Tải bản đầy đủ (.pdf) (45 trang)

Thiếu tướng hoàng sâm trong lịch sử việt nam cận hiện đại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.2 MB, 45 trang )

Lời Cảm Ơn
Trong quá trình thực hiện bài khóa luận em
đã nhận được nhiều sự giúp đỡ đóng góp ý kiến
của quý thầy cô, gia đình, bạn bè và các địa
phương liên quan đến đề tài của bài khóa luận.
Trước tiên, em xin cảm ơn thầy giáo, Thạc
sĩ Lê Trọng Đại người trực tiếp hướng dẫn, giúp
đỡ em về kiến thức và phương pháp để em hoàn
thành được khóa luận này.
Em cũng xin trân trọng cảm ơn các thầy
giáo, cô giáo của khoa Khoa học - Xã hội,
Trường Đại học Quảng Bình đã tận tình giảng dạy
trong bốn năm đại học qua đã giúp đỡ, động viên
trong quá trình thực hiện khóa luận.
Em xin chân thành cảm ơn Thư viện
trường Đại học Quảng Bình, Thư viện Bộ chỉ huy
Quân sự tỉnh Quảng Bình đã giúp đỡ em trong quá
trình tìm kiếm, thu thập và khai thác tài liệu
phục vụ việc nghiên cứu, hoàn thành khóa luận.
Cuối cùng em xin gửi lời cảm ơn chân
thành nhất tới những người thân trong gia đình,
bạn bè đã luôn ủng hộ và động viên em hoàn
thành khóa luận tốt nghiệp này.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng nhưng do
trình độ và thời gian có hạn chế nên khóa luận
này chắc chắn không thể tránh khỏi những sai
sót và hạn chế. Tác giả khóa luận rất mong nhận
được những ý kiến đóng góp của thầy cô và các
bạn để khóa luận được hoàn thiện tốt hơn.
Em xin trân trọng cảm ơn!
Quảng Bình, tháng 5 năm 2017


Người thực hiện


Đinh Thanh Hải


MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU ..................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài. ..................................................................................... 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ......................................................................... 2
3. Nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................................. 3
4. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu .............................................................. 3
5. Phương pháp nghiên cứu ........................................................................... 3
6. Đóng góp của đề tài ................................................................................... 4
7. Bố cục đề tài ............................................................................................... 4
B. NỘI DUNG .................................................................................................. 5
CHƯƠNG 1: KHÁI LƯỢC NHỮNG NÉT NỔI BẬT CỦA LỊCH SỬ
VIỆT NAM TỪ SAU CHIẾN TRANH THẾ GIỚI THỨ NHẤT ĐẾN
NĂM 1968. ....................................................................................................... 5
1.1. Việt Nam trong những năm 1919-1930 .................................................. 5
1.2. Việt Nam trong những năm 1930-1945 .................................................. 6
1.3. Giai đoạn 1945-1954............................................................................. 10
1.4. Giai đoạn 1954-1968............................................................................. 12
CHƯƠNG 2: THÂN THẾ VÀ SỰ NGHIỆP CỦA THIẾU TƯỚNG
HOÀNG SÂM ................................................................................................ 14
2.1. Vài nét về quê hương của Thiếu tướng Hoàng Sâm ............................. 14
2.2. Gia đình Thiếu tướng Hoàng Sâm ......................................................... 15
2.3. Sơ lược về tiểu sử của Thiếu tướng Hoàng Sâm (1915-1968) ............. 16
2.3.1 Tiểu sử................................................................................................. 16
CHƯƠNG 3: ĐÓNG GÓP CỦA THIẾU TƯỚNG HOÀNG SÂM

TRONG LỊCH SỬ VIỆT NAM CẬN - HIỆN ĐẠI ................................... 19
3.1. Thời gian hoạt động và xây dựng trong tổ chức yêu nước và cách mạng
tại Thái Lan từ năm 1928-1935 ................................................................... 19
3.2. Hoạt động cách mạng tại Trung Quốc từ năm 1937-1940 ................... 20
3.3. Hoạt động cách mạng ở Việt Nam từ năm 1941-1945 ......................... 21
3.3. Đóng góp của Hoàng Sâm trong kháng chiến chống Pháp 1946-1954.25
3.4. Đóng góp của Hoàng Sâm trong kháng chiến chống Mỹ 1955-1968.28
C. KẾT LUẬN ............................................................................................... 32
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 33
PHỤ LỤC ...........................................................................................................


A. MỞ ĐẦU
1.Lý do chọn đề tài
Đặc điểm xuyên suốt của lịch sử dân tộc Việt Nam, là quá trình dựng
nước gắn liền giữ nước. Trong hàng ngàn năm lịch sử đó, không ít thời gian
dân tộc ta phải trải qua chiến tranh. Có thể nói: lịch sử Việt Nam là nơi đối
đầu giữa kẻ xâm lược và người chống xâm lược.
Từ xa xưa dân tộc ta phải liên tục phải đương đầu với nhiều kẻ thù khắp
bốn phía Đông, Tây, Nam, Bắc. Và phần lớn các cuộc đụng đầu đó nhân dân
ta phải chống lại những kẻ thù hùng mạnh trên thế giới. Trong suốt chiều dài
lịch sử chống ngoại xâm của Việt Nam, các tầng lớp nhân dân từ người nông
dân, trí thức, công nhân... phải đứng lên cầm lấy vũ khí. Trong số đó đã có
những người trở thành những vị anh hùng, những vị tướng tài ba và chính họ
đã làm rạng danh dân tộc ta. Tên tuổi họ đã gắn liền với những trận đánh,
những địa danh lừng lẫy. Họ là niềm tự hào của dân tộc. Rất nhiều người đã
dâng hiến tuổi thanh xuân và máu thịt của mình để viết nên ca khúc khải hoàn
cho dân tộc Việt Nam.
Nói đến Quảng Bình nơi nhiều thế kỷ là vùng biên viễn, ranh giới tranh
chấp phân chia của các thế lực phong kiến, thực dân, cũng là nơi giao thoa hội

tụ của nhiều luồng văn hóa, văn minh (Việt - Chăm, Đại Việt - Chiêm Thành,
Đàng Trong - Đàng Ngoài…) nơi đây đã sản sinh ra nhiều bậc danh nhân, anh
hùng hào kiệt, đã làm rạng danh cho quê hương, đất nước. Họ là các danh
nhân, anh hùng lịch sử văn hóa, đó mãi mãi là niềm tự hào của các thế hệ
người dân Quảng Bình.
Trong những danh nhân của vùng đất Quảng Bình, Hoàng Sâm là một
trong những vị tướng tài ba, một chính trị gia xuất sắc. Là người có những
đóng góp quan trọng trong lịch sử dân tộc ở thời cận hiện đại cả chính trị
cũng như về quân sự. Nghiên cứu cuộc đời và sự nghiệp của Hoàng Sâm đặc
biệt là vai trò lịch sử của ông trong cuộc kháng chiến chống Pháp và chống
Mỹ cứu nước của dân tộc, là một trong những việc làm cần thiết của khoa học
lịch sử. Việc nghiên cứu vai trò lịch sử của Hoàng Sâm trong hai cuộc kháng
chiến chống Pháp và chống Mỹ cứu nước giúp chúng ta rút ra được những
bài học kinh nghiệm quý báu từ cuộc đời và hoạt động cách mạng phong phú,

1


sáng tạo của ông rất có giá trị trong tổng kết lí luận và chỉ đạo phục vụ cho
hoạt động thực tiễn.
Là một sinh viên chuyên ngành lịch sử chúng tôi thiết nghĩ việc nghiên
cứu tìm hiểu về sự nghiệp hoạt động cách mạng của Thiếu tướng Hoàng Sâm
là một điều cần thiết giúp bản thân nâng cao hiểu biết về lịch sử Việt Nam nói
chung và lịch sử Quảng Bình nói riêng, làm hành trang hữu ích cho nghề
nghiệp và cuộc sống sau này. Chính vì những lý do đó, chúng tôi quyết định
chọn vấn đề: “Thiếu tướng Hoàng Sâm trong lịch sử Việt Nam cận - hiện
đại” làm đề tài khoá luận tốt nghiệp của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Qua nghiên cứu các tài liệu thành văn chúng tôi thấy đã có một số tác
phẩm đã đề cập đến Thiếu tướng Hoàng Sâm ở những mức độ khác nhau. Sau

khi tập hợp nghiên cứu dựa vào nội dung chúng tôi chia làm hai nhóm như
sau.
+ Ở mức độ sơ lược có các tác phẩm như: "Chuyện về Thiếu tướng
Hoàng Sâm" của tác giả Nguyễn Viết Mạch đăng trên báo Quảng Bình điện
tử: www.baoquangbinh.vn; "Huyền thoại về tài năng quân sự"
kienthuc.net.vn của tác giả Tiến sĩ Nguyễn Thành Hữu. Bài viết của Thạc sĩ
Lê Trọng Đại cũng dành một tiểu mục: Thiếu tướng Hoàng Sâm với hơn 4
trang trong Địa chí Lệ Sơn để giới thiệu khái quát về ông.
+ Ở mức độ chuyên đề có các tác giả sau: Bài viết của Đại tá, Phó giáo
sư - Tiến sĩ Trần Ngọc Long (Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam), “Hoàng SâmTra-pa-et của Việt Nam” đăng trong "Tuyển tập báo cáo khoa học hội thảo
quốc gia về Danh nhân Quảng Bình năm 2014”, NXB Chính trị - Hành
chính; bài viết của Trung tá Lê Việt Bình (Bộ chỉ huy Quân sự Quảng Bình)
“Hoàng Sâm - vị tướng nhiều tài năng huyên thoại”. Lê Hoài Việt "Hoàng
Sâm vị tướng nhiều tài năng huyền thoại", Báo cáo khoa học Hội thảo Quốc
gia về Danh nhân Quảng Bình, NXB Chính trị Hành chính, (2014). Tỉnh ủy
Quảng Bình, Đảng ủy Quân sự tỉnh đã biên tập và xuất bản cuốn sách "Tướng
lĩnh Quân đội nhân dân Viêt Nam quê hương Quảng Bình", 2015, Nhà xuất
bản Quân đội nhân dân đăng mục "Thiếu tướng Hoàng Sâm (1915 - 1968)".
Nhìn chung các công trình nghiên cứu về Thiếu tướng Hoàng Sâm đến
nay không nhiều và hầu như chỉ xuất hiện trên các tạp chí, tập san, bài báo
2


quân đội, các trang báo điện tử. Nhìn chung các tài liệu trên đều chưa đi sâu
đánh giá một cách đầy đủ, toàn diện và có hệ thống về cuộc đời, và đóng góp
của Thiếu tướng Hoàng Sâm. Do đó, để có một công trình chuyên khảo về
vấn đề đó đòi hỏi sự đầu tư công phu và chu đáo hơn. Trong khóa luận của
mình, tôi cố gắng tập hợp bổ sung, hệ thống hóa lại nội dung những thông tin
đã được công bố để kế thừa và phát triển nhằm góp phần giới thiệu một cách
đầy đủ, toàn diện những cống hiến của Thiếu tướng Hoàng Sâm trong lịch sử

Việt Nam cận - hiện đại.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện đề tài nghiên cứu tác giả khóa luận tập trung giải quyết các
nhiệm vụ sau:
Thứ nhất, nghiên cứu một cách khái quát lịch sử Việt Nam từ những
năm 1915 đến năm 1968.
Thứ hai, đề tài tiến hành tìm hiểu thân thế, sự nghiệp của Thiếu tướng
Hoàng Sâm.
Thứ ba, làm rõ vị trí và đóng góp của Thiếu tướng Hoàng Sâm trong
lịch sử Việt Nam cận - hiện đại.
4. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu
4.1 Đối tượng nghiên cứu
Để thực hiện được các nhiệm vụ nghiên cứu nói trên, đề tài xác định đối
tượng nghiên cứu gồm:
- Bối cảnh lịch sử Việt Nam từ những năm 1915 đến 1968
- Quê hương, gia đình sự nghiệp, đóng góp của Thiếu tướng Hoàng Sâm
trong lịch sử Việt Nam.
- Quan điểm của các nhà nghiên cứu đánh giá về Thiếu tướng Hoàng
Sâm.
4.2 Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian: Khóa luận tập trung nghiên cứu những khu vực hoạt
động cách mạng của Hoàng Sâm ở Thái Lan, Trung Quốc, Lào, Việt Nam.
- Về thời gian: Khóa luận tập trung nghiên cứu thời gian sống và hoạt
động cách mạng của Thiếu tướng Hoàng Sâm từ năm 1915 đến năm 1968.
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1 Phương pháp luận
3


Thực hiện khóa luận chúng tôi đứng trên quan điểm phương pháp luận

của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử và quan điểm của
Đảng cộng sản Việt Nam về lịch sử.
5.2 Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện đề tài, chúng tôi đã sử dụng và kết hợp hai
phương pháp chính là phương pháp lịch sử và phương pháp logic, sử dụng
phương pháp lịch sử để tái hiện chân thực bức tranh quá khứ, kết hợp với
phương pháp lôgic để đi sâu phân tích, đánh giá làm rõ bản chất sự kiện, hiện
tượng, nhân vật lịch sử.
Ngoài ra, trong quá trình nghiên cứu chúng tôi còn sử dụng phương pháp
nghiên cứu liên ngành, phương pháp điền dã dân tộc học để sưu tầm, phân
loại tư liệu; thống kê, so sánh phân tích và đánh giá các sự kiện lịch sử để đúc
rút thông tin phục vụ nội dung khóa luận.
6. Đóng góp của đề tài
Thứ nhất, khóa luận đã tập hợp được một hệ thống tư liệu liên quan đến
cuộc đời và sự nghiệp cửa Thiếu tướng Hoàng Sâm đặc biệt là trong thời kỳ
đấu tranh giải phóng dân tộc, kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc
Mỹ xâm lược cho những ai quan tâm nghiên cứu vấn đề này.
Thứ hai, khóa luận tập trung làm rõ đóng góp của Hoàng Sâm trong hai
cuộc kháng chiến chống xâm lược.
Thứ ba, thực hiện đề tài này còn giúp chính tác giả nâng cao hiểu biết
của mình về lịch sử Việt Nam, lịch sử Quảng Bình những năm 1915 - 1968;
hiểu sâu sắc hơn về nghệ thuật quân sự Việt Nam, làm hành trang tri thức
nghề nghiệp và cuộc sống sau này. Mặt khác, việc thực hiện khóa luận này
còn giúp tác giả bước đầu làm quen với việc nghiên cứu khoa học.
7. Bố cục đề tài
Ngoài phần mở đầu, tài liệu tham khảo, đề tài được gói gọn trong ba
chương.
Chương 1: Khái lược những nét nổi bật của lịch sử Việt Nam từ sau
chiến tranh thế giới thứ nhất đến năm 1968.
Chương 2: Thân thế và sự nghiệp của Thiếu tướng Hoàng Sâm

Chương 3: Đóng góp của Thiếu tướng Hoàng Sâm trong lịch sử Việt
Nam cận - hiện đại.
4


B. NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
KHÁI LƯỢC NHỮNG NÉT NỔI BẬT CỦA LỊCH SỬ VIỆT NAM TỪ
SAU CHIẾN TRANH THẾ GIỚI THỨ NHẤT ĐẾN NĂM 1968
1.1 Việt Nam trong những năm 1919-1930
Sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất, thực dân Pháp tuy là một nước
thắng trận nhưng đã bị chiến tranh tàn phá nặng nề; kinh tế sa sút nghiêm
trọng. Để hàn gắn vết thương chiến tranh, bù đắp những thiệt hại do chiến
tranh gây ra, khôi phục địa vị trong thế giới tư bản, bên cạnh việc tăng cường
bóc lột nhân dân trong nước, đế quốc Pháp đã đẩy mạnh việc đầu tư khai thác
thuộc địa. Vì Đông Dương là một trong những thuộc địa béo bở của thực dân
Phán nên chúng đã tiến hành một loạt biện pháp để bóc lột, khai thác. Trước
tác động của công cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai, xã hội Việt Nam tiếp
tục bị phân hóa sâu sắc, các giai cấp cũ (địa chủ phong kiến và nông dân)
phân hóa sâu sắc hơn. Các tầng lớp mới (tư sản, tiểu tư sản) nảy sinh trong
cuộc khai thác lần thứ nhất phát triển trở thành giai cấp thực sự. Mỗi giai cấp,
mỗi tầng lớp xã hội có địa vị và quyền lợi khác nhau nên có thái độ chính trị
khác nhau trong cuộc đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp đã và đang tiếp
tục diễn ra. Mâu thuẫn xã hội giữa toàn thể dân tộc Việt Nam và chủ nghĩa đế
quốc Pháp; mâu thuẫn giữa giai cấp nông dân với địa chủ phong kiến ngày
càng gay gắt, không thể điều hòa. Phong trào đấu tranh của quần chúng nhân
dân bùng nổ mạnh mẽ sau chiến tranh, trước hết bắt nguồn từ những mâu
thuẫn căn bản đó.
Cuộc đấu tranh cách mạng giai đoạn này diễn ra gay go, quyết liệt, phức
tạp, cách mạng Việt Nam đi đến đâu là tùy thuộc trước hết ở việc giai cấp nào

giành được bá quyền lãnh đạo cách mạng. Đó cũng là nội dung chủ yếu của
thời kỳ có tính chất bản lề, mười năm sau chiến tranh thế giới thứ nhất (1919 1929).
Cách mạng tháng Mười Nga 1917 thành công đã có ảnh hưởng to lớn
đến phong trào cách mạng trên thế giới. Những chuyển biến trong xã hội là cơ
sở cho sự du nhập vào Việt Nam các hệ tư tưởng mới đáp ứng yêu cầu nhiệm
vụ lịch sử của dân tộc đang đặt ra. Cuộc đấu tranh giữa hai luồng tư tưởng
cùng song song tồn tại được tập trung vào việc giải quyết một vấn đề bức thiết
5


là quyền lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Trong ba thập niên đầu của thế kỉ
XX, xã hội Việt Nam lần lượt tiếp thu hệ tư tưởng dân chủ tư sản phương Tây
được khúc xạ qua các nhà cách mạng Trung Hoa và Nhật Bản (tư tưởng dân
chủ tư sản). Ảnh hưởng của tư tưởng dân chủ tư sản qua phong trào Duy Tân,
Đông Du, Đông Kinh nghĩa thục; ảnh hưởng của Chủ nghĩa Tam dân qua Việt
Nam Quang Phục Hội và Việt Nam Quốc dân đảng. Trong những năm 20 của
thế kỉ XX, ảnh hưởng của cách mạng tháng Mười Nga và tư tưởng vô sản qua
Nguyễn Ái Quốc và Hội Việt Nam cách mạng thanh niên. Sau thất bại của
cuộc bạo động Yên Bái tháng 02 năm 1930, sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt
Nam ngày 3/2/1930 đã chứng tỏ sự lựa chọn của chính lịch sử dân tộc là cách
mạng giải phóng dân tộc Việt Nam gắn liền với con đường cách mạng vô sản.
Đó cũng là kết quả phát triển tất yếu, hợp quy luật của quá trình phát triển của
lịch sử dân tộc cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Trong quá trình truyền bá chủ
nghĩa Mac - Lê nin về Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc đã tới Thái Lan trong
những năm 1928 - 1929, hoạt động trong Việt kiều. Trong thời gian này " một
số thanh niên Lệ Sơn đang sinh sống ở Lào và Thái Lan đã được các tổ chức
Đảng hải ngoại tuyên truyền giác ngộ như Trần Kỳ, Lê Giờ, Lê Lầu, Nguyễn
Tiến Báu"[4; 45]. Như một "cơ duyên thiên định" nên "năm 1929, trong
những thiếu niên Lệ Sơn tha hương sang Thái Lan là Trần Kỳ (Hoàng Sâm)
đang sống tại tỉnh Na-khon có may mắn gặp được Thầu Chín (Nguyễn Ái

Quốc) khi ông hoạt động trong Việt kiều tại Thái Lan. Trần Kỳ là một thiếu
niên thông minh, nhanh nhẹn nên được Thầu Chín giác ngộ và chọn làm liên
lạc" [4; 45].
1.2. Việt Nam trong những năm 1930-1945
Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới những năm 1929 - 1933 làm cho tình
hình kinh tế xã hội của các nước tư bản chủ nghĩa ở Tây Âu làm vào tình
trạng khủng hoảng, ở Italia và Đức, thể chế dân chủ tư sản bị thủ tiêu và thay
thế vào đó là nền chuyên chính của bọn phát xít. Nước Pháp bước vào khủng
hoảng có muộn hơn nhưng lại kéo dài và cũng như nhiều đế quốc khác muốn
thoát khỏi tình trạng bi thảm của cuộc khủng hoảng, giới tư bản tài chính
Pháp tìm cách trút hậu quả nặng nề của nó lên đầu nhân dân lao động ở chính
quốc cũng như ở các nước thuộc địa. Chính sách cai trị và bóc lột của Pháp

6


trong những năm 1930 - 1945 đã đẩy Đông Dương lâm vào tình trạng khủng
hoảng cả về kinh tế, xã hội ngày càng trầm trọng.
Về kinh tế, nông nghiệp bị phá hoại nặng nề do giá nông sản bị sụt nhanh
chóng. Hàng ngàn hécta đồng ruộng bị bỏ hoang, hàng trăm đồn điền bị thu
hẹp diện tích hoặc ngưng hoạt động.
Về chính trị - xã hội, chính quyền thực dân ở Đông Dương thi hành
chính sách hai mặt. Một mặt đẩy mạnh các biện pháp văn hóa giáo dục, tuyên
truyền lôi kéo người bản xứ, tranh thủ các tầng lớp thượng lưu, tô vẽ cho cái
gọi là “văn minh khai hóa”, đề cao tư tưởng chống cộng, coi chống cộng là
một chủ thuyết trong các hoạt động chính trị - xã hội.
Mặt khác chính quyền thực dân Đông Dương thi hành chính sách khủng
bố trắng phong trào đấu tranh của nhân dân, nhất là từ sau khởi nghĩa Yên Bái
tháng 2/1930. Dưới tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế, xã hội thuộc địa
Việt Nam tiếp tục phân hóa, mâu thuẫn dân tộc và mâu thuẫn giai cấp càng

gay gắt hơn.
Đông Dương trong cuộc khủng hoảng kinh tế không còn bình yên như
trước nửa, đã trở thành một Đông Dương sôi động trong sự phân hóa của xã
hội thuộc địa. Điều kiện vật chất xã hội ấy là cơ sở cho sự phát triển các tư
tưởng mới đang du nhập vào Việt Nam. Trong lúc đó tư tưởng vô sản của chủ
nghĩa Mác - Lênin dần dần chiếm ưu thế. Sự xuất hiện Đảng Cộng sản Việt
Nam đầu năm 1930, khác hẳn sự ra đời của các tổ chức chính trị đương thời,
đã thu hút sự chú ý của đông đảo các giai tầng xã hội. Dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản phong trào cách mạng Việt Nam đi theo xu hướng mới liên
tục diễn ra các cuộc đấu tranh quyết liệt. Mở đầu cho những bước phát triển
mới là sự bùng nổ cao trào cách mạng 1930 - 1931 với đỉnh cao là Xô Viết ở
hai tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh. Từ cuối năm 1931, thực dân Pháp đã đàn áp tàn
bạo phong trào cách mạng của nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Việt Nam, phong trào cách mạng lâm vào thoái trào. Từ năm 1932 -1935 là
giai đoạn phục hồi của Đảng Cộng sản Đông Dương và các lực lượng yêu
nước, phong trào dân tộc lại sẵn sàng bước vào một thời kỳ đấu tranh mới.
Phong trào đấu tranh dân chủ công khai những năm1936 - 1939 là một
phong trào của quần chúng hiếm có ở xứ thuộc địa. Với phong trào này, lực
lượng đấu tranh của dân tộc được củng cố bổ sung thành một đạo quân hùng
7


hậu, hàng triệu người ở cả nông thôn và thành thị với nhiều tầng lớp giai cấp
khác nhau.
Sau khi đại chiến thế giới lần thứ hai bùng nổ, phong trào đấu tranh vì
dân sinh, dân chủ được Đảng Cộng sản Đông Dương lãnh đạo với nhiều hình
thức đấu tranh như hợp pháp, công khai đến bí mật được diễn ra sôi nổi.
Tháng 9 năm 1939, chiến tranh thế giới bùng nổ, nhân cơ hội đó bọn
thực dân phản động ở Đông Dương tiến hành chính sách đẩy mạnh đàn áp
khủng bố, tước bỏ những quyền lợi mà nhân dân Đông Dương đã giành được

trong những năm 1936 -1939. Bọn phản động Pháp tại Đông Dương đã giải
tán các đoàn thể quần chúng, các tổ chức dân chủ và tấn công Đảng Cộng sản.
Mặt khác để phục vụ cho chiến tranh đế quốc, bọn thực dân phản động ở
Đông Dương đã thực hiện “Chính sách kinh tế chỉ huy” tăng cường bóc lột
nhân dân Đông Dương. Mặt khác chúng còn đẩy mạnh việc bắt phu, bắt lính
đưa hàng vạn thanh niên Việt Nam sang Pháp lầm bia đỡ đạn cho chúng ở
chiến trường châu Âu.
Tháng 11/1939, Đảng Cộng sản Đông Dương họp Hội nghị Ban chấp
hành Trung ương lần thứ VI tại Bà Điểm (Gia Định) để phân tích tình hình đề
ra nhiệm vụ mới cho cách mạng Việt Nam. Hội nghị đề ra chủ trương “nhiệm
vụ cốt chính của cách mệnh là đánh đổ đế quốc. Đế quốc chiến tranh, khủng
hoảng cùng với ách thống trị phát xít thuộc địa đã đưa ra vấn đề dân tộc
thành một vấn đề khẩn cấp quan trọng. Đứng trên lập trường giải phóng dân
tộc, lấy quyền lợi dân tộc làm tối cao, tất cả các vấn đề của cuộc cách mệnh,
cả vấn đề điền địa cũng phải nhằm vào cái mục đích ấy mà giải quyết” [1;
538-539].
Tháng 6 năm 1940, phát xít Đức đánh bại quân Pháp, chính phủ Pháp
phải đầu hàng và lực lượng thân Đức lên cầm quyền ở nước Pháp. Nhân cơ
hội đó tháng 9 năm 1940 quân đội phát xít Nhật tấn công Lạng Sơn, Hải
Phòng, đổ bộ vào Đồ Sơn Pháp nhanh chóng đầu hàng Nhật ở Lạng Sơn.
Tháng 11/1940, Đảng Cộng sản Đông Dương lại họp Hội nghị Ban chấp
hành trung ương lần thứ VII tại Đình Bảng (Bắc Ninh), tiếp tục phân tích
nhận định tình hình trước diễn biến mới của chiến tranh, chủ trương thành lập
Mặt trận Dân tộc thống nhất Phản đế “đặng tranh đấu tiến lên võ trang bạo
động đánh đổ đế quốc Pháp - Nhật và các lực lượng phản động ngoại xâm,
8


diệt trừ phong kiến và các hành động phản bội quyền lợi dân tộc làm cho
Đông Dương được hoàn toàn giải phóng"[1; 90].

Từ 1940 - 1945, Nhật - Pháp cấu kết với nhau cai trị Đông Dương nhưng
thực chất là Nhật đã biến chính quyền thực dân Pháp ở Đông Dương thành tay
sai. Đông Dương trở thành căn cứ và là nơi cung cấp hậu cần cho cuộc chiến
tranh Thái Bình Dương của Nhật.
Sau 30 năm hoạt động ở nước ngoài tháng 2/1941 Nguyễn Ái Quốc về
nước trực tiếp cùng Ban chấp hành Trung ương Đảng tổ chức, lãnh đạo nhân
dân chuẩn bị vũ trang khởi nghĩa giành chính quyền. Tháng 5/1941, sau khi
thí điểm xây dựng Mặt trận Việt Minh ở Cao Bằng, Nguyễn Ái Quốc đã triệu
tập Hội nghị Trung ương lần thứ VIII tại Pắc-Bó (Cao Bằng). Tại hội nghị
lịch sử này Đảng Cộng sản Đông Dương đã tiếp tục đề ra nhiều chủ trương và
chính sách cụ thể có ý nghĩa hoàn chỉnh đường lối và phương pháp cách mạng
giải phóng dân tộc trong giai đoạn mới. Một trong những chủ trương quan
trọng nhất của Hội nghị Trung ương lần thứ VIII là chuẩn bị cho khởi nghĩa
vũ trang và thành lập Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh (gọi tắt là Mặt
trận Việt Minh) để đoàn kết tập hợp lực lượng nhân dân cả nước tiến lên khởi
nghĩa giành chính quyền.
Đến năm1945, phe Phát xít từng bước bị Hồng quân Liên Xô và Đồng
minh đánh bại. Đông Dương trong những nằm dưới ách thống trị của Nhật Pháp vô cùng ngột ngạt. Chính sách vơ vét cướp bóc phục vụ chiến tranh của
phát xít Nhật đã gây ra nạn đói khủng khiếp khiến hơn 2 triệu người Việt
Nam chết đói. Trước tình hình đó mặt trận Việt Minh đã phát động phong trào
"phá kho thóc của Nhật cứu đói"; cùng với những chính sách đúng đắn khác
càng làm cho uy tín của mặt trận Việt Minh lên cao. Tại Đông Dương để
tránh việc bị thực dân Pháp đứng dậy đâm từ phía sau khi lực lượng đồng
mình tiến vào, phát xít Nhật đã chủ động tiến hành cuộc đảo chính Pháp vào
ngày 09/3/1945. Trước tình hình đó, Ban thường vụ Trung ương Đảng họp tại
Đình Bảng (Bắc Ninh) đã ra Chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của
chúng ta”, phát động Cao trào kháng Nhật cứu nước. Tháng Tám năm 1945
nắm bắt thời cơ Nhật đầu hàng Đồng minh; Đảng đã lãnh đạo Mặt trận Việt
Minh phát động toàn dân đứng lên Tổng khởi nghĩa giành chính quyền đưa
tới thắng lợi của Cách mạng tháng Tám. Đây là thời gian Hoàng Sâm từng

9


bước tham gia các hoạt động cách mạng và trở thành một cán bộ trung kiên
của Đảng. Thời gian này Hoàng Sâm hoạt động cách mạng, diệt thổ phỉ tại
vùng biên giới Việt-Trung và học tại trường quân sự tại Tĩnh Tây - Trung
Quốc. Ngày 22 tháng 12 năm 1944, tại khu rừng Sam Cao, huyện Nguyên
Bình, tỉnh Cao Bằng (nay thuộc xã Cẩm Lý, huyện Hòa An, tỉnh Cao Bằng)
được ủy nhiệm của Trung ương Đảng và lãnh tụ Hồ Chí Minh, đồng chí Võ
Nguyên Giáp tuyên bố thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân
- tiền thân của Quân đội Nhân dân Việt Nam ngày nay. Đội có 34 người, gồm
31 nam, 3 nữ, biên chế thành 3 tiểu đội. Hoàng Sâm được chọn làm Đội
trưởng. Trong những ngày tháng Tám 1945 sôi động này, Hoàng Sâm tham
gia Tổng khởi nghĩa cách mạng tháng Tám.
1.3. Giai đoạn 1945-1954
Sau Cách Mạng Tháng Tám 1945, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa
cùng lúc phải đối phó với muôn vàn khó khăn phức tạp. Nền kinh tế đất nước
sau gần một thế kỷ bị chủ nghĩa thực dân kìm hãm và phải phục vụ chiến
tranh đế quốc, đã trở nên xơ xác tiêu điều. Đất nước có hơn 90% dân số mù
chữ, nhiều hủ tục lạc hậu vẫn tồn tại, đời sống vật chất và tinh thần của người
dân vô cùng thấp kém. Ở phía Bắc, từ biên giới Việt - Trung đến vĩ tuyến 16,
hơn 20 vạn quân Tưởng tràn sang với danh nghĩa quân Đồng minh vào giải
giáp phát xít Nhật. Ở phía Nam, quân Anh vào làm nhiệm vụ giải giáp phát
xít Nhật, cũng sớm bộc lộ ư đồ giúp Pháp lập lại chế độ thuộc địa trên bán
đảo Đông Dương. Ngày 23/9/1945 thực dân Pháp chính thức nổ súng đánh
chiếm Nam Bộ. Lợi dụng vòng vây đế quốc đang rình rập cách mạng, bọn
phản động trong nước nổi lên hoặc từ bên ngoài kéo về hoạt động gây rối, phá
hoại. Những khó khăn phức tạp về kinh tế xã hội cùng với nạn thù trong giặc
ngoài ập đến, gây áp lực lớn đối với nền dân chủ cộng hòa còn non trẻ. Vận
mệnh của dân tộc lúc này đang đứng trước thử thách nghiêm trọng, được ví

với hình ảnh “ngàn cân treo sợi tóc”.
Ngày 3/9/1945, ngay sau khi mừng độc lập Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề
nghị thực hiện 6 biện pháp cấp bách: phát động phong trào tăng gia sản xuất
và mở lạc quyên cứu đói, mở phong trào chống nạn mù chữ, tổ chức ngay
cuộc tổng tuyển cử tự do dân chủ, mở phong trào giáo dục cần kiệm liêm
chính, bài trừ hủ bại, bỏ ngay 3 thứ thuế vô nhân đạo (thuế thân, thuế chợ,
10


thuế đò) và cấm hút thuốc phiện, tuyên bố tự do tín ngưỡng, lương giáo đoàn
kết. Đây vừa là đòn tấn công đầu tiên của chính quyền mới, vừa là chính sách
kinh tế xã hội đầu tiên của chế độ Dân chủ cộng hòa Việt Nam. Sau Pháp và
Tưởng thỏa hiệp ký Hiệp ước Trùng Khánh, đặt cách mạng nước ta trước sự
lựa chọn là tạm hòa hoãn với Pháp để đuổi nhanh Tưởng về nước hoặc phải
cùng lúc đối phó với cả Pháp và Tưởng. Trung ương Đảng và Bác Hồ đã chọn
giải pháp tạm hoà với Pháp.
Do đó ngày 6/3/1946 bản Hiệp định Sơ bộ giữa Việt Nam và Pháp được
ký kết. Mặc dù với Tạm ước ngày 14 tháng 9 năm 1946, Việt Nam dân chủ
cộng hòa đã nhân nhượng Pháp đến giới hạn cuối cùng và hai bên đã nhất trí
lịch đàm phán tiếp theo và đầu năm 1947 nhưng bọn thực dân hiếu chiến Pháp
ở Đông Dương đã phớt lờ tất cả tìm mọi cách gây chiến tranh để khôi phục lại
ách thống trị của Pháp ở Đông Dương. Chúng đã tìm mọi cách gây chiến
tranh tạo sự đã rồi để thông qua các hành động quân sự quyết liệt ở Bắc Bộ.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ thực chất của tình trạng ấy “chúng ta muốn
hoà bình, chúng ta đã nhân nhượng, nhưng càng nhân nhượng thực dân dân
Pháp càng lấn tới vì chúng quyết tâm cướp nước ta một lần nữa”; đó cũng
chính là lý do chính đáng nhất để nhân dân ta bước vào cuộc kháng chiến
trường kỳ. Đêm 19/12/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra "Lời kêu gọi toàn quốc
kháng chiến" khẳng định nguyện vọng hòa bình, quyết tâm kháng chiến với
niềm tin tất thắng của nhân dân ta, và bắt đầu bằng các cuộc chiến diễn ra ở

các đô thị. Tháng 10/1947, ta đánh bại cuộc tiến công của Pháp tại Việt Bắc
làm phá sản kế hoạch "đánh nhanh, thắng nhanh" của chúng. Với những đóng
góp quan trọng cho các thắng lợi quân sự trên chiến trường trong những năm
1940-1947. Ngày 01 tháng 01 năm 1948, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh
số 110/SL phong quân hàm Thiếu tướng cho Hoàng Sâm khi ông vừa tròn 33
tuổi. Đó là một vinh dự đã chứng tỏ Hồ Chí Minh đánh giá cao bản lĩnh và tài
năng của Hoàng Sâm. Từ sau chiến thắng Việt Bắc đến năm 1949, ta chủ
trương lấy du kích chiến là chính, vận động chiến hỗ trợ để vừa đánh vừa xây
dựng phong trào cách mạng.
Trận Biên giới Thu-Đông năm 1950, đã đưa quân và dân ta tiếp tục tiến
những bước dài đến thắng lợi, mặc dù còn trải qua nhiều khó khăn. Đến Đông
Xuân 1953 - 1954 cuộc kháng chiến của quân và dân ta chuyển sang giai đoạn
11


giành thắng lợi quyết định. Trong chiến cuộc Đông-Xuân 1953-1954 ta liên
tục mở các chiến dịch tiến công quân sự, làm tiêu hao tiêu diệt nhiều sinh lực
địch, tiến tới đánh bại chúng về quân sự. Thắng lợi trong Đông-Xuân 19531954 và ở Điện Biên Phủ đã buộc thực dân Pháp phải ký kết Hiệp định
Giơnevơ chấm dứt chiến tranh lập lại hòa bình ở Đông Dương.
Tháng 1 năm 1954, Hội nghị của các nước lớn bàn về lập lại hòa bình,
chấm dứt cuộc chiến tranh Triều Tiên và Đông Dương đã triệu tập ở Geneve
(Thụy Sỹ). Việc ký kết Hiệp định Geneve phản ảnh xu thế chung của tình
hình thế giới lúc đó và cũng chứng minh cho lập trường đàm phán và nguyện
vọng hòa bình, chấm dứt chiến tranh của nhân dân Việt Nam. Hiệp định
Giơnevơ ngày 21/7/1954 cùng với thắng lợi của Đông Xuân 1953 - 1954 mà
đỉnh cao là chiến dịch Điện Biên Phủ đã kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến
trường kỳ của nhân dân Việt Nam chống thực dân Pháp và can thiệp của Mỹ.
1.4. Giai đoạn 1954-1968
Sau Hiệp định Giơnevơ đế quốc Mỹ và chính quyền tay sai ngang nhiên
phá hoại hiệp định. Việt Nam bị chia cắt thành hai miền, đế quốc Mỹ thực

hiện ở miền Nam chính sách thống trị thực dân kiểu mới. Ta tiến hành ở mỗi
miền Nam, Bắc một chiến lược cách mạng. Miền Nam tiến hành cách mạng
dân tộc dân chủ nhân dân và miền Bắc tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Hai miền đồng thời thực hiện những nhiệm vụ chung là "chống Mỹ, cứu
nước" miền Bắc hoàn thành cải cách ruộng đất khôi phục kinh tế, cải tạo quan
hệ sản xuất; củng cố chính quyền mở rộng quan hệ quốc tế. Miền Nam đấu
tranh chống đế quốc Mỹ xâm lược và chính quyền tay sai, từ đấu tranh chính
trị (1954-1959), tiến lên khởi nghĩa từng phần. Thắng lợi của phong trào
Đồng khởi (1959-1960) đã mở ra bước ngoặt của cách mạng miền Nam,
chuyển từ thế giữ gìn sang thế tiến công.
Năm 1961, đứng trước nguy cơ phá sản hoàn toàn của chiến lược thống
trị thực dân kiểu mới, đế quốc Mỹ chuyển sang tiến hành chiến lược "Chiến
tranh đặc biệt" ở miền Nam, tăng cường hoạt động phá hoại miền Bắc. Trong
thời gian này miền Bắc thực hiện kế hoạch nhà nước 5 năm lần thứ nhất,
nhằm bước đầu xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, thực
hiện một bước công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa. Còn quân và dân miền Nam
phải chiến đấu chống "Chiến tranh đặc biệt" của đế quốc Mỹ. Cuộc chiến đấu
12


của nhân dân ta bằng lực lượng của toàn dân, kết hợp đấu tranh chính trị và
đấu tranh vũ trang, tiến công và nổi dậy, trên cả ba vùng chiến lược (rừng núi,
nông thôn đồng bằng, đô thị), làm lung lay ba chỗ dựa của chiến tranh: ngụy
quân, ngụy quyền, ấp chiến lược.
Đứng trước nguy cơ thất bại của "Chiến tranh đặc biệt", đế quốc Mỹ
chuyển sang tiến hành chiến lược "Chiến tranh cục bộ" ở miền Nam và chiến
tranh phá hoại miền Bắc lần thứ nhất (1965-1968) bằng không quân và hải
quân. Cả nước có chiến tranh, cả nước chiến đấu chống đế quốc Mỹ xâm
lược. Miền Bắc vừa chống chiến tranh phá hoại vừa sản xuất, thực hiện nhiệm
vụ hậu phương chi viện "sức người, sức của" cho các chiến trường miền Nam,

Lào. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968, giành thắng lợi có
ý nghĩa chiến lược, nó đánh dấu bước ngoặt của cuộc kháng chiến chống Mỹ
cứu nước, làm phá sản chiến lược "Chiến tranh cục bộ". Thời gian này Hoàng
Sâm làm cố vấn quân sự tại Lào với bí danh Chăn Di. Đến giữ năm 1968,
được cử làm Tư lệnh Quân khu Trị Thiên; ông đã vào trực tiếp chỉ huy mặt
trận chống Mỹ - Ngụy đầy khốc liệt và nóng bỏng này.

13


CHƯƠNG 2
THÂN THẾ VÀ SỰ NGHIỆP CỦA THIẾU TƯỚNG HOÀNG SÂM
2.1 Vài nét về quê hương của Thiếu tướng Hoàng Sâm
Quảng Bình nằm trên dải đất miền Trung đầy nắng và gió. Quảng Bình
được biết đến không những là xứ sở của miền cát trắng và những đợt gió Lào
nóng bỏng mà còn được thiên nhiên ưu đãi ban tặng nhiều phong cảnh đẹp mê
hồn gắn với tên núi, tên sông. Tựa lưng vào dãy Giăng Màn hùng vĩ với
huyền thoại 100 con chim phượng hoàng bay về chọn đất để đô, trước mặt là
dòng sông Gianh như cánh võng làng Lệ Sơn (xã Văn Hóa, huyện Tuyên
Hóa, tỉnh Quảng Bình) là vùng đất có truyền thống lịch sử và văn hóa lâu đời.
Từ hơn một trăm năm trước, ngôi làng này đã được xếp hàng đầu trong
tám ngôi làng nổi danh văn vật nhất đất Quảng Bình - đệ nhất Bát danh
hương: Sơn, Hà, Cảnh, Thổ, Văn, Võ, Cổ, Kim (Lệ Sơn, La Hà, Cảnh Dương,
Thổ Ngoạ, Văn Xá, Võ Xá, Cổ Hiền, Kim Nại). Lệ Sơn - ngôi làng có dạng
hình đầu con rồng với chiều dài từ đầu làng đến cuối làng khoảng 7km (theo
đường chim bay), chỗ rộng nhất khoảng chừng 4km, diện tích khoảng 16km2.
Theo nhà Quảng Bình học Nguyễn Tú thì sở dĩ “Lệ Sơn được xếp vào bát
danh hương vì người Lệ Sơn từ nam phụ đến lão ấu ai cũng thuộc sách Tam
tự kinh và Minh tâm bảo giám, phự nữ ai cũng thuộc Truyện Kiều...”[4; 256].
Làng Lệ Sơn là làng có nhiều trai tài gái sắc trai thì chăm học, chăm làm

như “Lương Duy Chí nhà không có tiền mua dầu nên phải lên chùa nhặt chân
hương về đốt hay bắt đom đóm thả vào chai làm đèn để học tập và thành tài.
Con gái Lệ Sơn nổi tiếng da trắng, dài tóc, có người được tuyển vào cung và
được vua Nguyễn gả cho vua Ai Lao”[4; 258].
Như nhà thơ Lê Viết Hạnh đã từng viết:
“ ...Lệ Sơn đẹp cảnh đẹp người
Nam thanh nữ tú bao đời tiếng vang
Lệ Sơn nên xã nên làng
Khen ai kéo giữ bảo tàng thiên nhiên...”
Quê hương Lệ Sơn, với nhiều truyền thống tốt đẹp đã có tác dụng góp
phần hun đúc nên nhân cách của Hoàng Sâm từ tuổi niên thiếu.

14


2.2. Gia đình của Thiếu tướng Hoàng Sâm
Trong lịch sử hào hùng của dân tộc Việt Nam, đã có biết bao anh hùng đi
vào trang sử, tên tuổi của họ mãi mãi là niềm tự hào của dân tộc. Trong những
con người ấy, có những người con của Lệ Sơn, vùng đất “địa linh nhân kiệt” đã
sản sinh ra bao anh hùng, những cán bộ cao cấp trong Quân đội nhân dân Việt
Nam. Có một dòng họ trong bát đại tính của làng Lệ Sơn có nhiều người con
ưu tú cùng sinh ra trên mảnh đất này lại cùng một họ mà cụ Tổ là Thầy đồ Trần
Cảnh Huống, hậu duệ của danh tướng Trần Nguyên Hãn. Một trong những
người con ưu tú của dòng họ đó không thể không nhắc đến Thiếu tướng Hoàng
Sâm - vị tướng nhiều tài năng, huyền thoại. Họ Trần Lệ Sơn là một trong
những họ có công khai canh thành lập làng. Có cụ tổ Trần Cảnh Huống là
người khai trí cho con em Lệ Sơn buổi đầu lập làng.
Theo các nguồn tư liệu lịch sử và cuốn gia phả dòng họ đang lưu giữ tại
họ Trần. Đồng chí Hoàng Sâm tên thật là Trần Văn Kỳ, sinh năm 1915 trong
một trong một gia đình nông dân nghèo ở làng Lệ Sơn (nay là xã Văn Hóa),

huyện Tuyên Hóa, tỉnh Quảng Bình. Ông nội của ông là Trần Hách sinh
được hai người con trai: Trần Ngổng và Trần Hạc. Ông Trần Ngổng sinh
được 3 người con trai là: Trần Văn Kỳ (Hoàng Sâm), Trần Khôi và Trần
Khoa. Ông Trần Hạc không có con (về sau xin một người làm con nuôi là
ông Trần Nam Tiến). Ông Trần Khôi (em thứ 2 của đồng chí Trần Kỳ) là
cán bộ quân đội nghỉ hưu với quân hàm Đại úy và từ trần tại thành phố Vinh
- tỉnh Nghệ An. Ông Trần Khoa (em trai thứ 3) cũng đều phục vụ trong
Quân đội và trở thành những sĩ quan ưu tú của Quân đội nhân dân Việt Nam
anh hùng, trong đó có vị tướng tài ba Hoàng Sâm.
Mải mê hoạt động cách mạng, nên ngoài 30 tuổi, Thiếu tướng Hoàng
Sâm mới cưới vợ. Sau năm 1945, Bác Hồ thấy nhiều cán bộ cách mạng đi
theo mình, vì quá dấn thân, quá hi sinh cho sự nghiệp lý tưởng mà quên mất
vợ con, nên rất chú ý đến việc tác thành chuyện nhân duyên cho các cán bộ
của mình. Thiếu tướng Hoàng Sâm là một trong số đó. Ông nên duyên vợ
chồng với cô giáo Mỹ Lệ, trước khi ông được phong tướng hơn một năm.
Tướng Hoàng Sâm và bà Mỹ Lệ sinh được 3 người con. Người con gái đầu
tên là Hoàng Mộng Liên sinh năm 1949. Người con thứ hai tên là Hoàng
Sùng sinh năm 1952, và người con trai út tên là Hoàng Hải sinh năm 1961.
15


2.3. Sơ lược về tiểu sử của Thiếu tướng Hoàng Sâm (1915-1968)
2.3.1 Tiểu sử
Tuổi thơ của cậu bé Kỳ có 12 năm gắn bó với quê hương Lệ Sơn (19151927) mảnh đất giàu truyền thống văn hóa đã nuôi dưỡng tâm hồn và nâng
bước ông những năm đầu đời. Lớn lên trong cảnh quê hương, đất nước lầm
than, nô lệ. Những năm 1915-1927, Lệ Sơn là một làng quê thuần nông, vụ
chiêm thường hạn hán, vụ hè thu thì lũ lụt lại thêm nạn bóc lột hằng năm của
thực dân, phong kiến. Gia đình Hoàng Sâm cũng như hầu hết người dân nơi
đây phải sống cuộc đời nghèo khó, thiếu thốn.
Năm 1927, để tìm kế mưu sinh vợ chồng cố Trần Ngổng đã quyết định

đưa con cái di cư sang Thái Lan tìm kế sinh nhai. Hoàng Sâm phải rời quê
hương theo cha mẹ sang sinh sống tại Nakhon rồi Chiềng Mai (Thái Lan). Tại
đây cậu bé Kỳ được bố mẹ cho đi học tại một trường của Việt kiều ở Thái Lan
do những người yêu nước lập ra.
Năm 1928, Nguyễn Ái Quốc từ châu Âu về Thái Lan hoạt động trong
Việt kiều. Qua hoạt động, thấy bé Kỳ mới 12 tuổi nhưng sáng dạ, nhanh
nhẹn nên Thầu Chín chọn làm liên lạc viên. Dưới sự dìu dắt, giáo dục của
Thầu Chín, từ đây Hoàng Sâm bắt đầu bước vào con đường hoạt động cách
mạng. Hơn một năm (từ tháng 7 năm 1928 đến cuối năm 1929), Trần Văn
Kỳ đã theo Thầu Chín đi khắp các tỉnh trên đất Thái, vừa làm, vừa học, rải
truyền đơn, vận động bà con Việt kiều tham gia phong trào yêu nước. Cuối
năm 1929, Thầu Chín ( bí danh của Nguyễn Ái Quốc) rời khỏi Thái Lan, Trần
Văn Kỳ ở lại tiếp tục học văn hóa và hoạt động cách mạng trong Việt kiều.
Năm 1933, Trần Văn Kỳ được kết nạp vào Đoàn Thanh niên Cộng sản
rồi sau đó được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương, phụ trách địa điểm
liên lạc, in, phát truyền đơn. Năm 1934 ông bị mật thám Thái Lan bắt ở Băng
Cốc rồi giam một năm đến năm 1935 và bị trục xuất về nước (về quê hương).
Sau khi bị trục xuất Trần Văn Kỳ không về quê nhà mà lại tìm cách sang
Trung Quốc bắt liên lạc với các đồng chí trong tổ chức. Đến Nam Ninh,
Quảng Tây, Trần Văn Kỳ gặp đồng chí Phùng Chí Kiên - Ủy viên thường vụ
Trung ương Đảng, cũng là một học trò xuất sắc của chủ tịch Hồ Chí Minh và
được đồng chí Kiên cử đi học tiếng Trung Quốc. Trần Văn Kỳ sang tham gia

16


đội du kích kháng Nhật của Đảng Cộng sản Trung Quốc ở biên khu Điền Kiềm - Quế nằm trong 3 tỉnh Vân Nam, Quảng Tây, Quý Châu.
Đầu năm 1938, Trần Văn Kỳ được đồng chí Hoàng Văn Thụ - Xứ ủy
Bắc Kỳ cho về Cao Bằng và tham gia Tỉnh ủy Cao Bằng. Ông được giao phụ
trách cơ quan in và thường trực Tỉnh ủy. Hoạt động tại Cao Bằng nhưng

không có thẻ thuế thân, nên ông bị thực dân Pháp bắt và giam 6 tháng.
Từ năm 1939, Châu ủy Hà Quảng đã phát động nhân dân lập hội chống
phỉ, ông nhận được lệnh đi thu phục các nhóm thổ phỉ.
Mùa thu năm 1940, Trần Văn Kỳ cùng một số đồng chí sang Tĩnh Tây
(Trung Quốc) tìm bắt liên lạc với cấp trên và đã vào học ở trường quân sự do
Trương Bội Công người Việt Nam thành lập.
Tại Trung Quốc, Trần Văn Kỳ gặp lại Thầu Chín (Nguyễn Ái Quốc) và
được Người đặt cho bí danh là Hoàng Sâm.
Cuối năm 1940, Bác Hồ mở lớp huấn luyện cán bộ về công tác tổ chức
các đoàn thể quần chúng nhằm chuẩn bị thành lập Mặt trận dân tộc dân chủ
rộng rãi. Hoàng Sâm cùng theo học lớp này. Thời gian này, Hoàng Sâm là Ủy
viên liên Tỉnh ủy Cao - Bắc - Lạng (Cao Bằng - Bắc Cạn - Lạng Sơn).
Cuối năm 1941, đội du kích đầu tiên của Cao Bằng gồm 12 người được
thành lập ở Pác Bó, do đồng chí Lê Thiết Hùng làm Đội trưởng, đồng chí Lê
Quảng Ba làm Chính trị viên và Đội phó là đồng chí Hoàng Sâm. Để tiện cho
hoạt động công tác trong môi trường mới, Hoàng Sâm được đổi tên thành
Trần Sơn Hùng.
Từ giữa năm 1943, đồng chí được giao nhiệm vụ tổ chức bảo vệ các tổ
xung phong Nam tiến. Đồng chí đã chỉ huy đội vũ trang “hộ lương, diệt ác”
trừng trị bọn Việt gian phản động và các nhóm quân Pháp đang gây tội ác ở
Nguyên Bình, Ngân Sơn, Chợ Rã.
Ngày 22 tháng 12 năm 1944, Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng
quân được thành lập. Hoàng Sâm được chỉ định làm Đội trưởng.
Trong thời kỳ tiền khởi nghĩa và Tổng khởi nghĩa tháng Tám 1945,
Hoàng Sâm tham gia xây dựng và bảo vệ khu giải phóng, chỉ huy đánh quân
Nhật ở Thái Nguyên giành chính quyền. Sau đó, Chi đội trưởng Hoàng Sâm
được lệnh của Võ Nguyên Giáp đưa Chi đội của mình tiến về Vĩnh Yên diệt
bọn Việt Nam Quốc dân Đảng phản động Đỗ Đình Đạo. Sau khi hoàn thành
17



nhiệm vụ ở Vĩnh Yên, ông được lệnh đưa bộ đội về Sơn Tây, bảo vệ chính
quyền cách mạng ở phía Tây và Tây Bắc Hà Nội.
Năm 1947, Mặt trận Tây Tiến được thành lập do Hoàng Sâm trực tiếp
làm Chỉ huy trưởng, sau đó làm Khu trưởng chiến khu II và III.
Trước những đóng góp lớn trên chiến trường như vậy, ngày 01 tháng 01
năm 1948, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 110/SL phong quân hàm
Thiếu tướng cho Hoàng Sâm.
Năm 1951, Thiếu tướng Hoàng Sâm được cấp trên điều làm Phái viên
của Bộ Quốc phòng.
Năm 1953 đến 1954, đồng chí được cử làm Đại đoàn trưởng Đại đoàn
320. Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, đồng chí nhận nhiệm vụ tiếp quản thành
phố Hải Phòng.
Cuối năm 1955, đồng chí được cử làm Tư lệnh Quân khu Tả Ngạn, rồi
Tư lệnh Quân khu Hữu Ngạn.
Năm 1960, ông được bầu làm Đại biểu Quốc hội khóa II (1960-1964).
Năm 1962-1964, Hoàng Sâm được Bộ Chính trị cử sang làm nhiệm vụ
quốc tế tại Lào với bí danh Chăn Di. Năm 1964, ông tiếp tục được bầu làm
Đại biểu quốc hội khoá III.
Giữa năm 1968, Thiếu tướng Hoàng Sâm được lệnh vào làm Tư lệnh
Quân khu Trị Thiên. Tháng 12 năm 1968 Thiếu tướng Hoàng Sâm đã hi sinh
anh dũng tại chiến trường Trị Thiên.

18


CHƯƠNG 3
ĐÓNG GÓP CỦA THIẾU TƯỚNG HOÀNG SÂM TRONG LỊCH SỬ
VIỆT NAM CẬN - HIỆN ĐẠI
3.1. Thời gian hoạt động và xây dựng trong tổ chức yêu nước và cách

mạng tại Thái Lan từ năm 1928-1935
*Làm liên lạc và tuyên truyền, vận động Việt kiều tham gia cách
mạng
Năm 1928-1929, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc về Na Khon (Thái Lan) hoạt
động trong Việt Kiều. Tại đây, Nguyễn Ái Quốc đã đến nhà ông Hoe Lợi
đóng vai phụ bán thuốc bắc cho gia đình và Người lấy tên là Lang Tín (Thầu
Chín). Qua hoạt động thấy cậu bé Kỳ mới 12 tuổi nhưng sáng dạ, nhanh nhẹn
nên Thầu Chín (bí danh của Nguyễn Ái Quốc trong thời gian hoạt động tại
Thái Lan) đã chọn Hoàng Sâm làm liên lạc viên. Dưới sự dìu dắt của Thầu
Chín từ đây Trần Văn Kỳ bắt đầu bước vào con đường hoạt động cách mạng
đầy khó khăn và thử thách. Hơn một năm (từ tháng 7 năm 1928 đến cuối năm
1929) Trần Văn Kỳ đã theo Thầu Chín đi khắp các tỉnh trên đất Thái Lan, vừa
làm vừa học, vừa tham gia rải truyền đơn, vận động bà con Việt kiều tham gia
phong trào yêu nước. Điều này chứng tỏ tình yêu dân tộc của ông rất lớn. Mặc
dù sống ở nước ngoài nhưng vẫn luôn hướng về Tổ quốc. Đây cũng là một nét
đặc biệt của Trần Văn Kỳ, nhiệt tình, có trách nhiệm trong công việc được
giao không ngại khó, ngại khổ.
Cuối năm 1929, Nguyễn Ái Quốc rời Xiêm qua Trung Quốc chuẩn bị
Hội nghị thống nhất các tổ chức Cộng sản ở Việt Nam để thành lập Đảng
Cộng sản. Mặc dù rất khao khát được theo Nguyễn Ái Quốc sang Trung Quốc
để có cơ hội gặp gỡ, học hỏi những người cộng sản từ trong nước qua, nhưng
theo sự phân công của tổ chức Đảng tại Xiêm và ý kiến của Thầu Chín, Trần
Văn Kỳ ở lại để tiếp tục học văn hóa và hoạt động cách mạng trong Việt kiều
ở Thái Lan. Mặc dù tuổi đang rất nhỏ nhưng cậu bé Kỳ đã có ý thức học hỏi,
biết chấp hành sự phân công nhiệm vụ của tổ chức Đảng và Thầu Chín. Có
thể thấy rõ Trần Văn Kỳ là "cầu nối" giữa Thầu Chín và đồng bào Việt kiều
tại Thái Lan. Trần Văn Kỳ đã làm tốt công tác dân vận, tuyên truyền, vận
động bà con Việt kiều tham gia cách mạng. Chính vì tích cực hoạt động cách
mạng nên năm 1933 Hoàng Sâm được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông
19



Dương khi ông vừa tròn 18 tuổi, ông được giao phụ trách công tác in ấn phát
tán truyền đơn của Hội Việt kiều yêu nước tại Thái Lan. Có thể thấy rằng
những hoạt động cách mạng của Trần Văn Kỳ đã được Đảng, lãnh tụ Nguyễn
Ái Quốc tin tưởng.
*Trung thành với Đảng, bảo vệ Đảng kiên cường bất khuất trước sự
tra xét của kẻ thù
Năm 1934, nhận thấy ở con người này tiềm ẩn một mối hiểm họa khôn
lường, mật thám Thái Lan đã bắt ông và giao cho lãnh sự Pháp ở Băng Cốc.
Mặc dù bị tra tấn dã man nhưng Trần Văn Kỳ vẫn không khai nữa lời, thể
hiện sự kiên định, gan dạ, dũng cảm của một người chiến sĩ cách mạng. Trần
Văn Kỳ xứng đáng là một người học trò xuất sắc của lãnh tụ Nguyễn Ái
Quốc. Sau khi không khai thác được gì để kết tội nên Lãnh sự Pháp đã buộc
phải trao trả Trần Văn Kỳ lại cho nhà cầm quyền bản địa. Ngay sau đó Trần
Văn Kỳ bị chính quyền Thái Lan trục xuất khỏi Thái Lan. Sau khi bị trục
xuất, ông không bỏ cuộc mà vẫn tiếp tục con đường cách mạng của mình, thể
hiện sự kiên định, lập trường chính trị vững vàng. Rời Thái Lan ông không
trở về quê hương Quảng Bình theo lệnh trục xuất của Cảnh sát Thái Lan mà
tìm đường sang Trung Quốc để tiếp tục hoạt động.
3.2 Hoạt động cách mạng tại Trung Quốc từ năm 1937-1940
Sau khi bị trục xuất ông đã sang Trung Quốc để tiếp tục hoạt động cách
mạng. Đến Quảng Tây, Trần Văn Kỳ bắt liên lạc được với một cơ sở cách
mạng và qua đó tiếp xúc được với Phùng Chí Kiên - Ủy viên thường vụ
Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương. Không nắm được ông, mật thám
Pháp đã bắt và thủ tiêu bố của ông, ngọn lửa cách mạng trong ông càng bùng
cháy.
Cuối năm 1937, Trần Văn Kỳ được tổ chức phái về nước hoạt động.
Được trở về nước sau 10 năm xa cách, những tưởng sẽ được hoạt động lâu dài
trên đất mẹ; thế nhưng Trần Văn Kỳ lại bị chính quyền thực dân Pháp bắt tại

Cao Bằng chỉ vì không có thẻ thuế thân. Ra khỏi nhà tù thực dân ông lại vượt
biên trở lại Trung Quốc.
Năm 1938, cùng vài đồng chí khác, Trần Văn Kỳ sang tham gia đội du
kích kháng Nhật của Đảng Cộng sản Trung Quốc ở biên khu Điền - Kiềm Quế nằm trong 3 tỉnh Vân Nam, Quảng Tây, Quý Châu. Đội du kích này khá
20


lớn, hoạt động suốt dọc biên giới Việt - Trung, từ Trà Lĩnh - Long Bang đến
Sóc Giang - Bình Mãng. Hơn mười năm bôn ba nơi "đất khách quê người" từ
Thái Lan rồi qua Trung Quốc, Trần Văn Kỳ vẫn thổn thức một nỗi niềm về
quê hương Quảng bình da diết, vẫn đau đáu một niềm tin gặp lại những người
đồng hương cùng chí hướng để biết thông tin về quê nhà.
"Giữa năm 1940, Trần Văn Kỳ quyết định rời "Điền- Kiềm- Quế- Biên
khu du kích Đội" tới Tĩnh Tây và gặp lại Thầu Chín, được Người đặt bí danh:
Hoàng Sâm. Đặc biệt, trong thời gian theo học tại trường Trương Công Bội
tại Tĩnh Tây ông đã được học bài bản về quân sự. Tại đây, Hoàng Sâm đã gặp
được Dương Hoài Nam (tức Võ Nguyên Giáp)" [19; 24] người đồng chí và
cũng là người đồng hương của mình.
Cuối năm 1940, Hoàng Sâm tham dự lớp huấn luyện cán bộ do lãnh tụ
Nguyễn Ái Quốc cùng các đồng chí Võ Nguyên Giáp, Phùng Chí Kiên, Phạm
Văn Đồng, Vũ Anh tổ chức và trực tiếp giảng dạy. "Sau lần gặp gỡ quan
trọng này Hoàng Sâm cùng với 40 cán bộ khác của Cao Bằng từ bỏ trường
Trương Công Bội trở về nước hoạt động" [19; 24].
3.3 Hoạt động cách mạng ở Việt Nam từ năm 1941-1945
*Bảo vệ Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, cán bộ lãnh đạo của Đảng và
chống thổ phỉ để phát triển cơ sở cách mạng ở Hà Quảng
Sau nhiều năm bôn ba ngày 28/1/1941, Nguyễn Ái Quốc từ Trung Quốc
về Cao Bằng, Hoàng Sâm cùng Phùng Chí Kiên, Lê Quảng Ba, Đặng Văn
Cáp bảo vệ Người trở về an toàn. Tháng 5/1941, Trung ương Đảng tổ chức
Hội nghị lần thứ 8 tại Khuổi Nậm, Hoàng Sâm được giao tổ chức đường dây

qua Lạng Sơn đón các đại biểu về dự hội nghị. Việc đảm bảo đưa đón các đại
biểu về Pác-Bó an toàn là cực kỳ khó khăn và nguy hiểm nhưng Hoàng Sâm
đã hoàn thành xuất sắc nhiệm.
Cuối năm 1941, Đội du kích Pác-Bó được thành lập. Với bí danh là Trần
Sơn Hùng, ông được cử làm Đội phó, sau đó làm Đội trưởng. Đội du kích
gồm chủ yếu những đội viên là những người dân tộc thiểu số của tỉnh Cao
Bằng. Nhiệm vụ của Đội là bảo vệ căn cứ, bảo vệ Trung ương Đảng, lãnh tụ
Nguyễn Ái Quốc; vừa tham gia xây dựng cơ sở cách mạng, vừa tiễu trừ thổ
phỉ tạo điều kiện cho các hội Cứu Quốc ở vùng Lục khu (Hà Quảng) phát
triển.
21


Trên cương vị là Đội trưởng Đội vũ trang Cao Bằng, Trần Sơn Hùng
không chỉ nổi lên là một nhà hoạt động cách mạng có kinh nghiệm, mà còn là
một cán bộ dân vận giỏi. Hàng chục năm đã trôi qua nhưng trong kí ức của
người dân Cao Bằng vẫn không thể nào quên được câu chuyện đời thực cũng
như những câu chuyện nhuốm màu huyền thoại về Trần Sơn Hùng một con
người mà nhân dân yêu quý tin phục; còn kẻ thù thì nể sợ. Đồng đội của Trần
Sơn Hùng thường gọi ông là "Tướng quân"; các trùm phỉ khét tiếng vùng biên
giới phía Bắc gọi ông là "ông Trần". Đầu năm 40 của thế kỉ XX, ở vùng biên
giới Cao Bằng nạn thổ phỉ hoành hành dữ dội. Các toán thổ phỉ chia nhau địa
bàn hoạt động, sống ngang tàng theo kiểu "giang hồ hảo hán" không sợ bất cứ
một lực lượng nào, không nể trọng bất cứ ai. Ấy thế mà tại vùng biên ải này
có hai con người mà chúng vừa sợ, vừa nể trọng - đó là "ông Trần" (tức Trần
Sơn Hùng) và "ông Lê" (tức Lê Quảng Ba). Hồi đó, để đối phó có hiệu quả
với bọn thổ phỉ, Châu ủy Hà Quảng chủ trương tiêu diệt những toán phỉ nhỏ,
tạm thời hòa hoãn với những toán phỉ có thế lực lớn. Tuy nhiên, với những
toán thổ phỉ này, việc hòa hoãn không dễ một chút nào. Ấy vậy mà chỉ mới
nghe danh "ông Trần" những trùm phỉ khét tiếng như: Voòng A Sáng, Voòng

A Sình, Lý Xìu đều đã phải kiêng nể. Lâu nay nhiều người chỉ mới biết và
khâm phục biệt tài bắn súng của Tạ Đình Đề; nhưng có lẽ ít người biết được
tài bắn súng của "Tướng quân" Trần Sơn Hùng. Với khả năng uống một lúc
vài lít rượu không say, phi ngựa không cần yên cương, bắn súng bằng cả hai
tay bách phát bách trúng, Trần Sơn Hùng đã không quản hiểm nguy, nhiều lần
một mình vào tận sào huyệt của các trùm phỉ để thu phục chúng bằng các
cuộc thách đấu bắn súng, phi ngựa, uống rượu, bắn cung. Ông La Thanh (dân
tộc Tày - quê Cao Bằng), một đội viên Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng
quân, người được chứng kiến nhiều cuộc đấu trí và thách đấu giữa Trần Sơn
Hùng và trùm phỉ Lý Xìu kể lại rằng: sau nhiều lần chạm trán như vậy, Lý
Xìu - một con người chưa từng biết sợ ai đã phải thốt lên; "tôi thật có mắt mà
không ngươi, đứng trước núi Thái Sơn mà không biết. Xin bái phục, bái
phục" và xin nhận làm anh em kết nghĩa với Trần Sơn Hùng [19]. Những tên
trùm phỉ này gốc người Trung Quốc chúng có tục lệ quý trọng người đồng
hương, đồng họ, đồng môn, đồng tuổi, đồng liêu.

22


×