Tải bản đầy đủ (.docx) (83 trang)

NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ, CÔNG CHỨC CẤP XÃ TẠI THỊ XÃ CHÍ LINH, TỈNH HẢI DƯƠNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (540.92 KB, 83 trang )

BỘ NỘI VỤ

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI
KHOA HÀNH CHÍNH HỌC

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ,
CÔNG CHỨC CẤP XÃ TẠI THỊ XÃ CHÍ LINH,
TỈNH HẢI DƯƠNG

Khóa luận tốt nghiệp ngành
Người hướng dẫn
Sinh viên thực hiện
Mã số sinh viên
Khóa
Lớp

: QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
: THS. TRẦN THỊ HẠNH
: ĐẶNG THỊ VÂN ANH
: 1305QLNA005
: 2013-2017
: ĐH QLNN 13A

HÀ NỘI - 2017


LỜI CẢM ƠN
Trên thực tế không có sự thành công nào mà không gắn liền với những sự hỗ
trợ, giúp đỡ dù ít hay nhiều, dù trực tiếp hay gián tiếp của người khác. Trong suốt thời
gian từ khi bắt đầu học tập ở giảng đường đại học đến nay, tôi đã nhận được rất nhiều


sự quan tâm, giúp đỡ của quý thầy cô, gia đình và bạn bè. Với lòng biết ơn sâu sắc
nhất, tôi xin gửi lời chân thành cảm ơn đến cô ThS.Trần Thị Hạnh – Viện trưởng viện
nghiên cứu và phát triển; Trường Đại học Nội vụ Hà Nội là người đã tận tình giúp đỡ
tôi trong suốt thời gian tìm hiểu nghiên cứu đề tài. Đồng thời, tôi xin gửi lời cảm ơn
tới ban lãnh đạo UBND phường Sao Đỏ đã hết sức tạo điều kiện, giúp đỡ để tôi hoàn
thành tốt khóa luận này.
Khóa luận là kết quả ghi nhận sự cố gắng tìm tòi và nỗ lực học hỏi của sinh
viên. Tuy nhiên do bản thân tôi là một sinh viên đang ở giai đoạn tích lũy kiến thức,
thiếu kinh nghiệm thực tế và còn nhiều hạn chế trong nghiên cứu cho nên khóa luận sẽ
không tránh khỏi nhiều thiếu sót, cần bổ sung. Chính vì thế, tôi rất mong nhận được
nhiều ý kiến đóng góp của quý thầy cô và các bạn để khóa luận của tôi được hoàn
thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của riêng tôi.
Các số liệu sử dụng phân tích trong bài khóa luận có nguồn gốc rõ ràng. Các kết quả
nghiên cứu trong bài khóa luận là do tôi tự tìm hiểu, phân tích một cách trung thực,
khách quan và phù hợp với thực tiễn tôi được khảo sát. Các kết quả này chưa từng
được công bố trong bất kỳ nghiên cứu nào khác.
Hà Nội, ngày 23 tháng 04 năm 2017
Sinh viên thực hiện

Đặng Thị Vân Anh


MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN
LỜI CAM ĐOAN



DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
CBCC

Cán bộ công chức

UBND

Ủy ban nhân dân

HDND

Hội đông nhân dân

CNH-HĐH

Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Bất kì một quốc gia nào, tồn tại ở một giai đoạn nào thì muốn phát triển, trước
tiên phải có nguồn lực mạnh. Nguồn lực ở đây chính là nhân lực và vật lực. Trong tình
hình hiện nay, thời kỳ hội nhập thế giới, bên cạnh những cơ hội cũng là những thách
thức lớn, đòi hỏi Đảng và Nhà nước ta phải có những chủ trương và biện pháp cụ thể
phù hợp với xu thế phát triển chung. Trước vấn đề đó, CBCC làm việc trong bộ máy
hành chính Nhà nước đóng vai trò quyết định và then chốt. Đảng và Nhà nước luôn
xác định CBCC là cái gốc của mọi công việc, sự thành công trên mặt trận Chính trị Hành chính. Chính vì vậy, trong báo cáo Chính trị của Ban chấp hành Trung ương
khóa X tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thức XI của Đảng nêu rõ: “Xây dựng đội ngũ

CBCC trong sạch, có năng lực đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới là yếu tố quyết
định đến chất lượng của bộ máy hành chính Nhà nước” trước thực trạng “ Đội ngũ
CBCC tuy đông nhưng không đồng bộ, vẫn còn tình trạng vừa thừa, vừa thiếu. Trình
độ kiến thức, năng lực quản lý chưa đáp ứng được nhu cầu”.
CBCC cấp xã là những người trực tiếp tiếp xúc với nhân dân hàng ngày, giải
đáp, hướng dẫn, tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện theo chủ trương, đường lối
của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, trực tiếp lắng nghe, giải quyết hoặc
kiến nghị lên cấp trên những kiến nghị, ý kiến, nguyện vọng của nhân dân. Vì vậy,
chất lượng hoạt động của CBCC cấp xã ảnh hưởng trực tiếp đến sức mạnh của hệ
thống chính trị ở cơ sở, tác động đến sự nghiệp cách mạng và đổi mới của Đảng và
Nhà nước.
Sao Đỏ là một Phường đi đầu trong phong trào xây dựng nông thôn mới ở Thị
xã Chí Linh, tỉnh Hải Dương. Mặc dù trong những năm qua nhìn chung cấp ủy và
chính quyền Phường Sao Đỏ đã quan tâm tới công tác phát triển nhân sự của phường,
nhưng trên thực tế chưa đạt được chất lượng như mong muốn, năng lực quản lý nhà
nước của đội ngũ CBCC đang còn thấp, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển của
phường, thị xã: đang còn yếu về chất lượng, cơ cấu chưa hợp lý, tư tưởng bảo thủ, ỷ
lại, kém năng động và sáng tạo; một bộ phận CBCC cấp xã còn có biểu hiện cơ hội, bè

6


phái, quan liêu, sách nhiễu nhân dân…làm giảm uy tín của người CBCC đối với nhân
dân.
Việc nghiên cứu lý luận và phân tích thực trạng nguồn nhân lực để có những
giải pháp nhằm tạo ra một sự chuyển biến về chất, phát triển nguồn nhân lực chất
lượng cao đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa của Phường
Sao Đỏ trở thành nhiệm vụ cấp thiết.
Với những lý do trên, tôi đã chọn đề tài: “Nâng cao chất lượng đội ngũ cán
bộ, công chức cấp xã tại Thị xã Chí Linh - Tỉnh Hải Dương” làm luận văn tốt

nghiệp của mình.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Chất lượng đội ngũ CBCC cấp xã không còn là vấn đề mới, ở nhiều nước trên
thế giới đội ngũ CBCC trong bộ máy nhà nước là chủ đề nghiên cứu của nhiều môn
khoa học như: chính trị học, quản lý công.... nhưng chất lượng đội ngũ CBCC luôn là
đề tài có tính thời sự và cũng không kém phần phức tạp. Vấn đề này đã được nhiều nhà
khoa học, nhà quản lý, hoạch định chính sách và hoạt động thực tiễn tập trung đi sâu
nghiên cứu, tìm tòi, khảo sát. Đã có nhiều công trình được công bố dưới những góc độ,
mức độ, hình thức thể hiện khác nhau, tiêu biểu của các tác giả:
PGS Nguyễn Phú Trọng, Trần Xuân Sầm (2003), Luận cứ khoa học cho việc
nâng cao chất lượng đội ngũ CB trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa – hiện đại
hóa đất nước, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Nguyễn Ngọc Hiến (Chủ biên – 2001) Các giải pháp thúc đẩy cải cách hành
chính ở Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Nguyễn Phương Đông (2002), Vấn đề giáo dục tư tưởng chính trị, đạo đức
cách mạng cho CB, đảng viên. Tạp chí Kiểm tra (07), tr 26-27.
Các tác giả đều đã phân tích một cách hệ thống và tương đối toàn diện về vấn
đề chất lượng CBCC nói chung dưới góc độ lý luận cũng như sự vận dụng lý luận đó
vào tình hình thực tiễn, đó đều là những công trình, sản phẩm của trí tuệ có giá trị và ý
nghĩa về mặt lý luận và thực tiễn, là cơ sở kết thừa cho việc nghiên cứu tiếp theo. Tuy
nhiên, đứng trước xu hướng hội nhập và toàn cầu hóa, xây dựng nông thôn mới trong
thời kỳ hội nhập thì vấn đề nâng cao chất lượng đội ngũ CBCC cấp xã vẫn hết sức cấp
thiết. Việc nghiên cứu trực tiếp về vấn đề nâng cao chất lượng CBCC UBND Phường

7


Sao Đỏ, Thị xã Chí Linh, Tỉnh Hải Dương vẫn chưa có công trình nghiên cứu nào. Vì
vậy, việc chọn nghiên cứu đề tài này mang ý nghĩa lý luận và thực tiễn, góp phần nâng
cao hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị phường Sao Đỏ hiện nay.

3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Thị xã Chí Linh – Tỉnh Hải Dương.
Thị xã Chí Linh – Tỉnh Hải Dương.
4. Mục đích nghiên cứu
Đồ án phân tích làm sáng tỏ cơ sở lý luận; đánh giá thực trạng chất lượng đội
ngũ CBCC tại UBND phường Sao Đỏ,Thị xã Chí Linh, Tỉnh Hải Dương. Trên cơ sở
đó, đề ra những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ CBCC tại UBND
Phường Sao Đỏ - Thị xã Chí Linh – Tỉnh Hải Dương.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ cơ sở lý luận về nâng cao chất lượng đội ngũ CBCC.
- Phân tích và đánh giá thực trạng chất lượng đội ngũ CBCC tại Thị xã Chí Linh
– Tỉnh Hải Dương, từ đó phát hiện ra những tồn tại, bất cập, hạn chế và nguyên nhân
của những hạn chế đó.
- Đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ CBCC tại Thị xã
Chí Linh – Tỉnh Hải Dương.
Đề tài áp dụng chủ nghĩa duy vật lịch sử và duy vật biện chứng để tiếp cận và
phân tích các yếu tố ảnh hưởng tới chất lượng đội ngũ CBCC cấp xã.
Sử dụng phương pháp quan sát để thu thập thông tin về hành vi, thái độ, điều
kiện làm việc của CBCC cấp xã.
Được sử dụng để phân tích các công trình nghiên cứu liên quan. Phân tích nội
dung tài liệu để thu thập, học hỏi, kế thừa và phát triển phù hợp với đề tài.
Cùng với đó đề tài sử dụng một số phương pháp khác như: thống kê, so sánh,
quy nạp... kết hợp nghiên cứu lý luận với tổng kết thực tiễn, nhằm làm rõ nội dung cơ
bản của đề tài luận văn, bảo đảm tính khoa học và logic giữa các vấn đề được nêu ra.
7. Đóng góp của khóa luận
Qua kết quả nghiên cứu, đề tài góp phần khái quát và làm rõ thêm cơ sở lý luận
về chất lượng đội ngũ CBCC cấp xã, đánh giá thực trạng, tìm ra những bất cập, hạn

8



chế về chất lượng đội ngũ CBCC ở UBND Phường Sao Đỏ, Thị xã Chí Linh, Tỉnh Hải
Dương, những yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng đội ngũ CBCC ở Phường Sao Đỏ và
những vấn đề đang đặt ra và quan điểm, giải pháp bảo đảm chất lượng đội ngũ CBCC
Phường Sao Đỏ trong tình hình mới hiện nay.
Luận văn góp phần làm sáng tỏ, bổ sung lý luận về chất lượng đội ngũ CBCC
cấp xã, góp phần đẩy mạnh cải cách nền hành chính nhà nước, xây dựng nhà nước
pháp quyền Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.
Kết quả nghiên cứu của Luận văn là tài liệu tham khảo có giá trị trong tổng kết
thực tiễn về đội ngũ CBCC cấp xã
8. Bố cục của khóa luận
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, khóa luận chia thành 3 chương, cụ thể:
CHƯƠNG I. Cơ sở lý luận về nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức
cấp xã
CHƯƠNG II. Thực trạng chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức tại UBND
phường Sao Đỏ , thị xã Chí Linh, tỉnh Hải Dương.
CHƯƠNG III. Một số giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức
tại UBND phường Sao Đỏ, thị xã Chí Linh, tỉnh Hải Dương

9


CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ, CÔNG
CHỨC CẤP XÃ
1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của cán bộ, công chức cấp xã
1.1.1. Một số khái niệm
1.1.1.1 Khái niệm công chức
Công chức là một khái niệm chung được sử dụng phổ biến nhiều quốc gia trên
thế giới để chỉ những công dân được tuyển dụng vào làm việc thường xuyên trong cơ

quan nhà nước, do tính chất đặc thù của mỗi quốc gia, khái niệm công chức của các
nước cũng không hoàn toàn đồng nhất. Có nước chỉ giới hạn công chức trong phạm vi
những người hoạt động quản lý nhà nước. Một số nước khác có quan niệm rộng hơn,
công chức không chỉ bao gồm những người thực hiện trực tiếp các hoạt động quản lý
nhà nước mà còn bao gồm cả những người làm việc trong các cơ quan có tính chất
công cộng..
Ở Việt Nam, khái niệm công chức được hình thành và thường gắn liền với sự
hình thành và phát triển ngày càng hoàn thiện của nền hành chính nhà nước. Khái
niệm công chức lần đầu tiên được nêu ra trong Sắc lệnh 76/SL ngày 20/5/1950 của
Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ban hành Quy chế công chức như sau:
“Những công dân Việt Nam được chính quyền nhân dân tuyển dụng, giao giữ một
chức vụ thường xuyên trong các cơ quan Chính phủ, ở trong hay ở ngoài nước, đều là
công chức theo Quy chế này, trừ những trường hợp riêng biệt do Chính phủ định".
(Trích Điều 1, Sắc lệnh số 76/SL ngày 20 tháng 5 năm 1950). Cùng với sự phát triển
của đất nước và nền hành chính nước nhà, khái niệm công chức đã dần được quy định
cụ thể hơn, chi tiết hơn. Tuy nhiên, các khái niệm này vẫn chưa phân định rõ ràng ai là
CB, ai là CC. Đến năm 2008, Quốc hội nước Cộng hoà XHCN Việt Nam đã thông qua
Luật CBCC số 22/2008/QH12. Đây là bước tiến mới, mang tính cách mạng về cải
cách chế độ công vụ, công chức, thể chế hoá quan điểm, đường lối của Đảng về công
tác cán bộ, đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do

10


nhân dân và vì nhân dân.
Công chức theo nghĩa chung là nhân viên trong cơ quan nhà nước, đó là những
người được tuyển dụng, bổ nhiệm vào các chức danh trong các cơ quan nhà nước
(trong đó tập trung vào các cơ quan hành chính) để thực thi hoạt động công vụ và được
hưởng lương và các khoản thu nhập từ ngân sách nhà nước.
Điều 4, Khoản 2 Luật CBCC năm 2008, xác định: Công chức là công dân Việt

nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch, chức vụ, chức danh trong cơ quan của
Đảng cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở Trung ương, cấp tỉnh,
cấp huyện; trong cơ quan, thuộc đơn vị Quân đội nhân dân mà không phải là sỹ quan,
quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng; trong cơ quan đơn vị thuộc công an
nhân dân mà không phải là sỹ quan, hạ sỹ quan chuyên nghiệp và trong bộ máy lãnh
đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập của Đảng cộng sản Việt nam, Nhà nước, tổ
chức Chính trị - xã hội trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước; đối với
CC trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập thì lương được bảo
đảm từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của pháp luật”. Để
hướng dẫn thi hành Luật CBCC, Chính phủ và các bộ ngành đã ban hành nhiều văn
bản pháp luật mới như Nghị định số 06/2010/NĐ- CP ngày 25 tháng 01 năm 2010 quy
định công chức là "Công dân Việt nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch, chức
vụ, chức danh, trong biên chế, hưởng lương từ ngân sách nhà nước hoặc được bảo đảm
từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của pháp luật”.
Như vậy công chức ở Việt Nam không chỉ là những người làm việc trong các cơ
quan Hành chính nhà nước mà còn bao gồm cả những người làm việc ở các Phòng
Ban của Đảng, Mặt trận tổ quốc (MTTQ) Việt nam; các tổ chức Chính trị xã hội như:
Hội Liên hiệp phụ nữ, Hội nông dân, Hội Cựu chiến binh, Đoàn thanh niên cộng sản
Hồ Chí Minh, Công đoàn Việt Nam, các cơ quan đơn vị thuộc Quân đội nhân dân,
Công an nhân dân, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân từ cấp Trung ương đến
cấp huyện.
1.1.1.2. Khái niệm cán bộ
Cán bộ theo nghĩa chung nhất là người có chức vụ lãnh đạo, quản lý hoặc nhà
chuyên môn, khoa học hay công chức, viên chức làm việc trong các cơ quan, tổ chức

11


của hệ thống chính trị; hưởng lương hay phụ cấp từ ngân sách nhà nước hoặc từ nguồn
kinh phí khác, hình thành từ bầu cử, tuyển dụng, bổ nhiệm, đề bạt và được phân công

công tác ... có trách nhiệm quán triệt và triển khai thực hiện có hiệu quả đường lối,
chính sách của Đảng, bổ sung, hoàn thiện đường lối, chính sách.
Từ thực tiễn cách mạng ViệtNam, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: "Cán bộ
là cái gốc của mọi công việc”, “Công việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt
hay kém”. Xuất phát từ quan điểm đó, trong suốt cuộc đời cách mạng, Chủ tịch HCM
luôn chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ của đảng, người đã đặt công tác đào tạo, bồi
dưỡng huấn luyện cán bộ lên hàng đầu.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn coi cán bộ là khâu then chốt
trong toàn bộ hoạt động lãnh đạo của Đảng, là nguyên nhân thành bại của cách mạng.
Đảng đã khẳng định: “Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng, gắn
liền với vận mệnh của Đảng, của đất nước và của chế độ, là khâu then chốt trong công
tác xây dựng Đảng”.
Nhìn chung, cán bộ là những người được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức
vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan nhà nước (cơ quan dân cử, cơ quan hành
chính) và thuộc biên chế của một cơ quan, đơn vị và được hưởng lương từ ngân sách
nhà nước.
Theo Luật CBCC số 22/2008/QH12 ngày 13 tháng 11 năm 2008 của Quốc hội,
quy định theo khoản 1 và 2, điều 4 như sau: Cán bộ là công dân Việt Nam, được bầu
cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của
Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, ở tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương, ở huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, trong
biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước.
1.1.1.3. Khái niệm công chức xã
Khái niệm công chức xã được quy định tại Khoản 3, Điều 4 của Luật CBCC
2008 như sau: “Công chức cấp xã là công dân Việt Nam được tuyển dụng giữ một
chức danh chuyên môn, nghiệp vụ thuộc UBND cấp xã, trong biên chế và hưởng
lương từ ngân sách nhà nước”.
Như vậy, công chức xã được tuyển dụng và phụ trách những lĩnh vực chuyên

12



môn, nghiệp vụ cụ thể tại UBND cấp xã, trực tiếp tham mưu cho lãnh đạo UBND cấp
xã trong việc điều hành, chỉ đạo công tác, thực hiện các chủ trương của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước.
Cơ cấu công chức cấp xã Theo Khoản 3, Điều 61 của Luật CBCC 2008, công
chức cấp xã có các chức danh sau đây:
a) Trưởng Công an;
b) Chỉ huy trưởng Quân sự;
c) Văn phòng - thống kê;
d) Địa chính - xây dựng - đô thị và môi trường (đối với phường, thị trấn) hoặc
địa chính - nông nghiệp - xây dựng và môi trường (đối với xã);
đ) Tài chính - kế toán;
e) Tư pháp - hộ tịch;
g) Văn hóa - xã hội.
Công chức cấp xã do cấp huyện quản lý. Ngoài các chức danh theo quy định
trên, công chức cấp xã còn bao gồm cả CBCC được luân chuyển, điều động, biệt phái
về cấp xã.
1.1.1.4. Khái niệm cán bộ cấp xã
Theo Khoản 3 Điều 4 Luật CB, CC 2008 có quy định về khái niệm này như
sau:
“Cán bộ xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là cấp xã) là công dân Việt
Nam, được bầu cử giữ chức vụ theo nhiệm kỳ trong Thường trực Hội đồng nhân dân,
UBND, Bí thư, Phó Bí thư Đảng ủy, người đứng đầu tổ chức chính trị - xã hội; công
chức cấp xã là công dân Việt Nam được tuyển dụng giữ một chức danh chuyên môn,
nghiệp vụ thuộc UBND cấp xã, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà
nước.”
Cán bộ cấp xã có các chức vụ sau đây:
a) Bí thư, Phó Bí thư Đảng uỷ;
b) Chủ tịch, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân;

c) Chủ tịch, Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân;
d) Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam;

13


đ) Bí thư Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh;
e) Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam;
g) Chủ tịch Hội Nông dân Việt Nam (áp dụng đối với xã, phường, thị trấn có
hoạt động nông, lâm, ngư, diêm nghiệp và có tổ chức Hội Nông dân Việt Nam);
h) Chủ tịch Hội Cựu chiến binh Việt Nam.
1.1.1.5.

Khái niệm chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức

Khái niệm chất lượng
Chất lượng là một phạm trù trừu tượng, nó mang tính chất định tính và khó định
lượng, chúng ta không thể cân đo đong đếm được. Dưới mỗi cách tiếp cận khác nhau
thì quan niệm về chất lượng cũng khác nhau.
Theo từ điển tiếng Việt, chất lượng được xem là: “Cái tạo nên phẩm chất, giá trị
của mỗi con người, một sự vật, một sự việc” Đây là cách đánh giá một con người, một
sự việc, một sự vật trong cái đơn nhất, cái tính độc lập của nó. Theo một cách hiểu
khác thì: Chất lượng là một phạm trù triết học biểu thị những thuộc tính bản chất của
sự vật, chỉ rõ nó là cái gì, tính ổn định tương đối của sự vật để phân biệt nó với sự vật
khác.
Chất lượng đội ngũ CBCC được đánh giá dựa trên tiêu chuẩn của đội ngũ
CBCC, là những quy định cụ thể các yêu cầu về trình độ, năng lực, phẩm chất đạo
đức… của những người CBCC theo những tiêu chí nhất định đối với từng ngành nghề
riêng biệt.
Để đánh giá chất lượng đội ngũ CBCC, cần nói tới chất lượng của mỗi CBCC

vì mỗi CBCC là một phần, một bộ phận của đội ngũ CBCC.
Chất lượng CBCC là tổng hợp những phẩm chất nhất định về sức khỏe, trí tuệ
khoa học, chuyên môn nghề nghiệp, phẩm chất đạo đức, ý chí, niềm tin, năng lực, luôn
gắn bó với tập thể, với cộng đồng và khả năng thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ được
giao.
Chất lượng của đội ngũ CBCC ngoài những yếu tố nêu trên còn phụ thuộc vào
cơ cấu đội ngũ CBCC, đó là tỷ lệ hợp lý giữa các độ tuổi, giữa nam và nữ, giữa CC
lãnh đạo, quản lý, CBCC phụ trách chuyên môn nghiệp vụ. Mỗi CBCC không tồn tại
một cách biệt lập mà phải đặt trong một chỉnh thể thống nhất của cả đội ngũCBCC.

14


Từ những phân tích nêu trên có thể hiểu, chất lượng đội ngũ CBCC xã được
xem một cách toàn diện từ trình độ, năng lực; kỹ năng, phương pháp làm việc; hiệu
quả thực thi công vụ; phẩm chất đạo đức CBCC; văn hóa ứng xử cho đến sức khỏe
( thể chất, tâm lí của họ). Trong đó, yếu tố trình độ; yếu thể hiệu quả thực thi công vụ
và yếu tố phẩm chất, đạo đức CBCC được xem là quan trọng nhất để xem xét chất
lượng CBCC.
1.1.2. Đặc điểm của cán bộ, công chức cấp xã
CBCC đóng vai trò quan trọng trong hoạt động công vụ, xây dựng và hoàn
thiện bộ máy nhà nước. Hiệu lực, hiệu quả của bộ máy nhà nước nói riêng và hệ thống
chính trị nói chung được quyết định bởi phẩm chất, năng lực và hiệu quả công tác của
đội ngũ này, đặc biệt là ở đơn vị hành chính cấp xã – cấp hành chính sơ sở gần nhân
dân nhất. Tuy đội ngũ CBCC mỗi đơn vị hành chính đều có đặc điểm riêng, đặc thù,
phù hợp hoàn cảnh kinh tế, văn hóa, lịch sử địa phương, song, nhìn chung, đội ngũ này
có đặc điểm cơ bản sau:
Một là, CBCC chính quyền cấp xã là người gần dân, sát dân, biết dân, trực tiếp
triển khai đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước vào dân, gắn bó với
nhân dân.

Hai là, CBCC chính quyền cấp xã có tính ổn định thấp so với CB, CC nhà nước
cấp trên.
Ba là, CBCC chính quyền cấp xã có tính chuyên môn hóa thấp, kiêm nghiệm
nhiều.
Bốn là, CBCC chính quyến cấp xã là người đại diện cho quần chúng nhân dân
lao động cơ sở. Vì vậy CBCC cấp xã luôn bám sát dân, lắng nghe ý kiến, nguyện vọng
của nhân dân từ đó có cách thức tiến hành công việc phù hợp và đảm bảo cho lợi íhc
chính đáng của nhân dân.
Năm là, CBCC chính quyền cấp xã là người trực tiếp giải quyết tất cả các yêu
cần, quyền lợi chính đáng từ nhân dân, là cầu nối giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân.
Sáu là, CBCC chính quyền cấp xã là những người xuất phát từ cơ sở ( người
của địa phương), họ vừa trực tiếp tham gia lao động sản xuất, vừa là người đại diện
cho nhân dân thực hiện chức năng quản lí nhà nước, giải quyết các công việc của nhà

15


nước.
Bảy là, CBCC chính quyền cấp xã do dân bầu ra chính vì vậy số lượng thường
xuyên bị biến động do hết nhiệm kì nhân dân lại bầy những đại diện mới.
1.1.3. Vai trò của cán bộ, công chức cấp xã
1.1.3.1 Vai trò của Cán bộ
Trong cơ quan Nhà nước nói chung, cơ quan Hành chính Nhà nước nói riêng,
đội ngũ cán bộ có vai trò, ý nghĩa rất quan trọng đối với việc duy trì hiệu quả hoạt
động. Dù mục tiêu, chiến lược hoạt động của các cơ quan này có tốt như thế nào
nhưng nếu thiếu một đội ngũ CBCC được tổ chức khoa học, hợp lý thì mục tiêu ấy
không thể đạt được. Người cán bộ Nhà nước có vai trò cơ bản như sau:
Là người hoạch định đường lối, chính sách cho cơ quan, tổ chức hoạt động. Đối
với cơ quan hành chính Nhà nước, mục tiêu là đáp ứng một cách tốt nhất những yêu
cầu của nhân dân. Để làm được điều này, các cơ quan Nhà nước phải xây dựng một hệ

thống chính sách hợp lý và khoa học. Nếu cơ chế chính sách hợp lý, khoa học sẽ đem
lại sự hài lòng cho nhân dân, góp phần vào sự phát triển của xã hội. Ngược lại, cơ chế
chính sách không hợp lý sẽ ngăn cản việc thực hiện các quyền của công dân, đặc biệt
là các quyền về nhân sự, kìm hãm sự phát triển của xã hội.
Cán bộ là những người trực tiếp tổ chức thực thi các chính sách, kế hoạch của
cơ quan Nhà nước có thẩm quyền hay nói cách khác, các cán bộ là những người quyết
định đến sự thành công hay thất bại của một chính sách, kế hoạch Nhà nước. Với vai
trò này đòi hỏi cán bộ phải có năng lực và phẩm chất đạo đức để đáp ứng công việc
đặt ra.
Cán bộ là những chủ thể đứng ra tổ chức, phối hợp các nguồn lực trong tổ chức,
bao gồm tài chính, người lao động, cơ sở vật chất và nguồn lực khác. Công việc này
đòi hỏi CBCC phải có kỹ năng tổ chức, không ngừng học hỏi để đáp ứng mọi yêu cầu
của công việc.
Cán bộ là người trực tiếp thực hiện các giao tiếp giữa cơ quan Nhà nước với
môi trường bên ngoài. Đòi hỏi cán bộ phải có sự nhạy cảm nhất định với thông tin, đặc
biệt là các thông tin về sự phát triển của xã hội. Nếu thực hiện tốt vai trò này sẽ giúp
cơ quan Nhà nước nắm bắt nhanh xu hướng phát triển của xã hội để từ đó định ra

16


chính sách, kế hoạch trong thời kỳ đổi mới có hiệu quả áp dụng thực tiễn cao nhất.

17


1.1.3.2. Vai trò của công chức cấp xã
Công chức cấp xã có vai trò hết sức quan trọng trong xây dựng và hoàn thiện bộ
máy chính quyền cơ sở, trong hoạt động thi hành nhiệm vụ, công vụ. Hiệu lực, hiệu
quả của bộ máy chính quyền cấp xã nói riêng và hệ thống chính trị nói chung, xét đến

cùng được quyết định bởi phẩm chất, năng lực và hiệu quả công tác của đội ngũ
CBCC cở sở.
Công chức cấp xã có vai trò quan trọng trong quản lý và tổ chức công việc của
chính quyền cơ sở. Nhiệm vụ của họ là thực thi công vụ mang tính tự quản theo pháp
luật và bảo toàn tính thống nhất của thực thi quyền lực nhà nước ở cơ sở thông qua
việc giải quyết các công việc hành ngày có tính chất quản lý, tự quản mọi mặt ở địa
phương. Họ còn có vai trò trực tiếp bảo đảm kỷ cương phép nước tại cơ sở, bảo vệ các
quyền tự do dân chủ, quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
Thông qua hoạt động của đội ngũ công chức cấp xã, nhân dân thể hiện được quyền
làm chủ và trực tiếp thực hiện quyền tự quản của mình.
Trải qua quá trình phát triển của xã hội, vai trò, chức năng của công chức ngày
càng được thay đổi theo hướng hoàn thiện hơn. Xu hướng hiện nay trên thế giới, công
chức là người gánh vác việc chung cho nhân dân, thực hiện và quản lý nền hành chính
thay nhân dân. Công chức có bổn phận thực hiện các quyền do nhân dân cho phép.
Công chức có vai trò thực thi quyền lực nhà nước sao cho bảo vệ được lợi ích của các
cá nhân, tổ chức, bảo đảm quyền công dân một cách tốt nhất.
1.2. Nội dung nâng cao chất lượng đội ngũ CBCC cấp xã
1.2.1. Công tác tuyển dụng đội ngũ
Tuyển dụng công chức là khâu đầu tiên trong chu trình quản lý công chức có
tính quyết định cho sự phát triển một cơ quan, tổ chức, đơn vị của nhà nước.Thông qua
tuyển dụng, Nhà nước chọn được những người phù hợp với khả năng, tiêu chuẩn và
điều kiện dám nhân công vụ. Tuyển dụng công chức được thực hiện bằng hình thức thi
công khai do chính phủ quy định. Người được tuyển dụng qua thi tuyển phải là người
có phẩm chất đạo đức tốt, đúng với tiêu chuẩn cách mạng, nghĩa vụ.
Yêu cầu của tuyển dụng công chức trong điều kiện hiện nay là phải tuân thủ
pháp luật và chế độ công vụ, đảm bảo nguyên tắc bình đẳng, khách quan, công khai.

18



Về các hình thức tuyển dụng: Tuyển dụng công chức theo nghĩa chung nhất là
tuyển lựa, thi tuyển, bầu chọn, bổ nhiệm… để lấy một số ít ngươi trong số nhiều người
tham gia công vụ Nhà nước. Từ các quy định pháp luật hiện hành ở nước ta có hai
hình thức tuyển dụng cơ bản là hình thức bình bầu và hình thức thi tuyển
Công tác tuyển dụng phải luôn đặt ở trạng thái “động”, có sự liên thông nhất
định giữa nguồn nhân lực khu vực công với nguồn nhân lực khu vực tư. Do đó, việc
xây dựng vị trí việc làm với bản mô tả công việc của mỗi vị trí chức danh với những
nhiệm vụ hết sức cụ thể, chi tiết, đầy đủ chức năng, nhiệm vụ, khối lượng công việc,
các ứng xử cần thiết cho từng vị trí, để từ đó mới có cơ sở tuyển dụng nguồn nhân lực
“đúng người” đáp ứng được yêu cầu của vị trí việc làm.
Đồng hành cùng việc đổi mới tuyển dụng công chức, phải tập trung thực hiện
chính sách nhân tài, có chế độ, cơ chế chính sách góp phần phát hiện, tuyển chọn, tiến
cử, bồi dưỡng, trọng dụng và đãi ngộ người có tài năng trong hoạt động công vụ.
Như vậy, việc tuyển dụng công chức trong giai đoạn hiện nay cũng như trong
thời gian tới phải thực sự xuất phát từ nhu cầu công việc, vì việc tìm người thay vì
người để sắp xếp, bố trí việc. Để làm được điều này phải kết hợp đồng bộ cùng với các
giải pháp khác như các cơ quan nhà nước phải xây dựng được hệ thống danh mục vị trí
việc làm và cơ cấu ngạch công chức của cơ quan, tổ chức mình, từ đó mới có cơ sở để
tuyển dụng đúng người, đúng việc, đúng số lượng, đảm bảo cơ cấu hợp lý.
1.2.2. Công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng
Để xây dựng được đội ngũ CBCC có phẩm chất đạo đức tốt, có bản lĩnh chính
trị, có năng lực, có tính chuyên nghiệp cao, tận tụy phục vụ nhân dân, bên cạnh các
khía cạnh khác nhau của công tác tổ chức CBCC còn cần phải có các hình thức đào
tạo, bồi dưỡng phù hợp, hiệu quả.
Quy hoạch CBCC là quá trình thực hiện đồng bộ các chủ trương, biện pháp tạo
nguồn để xây dựng đội ngũ CBCC, là việc bố trí, lập kế hoạch trong dài hạn, là sự sắp
xếp đội ngũ CBCC đang làm trong các cơ quan hành chính hoặc nguồn dự bị nhằm
đảm bảo chủ động nguồn nhân lực cho chất lượng, lấp chỗ trống trong các cơ quan
hành chính hay thay thế đội ngũ CBCC đương nhiệm nhằm bảo đảm thực hiện tốt
nhiệm vụ trong thời gian nhất định.


19


Đào tạo, bồi dưỡng CBCC là nhiệm vụ thường xuyên, có ý nghĩa quan trọng,
góp phần tích cực trong việc nâng cao trình độ chuyên môn, năng lực công tác, chất
lượng và hiệu quả làm việc của CBCC; hướng tới mục tiêu là tạo được sự thay đổi về
chất trong thực thi nhiệm vụ chuyên môn. Đào tạo, bồi dưỡng tập trung trang bị những
kiến thức, kỹ năng, thái độ thực hiện công việc cho CBCC, viên chức; trong đó, cung
cấp những kiến thức, lý luận cơ bản, trang bị kỹ năng, cách thức hoạt động thực thi
công việc, giáo dục thái độ thực hiện công việc thể hiện sự nhiệt tình, tinh thần trách
nhiệm của người CBCC.
Đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ CBCC cấp xã thời kỳ hiện nay trở thành những
người CBCC có đạo đức cách mạng trong sáng, có kiến thức, kỹ năng chuyên môn
nghiệp vụ cao, năng động và sáng tạo đáp ứng yêu cầu của nền hành chính hiện đại.
Tuy nhiên, để đội ngũ CBCC cấp cơ sở có thể tham gia các khóa đào tạo, bồi dưỡng
kiến thức thì chính sách đào tạo, bồi dưỡng của Nhà nước có vai trò tác động rất quan
trọng. Chất lượng của công tác đào tạo, bồi dưỡng lại phụ thuộc vào các vấn đề như:
Hệ thống các cơ sở đào tạo, chương trình, giáo trình, đội ngũ giảng viên; Chế độ cho
người đi học như tiền ăn ở, đi lại, học phí, thời gian học; Cơ chế đảm bảo sau đào tạo
để tránh lãng phí.
1.2.3. Công tác sử dụng, bố trí
1.2.3.1. Công tác sử dụng
Việc sử dụng đội ngũ CBCC cấp xã phải xuất phát từ nhiều yếu tố, trên cơ sở
chức năng, nhiệm vụ, công việc của từng cơ quan, đơn vị.
Đối với đội ngũ CBCC xã, hai căn cứ quan trọng để bố trí, sử dụng là yêu cầu
của công vụ và điều kiện nhân lực hiện có của tổ chức, cơ quan, đơn vị. Sử dụng
CBCC xã phải dựa vào những định hướng có tính nguyên tắc sau:
Sử dụng CBCC phải có tiền đề và quy hoạch
Sử dụng phải căn cứ vào mục tiêu. Mục tiêu của hoạt động quản lý đến mục

tiêu sử dụng CBCC.
Tuân thủ nguyên tắc khách quan, nguyên tắc vô tư và công bằng khi thực hiện
chính sách của Nhà nước. Đây là căn cứ quan trọng để thực hiện chính sách sử dụng
CBCB.
Xây dựng chế độ phụ cấp công vụ phù hợp, thống nhất đối với CBCC khối

20


đảng, đoàn thể và CBCC khối cơ quan nhà nước. Có chế độ phụ cấp và chính sách thu
hút đối với CBCC công tác ở các xã vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, hải đảo có
nhiều khó khăn và vùng có đông đồng bào dân tộc thiểu số.
Tiến hành thực hiện đúng và kịp thời các chính sách đối với đội ngũ CBCC cấp
xã, như thu hút, đãi ngộ nhân tài; khuyến khích đào tạo, bồi dưỡng; thu hút, bố trí, sử
dụng sinh viên tốt nghiệp đại học về công tác tại xã...
Bổ nhiệm phải trên cơ sở xây dựng cơ cấu nhân lực của tổ chức. Quá trình đề
bạt, bổ nhiệm phải chú ý coi trọng việc lấy phiếu tín nhiệm để đề bạt theo hướng mở
rộng đối tượng tham gia, bảo đảm những người tham gia bỏ phiếu phải là những người
biết việc, hiểu người, tránh bè phái, cục bộ, định kiến, hẹp hòi, thiếu tính xây dựng.
Người được bổ nhiệm phải là người chịu trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành hoạt
động của cấp uỷ, chính quyền, chịu trách nhiệm trước cấp trên trực tiếp quản lý về
những nhiệm vụ cụ thể được giao; chỉ đạo kiểm tra thực hiện nhiệm vụ được giao theo
quy định của Điều lệ Đảng, pháp luật của Nhà nước; quyết định những vấn đề thuộc
thẩm quyền được giao; định kỳ báo cáo với cấp trên trực tiếp quản lý.
Về trình độ của người được bổ nhiệm: Phải có trình độ đại học, lý luận chính
trị cao cấp, kiến thức quản lý kinh tế... ;có hiểu biết: chủ trương, đường lối, chính sách,
pháp luật của Đảng và Nhà nước, các văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực phụ
trách, biết quản lý, điều hành hoặc tham gia quản lý, điều hành hoạt động của cấp uỷ,
chính quyền; nghiên cứu đề xuất các biện pháp lãnh đạo, quản lý đạt hiệu quả nhiệm
vụ được giao.

1.2.3.2. Công tác bố trí, phân công công tác
Nội dung của việc bố trí, phân công công tác được quy định tại Điều 21, Mục I,
Chương III của Nghị định 117/2003/NĐ-CP ngày 10 tháng 10 năm 2003 về bố trí,
phân công công tác của CBCC như sau:
Người đứng đầu cơ quan sử dụng CBCC chịu trách nhiệm bố trí, phân công,
giao nhiệm vụ cho CC, bảo đảm các điều kiện cần thiết để CBCC thi hành nhiệm vụ,
thực hiện các chế độ, chính sách đối với CBCC.
Khi thực hiện việc bố trí, phân công công tác cho CBCC phải bảo đảm phù hợp
giữa nhiệm vụ được giao với ngạch CBCC được bổ nhiệm, CC ở ngạch nào thì bố trí
công việc phù hợp với ngạch đó. CBCC chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc thi

21


hành nhiệm vụ, công vụ của mình; CBCC giữ chức vụ lãnh đạo còn phải chịu trách
nhiệm về việc thi hành nhiệm vụ, công vụ của CBCC thuộc quyền quản lý theo quy
định của pháp luật
Công tác phân công, bố trí CBCC có ảnh hưởng rất lớn đối với chất lượng của
đội ngũ CBCC xã. Việc sắp xếp đúng chỗ, đúng việc sẽ tạo điều kiện phát huy tin thần
hăng say làm việc, phát huy được năng lực, sở trường, rèn luyện kỹ năng thành thạo
công việc khuyến khích tinh thần học tập và rèn luyện nâng cao trình độ chuyên môn,
góp phần chủ yếu đảm bảo cho việc hoàn thành công vụ của cơ quan.
1.2.4. Công tác đánh giá
Đánh giá CBCC là việc làm khó, rất nhạy cảm vì nó ảnh hưởng đến tất cả các
khâu khác của công tác CBCC có ý nghĩa quyết định trong việc phát hiện, tuyển chọn,
đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, sử dụng, đề bạt, khen thưởng, kỷ luật và thực hiện các chế
độ, chính sách đối với CBCC cũng như giúp CBCC phát huy ưu điểm, khắc phục
nhược điểm, tiến bộ không ngừng trong việc nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức
cách mạng, năng lực và hiệu quả công tác của CBCC. Trong những năm qua, công tác
CBCC đã có chuyển biến cả về nhận thức và cách làm, trong đó công tác đánh giá

CBCC có những mặt tiến bộ, nhìn chung đã thực hiện đúng quy trình và thủ tục, mở
rộng dân chủ hơn nên đánh giá CBCC sát hơn. Tuy vậy, đánh giá CBCC vẫn là khâu
hạn chế nhưng chậm được khắc phục.
Đánh giá CBCC được coi là khâu tiền đề quan trọng nhất nhưng vẫn là khâu
khó và yếu nhất, khó nhất là đánh giá cái “tâm”, cái “tầm” và bản lĩnh chính trị của
người CB; đánh giá CBCC vẫn còn hình thức, chưa phản ánh đúng được thực chất
CBCC; chưa lấy hiệu quả công việc làm thước đo chủ yếu trong đánh giá CB, CC; còn
cảm tính, hình thức, xuê xoa, chiếu lệ; thiếu tính chiến đấu, thiếu tinh thần xây dựng
trong đánh giá CBCC. Việc đổi mới công tác CBCC còn chậm, thiếu cơ chế, chính
sách cụ thể để thực sự phát huy dân chủ trong công tác CBCC phát hiện và sử dụng
người tài; chậm đổi mới cơ chế, phương pháp và quy trình đánh giá, bổ nhiệm, miễn
nhiệm, từ chức đối với CB.
Việc đánh giá CBCC được thực hiện hàng năm, trước khi bổ nhiệm, quy hoạch,
điều động, đào tạo, bồi dưỡng, khi kết thúc thời gian luân chuyển, biệt phái.

22


Tóm lại, đánh giá đúng năng lực, nguyện vọng, sở trường của từng CBCC thì
sẽ đóng góp tích cực cho việc bố trí, sắp xếp công việc được chính xác, tạo điều kiện
cho CBCC phát huy được sở trường của mình từ đó hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị
được giao. Ngược lại, đánh giá CBCC không đúng, không thực chất, không khách
quan thì không những bố trí, sử dụng CBCC không đúng mà quan trọng hơn là chúng
ta sẽ làm mai một dần động lực phấn đấu phát triển, có khi thui chột những tài năng,
ảnh hưởng không nhỏ đến việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của từng từng cơ quan,
đơn vị.
1.2.5. Công tác kiểm tra, giám sát
Quản lí, kiểm tra, giám sát CBCC về các mặt nhận thức tư tưởng, năng lực công
tác, các mối quan hệ xã hội, đạo đức, lối sống…là những nội dung vô cùng khó khăn
và phức tạp. Vì mỗi CBCC có hoàn cảnh công tác, mối quan hệ xã hội khác nhau. Tuy

nhiên nếu làm tốt công tác này thông qua các hình thức kiểm tra, giám sát như của cơ
quan, của nhân dân, của chi bộ nơi CBCC đang cư trú thì sẽ góp phần rất lớn trong
việc nâng cao chất lượng đội ngũ CBCC.
Kiểm tra, giám sát CBCC nhằm nắm chắc thông tin diễn biến tư tưởng, tiến
trình tiến hành công việc của CBCC, giúp cho lãnh đạo cơ quan, đơn vị phát hiện
những vấn đề nảy sinh, kịp thời uốn nắn sửa chữa những sai sót của CBCC, hạn chế sự
lãng phí nguồn nhân lực trong đội ngũ CBCC, kiểm tra giám sát để đánh giá năng lực
của từng CBCC, từ đó có hướng bố trí công việc phù hợp hơn hoặc xắp xếp, đề bạt
CBCC hợp lý, đào tạo, bồi dưỡng CBCC có năng lực kém, kịp thời đáp ứng công việc.
Kiểm tra để phát hiện những ưu điểm cũng như hạn chế khuyết điểm của
CBCC, loại trừ những người thiếu năng lực thoái hóa biến chất và ngăn chặn kẻ xấu
chui vào bộ máy. Kết quả kiểm tra là cơ sở khách quan điều chỉnh và tác động, làm
cho CBCC luôn hoạt động đúng hướng, đúng nguyên tắc. Qua đó vận dụng hình thức
thưởng phạt nghiêm minh, ngăn chặn những tiêu cực, phát huy nhân tố tích cực, tạo
dựng lòng tin của nhân dân đối với Đảng, đối với nhà nước.
Tăng cường công tác quản lý, kiểm tra, giám sát đội ngũ CBCC cấp xã mới
nắm được thực trạng chất lượng và những biến động của đội ngũ này để xây dựng
chiến lược và qui hoạch đội ngũ CBCC cấp xã; kịp thời khen thưởng những thành tích,

23


tiến bộ và xử lý những sai phạm, tạo lập lòng tin của nhân dân đối với chính quyền.
Mặt khác, tăng cường quản lý, kiểm tra, luân chuyển CB, thay thế những CB yếu kém,
tăng cường CB có chất lượng cho những nơi phát sinh điểm nóng, mất đoàn kết nội
bộ, hoặc phong trào mọi mặt đều yếu.
1.2.6. Công tác thi đua, khen thưởng
Khen thưởng, thăng thưởng và xử lý vi phạm đối với CBCC là những công cụ,
biện pháp quản lý trong quá trình sử dụng CBCC. Thông qua hoạt động đó để động
viên, khích lệ CBCC có công trạng, công tích; phê phán, uốn nắn và phòng ngừa

những hành vi vi phạm pháp luật, không thực hiện và làm tròn trách nhiệm của người
CBCC. Sự kết hợp giữa khen thưởng và kỷ luật một cách chặt chẽ, công bằng, khách
quan sẽ tạo ra động lực to lớn trong nền công vụ.
CBCC là lực lượng trực tiếp tổ chức và thực hiện các chủ trương, đường lối,
chính sách của Nhà nước, là gương mặt, thể diện của Nhà nước đồng thời thông qua
đó tạo nên chỗ dựa, niềm tin của dân chúng vào Nhà nước. Do đó, công tác khen
thưởng, thăng thưởng, kỷ luật là yếu tố quan trọng bảo đảm thực thi trách nhiệm của
CBCC với tinh thần là "công bộc" của dân, bảo đảm cho CBCC thực hiện nghiêm
nghĩa vụ, quyền lợi.
Theo điều 3, Luật thi đua khen thưởng năm 2003 quy định:
1. Thi đua là hoạt động có tổ chức với sự tham gia tự nguyện của cá nhân, tập
thể nhằm phấn đấu đạt được thành tích tốt nhất trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
2. Khen thưởng là việc ghi nhận, biểu dương, tôn vinh công trạng và khuyến
khích bằng lợi ích vật chất đối với cá nhân, tập thể có thành tích trong xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc.
3. Danh hiệu thi đua là hình thức ghi nhận, biểu dương, tôn vinh cá nhân, tập
thể có thành tích trong phong trào thi đua.
Mục tiêu của thi đua nhằm tạo động lực động viên, lôi cuốn, khuyến khích mọi
cá nhân, tập thể phát huy truyền thống yêu nước, năng động, sáng tạo vươn lên hoàn
thành tốt nhiệm vụ được giao vì mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh.
Việc phát động phong trào thi đua, khen thưởng là một công cụ khuyến khích

24


tốt. Khen thưởng một cách đúng đắn và có tổ chức có thể củng cố các nỗ nực dẫn tới
sự thành công của cơ quan bởi vì khen thưởng động viên, khuyến khích những CBCC
đã góp công sức cụ thể cho cơ quan.
Việc khen thưởng phải kịp thời, rộng rãi, thường xuyên, công khai và hợp lý.

1.3. Các tiêu chí đánh giá chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã
1.3.1. Tiêu chí về phẩm chất chính trị, đạo đức lối sống
Về phẩm chất chính trị
Phẩm chất chính trị của đội ngũ CBCC là tổng hợp các đặc tính cá nhân CBCC
về mặt chính trị, bao gồm các yếu tố cơ bản: nhận thức chính trị, thái độ chính trị và
hành vi chính trị. Cụ thể:
Nhận thức chính trị của người CBCC là sự hiểu biết về đường lối, quan điểm
chính trị, về nền tảng tư tưởng chính trị của Đảng, sự hiểu biết và tin tưởng vào mục
đích, lý tưởng, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, vai trò, nhiệm vụ của
CBCC, hình thành tình cảm, ý chí cách mạng.
Thái độ chính trị của CBCC là những biểu hiện, cử chỉ, lời nói, việc làm của
người CB xuất phát từ nhận thức, suy nghĩ, tình cảm trước những vấn đề chính trị, tư
tưởng và tổ chức của Đảng. Thái độ chính trị phản ánh cách nhìn nhận, suy nghĩ và chi
phối hành động của người CBCC, bao gồm lòng trung thành, tính vững vàng, kiên
định về lập trường, tư tưởng chính trị.
Hành vi chính trị của người CBCC là hành động mang tính chính trị, như tiên
phong, gương mẫu trong công tác, lao động, học tập, sinh hoạt; đi đầu trong thực hiện
đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước; tích cực tuyên
truyền, vận động nhân dân; kiên quyết đấu tranh với những biểu hiện tiêu cực về chính
trị…
Về phẩm chất đạo đức
Phẩm chất đạo đức của người CBCC bao gồm các yếu tố: Ý thức đạo đức, thái
độ đạo đức và hành vi đạo đức.
Ý thức đạo đức của người CBCC là quan niệm, sự hiểu biết về đạo đức, các giá
trị đạo đức truyền thống tốt đẹp của dân tộc, những giá trị, chuẩn mực đạo đức mới
(đạo đức cách mạng).

25



×