Đến khi vợ gọi bẩm bà con đây , phó mặc mọi việc nhà
cho vợ. Nhưng ngày nay, có rất nhiều người chồng sẵn sàng chia xẻ việc nhà với
vợ trên tinh thần bình đẳng
1.1.2. Văn hóa ứng xử giới trong xã hội Việt Nam
Xã hội Việt Nam được các nhà nghiên cứu định danh là xã hội nam quyền, do
đó văn hóa ứng xử giới mang đặc điểm nam quyền (trước đây gọi là “phụ quyền” nhưng khái niệm phụ quyền thiên về quyền lực của người cha, sự chuyên quyền của
người nam giới lãnh đạo gia đình).
Thuật ngữ nam quyền được hiểu là sự xác lập quyền lực thống trị tuyệt đối
của nam giới với người phụ nữ trên tất cả mọi phương diện: chính trị, đạo đức, thẩm
mỹ, kể cả thống trị thân thể phụ nữ theo nghĩa đen. Quyền lực thống trị được thể
hiện ở cả trên phương diện thể xác và tinh thần. Về thân thể, nam quyền là sự thể

hiện sức mạnh nam giới bằng sự áp chế người phụ nữ bằng bạo lực, bằng sự đánh
đập,… Còn về tinh thần nam quyền thể thiện ở việc người đàn ông định ra những
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN




12

chuẩn mực về văn hóa chính trị, đạo đức, thẩm mỹ… bắt buộc người phụ nữ phải
tuân theo.
Tư tưởng nam quyền tạo nên sự bất công trong cách nhìn nhận và đánh giá,
ứng xử của nam giới đối với nữ giới và chi phối cả cách nhìn và ứng xử của chính
người phụ nữ với bản thân mình. Về căn bản, có thể khẳng định: văn hóa ứng xử
giới ở Việt Nam là nam quyền.
Tình trạng ứng xử giới theo quan điểm nam quyền như trên không chỉ có ở
Việt Nam mà đó còn là tình trạng chung ở các quốc gia, dân tộc trên thế giới, nghĩa
là thế giới nói chung cũng đều có xu hướng nam quyền hóa. Có điều là các dân tộc
giải quyết ra sao với tình trạng nam quyền, khi nào ở một dân tộc, nam quyền bị
chấm dứt hay bị lên án. Ở Ấn Độ, nhiều tài liệu cho thấy, đàn ông hay tấn công tình
dục đối với phụ nữ. Ở các nước Tây Âu, gần đây có hiện tượng tấn công tình dục
phụ nữ Đức, Pháp… bởi những đàn ông nhập cư đến từ Trung Đông, những quốc
gia có văn hóa nam quyền rất mạnh. Tập tính văn hóa ăn sâu vào tư duy, hành động
không dễ gì thay đổi.
Về bản chất nam quyền trong xã hội mẫu hệ như xã hội người Chăm, chúng
tôi khảo sát phóng sự ngắn Một ngày ở xứ Chàm của Tam Lang đăng trên Tri Tân
tạp chí, năm 1941 và nhận thấy dù xã hội Chăm theo mẫu hệ nhưng người đàn bà
Chăm vẫn phải đối mặt và chấp nhận cách ứng xử nam quyền từ phía những ông
chồng: “Người Chàm, nhất là đàn ông, không hay dậy sớm”, bởi “Tục Chàm trước
vẫn lấy nửa cuối ngày hôm trước làm ngày và nửa sáng ngày hôm sau làm đêm”;

“cứ đúng 12 giờ tí (12 giờ đêm), người trong xóm mới đi ngủ cho đến mãi giờ ngọ
(12 giờ trưa) hôm sau, họ mới dậy làm việc hoặc ngồi suông”. [19, tr.20]. Nhưng
với người đàn bà Chăm đã bỏ tục này, vì nó không phù hợp với giờ giấc của người
Việt quanh vùng họ chung sống. Thay vì được ngủ đến 12 giờ trưa như chồng mình,
những người đàn bà Chăm phải dậy từ sớm và làm tất cả công việc trong gia đình,
tất bận từ sáng sớm đến sẩm tối:

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN




13

“Trong gia - đình Chàm, chỉ có người đàn bà mới suốt ngày bận rộn. Từ
sáng đến tối họ làm hết công - việc khó nhọc như ra đồng cấy gặt, ra tỉnh mua bán,
và tiếp khách, dệt vải, se bông.
Sẩm tối, khi công việc đã ngớt, người đàn bà Chàm, đầu đội chiếc bình lớn,
lại ra song, lạch, vợi nước về dùng.
Quần quật suốt ngày thế mà không bao giờ họ có một tiếng phàn - nàn về
chồng con là những kẻ suốt ngày ăn xong lại nằm, nằm chán chạy nhông hoặc mơ
màng ngồi hút thuốc”. [19, tr.20]
Người đàn bà Chàm còn luôn nhường nhịn cho chồng, cho con mọi thứ: họ
ăn bốc, họ chỉ ăn cơm cháy hay cái đầu cá, đuôi cá ươn,...
“Lúc ngồi quanh một mâm cơm, người đàn ông Chàm dùng đũa gắp thức ăn.
Còn người đàn bà Chàm ? chỉ dùng năm ngón để bốc ! Cách ăn bốc ấy lâu ngày trở
thành bất di bất dịch cho đến bây giờ, dù trong nhà thừa đũa bát, người đàn - bà
cũng không muốn dùng đũa bát gắp đỡ thức ăn.
Sáng dậy, sau khi rửa mặt, việc làm thứ nhất của người đàn bà Chăm là săn
-sóc đến bữa ăn sớm cho chồng, con.

Họ nấu cơm ngô hay cơm gạo, đun nồi cá ươn mà họ gọi là “cá liệt”, đánh
những cơm sườn cơm cháy và bẻ những đầu cá, đuôi cá ăn trước để ra làm việc
ngoài đồng trong lúc chồng với con họ còn ngủ kỹ trên sàn đến lúc mặt trời đứng
bóng”. [19, tr.20]
Ngoài những tục ấy, người đàn ông chàm còn lười biếng tới mức “ngồi dơ
đầu ra cho vợ bắt chấy hoặc gỡ hộ tóc”; “quẳng quần áo ra cho vợ vắt dậu” hay
“nhờ vợ gắp mẩu than hồng ở bếp lên để hút thuốc chớ họ không chịu cất công cầm
thoi sắt đánh vào hòn đá lửa để ngay bên cạnh mình.”
Qua phóng sự, ta thấy ứng xử giới của đàn ông chăm với phụ nữ chăm thể
hiện sự bất bình đẳng giới. Những người đàn ông Chăm lười nhác đã dựa vào
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN




14

những phong tục có lợi cho mình để được nhàn nhã bản thân, họ để mặc cho vợ
mình phải lao động cực nhọc và vất vả trên tinh thần “Đàn ông lo việc ngoài nhà,
đàn bà lo việc trong gia đình” mà xã hội Chăm vẫn duy trì. Chính những lệ - tục
này khiến người phụ nữ Chăm còn khổ cực gấp nhiều lần người phụ nữ Việt.
Trong xã hội người Việt truyền thống, tính chất nam quyền cũng dễ dàng
nhận thấy cả về phương diện ứng xử thể chất và tinh thần của nam giới đối với nữ
giới.
Về thể chất, tình trạng “bạo lực gia đình” như cách nói ngày nay diễn ra phổ
biến nhưng ca dao đã khuyên những người vợ ứng xử thế nào với đòn đánh của
chồng : Chồng giận thì vợ làm lành, Miệng cười hớn hở rằng anh giận gì. Rồi thì
Chồng giận thì vợ bớt lời, Cơm sôi nhỏ lửa một đời không khê, bởi vì nếu người
phụ nữ lên tiếng bảo vệ lẽ phải của mình, cự cãi có thể dẫn đến hệ quả bạo lực
Chồng giận thì vợ bớt lời/Chồng giận vợ giận thì dùi nó quăng. Bởi vậy, ý nghĩ là

người vợ Việt Nam có vẻ đẹp khuất lấp vì giỏi chịu đòn roi của chồng là một ý nghĩ
ngây thơ: văn hóa nam quyền đã hun đúc ở họ một hành vi ứng xử thiên về chịu
đựng. Nếu không chịu đựng nổi thì lấy cái chết làm lối thoát như Vũ Thị Thiết trong
truyện Người con gái Nam Xương chứ không thể đòi hỏi hay phản kháng. Thiết chế
xã hội nam quyền ở Việt Nam truyền thống không cho phép họ phản kháng.
Về phương diện tinh thần, người đàn ông trong xã hội Nho giáo Việt Nam
đặt ra tiêu chí đạo đức “trinh tiết” cho phụ nữ. Phan Khôi lên án mạnh mẽ quan
điểm đề cao trinh tiết đầy bất công trên tinh thần nam quyền và cho rằng: “Cái luật
nghiêm khắc ấy do lòng tham và thói ích kỷ của bọn đàn ông bày ra, rất không công
bình (…). Ấy chuộng về trinh chuộng về tiết, thì chẳng những giam hãm đàn bà vào
cảnh điu (điêu) đứng đắng cay và thấp hèn, mà lại còn sanh ra cái tệ khinh rẻ mạng
người là như thế nữa”. [39, tr.616, 617]
Tôi trung không thờ hai chủ, liệt nữ không lấy hai chồng - Nhà nho lớn tiếng
dạy dỗ đàn bà con gái như vậy. Điều bất công, phi lý là trong khi xăm soi đến
nghiệt ngã trinh tiết của vợ, trong khi viết thơ cao giọng biểu dương các tấm gương
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN




15

phụ nữ trinh liệt, những người phụ nữ lấy cái chết để bảo toàn danh tiết với người
chồng, thì các ông chồng tự cho phép mình “đa thê”. Điều phi lý là Nguyễn Công
Trứ có đến 13 vợ và thường xuyên đi hát ả đào, “mắt đi mày lại” với các cô đào non
tơ nhưng lại lớn tiếng lên án nàng Kiều là “tà dâm”. Đây là hiện tượng “tiêu chuẩn
kép” rất dễ nhận ra trong xã hội nam quyền.
Sống trong bầu không khí nam quyền đó nhiều thế kỷ, những người phụ nữ
Việt Nam dần chịu ảnh hưởng lúc nào không hay. Trong tư tưởng và tình cảm họ,
sự chấp nhận, nhẫn nhục, chịu đựng, câm lặng, cam chịu đã thành một khuôn hành

vi. Và giới đàn ông nhận thấy đó là vẻ đẹp, vì đối với những người đàn ông, còn gì
thú vị bằng những người vợ sống như nô lệ, như cái bóng, chấp nhận.
Trên báo Nhân dân điện tử gần đây, dưới tiêu đề Để bình đẳng giới ngày
càng thực chất và có tính bền vững, tác giả Thiên Phương đã viết về tính chất khó
khăn của việc loại bỏ tâm lý bất bình đẳng giới không chỉ ở nam giới mà ngay cả ở
những người phụ nữ, những người vợ : “Có thể nói, một trong các yếu tố chủ yếu
đẩy tới tình trạng bất bình đẳng giới ở Việt Nam là gắn việc lo toan, chăm sóc gia
đình cho phụ nữ. Điều này không chỉ là quan niệm của nam giới và xã hội, mà
trong nhiều trường hợp chính phụ nữ cũng coi đó là “thiên chức” của mình. Vì có
xu hướng phụ nữ đặt gia đình lên trên hết, nên để giữ cho gia đình ổn định, nhiều
phụ nữ ở Việt Nam sẵn sàng hy sinh sự bình đẳng của mình. Phải chăng suy nghĩ
này là điều tâm niệm chung của người phụ nữ cho nên không dễ loại bỏ?” [32].
Bài báo cũng nhận xét: “Và nhiều hệ quả khác của bất bình đẳng giới còn
thể hiện ở tình trạng phụ nữ thường là nạn nhân của bạo lực gia đình, bạo hành
tình dục. Họ cũng mất phần lớn hoặc thậm chí không có quyền chủ động với những
biện pháp kế hoạch hóa gia đình dù được khuyến cáo”.[32]
Những biểu hiện khác nhau rất tinh vi của bất bình đẳng giới này đã được
các nhà nghiên cứu xã hội học về giới quan tâm và tìm hướng giải quyết trong khi
đó, các nhà phê bình văn học, vốn lạc hậu hơn trong tiếp cận những thành tựu
nghiên cứu xã hội học đó hoặc không thèm đếm xỉa đến những thành tựu đó, vẫn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN




16

giữ cái nhìn cũ, xem sự chịu đựng của người phụ nữ là biểu hiện của vẻ đẹp cần
biểu dương.
Người phụ nữ trong xã hội nam quyền khi xuất hiện trong văn chương dù là

với tư cách của người vợ, người mẹ hay người yêu đều bị mất tiếng nói. Chính xã
hội nam quyền đã thiết lập những rào cản về văn hóa, đạo đức, gây áp lực cho người
phụ nữ khiến họ dù có mong muốn nhưng cũng không thể cất lên tiếng nói của
mình được. Áp lực từ quy định đạo đức Nho giáo này ảnh hưởng vào trong nếp nghĩ
của nhiều thế hệ phụ nữ người Việt. Thậm chí, thực tế còn cho thấy, dù chính trị
thay đổi song văn hóa vẫn tồn tại với một sức sống dai dẳng trong xã hội. Ví dụ
quan điểm về vấn đề một người phụ nữ góa chồng có nên tái giá đi bước nữa được
đặt ra tranh luận rất gay gắt, đặc biệt là ở các Nho gia như Phan Khôi và Tản Đà.
Trong khi, thì Tản Đà cho rằng việc thủ tiết của người đàn bà là một phong tục cao
cả có từ đời Khổng Tử, các đời nối tiếp nhau tạo thành đạo trinh tiết của đàn bà Á
Đông. Theo đó, ông nói không với chuyện tái giá của đàn bà. Tuy nhiên, Tản Đà
thừa nhận chuyện thủ tiết/không tái giá ở người đàn bà không có luật nào cấm, song
vì áp lực từ xã hội là sự khinh bỉ và rẻ rúng với người tái giá từ xa xưa đã truyền lại
và trở thành một đạo luật tự nhiên. Do đó, vì bất kỳ lý do gì, người đàn bà bị chồng
bỏ hay chồng chết nếu cải giá thì tự đã vi phạm vào đạo tam tòng. Vấn đề giải
phóng những phụ nữ góa đã được đặt ra trong các tiểu thuyết Lạnh lùng của Nhất
Linh và Đi bước nữa của Nguyễn Thế Phương. Cả hai đều xoay quanh tinh thần
chống lại tinh thần thủ tiết, đòi hỏi những quyền lợi về hạnh phúc lứa đôi cho người
phụ nữ. Trong đó Lạnh lùng, Nhất Linh khắc họa nhân vật Nhung luôn ám ảnh bởi
bức hoành phi có bốn chữ “Tiết hạnh khả phong” do vua ban cho bà cô tổ nhà
chồng do chống mất sớm mà ở vậy nuôi con thờ chồng; còn ở Đi bước nữa Nguyễn
Thế Phương thông qua hình ảnh cô Hoan đã dũng cảm vượt lên những ngăn cản của
nhà chồng để đến với anh Cần. Qua đây, tác giả còn muốn đặt ra một vấn đề lớn với
thời đại: thời đại phải dũng cảm “đi bước nữa” để thay đổi, giải phóng số phận
người phụ nữ khỏi những định kiến cổ hủ còn tồn tại trong xã hội.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN





17

Trong văn học thời kỳ trước năm 1975, vấn đề "nữ quyền" thực ra cũng đã
được đề cập, nhưng theo một nghĩa khác. Phụ nữ được ca ngợi bằng những hình
tượng sử thi, mang vẻ đẹp lý tưởng, dám đương đầu với những thử thách trong
chiến tranh, không thua nam giới. Đó là những hình tượng như Mẹ Suốt trong thơ
Tố Hữu, chị Chiến trong Những đứa con trong gia đình của Nguyễn Thi, các cô gái
thanh niên xung phong của Phạm Tiến Duật, chị em Mai và Dít trong Rừng xà nu
của Nguyễn Trung Thành, nhân vật Phương Định trong Những ngôi sao xa xôi của
Lê Minh Khuê, v.v… Nhưng vấn đề bất bình đẳng giới, vấn đề số phận đời thường
của phụ nữ trong xã hội nam quyền chưa hề được văn học cách mạng đề cập đến.
Trở lại với sáng tác của Nguyễn Minh Châu trước và sau năm 1975, chúng
tôi thấy hình tượng người phụ nữ hiện lên cũng có hiện tượng mất giọng (thực ra
cũng là câm lặng) như những người phụ nữ mà ta đã nhắc đến ở phần trên. Với
những sáng tác viết về chiến tranh, kỳ thực Nguyễn Minh Châu chưa có ý thức đi
vào vấn đề bình quyền, về nỗi khổ của người phụ nữ mà chủ yếu vận động theo
quỹ đạo chung của văn học đường thời: khuynh hướng lý tưởng hóa hình tượng
người phụ nữ. Nhân vật Nguyệt trong Mảnh trăng cuối rừng tiểu biểu cho khuynh
hướng này. Đến văn học thời hậu chiến, hình tượng người đàn bà chài trong
truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa có hiện tượng mất tiếng nói như những người
phụ nữ trong xã hội nam quyền.
Trong thực tế, vấn đề về giới và ứng xử giới luôn được các nhà nghiên cứu tìm
hiểu trong nhiều lĩnh vực, trong đó có văn hóa và văn học. Giới cũng có thể được
nghiên cứu theo quan điểm văn hoá để chỉ ra cái nhìn về giới của nam và nữ đối với
nhau, chỉ ra địa vị gia đình và xã hội của nam giới và nữ giới v.v… Trong nghiên
cứu văn học, có thể ứng dụng phương pháp nghiên cứu giới đối với nhân vật văn
học để tìm hiểu các kiểu hình tượng nam/nữ. Ví dụ áp dụng quan điểm giới vào
nghiên cứu hình tượng các nhân vật nữ - người chinh phụ, người cung nữ trong
Chinh Phụ Ngâm và Cung oán ngâm từ quan điểm giới, người ta có thể thấy những

quan niệm hà khắc của Nho giáo phong kiến như “Tam tòng”, “Tứ đức”, quan điểm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN




18

đề cao trinh tiết, quan điểm kỳ thị nữ sắc hay quan điểm coi thường đời sống bản
năng… chính là nguồn gốc dẫn đến cảnh những người chinh phụ đã phải âm thầm
chịu đựng, bị thiêu đốt bởi những khao khát trong đời sống bản năng khi chồng đi
chinh chiến; những người cung nữ đã phải hy sinh cả thời thanh xuân của mình
trong những khuê phòng, trong cấm cung.
Cũng có thể thấy điều tương tự khi ta đưa lý thuyết giới vào soi chiếu cách
ứng xử của các nhân vật trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh
Châu. Mỗi nhân vật có cách suy nghĩ và hành đông khác nhau nhưng điểm chung là
đều chịu ảnh hưởng bởi tư tưởng văn hóa nam quyền, họ chỉ khác nhau ở chỗ hoặc
là thừa nhận hoặc là phản đối sự bình đẳng giới mà thôi. Theo đó, người chồng thì
mặc nhiên cho mình có quyền đánh vợ, còn người vợ thì cúi đầu, lặng lẽ đón nhận,
chịu đựng những trận bạo hành như là bổn phận, trách nhiệm của mình cần phải
thực hiện Các nhân vật khác như phóng viên Phùng, chánh án Đẩu, thằng Phác thì
phẫn nộ và phản kháng lại nếp nghĩ cổ hủ đó.
Trước đây, khi tiếp cận các nhân vật nam/nữ, chúng ta thường bị bó hẹp hoặc
nhìn theo quan điểm giai cấp, áp bức hay bị áp bức, hoặc theo quan điểm đạo đức,
đáng khen hay đáng chê thì với điểm nhìn giới, chúng ta có cái nhìn toàn diện hơn
về nhân vật. Đây được xem là một phương pháp tiếp cận có nhiều ưu điểm trong lí
thuyết tiếp nhận, nó giúp ta hiểu tác phẩm văn học một cách khách quan và nhân
bản hơn.
1.2. Sáng tác của Nguyễn Minh Châu thời kỳ sau năm 1975
1.2.1. Khái lược về vai trò người mở đường cho công cuộc đổi mới văn học dân

tộc
Nhà văn Nguyễn Minh Châu (1930 - 1989) xuất thân trong một gia đình
nông dân ở làng Thơi thuộc xã Quỳnh Hải (nay là xã Sơn Hải), huyện Quỳnh Lưu,
tỉnh Nghệ An. Được gia đình tạo điều kiện, năm 1944 Nguyễn Minh Châu học tập ở
Huế. Đến năm 1950, ông tham gia quan đội, theo học Trường Sĩ quan Lục quân
Trần Quốc Tuấn và chủ yếu hoạt động tại các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ ở Sư đoàn
320. Từ năm 1954 tham gia viết văn nhưng phải đến khi hai cuốn tiểu thuyết là Cửa
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN




19

sông (1966), Dấu chân người lính (1972) và tập truyện ngắn Những vùng trời khác
nhau (1970) ra đời, Nguyễn Minh Châu mới khẳng định được dấu ấn phong cách và
chỗ đứng của mình trong lòng bạn đọc. Ông tỏ ra am hiểu đời sống và tâm hồn
người chiến sĩ, hiện thực khắc nghiệt và hào hùng của cuộc kháng chiến. Sau thống
nhất, đặc biệt từ những năm 1980 trở đi, nước ta bước vào tình trạng khủng hoảng
kinh tế trầm trọng, bầu không khí trở nên ngột ngạt với việc khắc phục hậu quả
chiến tranh cũng như những vấn đề mới nảy sinh: sự suy thoái của đạo đức, nhân
cách con người, các vấn đề của đời sống dân sinh, xã hội,... Nhiều nhà văn trước sự
thay đổi của hiện thực đã không thể tìm thấy cảm hứng sáng tác, bởi nguồn cảm
hứng chủ đạo là sử thi và lãng mạn đã lùi vào quá vãng mà hiện thực thì bi đát,
trong khi độc giả đang có xu hướng tìm đọc Nguyễn Du hay tìm đến với văn học
phương Tây qua các bản dịch. Nhà văn Nguyên Ngọc trong bài Văn xuôi sau 1975,
thử thăm dò đôi nét về quy luật phát triển (Tạp chí văn học số 4, tháng 7&8-1991)
đã gọi đây là thời kỳ khủng khoảng “chân không văn học” - “chẳng có gì để nói”.
Hơn lúc nào hết, lúc này các văn nghệ sĩ cần xác định “đổi mới là lẽ sống còn của
văn nghệ” [2]. Đổi mới một cách toàn diện để theo kịp sự phát triển của thực tại xã

hội và đáp ứng được thị hiếu của người đọc. Trước tình hình đó, Nguyễn Minh
Châu đã đi đầu trong khuynh hướng đổi mới văn học sau chiến tranh: nghĩ và viết
về đời tư, thế sự, về những vấn đề bức xúc đằng sau những chiến công, những vấn
đề xã hội, về số phận và nhân cách của con người trong tình trạng trì trệ của đất
nước. Thành tựu nghệ thuật nhà văn đạt được thời kỳ này gồm có bốn cuốn tiểu
thuyết: Miền cháy và Lửa từ những ngôi nhà cùng in năm (1977), Những người đi
từ trong rừng ra (1982) và Mảnh đất tình yêu (1987) và hàng loạt các truyện ngắn,
truyện vừa lần lượt được ra mắt, sau đó được tập hợp in trong 3 tập: Người đàn bà
trên chuyến tàu tốc hành (1983), Bến quê (1985), và Cỏ lau (1989). Ngoài ra
Nguyễn Minh Châu còn có nhiều bài viết về văn học, hoặc ghi chép, tản mạn về
kinh nghiệm viết văn, chân dung văn học,… Về sau khi tác giả qua đời, phần nhiều
trong đó được in trong cuốn Trang giấy trước đèn (1994). Các sáng tác thời kỳ này
đã cho thấy sự chuyển biến trong tư tưởng và nghệ thuật của ông sau năm 1975
trong tiếp cận hiện thực mới. Nguyễn Minh Châu đã thật sự để lại dấu ấn trên hành
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN




×