VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
Vũ Thị Mai Loan
ĐẶC TRƯNG CỦA TÍNH TỪ BIỂU THỊ VỊ GIÁC
TRONG TIẾNG HÀN
- có liên hệ với tiếng Việt Chuyên ngành: Ngôn ngữ học
Mã số: 60 22 02 04
TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC
HÀ NỘI, năm 2017
Công trình được hoàn thành tại: Học viện khoa học xã hội
Người hướng dẫn khoa học: TS.Lã Thị Thanh Mai
Phản biện 1: ........................................:.....................................................................................................................
Phản biện 2: ..............................................................................................................................................................
Luận văn sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận văn thạc sĩ họp tại: Học viện khoa học
xã hội
hồi ................giờ..............ngày................tháng ............. năm..............
Có thể tìm hiểu luận văn tại: Thư viện Học viện khoa học xã hội.
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong cuốn Sinh lý học của vị giác(1825), nhà triết học người Pháp Jean
Anthelme Brillat-Savarin, cũng là một người rất sành ăn, đã viết: “Hãy cho tôi biết
anh ăn gì, tôi sẽ cho biết anh là ai.” Với quan niệm này, có thể thấy chỉ qua một món
ăn mà đối phương chọn, ta cũng có thể đoán biết được phần nào đó về con người của
đối phương. Cũng giống như vậy, thông qua văn hóa ẩm thực đặc trưng, ta có thể
nắm bắt được cả lịch sử, văn hóa của một cộng đồng. Ẩm thực phản ánh một phần
văn hóa của một cộng đồng; Và chúng ta sử dụng ngôn ngữ để diễn đạt văn hóa đó.
Có thể nói, dòng chảy văn hóa ấy được phản ánh rõ nét trong đời sống ngôn ngữ của
nhân loại, mà tính từ vị giác diễn đạt cảm nhận về hương vị món ăn chính là yếu tố
liên quan mật thiết. Vị giác diễn tả cảm giác mang tính sinh lý của con người, đồng
thời cũng phán ánh cả tình cảm, tâm lý.
So với các từ vựng thông thường khác, tính từ biểu thị vị giác mang đặc trưng
ý nghĩa từ vựng và cấu tạo hình thái tương đối phức tạp. Đặc biệt là trong tiếng Hàn,
do hiện tượng đối lập âm vị, vị trí phụ tố, sự khác biệt về cấu trúc cú pháp, hiện
tượng thay đổi cảm giác giữa các giác quan…dẫn đến sự khác biệt về ý nghĩa cũng
trở nên hết sức đa dạng và phức tạp. Tính từ vị giác cũng có mối liên hệ mật thiết với
ngôn ngữ đời sống thường ngày và phản ánh đặc trưng ngôn ngữ riêng của một dân
tộc.
Qua cách sử dụng tính từ biểu thị vị giác trong tiếng Hàn, có thể thấy hiện
tượng chuyển nghĩa rất phong phú, trong đó lại có những trường hợp cách diễn đạt
trong tiếng Hàn khác với trong tiếng Việt. Điều này làm cho đại đa số người Việt học
tiếng Hàn đều có xu hướng liên tưởng đến hiện tượng xuất hiện trong tiếng Việt để
hiểu tiếng Hàn do hiện tượng chuyển di tiêu cực từ tiếng mẹ đẻ.
So với các lĩnh vực khác của ngôn ngữ như ngữ pháp và ngữ âm thì từ vựng có
tính linh hoạt cao, mang tính chủ quan hơn, phụ thuộc vào văn cảnh, bối cảnh giao
tiếp. Chính vì vậy mà những nghiên cứu một cách hệ thống về từ vựng bắt đầu muộn
hơn và chưa đạt được nhiều thành tựu như các nghiên cứu trong lĩnh vực khác của
ngôn ngữ. Tuy nhiên, từ nửa đầu thế kỷ 20, các nghiên cứu hệ thống hóa cấu tạo của
từ vựng, mà chủ yếu là những nghiên cứu làm rõ đặc trưng và mối quan hệ tương hỗ
giữa các từ vựng, bắt đầu nở rộ. Mặc dù có một vị trí không thể thiếu trong hệ thống
từ vựng cơ bản nhưng nhóm từ chỉ cảm giác nói chung, cũng như tính từ biểu thị vị
giác nói riêng vẫn chưa có công trình nào đi sâu tìm hiểu, chỉ ra nét giống và khác
nhau của chúng trong tiếng Việt và tiếng Hàn.
Chính vì những lý do nêu trên, chúng tôi đã lựa chọn đề tài: “Đặc trưng của
tính từ biểu thị vị giác trong tiếng Hàn (có liên hệ với tiếng Việt)” làm đề tài luận văn
thạc sĩ của mình. Chúng tôi sẽ tiến hành nghiên cứu về đặc trưng của tính từ biểu thị
vị giác trong tiếng Hàn một cách hệ thống, toàn diện và sâu sắc hơn nhằm làm sáng
tỏ đặc trưng của nhóm từ này. Đồng thời, liên hệ với tính từ chỉ vị giác trong tiếng
1
Việt để làm nổi bật những điểm giống nhau và khác nhau của tính từ chỉ vị giác trong
tiếng Hàn và tiếng Việt.
Chúng tôi hi vọng kết quả nghiên cứu của luận án có thể giúp ích cho việc dạy
và học tiếng Hàn cũng như tiếng Việt với tư cách như một ngoại ngữ, đồng thời phục
vụ cho việc dịch thuật tiếng Hàn sang tiếng Việt và ngược lại.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Các nghiên cứu về tính từ biểu thị vị giác trong tiếng Hàn cho đến nay đã đạt
được khá nhiều thành tựu. Đặc biệt là những nghiên cứu trên phương diện quốc ngữ
của các nhà ngôn ngữ học Hàn Quốc và các nghiên cứu mang tính so sánh đối chiếu
liên quan đến tính từ biểu thị vị giác trong giới ngôn ngữ Hàn Quốc học. Có thể chia
những nghiên cứu về tính từ biểu thị vị giác trong tiếng Hàn ra làm hai mảng lớn:
hình thái và ý nghĩa. Trong đó, đặc biệt là những nghiên cứu về mặt ý nghĩa có phần
sôi động hơn.
Nghiên cứu hình thái cấu tạo của tính từ biểu thị vị giác chủ yếu tập trung vào
quá trình hình thành từ vựng. Bên cạnh đó, các nghiên cứu về mặt ý nghĩa của tính từ
biểu thị vị giác trong tiếng Hàn chủ yếu phân tích ý nghĩa mở rộng hay nghĩa chuyển
của tính từ vị giác qua các ví dụ cụ thể. Những năm trở lại đây, các nghiên cứu so
sánh đối chiếu tính từ biểu thị vị giác trong tiếng Hàn với ngôn ngữ khác cũng rất
phát triển. Đầu tiên, phải kể đến các nghiên cứu so sánh với tiếng Trung, tiếp sau là
tiếng Nhật, Anh, Đức… Các nghiên cứu liên quan đến tính từ cảm giác tiếng Hàn
như là một ngoại ngữ, có sự liên hệ với ngôn ngữ mẹ đẻ của người học vẫn còn khá ít.
Đặc biệt, đến nay vẫn chưa có nghiên cứu nào về tính từ biểu thị vị giác trong tiếng
Hàn có sự liên hệ, đối chiếu với tiếng Việt.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu chính của luận văn là giới thiệu và phân tích bức tranh
toàn cảnh về tính từ chỉ vị giác trong tiếng Hàn. Trên cơ sở đó, đối chiếu, chỉ ra
những nét tương đồng và khác biệt về ngôn ngữ, văn hóa, tư duy giữa người Hàn và
người Việt được thể hiện qua nghĩa chuyển của tính từ chỉ vị giác, nhằm phục vụ cho
việc học tập, giảng dạy, dịch thuật giữa 2 ngôn ngữ cho đạt hiệu quả cao nhất.
Nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể của luận văn như sau:
- Hệ thống hóa những vấn đề lí luận làm cơ sở nghiên cứu.
- Phân loại các tính từ chỉ vị giác trong tiếng Hàn.
- Phân tích và đối chiếu các tính từ chỉ vị giác trong tiếng Hàn và tiếng Việt để
chi ra những điểm tương đồng và khác biệt.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu chính của luận văn là hình thức cấu tạo và ý nghĩa của 5
tính từ chỉ vị giác cơ bản trong tiếng Hàn: ngọt, chua, mặn, đắng, cay, trong sự
đối chiếu với các tính từ chỉ vị giác tương ứng trong tiếng Việt.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn:
Chúng tôi chỉ nghiên cứu các tính từ biểu thị vị giác theo ngôn ngữ chuẩn,
thông dụng trong giao tiếp tiếng Hàn và tiếng Việt. Trong tiếng Hàn, chúng tôi
nghiên cứu theo ngôn ngữ chuẩn, đó là tiếng Hàn Quốc tiêu chuẩn hay còn gọi
2
là tiếng Hàn Quốc toàn dân, và chúng tôi chỉ nghiên cứu tiếng Hàn Quốc hiện
đại. Còn đối với tiếng Việt, chúng tôi nghiên cứu theo ngôn ngữ chuẩn, đó là
tiếng Việt toàn dân và cũng chỉ nghiên cứu về tiếng Việt hiện đại.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp chủ yếu sau:
- Phương pháp khái quát hóa – hệ thống hóa vấn đề
- Phương pháp thống kê – phân loại
- Phương pháp phân tích thành tố nghĩa
- Phương pháp so sánh – đối chiếu
- Phương pháp nghiên cứu trường hợp
6. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn của luận văn
Về mặt lí luận, luận văn góp phần cụ thể hóa bức tranh từ vựng của tiếng Hàn
nói chung, hệ thống hóa đặc trưng của tính từ biểu thị vị giác trong tiếng Hàn nói
riêng. Đề tài cũng lí giải những hiện tượng khá phức tạp nhưng cũng hết sức thú vị về
mặt ngữ nghĩa (như hiện tượng chuyển nghĩa) tồn tại trong nhóm từ này.
Về mặt thực tiễn, luận văn góp phần làm rõ đặc điểm của tính từ biểu thị vị
giác trong tiếng Hàn, từ đó có thể phân loại và sử dụng chúng chính xác hơn. Kết quả
nghiên cứu của đề tài có thể áp dụng cho việc dạy và học tiếng Hàn Quốc trong nhà
trường cũng như mục đích giao tiếp hiệu quả hơn trong đời sống với đối tượng người
Việt học tiếng Hàn và cả người Hàn học tiếng Việt (mảng từ vựng).
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, luận văn có cấu trúc gồm 3
chương:
Chương 1: Những vấn đề lý thuyết chung
Chương 2: Đặc trưng hình thái của tính từ vị giác trong tiếng Hàn (có liên hệ
với tiếng Việt)
Chương 3: Đặc trưng ý nghĩa của tính từ vị giác trong tiếng Hàn (có liên hệ
với tiếng Việt)
3
Chương 1
Những vấn đề về lý thuyết chung
1.1.
Khái niệm tính từ vị giác
Trong các nghiên cứu đi trước, khái niệm về tính từ biểu thị vị giác mà mỗi
học giả đưa ra lại có phần nào sự khác biệt. Tuy nhiên, có thể vị giác ra hai phương
diện để giải thích: thứ nhất là phương diện sinh học, thứ hai là phương diện ngôn ngữ
học xã hội. Trên phương diện sinh học thì vị giác là một trong các giác quan của con
người, những vật thể có vị được cảm nhận thấy qua sự tác động vào các cơ quan cảm
giác. Con người cảm nhận vị qua cơ quan cảm giác được gọi là “chồi vị giác(taste
bud)” có trên bề mặt của lưỡi và vòm mềm [57]. Theo đó, có thể chia vị giác làm 5
loại cơ bản. Đó là vị cảm nhận qua cảm giác kích thích của lưỡi: “ngọt, đắng, chua,
mặn”, và vị có thể cảm nhận qua sự kích thích điểm đau của lưỡi: “cay”. Xét trên
phương diện ngôn ngữ học xã hội, trong tiếng Hàn ngoài 5 loại vị cảm nhận trong
miệng khi nhai thức ăn kể trên, còn xuất hiện cả các vị với nghĩa đánh giá hay cảm
nhận về trạng thái tâm lý, đối tượng đặc biệt như “giọng nói ngọt ngào(달콤한
목소리)[dalkomhan moksori]”….
Tóm lại, tính từ chỉ vị giác là các tính từ chỉ vị tồn tại thực tế một cách khách
quan trong thế giới tự nhiên và vị trừu tượng được hình thành do ý thức chủ quan của
con người. Ở nghiên cứu này, chúng tôi gọi các đơn vị từ vựng diễn tả vị giác là “tính
từ vị giác”.
1.2. Phân loại tính từ vị giác trong tiếng Hàn
Về việc phân loại các tính từ chỉ vị giác, chúng tôi đồng tình với quan điểm của
tác giả Jung Jae Yun(1989). Đó là phân loại các tính từ chỉ vị giác trong tiếng Hàn
thành 3 loại: (1) Các tính từ chỉ vị ngọt, vị chua, vị đắng, vị mặn (kích thích chồi vị
giác); (2) Các tính từ chỉ vị chát (tác động tương hỗ giữa các chồi vị giác); (3) Các
tính từ chỉ vị cay (kích thích điểm đau của lưỡi). Tuy nhiên, ở luận văn này, chúng tôi
chỉ nghiên cứu các tính từ chỉ vị ngọt, vị chua, vị đắng, vị mặn và vị cay. Đây là 5 vị
được dùng phổ biến nhất trong đời sống mà trong căn bếp của mỗi gia đình đều có đủ
các loại gia vị đặc trưng cho 5 vị này như: mặn – muối, ngọt – đường, chua – giấm,
đắng – kẹo đắng, cay - ớt. Chính vì thế mà các tính từ diễn tả 5 vị này cũng thường
được nghe thấy trong cuộc sống hơn.
1.3. Đặc điểm cấu tạo từ của tiếng Hàn và tiếng Việt
1.3.1. Phương thức cấu tạo từ
Phương thức cấu tạo từ trong tiếng Việt có phương thức ghép các yếu tố
(hình vị) gốc từ, hay còn gọi là phương thức hợp thành (ví dụ: đường sắt, sân
bay,…) và phương thức láy - lặp lại toàn bộ một phần của từ, hình vị ban đầu
trong một số lần nào đó theo quy tắc cho phép, để cho một từ mới (ví dụ: co ro,
lúng túng, giỏi giang,…).
Theo phương thức cấu tạo từ trong tiếng Hàn, có thể chia các từ ra làm
hai loại: từ đơn và từ phức. Từ đơn là từ được tạo thành bởi một hình vị, còn từ
phức là từ được tạo thành bởi hai hình vị trở lên. Trong đó, tùy thuộc vào hình
vị mà ta có thể chia từ phức ra thành từ phái sinh và từ ghép. Từ phái sinh là từ
4
được tạo ra bằng cách thêm phụ tố vào căn tố, còn từ ghép là từ được tạo ra
bằng cách kết hợp căn tố với căn tố.
Theo nghiên cứu của học giả Kim Min Su(1995), từ phái sinh có “từ
phái sinh từ bên trong” biến đổi căn tố từ bên trong thông qua việc thay đổi âm
vị, và có “từ phái sinh từ bên ngoài” tùy theo vị trí của phụ tố, kết hợp căn tố
với tiền tố hay phụ tố. Từ phức cũng có từ được hình thành do kết hợp với căn
tố khác và từ được hình thành do lặp lại căn tố. Ở luận văn này, chúng tôi dựa
theo quan điểm của học giả Kim Min Su(1995) làm cơ sở để phân tích hình
thức cấu tạo của tính từ biểu thị vị giác trong tiếng Hàn.
1.3.2. Chức năng ngữ pháp và khả năng kết hợp
Tính từ trong tiếng Hàn đảm nhiệm vai trò làm định ngữ bổ nghĩa cho
các danh từ hoặc làm vị ngữ trong câu. Ngoài ra, chúng còn có thể được sử
dụng như một trạng từ để bổ nghĩa cho động từ. Chính vì vậy, ngoài khả năng
kết hợp giữa căn tố của các tính từ đơn biểu thị vị giác, giữa căn tố của tính từ
đơn biểu thị vị giác với các thành tố không biểu thị vị giác hoặc với các phụ tố
(tiền tố hoặc hậu tố) để tạo ra một số lượng lớn các tính từ, danh từ, động từ,
phó từ biểu thị vị, được khu biệt bởi những sắc thái rất đa dạng, có phạm vi
biểu vật phong phú, các tính từ chỉ vị giác trong tiếng Hàn còn có thể kết hợp
với các từ loại khác, tạo cụm từ một cách linh hoạt, đa dạng.
Nếu trong tiếng Việt, cụm tính từ (còn gọi là tính ngữ) là loại cụm chính
phụ có tính từ làm thành tố trung tâm và một hoặcmột số thành tố phụ (đứng
trước có phó từ, đứng sau có phó từ, thực từ hoặc một số kết cấu giới ngữ). Thì
trong tiếng Hàn, tính từ nói chung và tính từ chỉ vị giác nói riêng chỉ làm thành
tố trung tâm trong cụm từ khi nó đóng vai trò làm vị ngữ.
Ngoài ra, trong tiếng Hàn, tính từ nói chung và tính từ chỉ vị giác nói
riêng còn đóng vai trò là thành tố phụ khi tham gia cấu tạo cụm danh từ hoặc
cụm động từ. Khi đó, xét về mặt cấu tạo, tính từ luôn xuất hiện là thành phần
phụ trước, có chức năng làm rõ hơn tính chất, đặc trưng của danh từ hoặc động
từ trung tâm.
1.4. Khái niệm nghĩa của từ và hiện tượng chuyển nghĩa của từ
1.4.1. Nghĩa của từ
Nghĩa của từ là hệ thống các nét nghĩa được tổ chức theo một cấu trúc
nhất định. Nghĩa của từ được Hoàng Phê [19] kết luận như sau:
“Nghĩa của từ, nói chung:
a. Là một tập hợp những nét nghĩa có quan hệ qui định lẫn nhau;
b. Giá trị của các nét nghĩa không như nhau (giữa các nét nghĩa có quan hệ cấp
bậc), biểu hiện ở khả năng tham gia khác nhau vào việc thực hiện chức năng
thông báo;
c. Các nét nghĩa có tính độc lập tương đối, biểu hiện ở khả năng độc lập tổ hợp
và tác động qua lại với những nét nghĩa của những từ khác khi từ tổ hợp với
nhau.”
5
Nguyễn Thiện Giáp (1999) cũng đã chỉ ra rằng, từ có quan hệ rất đa dạng với
các hiện tượng khác cho nên nghĩa của từ cũng là một đối tượng phức tạp, bao
gồm một số thành tố đơn giản hơn. Người ta thường nói đến những thành tố
sau:
1. Nghĩa sở chỉ (referentive meaning). Đó là quan hệ của từ với đối tượng mà
từ biểu thị. Đối tượng mà từ biểu thị không phải chỉ là các sự vật mà còn là quá
trình, tính chất hoặc hiện tượng thực tế nào đó. Những sự vật, quá trình, tính
chất hoặc hiện tượng mà từ biểu thị được gọi là cái sở chỉ (referent) của từ.
Mối quan hệ của từ với cái sở chỉ được gọi là nghĩa sở chỉ.
2. Nghĩa sở biểu (significative meaning). Đó là quan hệ của từ với biểu tượng,
khái niệm. Khái niệm hoặc biểu tượng có quan hệ với từ được gọi là cái sở
biểu. Cái sở biểu và cái sở chỉ có quan hệ chặt chẽ với nhau, cái sở biểu chính
là sự phản ánh của cái sở chỉ trong nhận thức của con người. Tuy nhiên, giữa
cái sở biểu và cái sở chỉ có sự khác nhau rất lớn. Mỗi cái sở biểu có thể ứng
với nhiều cái sở chỉ khác nhau, tức là nó có quan hệ với cả một lớp hạng đối
tượng trong thực tế.
3. Nghĩa sở dụng (pragmatical meaning). Đó là quan hệ của từ với người sử
dụng (người nói, người viết, người nghe, người đọc). Người sử dụng ngôn ngữ
hoàn toàn không thờ ơ đối với những từ ngữ được dùng. Họ có thể bộc lộ thái
độ chủ quan của mình đối với từ ngữ và qua đó tới cái sở biểu và sở chỉ của từ
ngữ.
4. Nghĩa kết cấu (structural meaning). Mỗi từ đều nằm trong một hệ thống từ
vựng, có quan hệ đa dạng và phức tạp với những từ khác. Quan hệ giữa từ và
những từ khác trong hệ thống được gọi là nghĩa kết cấu của từ [9, tr. 125-133].
1.4.2. Hiện tượng chuyển nghĩa của từ
Hiện tượng chuyển nghĩa là hiện tượng gắn liền với hiện tượng đa nghĩa,
được xem là một trong những quy luật có tính phổ quát của các ngôn ngữ, do
nhu cầu biểu đạt một khối lượng phong phú các sự vật hiện tượng trong thế
giới khách quan hoặc các khái niệm trừu tượng, làm gọn nhẹ hệ thống từ vựng
của một ngôn ngữ. Chuyển nghĩa là cách biến đổi từ nghĩa ban đầu (nghĩa gốc,
nghĩa cơ sở) sang nghĩa mới (nghĩa chuyển, nghĩa phái sinh) dựa trên phương
thức chuyển nghĩa ẩn dụ và phương thức chuyển nghĩa hoán dụ.
Nghĩa gốc (nghĩa cơ sở) được hiểu là nghĩa đầu tiên hoặc nghĩa có trước,
trên cơ sở nghĩa đó mà người ta xây dựng nên nghĩa khác. Nghĩa gốc thường là
nghĩa không giải thích dược lí do; và có thể được nhận ra một cách độc lập
không cần thông qua nghĩa khác [3, tr. 173].
Có ba quy luật chuyển nghĩa: đó là mở rộng/ thu hẹp ý nghĩa, ẩn dụ và
hoán dụ. “Mở rộng ý nghĩa là một quá trình phát triển từ cái riêng đến cái
chung, từ cái cụ thể đến cái trừu tượng. Ý nghĩa được hình thành nhờ quá trình
này gọi là nghĩa rộng. Bản thân từ bắt đầu biểu thị khái niệm rộng, trong khi đó
không thay đổi nghĩa cơ sở của mình. “Thu hẹp nghĩa là quá trình ngược lại.
Phạm vi ý nghĩa của các từ phát triển từ cái chung đến cái riêng, từ cái trừu
6
tượng đến cái cụ thể. Ẩn dụ được các nhà nghiên cứu ở trong và ngoài nước
thống nhất coi đây là phép hay cách thức chuyển đổi tên gọi dựa trên sự so
sánh ngầm giữa hai sự vật có sự tương đồng hay giống nhau, còn hoán dụ là
phép hay cách thức chuyển đổi tên gọi giữa hai sự vật dựa trên sự tương cận
giữa chúng. [28]
Từ có thể có một hoặc nhiều nghĩa (đa nghĩa) và các nghĩa của từ nhiều
nghĩa có quan hệ với nhau, được sắp xếp theo một tổ chức, trật tự nhất định, có
tính hệ thống. Các nghĩa của từ nhiều nghĩa bao gồm nghĩa gốc và nghĩa
chuyển, trong đó, nghĩa gốc có trước, nghĩa chuyển có sau và được hình thành
dựa trên nghĩa gốc. “Để xây dựng, phát triển thêm nghĩa của từ, trong ngôn
ngữ có nhiều cách. Tuy nhiên, có hai cách quan trọng nhất thường gặp trong
các ngôn ngữ, đó chính là: chuyển nghĩa ẩn dụ (metaphor) và chuyển nghĩa
hoán dụ (metonymy).
1.5. Tiểu kết
Tính từ chỉ vị giác là các tính từ chỉ vị tồn tại thực tế một cách khách quan
trong thế giới tự nhiên và vị trừu tượng được hình thành do ý thức chủ quan của con
người. Có thể thấy, xét trên quan điểm sinh học thì có 4 loại vị giác cơ bản, nhưng xét
trên quan điểm ngôn ngữ học, có rất nhiều cách diễn đạt “vị” được sử dụng trong đời
sống hàng ngày. Mỗi học giả lại có cách tiếp cận và phân loại tính từ biểu thị vị giác
khác nhau. Nhưng đa số đều phân loại tính từ chỉ vị giác ra 4 loại cơ bản, đó là các
tính từ chỉ vị “ngọt, đắng, chua, mặn”, bên cạnh đó còn có thêm vị “cay”, “chát”, và
ngoài ra còn rất nhiều từ chỉ vị giác đa dạng khác được nghiên cứu. Ở luận văn này,
chúng tôi theo quan điểm của tác giả Jung Jae Yun(1989). Đó là phân loại các tính từ
chỉ vị giác trong tiếng Hàn thành 3 loại: (1) Các tính từ chỉ vị ngọt, vị chua, vị đắng,
vị mặn (kích thích chồi vị giác); (2) Các tính từ chỉ vị chát (tác động tương hỗ giữa
các chồi vị giác); (3) Các tính từ chỉ vị cay (kích thích điểm đau của lưỡi). Các tính từ
chỉ vị giác này không chỉ đơn thuần diễn tả vị của các món ăn, mà còn được sử dụng
để diễn tả cảm xúc, tâm lý của con người. Đây chính là hiện tượng chuyển nghĩa theo
ẩn dụ bổ sung. Chuyển từ cái cụ thể, có thể nhận biết bằng trực giác sang một khái
niệm trừu tượng. Từ biểu thị trạng thái tâm lí - tình cảm có nguồn gốc ban đầu là chỉ
cảm giác thường có ý nghĩa sâu sắc, biểu cảm hơn những từ biểu thị trạng thái tâm lí
– tình cảm đơn thuần, do có sự liên hệ với những cảm giác hết sức cụ thể và trực
quan.
7
Chương 2
Đặc trưng hình thái của tính từ biểu thị vị giác trong tiếng Hàn
(có liên hệ với tiếng Việt)
2.1. Tính từ đơn biểu thị vị giác
Phân tích hình thức cấu tạo của tính từ biểu thị vị giác tiếng Hàn, có thể thấy số
lượng từ đơn rất ít. Các từ đơn chủ yếu đóng vai trò là tính từ vị giác cơ bản, khi kết
hợp với các căn tố hay phụ tố khác, sẽ tạo ra từ phái sinh mới hoặc từ phức. Phần lớn
ở các từ đơn không xảy ra hiện tượng biến đổi âm vị , có một phần các từ đơn có hiện
tượng biến đổi nguyên âm, phụ âm như “달[dal]/덜[deol]/들[deul]”.
Xét về hình thái, từ đơn của tính từ biểu thị vị giác trong tiếng Hàn và tiếng
Việt không có sự khác biệt lớn. Tính từ biểu thị vị giác trong tiếng Hàn chủ yếu là
những từ có hình thức cố định. Sau căn tố, có thêm “다(da)”(đuôi động từ, tính từ) tạo
thành từ đơn. Còn trong tiếng Việt, thì các từ đơn đều được cấu tạo từ một âm tiết,
như: chua, cay, mặn, ngọt, đắng.
2.2. Tính từ phái sinh biểu thị vị giác
Từ phái sinh có từ phái sinh từ bên trong được hình thành qua hiện tượng biến
đổi âm vị, và từ phái sinh từ bên ngoài được tạo thành khi kết hợp căn tố với phụ tố.
Phụ tố được chia ra thành tiền tố và hậu tố, phụ thuộc vào vị trí kết hợp của chúng.
2.2.1. Từ phái sinh từ bên trong
Từ phái sinh từ bên trong được hình thành qua hiện tượng biến đổi âm vị.
Biến đổi âm vị là phương thức cấu tạo từ mà hình thái, ý nghĩa của từ sẽ có sự
khác biệt do hiện tượng biến đổi nguyên âm và biến đổi phụ âm.
(1) Biến đổi phụ âm
Hiện tượng này diễn ra như sau: phụ âm thường biến đổi thành phụ âm
căng, và phụ âm thường biến đổi thành phụ âm bật hơi, hay phụ âm căng biến
đổi thành phụ âm bật hơi. Khi phụ âm thường biến đổi thành phụ âm căng hay
phụ âm bật hơi thì sẽ cho cảm giác mạnh hơn dần, mức độ tăng dần từ phụ âm
thường < phụ âm căng < phụ âm bật hơi. Trong tiếng Hàn, có trường hợp từ
phụ âm thường biến đổi thành phụ âm căng hay phụ âm bật hơi, để làm tăng
mức độ cảm giác, nhưng không có trường hợp ngược lại từ phụ âm bật hơi biến
đổi thành phụ âm thường hay phụ âm căng để làm giảm mức độ cảm giác. Vì
vậy, hiện tượng biến đổi phụ âm được tiến hành theo hướng “phụ âm thường
phụ âm căng, và phụ âm bật hơi” [44, tr. 20].
(2) Biến đổi nguyên âm
Hệ thống nguyên âm trong tiếng Hàn gồm có nguyên âm đơn và nguyên âm
kép. Hiện tượng biến đổi nguyên âm trong tính từ biểu thị vị giác có thể được
chia làm 2 loại: biến đổi một nguyên âm và biến đổi nhiều nguyên âm. Thông
qua hình thức biến đổi âm vị, người nghe có thể đánh giá về vị giác và mức độ
của vị giác tích cực hay tiêu cực [44, tr.23].
Điểm chung của hiện tượng biến đổi phụ âm và nguyên âm đó là cùng xảy
ra sự biến đổi ở âm tiết đầu của căn tố và âm tiết đầu của phụ tố. Tuy nhiên, so
với hiện tượng biến đổi phụ âm thì hiện tượng biến đổi nguyên âm có phần đa
8
dạng hơn, khả năng tạo ra từ mới nhiều hơn. Điểm khác biệt nữa đó là hiện
tượng biến đổi phụ âm chỉ xảy ra ở một hình vị bên trong từ, còn hiện tượng
biến đổi nguyên âm xảy ra ở hai hay nhiều hình vị bên trong từ.
Khác với tiếng Hàn, ngôn ngữ chắp dính, sử dụng rộng rãi các phụ tố để
cấu tạo từ, tiếng Việt là ngôn ngữ đơn lập, đặc điểm cấu tạo từ của tiếng Việt
không có sự phân chia thành căn tố và phụ tố. Từ trong ngôn ngữ đơn lập do
căn tố hoặc sự kết hợp giữa các căn tố tạo thành. Xét về mặt hình thái từ, từ
không biến đổi hình thái [8, tr. 298-305]. Vì vậy mà trong tiếng Việt không có
hiện tượng biến đổi âm vị kiểu như trong tiếng Hàn để biểu hiện sự thay đổi
mức độ của vị giác, thay vào đó là sử dụng dạng láy của từ: ngọt ngòn ngọt,
chua chua chua, đắng đăng đắng, cay cay cay...
2.2.2. Từ phái sinh từ bên ngoài
(1) Tiền tố + căn tố
Trong các tính từ phái sinh biểu thị vị giác của tiếng Hàn, chỉ có từ
“검쓰다[geomsseuda]” là gắn với tiền tố. Căn tố “쓰다[sseuda](đắng)” kết hợp
với tiền tố “검[geom]-” tạo thành. “검[geom]-” có nghĩa là “rất, quá”. Đại từ
điển tiếng Hàn không giải thích “검[geom]-” là tiền tố, nhưng Từ điển tiếng
Hàn - Đại học Koryo lại xếp “검[geom]-” là tiền tố. “검쓰다[geomsseuda]” có
2 nghĩa: ① Vị đắng cực kỳ mạnh đến mức khó chịu, ② Không vừa ý, khó
chịu và không vui. Tiền tố được thêm vào căn tố để làm tăng thêm ý nghĩa của
căn tố, nhưng không làm thay đổi tính chất của từ loại.
(2) Căn tố + hậu tố
Tùy thuộc vào việc căn tố kết hợp với hậu tố nào mà mức độ vị sẽ mạnh lên
hay giảm đi. Có 33 hậu tố kết hợp với 5 tính từ vị giác cơ bản: ngọt, chua,
đắng, mặn, cay. Trong đó có 10 hậu tố làm tăng mức độ của vị và 23 hậu tố
làm giảm mức độ của vị. Đặc biệt, vị “đắng(쓰다)[sseuda]” và vị
“mặn(짜다)[jjada]” không kết hợp với hậu tố làm tăng mức độ của vị. Trong
khi vị “ngọt (달다)[dalda]” và vị “chua (시다)[sida]” lại kết hợp với rất nhiều
hậu tố.
Trong số các hậu tố, tần suất sử dụng của hậu tố “-콤하다[komhada]”, “큼하다[keumhada]” nhiều hơn các hậu tố khác. Chúng có thể kết hợp với căn tố
biểu hiện vị giác “chua”, “ngọt”, “cay”. Ngược lại, hậu tố “ㅂ쓸하다[psseulhada]”,
“-ㅂ쓰레하다
[psseurehada]”,
“ㅂ쓰름하다[psseureumhada]”, “-ㅂ싸래하다 [pssaraehada]” lại chỉ xuất hiện ở
tính từ biểu hiện vị giác “đắng”. Các hậu tố kết hợp với căn tố biểu thị vị giác
“mặn” cũng chỉ tồn tại ở các tính từ biểu thị vị giác “mặn” chứ không tồn tại ở
các tính từ vị giác khác.
Còn trong tiếng Việt, như đã đề cập ở trên, tiếng Việt là ngôn ngữ đơn lập,
đặc điểm cấu tạo từ của tiếng Việt không có sự phân chia thành căn tố và phụ
tố. Vì vậy không có hiện tượng kết hợp với phụ tố để làm thay đổi mức độ của
vị giác. Quan hệ ngữ pháp và ý nghĩa ngữ pháp được biểu hiện chủ yếu bằng
hư từ và trật tự từ. Tính từ biểu thị vị giác trong tiếng Việt có thể kết hợp với
9
các phó từ chỉ mức độ trên thang độ như: “rất, hơi, quá, lắm, cực kỳ…”, dùng
hình thức láy từ để biểu hiện mức độ tăng hay giảm của vị.
2.3. Tính từ ghép biểu thị vị giác
Từ ghép là từ được tạo thành do sự kết hợp của 2 căn tố trở lên. Từ ghép diễn
tả vị giác trong tiếng Hàn không chỉ có nhiều từ phái sinh mà còn tồn tại số lượng khá
lớn các từ ghép. Tính từ ghép chỉ vị giác trong tiếng Hàn được chia làm 2 loại: Loại
trùng lặp do ghép lặp cùng căn tố, và loại kết hợp do ghép với căn tố khác. Đây chính
là hiện tượng lặp căn tố.
2.3.1. Tính từ vị giác loại trùng lặp
(1) (Căn tố + phụ tố) + (căn tố + phụ tố)
(2) Căn tố + “디[di]” + căn tố
2.3.2. Tính từ ghép loại kết hợp với gốc từ khác
(1) Căn tố 1 + căn tố 2
(2) (Căn tố 1 + phụ tố) + (Căn tố 2 + phụ tố)
(3) (Căn tố 1 + phụ tố) + (căn tố 2 + căn tố 2)
Tính từ biểu thị vị giác trong tiếng Việt cũng tồn tại hình thức lặp, kết
hợp với hư từ để tăng, giảm mức độ của vị và diễn tả phong phú vị giác.
2.4. Tiểu kết
Theo phương thức cấu tạo từ trong tiếng Hàn, tính từ biểu thị vi giác được chia
ra từ đơn và từ phức. Trong từ đơn, có từ phái sinh và từ ghép. Trong từ phái sinh lại
có từ phái sinh từ bên trong, được hình thành qua hiện tượng biến đổi âm vị, và tính
từ phái sinh từ bên ngoài được hình thành do kết hợp với tiền tố hoặc hậu tố. Từ ghép
được hình thành so sự lặp lại cùng một căn tố hoặc kết hợp với căn tố khác. Phân tích
hình thức cấu tạo của tính từ biểu thị vị giác tiếng Hàn, có thể thấy số lượng từ đơn
rất ít. Các từ đơn chủ yếu đóng vai trò của tính từ chỉ vị giác cơ bản, khi kết hợp với
các căn tố hay phụ tố khác, sẽ tạo ra từ phái sinh mới hoặc từ phức. Phần lớn ở các từ
đơn không xảy ra hiện tượng biến đổi âm vị. Hiện tượng biến đổi phụ âm và nguyên
âm thường xảy ra ở âm tiết đầu của căn tố hoặc âm tiết đầu của phụ tố. So với hiện
tượng biến đổi phụ âm, hiện tượng biến đổi nguyên âm có phần đa dạng hơn. Hiện
tượng biến đổi phụ âm chỉ xảy ra ở một hình vị bên trong từ, hiện tượng biến đổi
nguyên âm xảy ra ở hai hay nhiều hình vị bên trong từ.
Số lượng các tính từ đơn biểu thị vị giác trong tiếng Hàn không nhiều, khi kết
hợp với các căn tố hay phụ tố khác, sẽ tạo ra tính từ phái sinh mới hoặc tính từ phức.
Từ phức biểu thị vị giác trong tiếng Hàn khá phức tạp và phong phú. Phương thức
cấu tạo từ ở cả 2 ngôn ngữ đều có phương phức lặp và phương thức ghép. Tuy nhiên
do khác biệt về loại hình ngôn ngữ, mang đặc trưng của ngôn ngữ chắp dính, tiếng
Hàn có khả năng kết hợp với các phụ tố, tạo nên sự đa dạng, chi tiết trong cách diễn
tả vị giác hơn tiếng Việt. Tiếng Việt là ngôn ngữ đơn lập. Đặc điểm cấu tạo từ của
tiếng Việt không có sự phân chia thành căn tố và phụ tố. Từ trong ngôn ngữ đơn lập
do hình vị tự do hoặc sự kết hợp giữa các hình vị tạo thành. Vì vậy, trong tiếng Việt
không có hiện tượng biến đổi âm vị để diễn đạt sự thay đổi mức độ của vị giác.
10
Chương 3
Đặc trưng ý nghĩa của tính từ biểu thị vị giác trong tiếng Hàn
(có liên hệ với tiếng Việt)
3.1. Nghĩa gốc của 5 tính từ chỉ vị giác cơ bản trong tiếng Hàn
Khi diễn tả “vị”, tính từ “달다[dalda] (ngọt)” chủ yếu được sử dụng với nghĩa
tích cực. Tất nhiên, nó cũng mang cả nghĩa tiêu cực khi được sử dụng để diễn tả “vị”,
tùy thuộc vào sở thích của mỗi người.
Tính từ “시다[sida] (chua)” được sử dụng với cả ý nghĩa tích cực (độ chua ít)
và tiêu cực (độ chua nhiều) khi diễn tả “vị”.
Tính từ “쓰다[sseuda] (đắng) chỉ được sử dụng với ý nghĩa tiêu cực.
Tính từ “맵다[maepda] (cay)” được sử dụng với cả nghĩa tích cực và tiêu cực
khi diễn tả “vị cay”.
Tính từ “짜다[jjada] (mặn)” chỉ được sử dụng với ý nghĩa tiêu cực.
3.2. Nghĩa gốc
3.2.1. Tính từ đơn biểu thị vị giác
Cơ quan cảm nhận vị giác của con người là chồi vị giác được phân bố
khắp trên bề mặt lưỡi. Có 5 vị giác cơ bản: ngọt, chua, đắng, mặn, cay.
Căn cứ vào ý nghĩa gốc của các tính từ biểu thị vị giác trong tiếng Hàn
và tiếng Việt, có thể thấy có những nghĩa tương đồng và cũng có những điểm
khác biệt.
Trước tiên, về điểm tương đồng có thể thấy ở nghĩa gốc của tính từ biểu
thị vị “ngọt” và “mặn” giống nhau, thậm chí giống cả về thực phẩm cụ thể
được sử dụng làm chuẩn so sánh để diễn đạt vị. (달다[dalda] / Ngọt: vị giống
như vị của đường, mật).
Thứ hai là điểm khác biệt do sự khác nhau về văn hóa, địa lý... Nghĩa
gốc của tính từ biểu thị vị “chua”, “đắng”, “cay” được giải thích có đôi chút
khác biệt giữa hai ngôn ngữ về sử dụng vật chuẩn so sánh liên quan thực phẩm
hàng ngày của mỗi dân tộc. Vị “chua” trong tiếng Hàn được giải thích với
nghĩa “giống vị giấm hay quả mơ tây ương”, nhưng trong từ điển tiếng Việt lại
giải thích với nghĩa “có vị như vị của chanh, giấm”, giấm và chanh là hai loại
gia vị thường dùng trong ẩm thực Việt. Còn vị “đắng” trong tiếng Hàn được
giải thích là “vị cảm nhận bằng lưỡi, giống vị của các loại như thuốc đông y,
chi khổ diệp, rau diếp đắng lá răng, ích mẫu”, Từ điển tiếng Việt lại giải thích
là “có vị làm khó chịu như vị của bồ hòn, mật cá.”. Vị “cay” trong tiếng Hàn
được giải thích là “giống vị ớt hay mù tạt”, trong tiếng Việt được giải thích là
“có vị như vị ớt.…”.
3.2.2. Tính từ phái sinh biểu thị vị giác
(1) Tiền tố + căn tố
(2) Căn tố + hậu tố
3.2.3. Tính từ ghép biểu thị vị giác
11
Từ ghép được tạo thành từ 2 phương thức: lặp lại căn tố và kết hợp với
căn tố khác. Phương thức lặp lại căn tố để nhấn mạnh, làm tăng mức độ của vị.
Còn phương thức kết hợp với căn tố khác để tạo nên vị hỗn hợp, làm phong
phú thêm vị giác.
3.3. Hiện tượng chuyển nghĩa của tính từ vị giác trong tiếng Hàn và tiếng Việt
Nghĩa của từ được sử dụng trong đời sống thường ngày không phải luôn cố
định, mà tùy theo văn cảnh và tình hình phát triển mà ý nghĩa đó có thể thay đổi, và
từ cũng có thể được phát triển thêm ý nghĩa mới theo quy luật chuyển nghĩa của từ.
3.3.1. Tính từ diễn tả vị ngọt
Có thể phân loại các tính từ biểu thị vị ngọt trong tiếng Hàn gồm các
tính từ biểu thị vị cho cảm giác tích cực và các tính từ biểu thị vị cho cảm giác
tiêu cực. Các từ chỉ vị cho cảm giác tích cực là: 달콤하다 [dalkomhada],
달짝지근하다 [daljjakjigeunhada], 달착지근하다 [dalchakjigeunhada], 다디달다
[dadidalda]. Các từ chỉ vị cho cảm giác tiêu cực là: 들큼하다 [deulkeumhada],
들쩍지근하다 [deuljjeokjigeunhada], 들척지근하다 [deulcheokjigeunhada].
Riêng tính từ 달다[dalda] chủ yếu mang nghĩa tích cực. Tuy nhiên, khi được sử
dụng để diễn tả vị giác, 달다[dalda] cũng có thể mang nghĩa tiêu cực, phụ thuộc
vào vị yêu thích của mỗi người. Ví dụ: 너무 달아서 못 먹어요. (Ngọt quá nên
không ăn nổi).
Nghĩa chuyển của tính từ diễn tả vị ngọt trong tiếng Việt có khá nhiều
điểm tương đồng với tính từ diễn tả vị ngọt trong tiếng Hàn, như cùng diễn tả
giọng nói nhẹ nhàng, dễ nghe, hay cùng gây cảm giác dễ chịu. Đây là hiện
tượng chuyển nghĩa theo cách chuyển đổi cảm giác hay còn gọi là ẩn dụ bổ
sung: vị giác thính giác ấn tượng cảm giác tâm lí.
① 그녀의 목소리가 무척이나 달콤해서 나는 정싞이 아득해졌다.
(Giọng cô ấy rất đỗi ngọt ngào, khiến cho tôi ngẩn ngơ)
② Giọng hát của anh ấy thật ngọt ngào.
Tính từ “ngọt” trong các ví dụ ①, ② được sử dụng để miêu tả giọng nói.
Ngoài ra, tính từ diễn tả vị ngọt còn được dùng để miêu tả tiếng cười, giọng
hát...khi kết hợp với các danh từ chỉ âm thanh mang đặc trưng của thính giác.
Qua cách diễn đạt này, có thể diễn tả được vẻ đẹp và sự dịu êm của âm thanh,
cũng như truyền đạt được cảm giác thích thú của người nghe. Ở đây, tính từ
diễn tả vị ngọt trong tiếng Hàn và tiếng Việt đã có hiện tượng chuyển nghĩa từ
tính từ chỉ vị giác sang từ biểu thị thính giác.
③ 서로를 쳐다보는 눈빛이 달콤하다.
(Ánh mắt họ nhìn nhau thật ngọt ngào).
④ Ánh mắt ngọt ngào.
Ở ví dụ ③ và ④, tính từ diễn tả vị “ngọt” kết hợp với danh từ như “ánh
mắt”, “cái nhìn” – danh từ đặc trưng của thị giác, sẽ xảy ra hiện tượng chuyển
nghĩa từ tính từ chỉ vị giác sang từ biểu thị thị giác, và thường được sử dụng để
diễn đạt ý “có cảm tình”.
12
⑤ 집안 가득 달콤한 남새가 난다.
(Mùi hương ngọt ngào lan khắp nhà)
⑥ Nước hoa này có mùi ngọt quá.
Ở ví dụ ⑤ và ⑥, tính từ diễn tả vị ngọt kết hợp với danh từ “mùi” hay
“hương”- danh từ đặc trưng của khứu giác, đã chuyển nghĩa từ tính từ chỉ vị
giác sang từ biểu thị khứu giác. Hiện tượng này xuất hiện ở cả tiếng Hàn và
tiếng Việt.
⑦달콤한 입맞춤 (Nụ hôn ngọt ngào)
⑧ Những nụ hôn ngọt ngào
Ở ví dụ ⑦ và ⑧, tính từ “ngọt” được sử dụng để thể hiện tình cảm yêu
quý, có cảm tình. Tính từ diễn tả vị “ngọt” kết hợp với danh từ liên quan đến
xúc giác, dẫn đến hiện tượng chuyển nghĩa từ tính từ chỉ vị giác sang từ biểu
thị xúc giác. 3
3.3.2. Tính từ diễn tả vị chua
Thực phẩm lên men như kim chi là một phần không thể thiếu trong cuộc
sống thường ngày của người dân Hàn Quốc, mà đặc trưng của loại thực phẩm
này chính là vị “chua”, và các từ ngữ diễn tả vị chua cũng rất phong phú.
Nghĩa gốc của tính từ diễn tả vị chua trong tiếng Hàn và tiếng Việt là
giống nhau, nhưng nghĩa chuyển lại có sự khác biệt. Nghĩa chuyển thường
được dùng của tính từ “chua” là để chỉ giọng nói cao, the thé, gây cảm giác khó
chịu cho người nghe. Tính từ “chua” kết hợp với các yếu tố cấu tạo phụ, định
ngữ sắc thái hơn ý nghĩa gốc để diễn tả sự tăng mức độ của vị như: chua lè,
chua lòm, chua loét. Hay dùng biện pháp láy lại từ: “chua chua” để diễn tả sự
giảm mức độ của vị chua.
3.3.3. Tính từ diễn tả vị đắng
Trái ngược với tính từ chỉ vị “ngọt”, tính từ chỉ vị “đắng” thường được
sử dụng với ý nghĩa tiêu cực. Nghĩa chuyển của các tính từ diễn tả vị đắng
trong tiếng Hàn đều theo quy luật chuyển nghĩa ẩn dụ và mang sắc thái đánh
giá tiêu cực (không vui, khó chiu, đau khổ). Về điểm này thì giống với tính từ
diễn tả vị đắng trong tiếng Việt. Đó là “có cảm giác đau đớn thấm thía về tinh
thần” (ví dụ: Đắng lòng).
① 그의 쓴 소리가 가슴에 와 닿았다.
(Những lời đắng của người đó đã chạm đến tim tôi Những lời khó
nghe của người đó đã chạm đến tim tôi ).
② Lời đắng cho cuộc tình (tựa bài hát của nhạc sĩ Nhật Ngân)
Tính từ “đắng” kết hợp với danh từ chỉ âm thanh – danh từ đặc trưng của
thính giác, đã có sự chuyển nghĩa tính từ vị giác sang từ biểu thị thính giác.
Trường hợp này ít được sử dụng trong tiếng Việt.
③ 진호는 씁쓸한 얼굴로 답배를 찾아 피웠다.
(JinHo tìm điếu thuốc hút với vẻ mặt đăng đắng JinHo tìm điếu
thuốc hút với vẻ mặt khó chịu).
13
Ở ví dụ ③ có thể thấy trong tiếng Hàn có hiện tượng chuyển nghĩa từ
tính từ vị giác sang từ biểu thị thị giác, nhưng trong tiếng Việt lại không tìm
thấy hiện tượng này ở tính từ diễn tả vị đắng.
3.3.4. Tính từ diễn tả vị mặn
Nghĩa gốc của tính từ “mặn” trong tiếng Hàn và tiếng Việt giống nhau.
Trong tiếng Hàn, tính từ “mặn” thường được sử dụng với nghĩa “keo kiệt”,
nhưng trong tiếng Việt, tính từ này lại thường được sử dụng với nghĩa biểu
trưng trong thành ngữ “làm việc xấu, tham lam” (Đời cha ăn mặn, đời con khát
nước).
3.3.5. Tính từ diễn tả vị cay
Tính từ diễn tả vị cay trong tiếng Việt cũng có nghĩa chuyển diễn tả cảm
giác khó chịu khi bị xộc khói vào mắt hay mũi, như nghĩa chuyển thứ ba trong
tiếng Hàn. Ngoài ra, tính từ này còn thường được dùng để diễn tả sự tức tối vì
không làm được điều mong muốn hay bị thua thiệt nặng nề (Bị thua cay quá;
Càng thua càng cay). Tính từ diễn tả vị cay trong tiếng Hàn được sử dụng với
cả nghĩa tiêu cực và tích cực (thẳng tính, thạo việc), nhưng trong tiếng Việt lại
chỉ được sử dụng với nghĩa tiêu cực.
Các tính từ diễn tả vị “cay” trong tiếng Hàn và tiếng Việt kết hợp với
danh từ “mùi” – danh từ đặc trưng của khứu giác, đều có hiện tượng chuyển
nghĩa từ tính từ chỉ vị giác sang từ biểu thị khứu giác.
① 골짜기에서 마을 가까이 내려갈수록 매콤한 연기 냄새가 코를 후벼 파는 듯하였다.
(Tiểu thuyết Suối Piagol, Mun Sun Tae)
(Càng leo xuống gần ngôi làng từ khe núi, mùi khói cay càng xộc lên
mũi).
② Mùi hương cay nồng
Hiện tượng chuyển nghĩa từ tính từ chỉ vị cay sang từ biểu thị xúc giác
xuất hiện ở cả 2 ngôn ngữ, thường diễn tả cảm giác hơi đau, bị kích thích khi
tác động vào mắt. Tuy nhiên, có thể thấy hiện tượng này trong tiếng Hàn
phong phú hơn tiếng Việt. Tính từ “cay” trong tiếng Hàn còn kết hợp với các
danh từ chỉ thời tiết để diễn tả cái lạnh cóng của thời tiết mà cơ thể trực tiếp
cảm nhận như (날씨가 맵다, 바람이 맵게 불다, 취위가 맵다), nhưng trong tiếng
Việt lại không có trường hợp này.
③ 빠끔히 연 눈 속으로 매운 강바람이 찌르듯 파고들었다.
(Tiểu thuyết Lễ hội lửa, Kim Won Il)
(Cơn gió cay tạt mạnh vào trong đôi mắt đang mở he hé).
④ 춥고 매운 칼날 같은 겨울날, 바람맞이에 발가벗고 선 것처럼 온몸의
근육이 오그라지고 떨린 것이다. (Tiểu thuyết Xích đạo, Hyun Jin Geon)
(Ngày mùa đông lạnh giá như lưỡi dao, khắp cơ thể run lên như ở trần
đứng hóng gió).
⑤ Thái hành cay cả mắt.
14
3.4. Tiểu kết
Nghĩa gốc của các tính từ biểu thị vị giác ở hai ngôn ngữ thường được giải
thích thông qua vị đặc trưng của các loại gia vị, thực phẩm được sử dụng phổ biến ở
mỗi đất nước. Tính từ “ngọt” trong cả hai ngôn ngữ đều được giải thích là “Có vị
giống như vị của đường, mật”, hay tính từ “mặn” được giải thích là “giống vị của
muối”…
Khác với tiếng Việt, nghĩa chuyển của các tính từ biểu thị vị giác trong tiếng
Hàn thường được phân loại rõ ràng thành tính từ biểu thị vị cho cảm giác tích cực và
tính từ biểu thị vị cho cảm giác tiêu cực. Ví dụ như tính từ “새큼하다[saekeumhada]”
diễn tả vị chua ngon, nhưng tính từ “시척지근하다[sicheokjigeunhada]” lại được dùng
để diễn tả vị chua khó chịu của đồ ăn bị hỏng.
Hiện tượng chuyển nghĩa theo ẩn dụ bổ sung từ tính từ chỉ vị giác sang từ biểu
thị giác quan khác trong tiếng Hàn và tiếng Việt đều rất phong phú. Đặc biệt là tính
từ diễn tả vị ngọt. Tính từ chỉ vị giác chuyển sang từ biểu thị thính giác như “giọng
nói ngọt ngào”, tính từ chỉ vị giác sang từ biểu thị thị giác như “ánh mắt ngọt ngào”,
tính từ chỉ vị giác sang từ biểu thị khứu giác như “mùi hương ngọt dịu”, tính từ chỉ vị
giác sang từ biểu thị xúc giác như “nụ hôn ngọt ngào”.
Qua việc phân tích các ý nghĩa của tính từ vị giác trong cả hai ngôn ngữ, đặc
biệt là nghĩa chuyển và hiện tượng chuyển nghĩa từ tính từ chỉ vị giác sang từ biểu thị
giác quan khác, có thể thấy nghĩa chuyển của từ có liên quan mật thiết đến bối cảnh
văn hóa đặc trưng của dân tộc, cũng như thói quen sử dụng ngôn ngữ. Bên cạnh đó,
do vị trí địa lý cùng nằm ở khu vực châu Á và có nhiều điểm giống nhau về bối cảnh
lịch sử, cũng như văn hóa, nên có thể thấy được có những nghĩa tương đồng giữa hai
ngôn ngữ. Ví như tính từ “ngọt” ở cả tiếng Hàn và tiếng Việt đều mang nét nghĩa
đánh giá “thỏa mãn, thoải mái, bình an”. Tuy nhiên ở nghĩa chuyển thì lại thấy rõ sự
khác biệt giữa hai ngôn ngữ. Tính từ “mặn” trong tiếng Hàn thường được dùng với
nghĩa “keo kiệt”. Điều này có thể giải thích là do Hàn Quốc là đất nước ẩm thực tích
trữ rất phát triển, mà chủ yếu các món tích trữ đều là “món ăn mặn”. Vì phải bảo
quản, tích trữ lâu nên cần phải mặn, khi ăn cơm thì lấy ra từng chút một để ăn cùng.
Nhưng trong tiếng Việt thì tính từ “mặn” lại mang nét nghĩa “có vị mặn trên mức
bình thường”, chỉ dùng với nghĩa biểu trưng trong thành ngữ để chỉ người tham lam,
làm nhiều việc xấu dẫn đến đời con cháu phải gánh chịu hậu quả như: “Đời cha ăn
mặn, đời con khát nước”.
15
KẾT LUẬN
Ẩm thực được coi là một thú vui của con người, nó cũng là một lạc thú đòi hỏi
sự tổng hòa của các giác quan. Từ con mắt để nhìn cấu trúc, sắc màu, cái mũi để ngửi
mùi thơm, cái lưỡi để tận hưởng đầy đủ hương vị của món ăn, đến cái tai để nghe
tiếng giòn. Trong đó, cái lưỡi nắm giữ một vai trò rất quan trọng, đó là giúp chúng ta
có thể cảm nhận rõ các vị của món ăn. Vị giác giúp tăng cường sự tiếp nhận bằng các
cảm giác thích thú, thỏa mãn hay khó chịu...
Ở luận văn này, chúng tôi chủ yếu phân tích mặt hình thái và nghĩa chuyển của
tính từ biểu thị vị giác trong tiếng Hàn, qua đó liên hệ với các diễn đạt tương ứng
trong tiếng Việt.
Trước tiên, dựa trên các nghiên cứu đã có về tính từ biểu thị vị giác trong tiếng
Hàn, ở chương 1 chúng tôi hệ thống lại các định nghĩa về vị giác đã được các học giả
đưa ra trong các nghiên cứu trước. Sau đó tiến hành phân loại các tính từ biểu thị vị
giác trong tiếng Hàn. Xét trên quan điểm sinh học, thì có 4 loại vị giác cơ bản, nhưng
xét trên quan điểm ngôn ngữ học, có rất nhiều cách diễn đạt “vị” được sử dụng trong
đời sống hàng ngày. Mỗi học giả lại có cách tiếp cận và phân loại tính từ biểu thị vị
giác khác nhau. Ở nghiên cứu này, ngoài 4 vị cơ bản: “ngọt”, “chua”, “mặn”, “đắng”,
chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu cả vị “cay” - vị đặc trưng khi nhắc tới ẩm thực Hàn
Quốc.
Ở chương 2, chúng tôi phân tích hình thái của tính từ biểu thị vị giác trong
tiếng Hàn và tiếng Việt. Theo phương thức cấu tạo từ trong tiếng Hàn, từ vựng được
chia ra thành từ đơn và từ phức. Trong đó, tùy thuộc vào hình vị, có thể chia từ phức
ra làm từ phái sinh và từ ghép. Từ phái sinh có “từ phái sinh từ bên trong” biến đổi
căn tố từ bên trong thông qua việc thay đổi âm vị, và có “từ phái sinh từ bên ngoài”
tùy theo vị trí của phụ tố, kết hợp với tiền tố hay phụ tố. Từ phức cũng có từ được
hình thành do kết hợp với căn tố khác và từ được hình thành do lặp lại căn tố. Tính từ
đơn biểu thị vị giác trong tiếng Hàn không nhiều, phần lớn không xảy ra hiện tượng
biến đổi âm vị. Từ phức biểu thị vị giác trong tiếng Hàn phức tạp và phong phú hơn
nhiều trong tiếng Việt. Phương thức cấu tạo từ ở cả hai ngôn ngữ đều có phương
phức láy và phương thức ghép. Tuy nhiên do khác biệt về loại hình ngôn ngữ, từ
tiếng Hàn có khả năng kết hợp với các phụ tố, tạo nên sự đa dạng, chi tiết trong cách
diễn tả vị giác hơn tiếng Việt.
Ở chương 3, chúng tôi phân tích ý nghĩa của tính từ biểu thị vị giác trong tiếng
Hàn và tiếng Việt, cụ thể là nghĩa gốc, nghĩa chuyển và hiện tượng chuyển nghĩa từ
tính từ chỉ vị giác sang từ biểu thị giác quan khác. Nghĩa gốc của các tính từ biểu thị
vị giác trong tiếng Hàn và tiếng Việt có khá nhiều điểm giống nhau nhưng nghĩa
chuyển lại rất khác biệt. Ví như nghĩa gốc của tính từ biểu thị vị “ngọt” trong cả hai
ngôn ngữ đều được giải thích là có vị giống như vị của đường, mật. Nhưng vị “đắng”
trong tiếng Hàn được giải thích là “vị cảm nhận bằng lưỡi, giống vị của các loại như
thuốc đông y, chi khổ diệp, rau diếp đắng lá răng, ích mẫu”, còn trong tiếng Việt, Từ
điển tiếng Việt (Hoàng Phê chủ biên) lại giải thích là “có vị làm khó chịu như vị của
bồ hòn, mật cá”. Vị “chua” trong tiếng Hàn thường được dùng với nghĩa chuyển là
16
“cảm giác như lóa mắt do ánh sáng mạnh, chói mắt”, “trật khớp”, nhưng tính từ diễn
tả vị “chua” trong tiếng Việt lại không có nghĩa này, mà thường được sử dụng với
nghĩa “(giọng) cao, the thé, gây cảm giác khó chịu”. Đặc biệt, ở cả hai ngôn ngữ đều
tồn tại hiện tượng chuyển nghĩa theo ẩn dụ bổ sung từ tính từ chỉ vị giác sang từ biểu
thị giác quan khác: thính giác, thị giác, khứu giác, xúc giác. Đây là một xu hướng rất
phổ biến và tuân theo quy luật: Chuyển từ cái cụ thể, có thể nhận biết bằng trực giác
sang một khái niệm trừu tượng. Từ biểu thị trạng thái tâm lí - tình cảm có nguồn gốc
ban đầu là chỉ cảm giác thường có ý nghĩa sâu sắc, biểu cảm hơn những từ biểu thị
trạng thái tâm lí – tình cảm đơn thuần, do có sự liên hệ với những cảm giác hết sức cụ
thể và trực quan. Sự chuyển nghĩa này tạo ra một số loại ẩn dụ bổ sung có vai trò nhất
định trong đời sống và trong văn chương nghệ thuật.
Qua luận văn này, chúng tôi nhận thấy rằng nhóm từ biểu thị vị giác là một
nhóm từ rất quan trọng và không đơn giản. Hy vọng rằng luận văn có thể góp một
phần nhỏ giúp chúng ta có một cái nhìn mới mẻ, toàn diện hơn về nhóm từ nói trên.
Đồng thời hỗ trợ cung cấp cho đối tượng người Việt quan tâm đến tiếng Hàn, cũng
như đối tượng người Hàn Quốc quan tâm đến ngôn ngữ Việt có vốn từ vựng phong
phú hơn, tạo hiệu quả cao hơn trong giao tiếp.
17