Tải bản đầy đủ (.docx) (33 trang)

Tiu lun nhng gia tr tich cc va nhn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (166.99 KB, 33 trang )

MỤC LỤC


[2]

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài :
Triết học là hình thái ý thức xã hội ra đời từ khi chế độ cộng sản nguyên thuỷ được thay
thế bằng chế độ chiếm hữu nô lệ. Những triết học đầu tiên trong lịch sử xuất hiện vào
khoảng thế kỷ VIII – VI trước công nguyên ở Ấn Độ cổ đại, Trung quốc cổ đại, Hy Lạp
và La Mã cổ đại và ở các nước khác. Triết học được xem là một hình thái ý thức xã hội, là
học thuyết về những nguyên tắc chung nhất của tồn tại và nhận thức về thái độ của con
người đối với thế giới, là khoa học về những quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và
tư duy. Triết học Phương Tây nói chung và Triết học Phương Tây từ cổ đại đến cận đại là
một bộ phận quan trọng trong hệ thống triết học thế giới.
Đối tượng của triết học phương Tây nói chung ngoài phần siêu hình học bàn về những ý
niệm trừu tượng như bản thể, ý thức, hư vô... còn lại là những hành trình vào các vấn đề
cụ thể có liên quan tới con người như cảm giác, nhận thức, ký ức, hạnh phúc, đạo đức….
Các vấn đề về con người như con người tri thức thế giới xung quanh như thế nào, vai trò
của con người trong quá trình nhận thức như thế nào… hay những vấn đề và xã hội như
quan hệ giữa cá nhân và xã hội, ai quan trọng hơn, đạo đức là vấn đề xã hội hay vấn đề cá
nhân, quan hệ giữa cá nhân và nhà nước… là trọng tâm trong quan điểm của các triết gia
phương Tây.
Tìm hiểu bối cảnh lịch sử và những đặc điểm cơ bản của từng giai đoạn phát triển triết
học phương Tây là cơ sở để làm rõ được những thành tựu và giá trị tư tưởng mà triết học
phương Tây đóng góp cho sự phát triển của nhân loại. Từ các vấn đề cần nghiên cứu nói
trên, tác giả nghiên cứu đề tài : “ Những giá trị tích cực và những hạn chế của triết học
duy vật ở Hy Lạp cổ đại”. Trong quá trình làm bài tiểu luận, em đã kết hợp những kiến
thức được học cũng như là qua quá trình nghiên cứu, tìm kiếm tài liệu. Tuy nhiên do kiến
thức của em có hạn nên không thể tránh khỏi những sai sót, vì vậy em kính mong nhận
được sự góp ý của thầy cô cùng các bạn để bài làm của em được tốt hơn.




[3]
2. Mục đích nghiên cứu đề tài :
Về mặt lý luận : Đề tài nhằm góp phần tổng kết, đưa ra những quan điểm chung của triết
học duy vật ở Hy Lạp cổ đại, đồng thời đánh giá những giá trị tích cực cũng như hạn chế
của triết học duy vật Hy Lạp cổ đại.
Về mặt thực tiễn : Đề tài góp phần tổng hợp và đưa đến những giá trị lịch sử qua quá trình
nghiên cứu, nhằm xem xét những vấn đề cơ bản nhất, nguồn gốc nhất cho nền triết học
toàn thế giới nói chung qua các thời kì, và đặc biệt là ở Hy Lạp cổ đại nói riêng
3. Phạm vi nghiên cứu và đối tượng nghiên cứu :
Lấy cơ sở từ những kiến thức chung về đặc điểm của triết học Hy Lạp cổ đại và những
vấn đề trong quá trình hình thành và phát triển triết học phương Tây, cùng các vấn đề
khác để nghiên cứu các vấn đề trong đánh giá giá trị và hạn chế triết học duy vật Hy Lạp
cổ đại.
4. Phương pháp nghiên cứu :
Sử dụng phương pháp : phân tích, tổng hợp, đánh giá.., bài tiểu luận đã sử dụng các
phương pháp trên để tìm kiếm, phân tích vấn đề.
5. Bố cục của bài tiểu luận gồm 3 chương
• Chương I : Khái quát lịch sử triết học Hy Lạp cổ đại
• Chương II : Những giá trị tích cực và những hạn chế của triết học duy vật ở
Hy Lạp cổ đại
• Chương III : Vận dụng vào thực tế nước ta, phương hướng, các giải pháp, ý
nghĩa khoa học, bài học lịch sử, ý nghĩa thực tiễn

CHƯƠNG I : KHÁI QUÁT LỊCH SỬ TRIẾT HỌC DUY VẬT HY LẠP CỔ ĐẠI


[4]
I.1 : Điều kiện kinh tế, văn hóa – xã hội của Hy lạp cổ đại :

I.1.1 : Điều kiện về địa lý :
Hy Lạp cổ đại là một lãnh thổ rộng lớn bao gồm khu vực miền Nam bán đảo Ban-căng
(thuộc Châu Âu), nhiều hòn đảo nằm trên biển Êgiê và cả một vùng rộng lớn ở ven biển
bán đảo Tiểu á. Yếu tố địa lý tự nhiên này đã tạo điều kiện cơ bản để nền nông nghiệp, thủ
công nghiệp, thương nghiệp Hy Lạp cổ đại phát triển từ rất sớm, ngoài ra Hy lạp cổ đại
còn là đầu mối giao thông đường biển quan trọng và thuận lợi với các nước khác trên thế
giới.
Khí hậu ở Hy Lạp quanh năm ấm áp thuận lợi cho du lịch và phát triển kinh tế.
I.1.2 : Điều kiện về khoa học :
Các ngành về khoa học như toán học, vật lý học, thiên văn học trong xã hội Hy Lạp cổ đại
phát triển mạnh mẽ gắn liền với tên tuổi các nhà khoa học nổi tiếng như : Talet,
Pitago,Ơclit, Ácximet…
I.1.3 : Điều kiện về kinh tế :
Xã hội chiếm hữu nô lệ ở Hy Lạp xuất hiện vào thế kỷ X tr.CN và phát triển mạnh vào thế
kỷ VIII tr.CN. Đến thế kỷ thứ III sau CN, Athen trở thành trung tâm kinh tế của Hy Lạp
cổ đại và của Châu Âu với sự phát triển của thương nghiệp, thủ công nghiệp và nông
nghiệp.
I.1.4 : Điều kiện về văn hóa, nghệ thuật :
Nhiều công trình nghệ thuật, điêu khắc, hội họa, văn học ( thần thoại Hy Lạp) phát triển
đạt trình độ cao, đã biến Athen trở thành trung tâm văn hóa của Hy Lạp cổ đại và cái nôi
của triết học Châu Âu.
I.2 : Hoàn cảnh ra đời của triết học Hy Lạp cổ đại :
Từ thế kỉ XV đến IX tr.CN ,chế độ cộng sản nguyên thuỷ ở Hy Lạp cổ đại tan rã và hình
thành chế độ chiếm hữu nô lệ. Thời kì này đã xảy ra những biến động lớn về kinh tế và
thiết chế xã hội . Vào thế kỉ thứ V tr.CN ,đã xảy ra cuộc chiến tranh Hy Lạp - Ba Tư , kết
thúc bằng chiến thắng thuộc về Hy Lạp , chiến thắng này đã mở ra thời kì hưng thịnh về


[5]
kinh tế và chính trị của Hy Lạp cổ đại một liên minh gồm 300 quốc gia thành bang được

thành lập trong đó có Athen và SPAC là 2 thành bang hùng mạnh nhất. Thành bang
Athen, nằm ở vùng đồng bằng Attien thuộc trung bộ Hy Lạp , có địa lý thuận lợi nên trở
thành một trung tâm kinh tế , văn hoá là thiết chế của chủ nô dân chủ Athen.
Thành bang Spác nằm ở vùng bình nguyên Iaconi , đất đai thích hợp đối với phát triển
nông nghiệp là dinh luỹ của chủ nô quí tộc cha truyền con nối, để thực hiện cai trị theo
truyền thống , Spác đã xây dựng 1 thiết chế nhà nước quân chủ , thực hiện sự áp bức rất
tàn khốc đối với nô lệ. Do sự cạnh tranh quyền bá chủ toàn Hy Lạp , nên đã xảy ra cuộc
chiến tranh tàn khốc Pôlôpône kéo dài hàng chục năm , và cuối cùng dẫn tới sự thất bại
nặng nề của Athen. Cuộc chiến tranh này đã làm đất nước Hy Lạp suy yếu cả về kinh tế
và chinh trị quân sự . Sau đó Hy Lạp bị nước Maxedoan xâm chiếm. Đến thế kỉ II sau
CN, Hy Lạp lại bị La mã xâm chiếm. Quá trình lịch sử đó gắn liền với sự hình thành và
phát triển kinh tế xã hội và tư tưởng triết học : triết học (philosophia theo tiếng hy lạp cổ
là tình yêu sự thông thái đồng thời xuất hiện ở cả Hy Lạp , Trung Quốc , Ấn Độ cổ đại
vào khoảng thế kỉ 6 tr.CN, sự ra đời của triết học đánh dấu một bước phát triển của tư
tưởng nhân loại , từ cảm nhận vũ trụ một cách trực quan đến thế giới quan dựa trên các tri
thức mang tính khái quát , trừu tượng hoá của tư duy .
Triết học Hy Lạp cổ đại phát triển trên cơ sở kinh tế đó là quyền sở hữu của chủ nô đối
với tư liệu sản xuất và người nô lệ. Vào thế kỉ IX -VII tr.CN, nền sản xuất chiếm hữu nô
lệ ở Hy Lạp cực kì phát triển . Đó là thời kì nhân loại chuyển từ thời đại đồ đồng sang
thời đại đồ sắt , với việc xuất hiện quan hệ tiền hàng đã làm cho thương mại và trao đổi
hàng hoá được tăng cường . Thời kì này người Hy Lạp đã có thể đóng những thuyền lớn
cho phép họ vượt biển Địa Trung Hải tìm đến những miền đất mới , nhờ đó lãnh thổ của
Hy Lạp và thuộc địa của nó được mở rộng , tạo điều kiện cho sự giao lưu văn hoá giữa
các dân tộc. Sự phát triển của sản xuất đã dẫn đến các quan hệ và tổ chức xã hội cũ bị đảo
lộn . Nếu như trước đây các tổ chức xã hội cũ như bộ tộc , bộ lạc mang tính cộng đồng
cao , cuộc sống mỗi cá nhân hầu như hoàn toàn hoà tan vào cuộc sống cộng đồng , thì giờ
đây xuất hiện các tư tưởng tư hữu và sau đó là chế độ tư hữu về của cải , điều đó buộc


[6]

mỗi người cần ý thức và suy nghĩ hơn về bản thân mình , cần có một lập trường sống
riêng phù hợp với hoàn cảnh mới , nhu cầu đó đòi hỏi sự ra đời của triết học .
Thời kì Hy Lạp cổ đại là một thời kì của chế độ nô lệ, là một hình thức áp bức bóc lột tàn
nhẫn , vô nhân đạo nhất so với tất cả các hình thức bóc lột. Tuy nhiên chế độ áp bức bóc
lột đó là cơ sở kinh tế trên con đường phát triển của Hy Lạp cổ đại, có chế độ đó giai cấp
chủ nô mới có thể thoát ly được cuộc đời lao động chân tay tạo ra sự phân công lao
động .Từ sự phân công lao động phát triển cho phép trong xã hội xuất hiện tầng lớp
những người chuyên sống bằng lao dộng trí óc từ đó tạo điều kiện nảy sinh các tri thức
khoa học , nghệ thuật ,và triết học như Ăngghen đã nhận xét trong tác phẩm
Chống ĐuyRinh: phải có chế độ nô lệ mới xây dựng được một qui mô phân công lao
động lớn lao trong nông nghiệp , công nghiệp mới xây dựng được Hy Lạp cổ đại giàu có ,
nếu không có chế độ nô lệ thì không có Hy Lạp và cũng không có nền khoa học nghệ
thuật ,và cả triết học. Ngoài ra , chính sự xuất hiện tri thức khoa học sơ khai, như việc
phát minh ra lịch một năm có 12 tháng , 365 ngày của Talet , những phát hiện của Talet và
Pitago về toán học , hình học của Ơclit, vật lý của Acsimet đã tạo điều kiện rất lớn thúc
đẩy sự hình thành của triết học . Chúng làm cho các quan niệm thần thoại truyền thống và
các tôn giáo nguyên thuỷ vào khoảng thế kỉ VII-VI tr.CN đã không còn đáp ứng và lý giải
được những vấn đề mới của thế giới quan . những khám phá khoa học đầu tiên của người
cổ đại đã cho thấy sự giả dối của bức tranh vũ trụ quan và nhân sinh quan của các tôn
giáo và thần thoại , đòi hỏi con người phải có cách lý giải mới về thế giới xung quanh và
cuộc sống của mình .
Một số nhà nghiên cứu đã sai lầm khi nói rằng triết học có xuất phát từ bản thân thần
thoại bằng con đường phát triển nội tại của nó , tức là sự thay đổi hình thức của nó bởi sự
thay thế các hình ảnh , hình tượng bằng cấu trúc khái niệm và tư duy lôgic . Trên thực tế ,
mặc dù triết học Hy Lạp cổ đại ra đời trên nền tảng thần thoại và tôn giáo nguyên thuỷ
nhưng khác với chúng , triết học là một dạng thế giới quan hoàn toàn mới dựa trên cơ sở
trí tuệ sâu sắc, những kết luận và tri thức triết học mang tính lý luận khái quát cao được
nảy sinh, đã đẩy các dạng thế giới quan khác trước chúng vào lĩnh vực hoạt động nghệ



[7]
thuật hay sáng tác dân gian. Sự nảy nở các trào lưu tư tưởng triết học Hy Lạp cổ đại có
liên hệ mật thiết và chịu ảnh hưởng của triết học phương đông cổ đại . Vào thời kì khoa
học phát sinh ở Hy Lạp , thì ở phương đông đã tích luỹ được những tri thức đáng kể
về thiên văn học , hình học , đại số , y học các nhà bác học lớn của Hy Lạp ,phần nhiều đã
tới Aicâp, Babilon để nghiên cứu và học tập. Những mầm mống về quan niệm duy vật vô
thần của những nhà triết học Aicâp và Babilon có ảnh hưởng tích cực đến sự phát triển
của triết học ở Hy Lạp cổ đại . Có thể nói triết học phương đông , trước hết là triết học Ai
câp và Babilon là một trong những tiền đề của triết học Hy Lạp cổ đại .
I.3 : Những đặc điểm của triết học Hy Lạp cổ đại :
Triết học Hy Lạp cổ đại được coi là đỉnh cao của nền văn minh cổ đại và là một trong
những điểm xuất phát của lịch sử triết học thế giới. Nền triết học này có những đặc điểm
sau :
Một là, triết học Hy Lạp cổ đại thể hiện thế giới quan, ý thức hệ và phương pháp luận của
giai cấp chủ nô thống trị. Nó là công cụ lý luận để giai cấp chủ nô duy trì trật tự xã hội,
củng cố vai trò thốn trị xã hội.
Hai là, trong triết học Hy Lạp cổ đại có sự phân chia và đối lập rõ ràng giữa các trào lưu,
trường phái duy vật – duy tâm, biện chứng siêu hình, vô thần – hũu thần. Trong đó điển
hình là cuộc đấu tranh giữa trào lưu duy vật của Đêmôcrít và trào lưu duy tâm của
Planton, giữa trường phái siêu hình của Pácmênít và trường phái biện chứng của Hêraclít,
v.v.
Ba là, triết học Hy Lạp cổ đại gắn bó mật thiết với khoa học tự nhiên để tổng hợp mọi
hiểu biết về các lĩnh vực khác nhau, nhằm xây dựng bức tranh về thế giới như một hình
ảnh chỉnh thể thống nhất mọi sự vật, hiện tượng xảy ra trong nó. Do trình độ tư duy lý
luận còn thấp, nên khoa học tự nhiên chưa đạt tới trình độ mổ xẻ, phân tích tự nhiên để đi
sâu vào bản chất sự vật, mà chỉ mới nghiên cứu tự nhiên trong tổng thể, để có cái nhìn
tổng quát về thế giới. Vì vậy, các nhà triết học còn đồng thời còn là các nhà khoa học tự
nhiên, họ quan sát trực tiếp các hiện tượng tự nhiên, để rút ra những kết luận triết học.



[8]
Bốn là, triết học Hy Lạp cổ đại đã xây dựng nên phép biện chứng chất phác. Các nhà triết
học Hy Lạp cổ đại nghiên cứu phép biện chứng để nâng cao nghệ thuật hùng biện, để bảo
vệ quan điểm triết học của mình, để tìm ra chân lý. Họ đã phát hiện ra nhiều yếu tố của
phép biện chứng, nhưng chưa trình bày thành hệ thống lý luận chặt chẽ.
Năm là, triết học Hy Lạp coi trọng vấn đề con người. Các nhà triết học Hy Lạp cổ đại đã
đưa ra nhiều quan niệm khác nhau về con người, tìm cách lý giải về vấn đề quan hệ giữa
linh hồn và thể xác, về đời sống đạo đức – chính trị - xã hội. Mặc dù còn nhiều bất đồng,
song nhìn chung, các triết gia Hy Lạp đều khẳng định con người là tinh hoa cao quý nhất
của tạo hóa.


[9]
CHƯƠNG II : QUAN ĐIỂM, NHỮNG GIÁ TRỊ TÍCH CỰC VÀ NHỮNG HẠN
CHẾ CỦA TRIẾT HỌC DUY VẬT HY LẠP CỔ ĐẠI
II.1 : Phân tích những giá trị tích cực và những hạn chế của triết học duy vật Hy
Lạp cổ đại :
Triết học Hy Lạp cổ đại là một thời kỳ phát triển rực rỡ của triết học nhân loại với nhiều
thành công rực rỡ. Tuy nhiên, bên cạnh những thành công rực rỡ triết học Hy Lạp cổ đại
vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế. Sau đây, chúng ta đánh giá các mặt tích cực và hạn chế của
triết học duy vật Hy Lạp cổ đại qua một số nhà triết gia nổi tiếng.
II.1.1 : Triết học tự nhiên của trường phái Milê :
Cuộc tranh luận đầu tiên của triết học Hy Lạp cổ đại xoay quanh vấn đề “thế giới bắt đầu
từ đâu và hướng (quay) về đâu?”, nói cách khác, đó là cuộc tranh luận về bản nguyên thế
giới, tức cơ sở ban đầu, căn nguyên phát sinh mọi sự vật, hiện tượng, hay nói như Talét, là
cái mà từ đó mọi thứ sinh ra và trở về. Đi tìm “cái ban đầu”, viên gạch đầu tiên xây nên
tòa lâu đài vũ trụ, đã tạo nên các cách lý giải khác nhau về bản nguyên thế giới. Tinh thần
tranh luận quyết liệt ngay trong vấn đề đầu tiên này đã cho thấy khát vọng khám phá và
chinh phục thế giới của người Hy Lạp, tiêu biểu cho phong cách tư duy phương Tây trong
lịch sử phát triển của nó. Sự vượt qua và điều chỉnh nhau giữa các triết gia, xét cho cùng,

cũng chỉ nhằm biểu thị giới hạn và triển vọng hiểu biết của con người.
Trường phái triết học Milet là trường phái của các nhà triết học đầu tiên xứ Lonie, một
vùng đất nổi tiếng của Hy Lạp. Nằm chạy dài trên miền duyên hải Tiểu Á, nằm giữ huyết
mạch giao thông, là cửa mở đi về phương Đông, và là trung tâm kinh tế, văn hóa của thời
kỳ chiếm hữu nô lệ. Nơi đây được xem là quê hương của nhiều trường phái triết học của
triết gia nổi tiếng.
Trường phái này do ba nhà triết học lập nên như: Thales, Anaxi-mène và Anaximandes.
Đóng góp quan trọng nhất của trường phái này là đã đặc nền móng do sự hình thành các
khái niệm triết học để các triết gia sau này tiếp tục bổ xung và làm phong phú thêm những
khái niệm đó như khái niệm chất, không gian, sự đấu tranh của các mặt đối lập v.v… Một


[10]
điều đáng quý nữa là các triết gia đã xuất phát từ thế giới để giải thích thế giới, khẳng
định thế giới xuất phát từ một thời nguyên vật chất duy nhất.
II.1.1.1 : Talet ( 624 – 547 tr.CN)
Các quan điểm của Talet : Trong toán học, bằng việc phát minh nhiều định lý cơ bản của
hình học, số học, nghĩa là bằng việc sử dụng những công thức trừu tượng, Talét đã đặt cơ
sở cho sự ra đời toán học lý thuyết. Trong thiên văn và vật lý Talét có nhiều phát hiện độc
đáo về hiện tượng nhật thực, nguyệt thực, thủy triều, tiết phân, hạ chí, mặc dù còn mang
tính chất ngây thơ. Trong triết học, Talét thuộc thế hệ đầu tiên xem xét bản nguyên ở dạng
hành chất.Talet là một nhà triết học duy vật , thành tựu nổi bật của ông là quan niệm triết
học duy vật. Ông cho rằng là nước là yếu tố đầu tiên , là bản nguyên của mọi vật trong
thế giới. Mọi vật đều sinh ra từ nước và khi phân huỷ lại trở thành nước. Theo Talet vật
chất (nước ) tồn tại vĩnh viễn , còn mọi vật do nó sinh ra đều biến đổi không ngừng , sinh
ra và chết đi , toàn bộ thế giới là một chỉnh thể thống nhất mà nền tảng là nước .
Giá trị tích cực trong triết học của Talet : Quan niệm triết học của ông giới thiệu thế
giới tuy còn thô mạc, nhưng đã có ý nghĩa vô thần, chống lại thế giới quan tôn giáo đương
thời và chứa đựng những yếu tố biện chứng tự phát.
Những hạn chế trong triết học của Talet : ông được gọi là triết học đầu tiên, toán học

đầu tiên, thiên văn học đầu tiên, song nhà khoa học đầu tiên này chưa thể thoát khỏi ảnh
hưởng của quan niệm thần thoại và tôn giáo nguyên thủy.Điều này thể hiện ở chỗ, ông
cho rằng thế giới đầy dẫy những vị thần linh và khi không thể giải thích được hiện tượng
từ tính của nam châm thì ông khẳng định rằng nó là linh hồn. Ông sử dụng các yếu tố vật
linh thuyết, vật hoạt luận làm chỗ dựa cho quan điểm của mình, như điều kiện cần thiết để
dung hòa với thói quen truyền thống. Đặc tính vật lý của nước được nâng lên cấp độ thần
linh. Thế giới chứa đầy thần linh. Nước và tất cả những gì phát sinh từ nước đều có linh
hồn, có thần tính. Mặt trời làm cho nước bốc hơi thì được Talét giải thích một cách ngây
thơ, mộc mạc rằng Mặt trời cần nước để tồn tại ! Nhưng khi có người hỏi “nước do đâu
mà có ?”, thì sự chông chênh trong lý lẽ của Talét bộc lộ ngay.


[11]
II.1.1.2 : Anaximăngđơ (khoảng 610 - 546 TCN)
Các quan điểm của Anaximăngđơ : Bản nguyên bây giờ không còn là nước, mà là cái
có ý nghĩa phổ quát hơn. Theo Anaximăngđơ, để truy tìm bản nguyên sâu xa nhất, nguyên
nhân của các nguyên nhân, thì không thể dừng lại ở những hành chất cụ thể được. Nước,
hay một cái gì khác cụ thể, không phải là nguyên nhân, mà là kết quả của một quá trình
sinh thành trong vũ trụ. Cái xác định là kết quả của những gì chưa xác định mà thành. Nó
vô cùng, vô tận, không chịu sự chi phối của những điều kiện không - thời gian, vĩnh viễn,
và không xác định được; trong sự tự do đó nó hợp nhất mọi thứ để tạo nên những cái cụ
thể mà ta biết, hoặc cảm nhận. Cái không xác định (apâyrôn) của Anaximăngđơ là nỗ lực
vươn đến quan điểm thực thể về bản nguyên: vượt qua cái cụ thể cảm tính để suy tưởng
về một căn nguyên có tính trừu tượng. Tất cả các đặc tính của Apâyrôn được quy về một
đặc tính chủ yếu là vận động. Sự vận động của thực thể apâyrôn quyết định quá trình hình
thành của vũ trụ và con người. Khi vận động theo vòng xoáy lốc, apâyrôn tạo nên những
cực đối kháng - ẩm và khô, lạnh và nóng. Kết hợp theo từng cặp những tính chất ấy sẽ
dẫn đến hình thành đất (khô và lạnh), nước (ẩm và lạnh), khí (ẩm và nóng) và lửa (khô và
nóng). Từ trung tâm, những kết cấu vật chất dần dần được xác định. Dưới tác động của
lửa một phần nước bốc hơi, còn đất thì tụ lại giữa đại dương. Trái đất đã hình thành như

vậy. Bầu trời phân chia ra ba vòng, do khí bao quanh, tương tự như ba vành bánh xe rỗng,
được bơm đầy lửa. Vành dưới nhiều lỗ hổng, chứa lửa, là các vì sao. Vành giữa một lỗ
hổng, là Mặt trăng. Vành trên cùng một lỗ hổng, là Mặt trời. Theo Anaximăngđơ, sự sống
hình thành trước tiên ở đại dương, sau đó tiến dần lên cạn. Con người có thể chất yếu đuối
nên sinh ra và phát triển trong bụng một loài cá khổng lồ. Chỉ khi trưởng thành loài người
mới lên đất liền và sống độc lập.
Giá trị tích cực trong triết học Anaximăngđơ : Đó là quan niệm ngây thơ về nguồn gốc
sự sống, song trong cái vẻ nghèo nàn, trừu tượng này đã thể hiện những đột phá táo bạo
về thế giới quan,: lần đầu tiên trong triết học cổ đại Hy Lạp Anaximăngđơ đã cố gắng giải
thích thế giới từ nguyên nhân tự thân, gạt bỏ yếu tố vật linh thuyết, vật hoạt luận, đưa ra


[12]
tư tưởng biện chứng tự phát về tính phổ biến của vận động, biến đổi, sự thống nhất các
mặt đối lập, về quá trình thành sự sống từ thế giới vô cơ, con người từ loài vật.
Những hạn chế trong triết học Anaximăngđơ : cũng như Talet, triết học của
Anaximăngđơ chịu ảnh hưởng của các quan niệm thần thoại và tôn giáo, khẳng định điểm
tận cùng giới hạn của thế giới, mọi sinh vật theo ông đều sinh ra từ apâyrôn và có lỗi lầm
với nhau, những lỗi lầm của chúng phá vỡ các chuẩn mực và giới hạn của chúng. Mọi cái
cuối cùng đều trở thành apâyrôn . Theo nghĩa này, apâyrôn trở thành một cái ít nhiều
mang tính thần bí.
II.1.1.3 : Anaximen (588 - 525 tr.CN)
Các quan điểm của Anaximen : nhân vật thứ ba của trường phái Milet, tìm cách dung
hòa hai bậc tiền bối, nhưng bác bỏ sự lựa chọn của họ. Bản nguyên thế giới phải là cái xác
định, chứ không phải vô định, bởi lẽ tòa lâu đài vũ trụ không thể tự nhiên mà sinh thành
với toàn bộ diện mạo của nó. Tuy nhiên với tính cách là cơ sở của mọi sự sinh thành, phát
triển, diệt vong, của mọi trạng thái sự vật, bản nguyên phải là cái năng động và biến hóa,
cái ta không thấy, mà cảm nhận sự hiện hữu khắp nơi của nó, đóng vai trò hàng đầu của
sự sống, như nước, mà biến hóa hơn nước. Đó là apâyrốt, tạm hiểu là “khí”, mà theo
Anaximen, còn tỏ ra bao quát hơn cả apâyrôn, cái chỉ đáng xem như thuộc tính của nó.

Chính ở apâyrốt diễn ra quá trình “tán” và “tụ” thường xuyên, để có được một thế giới
sống động và hài hòa. Khi tán khí hóa thành lửa, rồi sau thành cái vầng sáng tinh khiết
nhất - ête (aither); lúc tụ apeiros biến thành gió, mây, nước, đất và đá, tùy thuộc vào mức
độ tụ của nó. Sự tán gắn với quá trình đốt nóng, sự tụ - quá trình lạnh đi. Không chỉ là bản
nguyên thế giới, khí còn là nguồn gốc sự sống và các hiện tượng tâm lý. Linh hồn là sự
thở, khí của linh hồn và khí của thế giới vật chất thống nhất với nhau. Thần linh cũng xuất
hiện từ khí. Như vậy khí của Anaximen vừa là yếu tố vật lý (không khí), vừa là yếu tố tâm
linh (sinh khí).
Những giá trị tích cực và hạn chế của triết học Anaximet : cũng như hai nhà triết học
trên, những quan điểm của ông vẫn mang nặng tính ngây thơ, chất phác, nhưng nó phần
nào cũng có giá trị nhất định trong thời kì đó.


[13]
II.1.2 : Hêraclít (Heraclitos) - “mọi thứ đều tuôn chảy” :
Các quan điểm của triết học Hêraclít : Xôcrát là người đầu tiên sử dụng thuật ngữ
“biện chứng” (Dialektike) như nghệ thuật đối thọai, tranh luận nhằm đạt tới chân lý. Sau
đó Platôn đã cụ thể hóa cách hiểu này trong các thao tác lôgíc, phương pháp hỏi và đáp
một cách hợp lý và thuyết phục, từ đó dễ dàng xác lập định nghĩa đúng về các khái niệm.
Theo cách hiểu hiện đại, xuất phát từ Hêghen, phép biện chứng là khoa học về phương
pháp tư duy (khoa học lôgíc), đồng thời là học thuyết về mối liên hệ phổ biến và sự phát
triển. C. Mác đã kế thừa và cải tạo phép biện chứng Hêghen, xây dựng phép biện chứng
duy vật. Thuật ngữ phép biện chứng như vậy đã vượt qua ý nghĩa chủ quan ban đầu của
nghệ thuật đôi thoại để trở thành một phương pháp triết học và một học thuyết tìm hiểu
các sự vật, hiện tượng như một quá trình vận động, phát triển mang tính quy luật.
Từ góc độ này có thể xem Hêraclít là ông tổ thực sự của phép biện chứng, người đặt nền
móng cho tư tưởng biện chứng về thế giới.
Hêraclít không chỉ là nhà duy vật tự phát, mà còn là nhà triết học đã đặt cơ sở cho cách
hiểu về thế giới như một quá trình, được diễn đạt bằng câu cách ngôn “mọi thứ đều tuôn
chảy”theo quy luật, hay Lôgốt (Logos, Hêraclít. Tản văn, câu 2). Lôgốt là khái niệm chủ

đạo trong triết học Hêraclít, dùng để giải thích bản nguyên lẫn bản chất của thế giới. Đó là
một khái niệm đa nghĩa: 1)Thần ngôn (ngôn từ của Thần, thần ngôn); 2) lời nói, học
thuyết, có nghĩa là logos đã được thế tục hóa thành cái thuộc sở hữu của con người (ta
biết rằng có khá nhiều học thuyết có phần kết thúc bằng “logy”, “logie”…); 3)lý trí, chân
lý (môn học dạy ta cách tư duy đúng, theo truyền thống gọi là Logic); 4)tính quy luật, tính
tất yếu; 5)trật tự, chuẩn mực; 6)lửa. Bốn nghĩa sau cùng, không còn nghi ngờ gì nữa, gắn
liền với tên tuổi của Hêraclít. Một cách tổng quát, Hêraclít muốn nói rằng, mọi sự vật diễn
ra trong thế giới không xô bồ, hỗn độn, mà tuân theo tính quy luật, tính tất yếu, trật tự,
chuẩn mực, được lý trí nhận biết (chúng ta không nhìn quy luật, mà nhận thức quy luật);
đồng thời chúng ta hình dung toàn bộ thế giới này như ngọn lửa thiêng liêng, sống động,
bùng cháy và tắt đi theo quy luật. Lửa - cơ sở của sinh thành và diệt vong, sức mạnh chở


[14]
che và sức mạnh hủy diệt. Đại hỏa tai vũ trụ sẽ là phán xét vũ trụ, tất cả biến thành tro
bụi, và từ trong tro bụi một chu kỳ mới của sinh thành, biến hóa lại bắt đầu.
+ Quy luật thứ nhất chỉ rõ mọi sự vật đều nằm trong sự sinh thành, phát triển và
diệt vong không cưỡng lại được. Tính phổ biến của thay đổi diễn ra trong thế giới được ví
như hình Ảnh dòng sông mà tất cả đều đang trôi đi, bởi thế nên “không thể tắm hai lần
trong cùng một dòng sông, bởi vì mỗi lần bước xuống sông, ta lại tiếp xúc với dòng nước
mới”.
+ Quy luật thứ hai nhấn mạnh tính thống nhất và đa dạng của thế giới. Thế giới
thống nhất, nhưng không phải là thống nhất trừu tượng, mà là hoạt động, sự tự triển khai
ra các mặt đối lập. Hư vô chỉ là “cái khác” của tồn tại, tính chủ quan là “cái khác” của
tính khách quan, mọi thứ đều hợp nhất, và mọi hợp nhất đều phân đôi, tồn tại và hư vô chỉ
là một. Sự vật vừa có vừa không, vừa tồn tại vừa không tồn tại. Vũ trụ thống nhất trong
tính đa dạng, ở đó sự tác động qua lại và chuyển hóa của các mặt đối lập làm nên bản chất
của sinh thành, phát triển, diệt vong. Hêraclít xem quá trình chuyển hóa là tất yếu:”Lửa biểu thị chuyển hóa của vạn vật, ví như sự trao đổi hàng hóa sang vàng và vàng sang hàng
hóa…” .
+ Quy luật thứ ba, xuất phát từ quy luật thứ nhất và quy luật thứ hai, có thể gọi là

quy luật tương quan: sự vật đặt trong những tương quan khác nhau “biểu lộ” ra một cách
khác nhau trước chủ thể, chẳng hạn mật ngọt đối với người bình thường, nhưng đắng đối
với người bệnh; nước biển đối với một số sinh thể là môi trường sống, nhưng đối với một
số khác lại tỏ ra độc hại; vàng đối với người là quý, nhưng đối với loài vật lại vô giá trị.
Sau cùng, người thông thái nhất cũng chỉ đáng là đứa trẻ so với thần linh; con khỉ đẹp
nhất cũng trở nên xấu xí so với con người, con người đẹp nhất cũng chỉ đáng coi là con
khỉ không đuôi so với thần linh (xem Tản văn, các câu 97, 98, 99). Sự táo bạo, khác
thường trong lập luận của Hêraclít là sự thách thức đối với quan điểm đương thời về bản
chất của thế giới, khiến cho ông bị cô lập, chấp nhận “bước đi trên con đường cô đơn”,
nhưng với “một lòng cao ngạo ngất trời” .C. Mác xem Hêraclít là một trong những tên
tuổi lớn, tạo nên phong cách tư duy đặc sắc thời cổ đại. Lôgốt- Lửa của Hêraclít rất thần


[15]
linh, nhưng cũng rất vũ trụ và nhân tính. Thần linh là biểu tượng của sự thống nhất và
chuyển hóa ngày - đêm, đông - hạ, chiến tranh - hòa bình, no - đói. Con người là tiểu vũ
trụ trong đại vũ trụ, toàn thể trong đại toàn thể, vì vậy lý trí con người và lý trí thần linh,
đại diện cho tinh khí vũ trụ, nhất trí với nhau, dù không hòa lẫn vào nhau. Lý trí là chìa
khóa giúp con người hiểu được vũ trụ trong hòa điệu thiêng liêng. Lý trí - Lôgốt chính là
sự bảo đảm tính phổ biến và tính chân lý của nhận thức. Lý trí - Lôgốt - Lửa cũng là
thước đo tính cách con người, xác định xem tâm hồn người nào “nhiều lửa” và tâm hồn
người nào “ít lửa”, hoặc “thiếu lửa”. Lửa ấy là “lửa lòng”. Lửa là cội nguồn vĩnh cửu của
cuộc sống.
Những giá trị tích cực trong triết học Hêraclít : triết học của ông là triết học duy vật,
ông cho rằng thế giới là do vật chất sinh ra và dạng vật chất đầu tiên đó là lửa.
Ông đã nêu rõ tính thống nhất của thế giới và sự vận động vĩnh viễn của vật chất. Ông
cho rằng nhận thức được bắt đầu từ cảm tính : mắt và tai, nhưng mắt là nhân chứng chính
xác hơn tai. Ông đã đi tìm bản chất của tinh thần không phải là ở ngoài vật chất mà chính
là ở trong thế giới vật chất; giá trị ấy có tính định hướng cho việc tìm bản chất đích thực
của đời sống tinh thần.

Hêraclít đã đưa triết học duy vật cổ đại tiến lên một bước mới với những quan điểm duy
vật và những yếu tố biện chứng. Học thuyết của ông sau này đã được các nhà triết học cận
đại hiện đại kế thừa. Mỗi nhà triết học từ lập trường triết học của mình đã tiếp cận và
đánh giá khác nhau về triết học Hêraclit. Ông là đại biểu xuất xắc của phép biện chứng
duy vật Hy Lạp cổ đại.
Những hạn chế trong triết học Hêraclít : Quan niệm của ông không thể tránh khỏi
những hạn chế của những nhà triết học thời trước đó là sự ngây thơ, chất phác, cảm tính
trong những quan niệm của mình.Ông còn có những sai lầm về mặt chính trị. Đó là tính
chất phản động, thù địch với nhân dân, với thường dân, đem một số người mà ông gọi là
ưu tú đối lập với quần chúng nhân dân, và ông chủ trương phải dùng chính quyền để dập
tắt nhanh chóng phong trào dân chủ.


[16]
II.1.3 : Thuyết nguyên tử của Lơxíp, Đêmôcrít, Epiquya.
Nguyên tử luận là chương mới trong triết học tự nhiên của Hy Lạp cổ đại, do Lơxíp
(Leucippos, 500 - 440 TCN) sáng lập, Đêmôcrít (Democritos, 460 - 370 TCN) phát triển,
Vào thời kỳ Hy Lạp hóa Epiquya (Epicuros, 342/341 - 271/270 TCN) điều chỉnh và nhân
bản hóa theo xu hướng thống nhất với duy cảm luận, chủ nghĩa vô thần và chủ nghĩa
khoái lạc.
II.1.3.1 : Lơxíp (500 – 440 tr.CN) :
Các quan điểm triết học của Lơxíp : là người đầu tiên ở Hy Lạp cổ đại nêu lên học
thuyết nguyên tử. Các tác phẩm trình bày học thuyết của ông không được lưu giữ, người
ta biết đến qua người học trò Đêmôcrít hoặc những trích dẫn ở các tác phẩm của các nhà
triết học khác.
Ông tiếp thu quan điểm của Empecơlơ về đa khởi nguyên của vật chất, nhưng ông cho
rằng khởi nguyên của vật chất không phải là 4 căn nguyên mà là vô số nguyên tử. Lơxip
cho rằng, mọi vật được cấu thành từ những nguyên tử đó là những hạt vật chất tuyệt đối
không thể phân chia được, nó vô hạn về số lượng và vô hạn về hình thức : nó vô cùng bé,
không thể thẩm thấu được, không có chất lượng. Các nguyên tử chỉ khác nhau về kích

thước, sở dĩ có những sự vật khác nhau là vì có những hình thức sắp xểp khác nhau của
các nguyên tử.Theo ông, cái không tồn tại chính là khoảng chân không không gian rỗng
nhờ có không gian rỗng này mà các nguyên tử và các vật chất có thể vận động, kết hợp và
phân tán. Ông hiểu sự vận động là sự thay đổi vị trí trong không gian. Lơxip đã đề cập
đến tính nhân quả và tất yếu trên quan điểm luận duy vật, chống lại mục đích luận của chủ
nghĩa duy tâm. Ông khẳng định : không một sự vật nào phát sinh một cách vô cớ mà tất
cả đều phát sinh trên một căn cứ nào đấy, và do tính tất nhiên.
Những giá trị tích cực của triết học Lơxip : Ông là người đầu tiên nêu lên học thuyết
nguyên tử, đã đưa triết học Hy Lạp cổ đại lên một tầm cao mới. Mà giá trị của học thuyết
nguyên tử vẫn còn đến ngày nay


[17]
Những hạn chế trong triết học Lơxip : tuy học thuyết của ông là một tiên đoán tuyệt
vời, nhưng ông cũng không thể tránh khỏi những hạn chế của các nhà triết học trước đó,
do trình độ khoa học thời kì này còn thấp. Triết học của ông vẫn còn mang nặng tính chất
phác, thô sơ.
II.1.3.2 : Đêmôcrít ( 460 – 370 tr.CN)
Các quan điểm triết học của Đêmôcrít : Đêmôcrít sinh tại Apđerơ (Abdere), thuộc xứ
Tơraxơ (Thrace). Dù lớn lên trong gia đình giàu có, nhưng Đêmôcrít từ bỏ cuộc sống an
nhàn để chu du khắp nơi. Ông từng có mặt ở Ai Cập, Ba Tư, An Độ, Babilon, tiếp thu
nhiều kiến thức bổ ích về toán học, thiên văn. Trở lại Hy Lạp, ông đến Aten, tham dự các
buổi thuyết giảng của Anaxago, gặp gỡ Xôcrát, nhưng không tán thành quan điểm của ai
cả. Đêmôcrít viết khoảng hơn 70 tác phẩm, trong đó có nhiều tác phẩm còn được lưu giữ
qua những trích đoạn như Về tư6 nhiên, Về lý trí, Về trạng thái cân bằng của tinh thần, Về
bản tính con người, Về hình học, Về nhịp điệu và hòa hợp, Về thi ca, Về hội họa, Về binh
nghiệp, Về khoa chữa bệnh …
Ở khía cạnh bản thể luận thuyết nguyên tử được xây dựng trên cơ sở thừa nhận nguyên tử,
với tính cách là tồn tại, và khoảng không, hay hư không, hư vô, là những bản nguyên thế
giới. Arixtốt viết về cách hiểu này trong Siêu hình học:”…Lơxíp và người kế tục ông,

Đêmôcrít, thừa nhận cái đầy đặn - nén chặt và cái trống rỗng - phân tán như những bản
nguyên, một gọi là tồn tại, một gọi là không tồn tại…[rằng cái tồn tại tồn tại không nhiều
hơn cái không tồn tại, cũng do vậy nên vật thể tồn tại không nhiều hơn khoảng không],
còn nguyên nhân vật chất của cái đang tồn tại thì họ quy về cái này lẫn cái kia”.
Ý tưởng về các nguyên tử như những phần tử bé nhất, không phân chia (atomos theo
tiếng Hy Lạp là cái bé nhất, không phân chia được nữa), không xuyên thấu, bất biến,
không phẩm tính, siêu cảm giác, bền vững và vĩnh cửu, tạo nên cơ sở của mọi tồn tại cụ
thể, đồng thời cũng chính là tồn tại, không ngẫu nhiên xuất hiện, mà gắn liền với những
quan sát trực tiếp và suy đoán của các triết gia về các biến đổi diễn ra ở các sự vật, các
hiện tượng xung quanh con người, chẳng hạn sự đông đặc và nóng chảy, sự ăn mòn, sự
bốc hơi …Có vô số các hiện tượng diễn ra mà ta không nhìn thấy, nhưng chúng có khắp


[18]
mọi nơi, làm nên tính phổ biến của vũ trụ. Trực quan sinh động và suy tư triết học đã đưa
các nhà nguyên tử luận đến quan điểm sau: sự khác nhau của các nguyên tử về hình dáng,
kích thước, trật tự, vị trí …là sự lý giải đầy đủ và xác đáng nhất tính đa dạng của thế giới
vật chất. Đêmôcrít xem vận động là thuộc tính của các nguyên tử, nó vĩnh cửu và không
do ai sinh ra, cũng như các nguyên tử. Các nguyên tử vận động trong không gian, chúng
“bay lượn như những hạt bụi li ti, mà ta thường nhìn thấy dưới nắng mai”, “chúng va
chạm nhau, đẩy nhau, rồi lại xoắn vào nhau, tan hợp hợp tan theo những trình tự nhất
định, tạo ra những hướng vận động trái chiều nhau” .Tuy nhiên Đêmôcrít chưa phân tích
sự tự vận động, nguyên nhân tự thân của vận động vật chất, do đó bị Arixtốt phê phán,
một sự phê phán, như ta biết, cũng chỉ nhằm chứng minh cho “Động cơ đầu tiên”, tức
Thượng đế.
Quan niệm về nguồn gốc vũ trụ và sự sống được giải thích trên cơ sở thuyết nguyên tử.
Vũ trụ là cái toàn thể rộng lớn, do các nguyên tử tạo nên. Chúng bố trí không đồng đều
trong không gian, chỗ dày chỗ thưa, chỗ đầy chỗ khuyết. Ở đâu mật độ dày đặc, các
nguyên tử đẩy nhau, làm thành cơn lốc vũ trụ. Những nguyên tử lớn và nặng tụ lại ở trung
tâm, những nguyên tử nhẹ và bé hơn, hình cầu và trơn trượt, bị đẩy ra ngoại biên. Bầu trời

do lửa, khí, các tinh tú, những thứ bị cơn xoáy lốc đẩy ra, tạo thành. Hành chất trội là cơ
sở để phân biệt các loài sống trên mặt đất, dưới nước, trong lòng đất, hay bay trên trời.
Lúc mặt đất khô ráo hẳn, các sinh thể trưởng thành, bắt đầu công việc tự tạo tự sinh. Quan
hệ giữa con người, loài vật và toàn thể vũ trụ là quan hệ giữa tiểu thế giới và đại thế giới.
Sự giống nhau giữa hai thế giới chính là ở chỗ cả hai đều cấu thành từ các nguyên tử.
Quan niệm về nguồn gốc loài người của Đêmôcrít tỏ ra ấu trĩ. Theo ông, con người có ưu
thế hơn loài vật vì chứa tích nhiều lửa, với những nguyên tử khác thường, hình cầu, trơn
trượt, năng động. So với loài vật con người sở hữu nguồn vật chất tinh khiết hơn, hấp thụ
nguồn chất liệu từ bên ngoài nhiều hơn. Các nhà tư tưởng thuộc nguyên tử luận không
xem linh hồn như thực thể phi vật chất, mà quy nó về bản chất vật lý, xem như sự liên kết
các nguyên tử hình cầu năng động và dễ phát tán. Sự thở là trao đổi thường xuyên các
nguyên tử linh hồn và ngoại cẢnh. Thở và ngừng thở được xem như dấu hiệu đặc trưng


[19]
của sự sống và c1i chết. Chết đồng nghĩa với sự phân giải các nguyên tử linh hồn ra khỏi
cơ thể, phát tán trong không khí.
Nguyên tử luận cũng được triển khai vào việc giải thích mối quan hệ tất nhiên - ngẫu
nhiên, một trong những mối quan hệ cơ bản của các sự vật, hiện tượng, quá trình.
Đêmôcrít không bác bỏ khái niệm cái ngẫu nhiên, mà chỉ phê phán những ai dùng nó làm
chiếc lọng che đậy sự nông cạn, phi lý của mình. Sự đối lập tất nhiên - ngẫu nhiên, xét
cho cùng, là sự đối lập cái xảy ra “theo tự nhiên” với cái xảy ra “không theo tự nhiên”,
“không chủ đích”. Vũ trụ xuất hiện, có nghĩa là tính quy luật, tính tất yếu tự nhiên thay
thế trạng thái hỗn độn, ngẫu nhiên. Bản thân từ “vũ trụ” (theo tiếng Hy Lạp - “kosmos”)
đã hàm chứa một cái gì đó chuẩn xác, trật tự, là môi trường rộng lớn, nơi mỗi thực thể đều
chiếm một vị trí nhất định. Không có sự chệch hướng, mọi thứ diễn ra theo tính tất yếu tự
nhiên; chúng ta truy tìm nguyên nhân của vạn vật, và hiểu rằng vạn vật tồn tại như thế mà
không khác đi. Ngẫu nhiên, do đó, bị đồng nhất với phi nhân quả. Tính chất máy móc và
mâu thuẫn trong lập luận của Đêmôcrít về quan hệ nhân quả đã rõ. Chỉ nắm vững phương
pháp biện chứng thực sự mới tìm hiểu một cách sâu sắc mối quan hệ, liên hệ và chuyển

hóa sâu sắc giữa tất nhiên và ngẫu nhiên, đồng thời chỉ ra giới hạn của chúng.
Bản thể luận và vũ trụ quan của Đêmôcrít ở một khía cạnh nào đó là sự dung hòa giữa
Hêraclít và Pácmênhít, theo đó thế giới các sự vật luôn tuôn chảy, nhưng đồng thời là thế
giới bền vững, hài hòa, hoàn hảo, được cấu thành từ các nguyên tử. Cách diễn đạt như vậy
chưa hẳn chính xác, bởi lẽ trên thực tế sự biến đổi mang tính tuyệt đối, sự bền vững về kết
cấu vật chất của sự vật là tương đối, có điều kiện. Các nguyên tử tạo nên sự vật lẽ cố
nhiên bền vững, theo quan niệm của các nhà nguyên tử luận, song bản thân sự vật, hình
thành từ sự kết hợp các nguyên tử, thì biến đổi tự tại. Đêmôcrít mong muốn đứng giữa hai
thái cực trong đánh giá các hiện tượng của thế giới, song không biết kết hợp cái hay, cái
hợp lý từ lập luận của cả Hêraclít lẫn nhân vật lớn của phái Êlê.
Trong lý luận nhận thức Đêmôcrít phân biệt nhận thức mờ tối và nhận thức chân thực,
tương ứng với hai nấc thang cảm tính và tư duy trừu tượng. Cảm giác đem đến cho con
người những chất liệu thô, thiếu chọn lọc. Nhận thức mờ tối, hay nhận thức cảm tính, chỉ


[20]
hướng đến tồn tại bề ngoài của sự vật, mà chưa đi sâu vào bản chất của nó, chưa phân tích
nguyên nhân của những cái được tri giác. Những chất liệu thô được tư duy xử lý, cải biến,
trở nên hoàn thiện hơn về mặt tri thức, bởi lẽ nó vạch ra tính quy luật bên trong, cơ bản
của sự vật. Như vậy nhận thức lý tính là nấc thang cao nhất của “cây thang” nhận thức.
Đêmôcrít chưa phải là người sáng lập lôgíc học, nhưng ông đã đặt nền móng cho nó, xem
nó như công cụ giải thích tự nhiên. Arixtốt xem Đêmôcrít như bậc tiền bối của lôgíc quy
nạp, để phân biệt với lơgíc diễn dịch của mình. Sau này, vào thế kỷ XVII, Ph. Bêcơn (F.
Bacon), người chủ trương phương pháp thực nghiệm - quy nạp, đánh giá cao Đêmôcrít
khi cho rằng nhà triết học cổ đại này đã “đi vào tận chiều sâu thăm thẳm của giới tự
nhiên”.
Quan điểm đạo đức và chính trị của Đêmôcrít phản ánh nỗ lực của con người nhằm duy
trì những chuẩn mực xã hội tốt đẹp trong bối cẢnh nền dân chủ chủ nô đang đứng trước
nguy cơ khủng khoảng, suy thoái. Trong quan hệ xã hội Đêmôcrít đánh giá cao lòng nhân
ái, tình bạnBạn tốt là người xuất hiện khi được mời trong những ngày vui, chủ động đến

trong những ngày buồn, những khoẢnh khắc đầy thử thách. Ai không có bạn thì đó là
người xấu, vì không biết yêu ai, không ai yêu mình. Để phân biệt Thiện - Ac Đêmôcít nêu
ra những cách ngôn như “nhận ra người trung thực và người dối trá không nên chỉ căn cứ
vào việc làm của họ, mà cả ước muốn của họ”, “cái qúy của loài vật ở tố chất cơ thể, cái
qúy của con người ở tính cách tinh thần”, “người tốt thì tốt cả trong ý nghĩ”, “chính trong
bất hạnh ta càng trung thành với nghĩa vụ thiêng liêng”. Đêmôcrít đề cao vai trò của giáo
dục, học vấn trong việc hinh thành đức hạnh. Giáo dục tốt nhất trong môi trường gia đình,
mà người cha là tấm gương. Giáo dục thống nhất với học vấn. Đêmôcrít ủng hộ nhiệt
thành nền dân chủ chủ nô, bất chấp tình trạng khủng hoảng của nó. Ông tin tưởng rằng
những mâu thuẫn đang nảy sinh trong nền dân chủ sẽ được khắc phục, bởi lẽ, xét về bản
chất, sự nghèo khó trong nhà nước dân chủ vẫn đáng quý hơn cái mà người ta gọi là cuộc
sống hạnh phúc trong chế độ quân chủ, bởi tự do tốt hơn nô lệ. Quyền lực chân chính nhất
không nằm trong tay những kẻ giàu sang, mà thuộc về nhân dân, những “nguyên tử xã
hội” hùng mạnh.


[21]
Đêmôcrít xây dựng học thuyết về tiến bộ lịch sử tự thân của loài người từ trạng thái thú
vật sang trạng thái văn minh. Tôn giáo, theo ông, là sản phẩm của lịch sử, xuất hiện do
nỗi sợ hãi của con người trước các hiện tượng bí hiểm của tự nhiên. Thần linh chỉ là
những “ngẫu tượng”, là lý trí con người đã được thần thánh hóa. Trong quan hệ tự nhiên con người Đêmôcrít cho rằng con người từ chỗ mô phỏng, bắt chước tự nhiên đã dần dần
tạo ra thiên nhiên cho mình, tức xã hội loài người. Vấn đề nhu cầu được Đêmôcrít giải
thích trên quan điểm tiến hóa tự nhiên - lịch sử: quá trình sinh tồn, giao tiếp làm cho lao
động và ngôn ngữ trở thành nhu cầu phổ biến. Tên gọi, hay khái niệm, theo Đêmôcrít,
xuất hiện lúc đầu một cách ngẫu nhiên, chứ không sẵn có ở sự vật. Quan niệm đó là tiền
thân của thuyết duy danh sau này.
Những giá trị tích cực trong triết học Đêmôcrít :
Với những thành tựu rực rỡ của mình, Đêmôcrít đã đưa chủ nghĩa duy vật lên một đỉnh
cao mới. Học thuyết nguyên tử của ông là một tiên đoán thiên tài mà cho đến nay nó vẫn
giữ nguyên giá trị, các nhà khoa học hiện đại đã chứng minh một số quan điểm của ông là

đúng.Ngoài ra quan điểm về nguồn gốc vũ trụ cũng có một số giá trị nhất định. Tuy nhiên
dưới ánh sáng của khoa học, thì quan niệm của Đêmôcrít là sai lầm, nhưng nó đã góp
phần chống lại thế giới tôn giáo, duy tâm đang thống trị thời kì đó. Quan điểm về vận
động của ông cũng là một phán đoán có giá trị đặc biệt. Theo đó ông đã đi tìm nguồn gốc
của sự vận động ở trong chính thế giới vật chất. Đây là một quan niệm đúng đắn mà sau
này các nhà triết học Macxit đã công nhận.
Quan điểm quyết định luận cũng là một quan điểm của ông có giá trị đã đóng góp cho nền
triết học Hy Lạp cổ đại. Quan điểm này đã chống lại quan điểm mục đích luận, thế giới
quan duy tâm và tôn giáo. Về quan điểm nguồn gốc của con người cũng có giá trị nhất
định. Nó cũng chống lại chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo. Ông đã đưa lý luận nhận thức duy
vật lên một bước mới, khác với các nhà triết học trước, Đêmôcrit không phủ nhận vai trò
của nhận thức cảm tính, tuyệt đối hóa vai trò của lý tính. Đây cũng là một quan điểm đúng
đắn mà sau này các nhà triết học Macxit cũng công nhận. Ngoài ra, các quan điểm của


[22]
ông còn có vai trò quan trọng trong chủ nghĩa vô thần, đó là những quan điểm về nguồn
gốc, phủ nhận sự tồn tại của thần linh.
Những hạn chế của triết học Đêmôcrít :
Tuy có nhiều thành tựu rực rỡ, nhưng triết học của Đêmôcrít vẫn có nhiều hạn chế không
thể tránh khỏi. Triết học của Đêmôcrít vẫn thể hiện tính thô sơ, chất phác, thể hiện tư duy
trực quan, cảm tính, thể hiện trong các quan niệm về nguyên tử, linh hồn con người, về
nguồn gốc của vũ trụ, về nguồn gốc bản thân con người, thần thánh.
Trong quan niệm về sự vận động của vật chất, tuy đã có những giá trị đạt được nhưng ông
chưa thể giải thích được nguồn gốc của sự vận động. Khi nói về cái tất yếu và cái ngẫu
nhiên,ông đã phủ nhận cái ngẫu nhiên cho rằng cái ngẫu nhiên là không tồn tại. Đây là
một quan điểm sai lầm vì rằng cái ngẫu nhiên vẫn tồn tại bên cạnh cái tất nhiên.
II.1.3.3 : Epiquya ( 341 – 297 tr.CN)
Các quan điểm triết học của Epiquya : Triết học của Epiquya gồm ba bộ phận : vật lý học,
lôgic học và đạo đức học. Ông kiên quyết bác bỏ thuyết duy tâm và lý luận thần học, bảo

vệ chủ nghĩa duy vật và học thuyết vô thần của Đêmôcrit. Không những tiếp tục thuyết
nguyên tử của Đêmôcrit, Epiquya còn có đóng góp mới: ông cho rằng, các nguyên tử còn
khác nhau về trọng lượng, do đó chúng vận động theo chiều thẳng đứng từ trên xuống,
giống như sự rơi tự do của các vật thể, như hạt mưa từ trên trời xuống. Quá trình rơi, các
hạt va vào nhau, quyện vào nhau hoặc tách xa nhau. Từ đó ông kết luận rằng các nguyên
tử vận động theo quy luật nội tại của chúng nhưng nó bao hàm các yếu tố ngẫu nhiên do
sự va chạm vào nhau của các hạt trên đường rơi xuống. Mỗi sinh vật không phải đơn
thuần là tổng số các nguyên tử , mà là một chỉnh thể có những đặc tính nhất định.
Những giá trị tích cực trong triết học Epiquya :
Mác cho rằng Epiquya đã nhân bản hóa vũ trụ nhằm đạt đến tự ý thức về tự do. Sự khác
nhau cơ bản giữa hai tên tuổi của triết học Hy Lạp biểu thị sự khác nhau giữa hai thời đại
- một thời đại của hưng thịnh và trật tự, một thời đại của suy thoái và loạn lạc, khi con


[23]
người buộc phải đấu tranh vì chính sự tồn tại của mình, tự tìm kiếm cho mình môi trường
tồn tại, dù chỉ nhất thời và chật hẹp. Nguyên tắc dao động tự do của các nguyên tử gắn
với chủ nghĩa khoái lạc đặc trưng, với đạo đức học và chủ nghĩa vô thần. Ở đây, việc
Êpiquya luận chứng cho sự không phụ thuộc của con người vào số phận đã trở thành một
tư tưởng chủ đạo trong triết học thời kỳ này. Khi giải quyết vấn đề trên, Êpiquya đã đưa ra
một quan điểm mang đậm sắc thái đạo đức. Khi khẳng định sự không phụ thuộc của con
người vào số phận, ông đã tập trung phân tích các điều kiện đảm bảo cho hạnh phúc của
con người, nhất là các điều kiện không phụ thuộc vào một bối cảnh chính trị - xã hội cụ
thể. Với những thành tựu đạt được trong lĩnh vực này, ông được coi là "người đã xây
dựng nên một học thuyết độc đáo về vu trụ, là người khát khao tìm ra trong đó vị trí xứng
đáng của cá nhân con người mà ông tin tưởng sâu sắc vào các giá trị của nó".
Một đóng góp quan trọng khác của Êpiquya là ở chỗ, ông đã nhận thấy rõ ý nghĩa nhận
thức luận và thực tiễn của bức tranh chung về thế giới. Khi đánh giá cao tính đặc thù về
chất của trình độ nhận thức lý luận, ông đã khẳng định ý nghĩa phương pháp luận của nó.
Cũng như các nhà triết học Hy Lạp cổ đại tiền bối, khi xây dựng bức tranh chung về thế

giới, Êpiquya đã xuất phát một cách tiên nghiệm tử một quan điểm chung về thế giới.
Song cách tiếp cận của ông đã có một bước tiến đáng kể, khi luận chứng cho sự thống
nhất của những cái được rút ra từ những quan niệm và biểu tượng chung, tức là tìm ra các
quy luật của tự nhiên. Với đóng góp đó, ông được coi là người mở đầu cho khoa học tự
nhiên kinh nghiệm và tâm lý học kinh nghiệm.
Những hạn chế trong triết học Epiquya :
Như vậy, có thể nói, so với quan niệm của các nhà triết học tiền bối, quan niệm về vấn đề
tự ý thức của Êpiquya có nhiều điểm mới và sâu sắc hơn. Song trong quan niệm của ông
vẫn còn có nhiều hạn chế, những hạn chế đó được thể hiện ở những điểm cơ bản sau:
+ Thứ nhất, tính chất không tưởng trong các điều kiện mà Êpiquya đưa ra để con
người tự khẳng định mình trong thế giới.


[24]
+ Thứ hai, Êpiquya đã áp dụng một cách máy móc học thuyết nguyên tử vào việc
lý giải tồn tại cá nhân của con người.
+ Thứ ba, Êpiquya đã đưa ra một quan niệm mang tính tương đối chủ nghĩa về bản
chất của các chuẩn mực xã hội (tính tương đối của các chuẩn mực xã hội được đem đối
lập với tính tuyệt đối của quy luật tự nhiên, chứ không phải với các chuẩn mực xã hội
mới).
+ Thứ tư, quan niệm về tự ý thức của con người được Êpiquya xây dựng trên
nguyên tắc khẳng định cái riêng, phú định cái chung, dựa trên cơ sở phủ định nền tảng
chung và mang tính khách quan của xã hội khi thay thế nó bằng lược đồ "tự nhiên - cá
nhân - cộng đồng có lý tính".
II.1.4 : Arixtốt ( 384 – 332 tr.CN) :
Các quan điểm triết học của Arixtốt :
+ Bản thể luận - nhị nguyên vật chất - mô thức :
Ngoài chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm như hai khuynh hướng, hay hai đường lối
cơ bản, hình thành và phát triển trong cuộc tranh luận về nguyên nhân, cơ sở của tồn tại,
trong triết học Hy Lạp còn hình thành phương án thứ ba - nhị nguyên luận (dualism xuất

phát từ tiếng la tinh dualis là tính hai mặt, phân đôi). Đại diện cho phương án này là
Arixtốt.
Arixtốt phê phán Platôn vì đã tuyệt đối hóa ý niệm, xem nó như một thế giới lý tưởng, tồn
tại độc lập. Nhằm vượt qua Platôn, Arixtốt xây dựng quan niệm mới về tồn tại trên cơ sở
thừa nhận tính tuyệt đối, tính phổ biến và tính đơn nhất của nó. Tồn tại, theo Arixtốt, là
cái bao hàm những đặc tính tạo nên bản chất của sự vật. Khi ta nói cái gì đó có, ta nói
trước hết đến các thuộc tính tạo nên nó. Đó là tồn tại đơn nhất, có cá tính. Đó là tồn tại
phổ biến, bao hàm những đặc tính chung nhất của sự vật. Ngoài hai đặc tính vừa nêu
Arixtốt dành nhiều quan tâm đến tồn tại thuần túy tự thân, tuyệt đối, tách khỏi vậ chất,
nghĩa là tồn tại như một bản thể siêu việt, vượt khỏi thế giới khả giác hữu hình, hay


[25]
Thượng đế. Vấn đề này được làm sáng tỏ thêm trong học thuyết về tồn tại như sự thống
nhất tiềm thể, hay khả năng (vật chất, hay thể chất) và hiện thể, hay hiện thực phi vật chất
(hình thức, hay mô thức). Cùng với hai mặt đối lập ấy Arixtốt còn đưa ra yếu tố thứ ba,
một thể nền (hypokeimenon) mà trên đó các quá trình sinh thành, biến đổi diễn ra từ sự
tương tác của các mặt đối lập. Như vậy có thể hình dung một cấu trúc gồm ba thành tố:cái
hiện hữu, cái đối lập với hiện hữu, cái mà từ đó một cái khác xuất hiện. Vật chất là khả
năng tồn tại (tiềm thể). Nguyên nhân đích thực, sơ khởi của tồn tại không phải là những
yếu tố vật chất, mà là cái đem lại một thiết định cho sự vật để sự vật là chính nó. Nhưng,
theo Arixtốt, vật chất xét trong những trường hợp khác nhau vừa là khả năng, vừa là hiện
thức. Chẳng hạn, việc xem khối đồng là “vật chất” của quả cầu chưa phải là cách xem xét
duy nhất. Có thể nói đơn giản “khối đồng là một hiện thực”, còn các phân tử đồng là “vật
chất” hợp nhất thành “khối”. Theo trình tự đó có thể truy đến kỳ cùng, đến chỗ bản thân
các hành chất cơ bản của vũ trụ (đất, nước, lửa khí) cũng là những hiện thực (mô thức)
đặc biệt, kết hợp với “thể chất”, tức vật chất đặc biệt nào đó. “Vật chất” với tính cách là
nguồn gốc tự nhiên của bốn hành chất - vật chất đầu tiên - có lẽ là hỗn mang không xác
định, thứ “khả năng” thuần tuý, tự nó chưa thể trở thành hiện thực.
+ Vật lý học và vũ trụ luận :

Quan điểm nhị nguyên vật chất - mô thức là cơ sở để xác lập học thuyết về bốn nguyên
nhân cơ bản của vận động và biến đổi trong thế giới, đó là nguyên nhân vật chất, nguyên
nhân mô thức, nguyên nhân vận động, nguyên nhân, ục đích. Arixtốt viết:”Nguyên nhân
được gọi là: 1)cái hàm chứa bên trong sự vật, cái mà từ đó nó xuất hiện, chẳng hạn đồng
là nguyên nhân của pho tượng, bạc là nguyên nhân của cái đĩa, 2) mô thức, hay khuôn
mẫu, cái xác định bản chất sự vật, 3) cái mà từ đó bắt đầu sự thay đổi hay chuyển hóa vào
trạng thái cân bằng, chẳng hạn người thầy là nguyên nhân (của học trò tốt), người cha nguyên nhân của đứa con; nói chung cái tạo ra là nguyên nhân của cái được tạo ra, cái
làm biến đổi - nguyên nhân của cái biến đổi, 4) mục đích, nghĩa là cái-vì-nó, chẳng hạn
mục đích của đi dạo là sức khỏe. Do đâu con người đi dạo? Vì muốn được khỏe mạnh.


×