Tải bản đầy đủ (.pdf) (108 trang)

luận văn Nhà ở của người Tày ở xã Bình Yên, huyện Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.17 MB, 108 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN THỊ DUNG

NHÀ Ở CỦA NGƢỜI TÀY Ở XÃ BÌNH YÊN,
HUYỆN ĐỊNH HÓA, TỈNH THÁI NGUYÊN

LUẬN VĂN THẠC SĨ DÂN TỘC HỌC

HÀ NỘI, 2017


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN THỊ DUNG

NHÀ Ở CỦA NGƢỜI TÀY Ở XÃ BÌNH YÊN,
HUYỆN ĐỊNH HÓA, TỈNH THÁI NGUYÊN

Chuyên ngành: Dân tộc học
Mã số: 60.31.03.10

LUẬN VĂN THẠC SĨ DÂN TỘC HỌC

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. VÕ THỊ MAI PHƢƠNG


HÀ NỘI, 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiêm cứu của riêng tôi. Các số liệu
trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố. Các thông tin, tài liệu
trình bày và trích dẫn trong luận văn đều được nghi rõ nguồn gốc.
Hà Nội, ngày 28 tháng 8 năm 2017
Học viên

Trần Thị Dung


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luân văn Thạc sĩ với đề tài “Nhà ở của người Tày ở xã Bình
Yên, huyện Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên”, ngoài sự nỗ lực của bản thân, tôi đã nhận
được sự giúp đỡ quý báu, có hiệu quả của nhiều cơ quan, tập thể và cá nhân. Nhân
dịp hoàn thành luận văn tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến người hướng
dẫn khoa học là TS. Võ Thị Mai Phương, người đã trực tiếp hướng dẫn, giúp đỡ,
giúp động viên để tôi hoàn thành luận văn thạc sĩ của mình.
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy giáo, cô giáo Khoa Dân tộc học và Nhân
học, Học viện Khoa học xã hội đã trang bị cho học viên những kiến thức chuyên
ngành trong suốt quá trình học tập tại Học viện Khoa học xã hội.
Tôi xin chân trọng cảm ơn Ban Lãnh đạo Bảo tàng Dân tộc học Việt Namnơi tôi công tác, Phòng Quản lý và đào tạo Học viện Khoa học xã hội, Khoa Dân
tộc học và Nhân học đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong quá trình học tập,
nghiên cứu cũng như giúp đỡ tôi các thủ tục cần thiết trong quá trình viết và bảo vệ
luận văn.
Tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn của mình đến Ban Dân tộc tỉnh Thái
Nguyên, Ủy ban nhân dân huyện Định Hóa, Ủy ban nhân dân xã Bình Yên, đặc biệt
là đồng bào người Tày ở xã Bình Yên, huyện Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên đã đón

tiếp nồng hậu, giúp đỡ nhiệt tình và cung cung cấp cho tôi những thông tin, tư liệu
quý giá để hoàn thành đề tài.
Cuối cùng, tác giả xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới gia đình, bạn bè,
đồng nghiệp đã động viên, giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và hoàn thành luận văn.
Hà Nội, ngày 28 tháng 8 năm 2017
Học viên

Trần Thị Dung


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

TT

Ký hiệu

Nội dung

1

ATK

An toàn khu

2

CP

Chính phủ


3

DTHVN

4



Nghị định

5

Nxb

Nhà xuất bản

6

Tr

Trang

7

TS

Tiến sĩ

8


UBND

Dân tộc học Việt Nam

Ủy ban nhân Dân


Trang
MỞ ĐẦU

1

CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ KHÁI QUÁT ĐỊA BÀN
NGHIÊN CỨU

10

1.1.

Cơ sở lý luận

10

1.2.

Cơ sở lý thuyết

13

1.3.


Khái quát về địa bàn nghiên cứu

15

Tiểu kết chương 1

22

CHƢƠNG 2: CÁC YẾU TỐ VẬT CHẤT, XÃ HỘI VÀ
PHONG TỤC TẬP QUÁN LIÊN QUAN ĐẾN NGÔI NHÀ

23

2.1.

Các yếu tố vật chất và quá trình dựng nhà của người Tày

23

2.2.

Các mối quan hệ xã hội thể hiện qua mặt bằng sinh hoạt

39

2.3.

Các phong tục tập quán liên quan đến ngôi nhà


46

Tiểu kết chương 2

58

CHƢƠNG 3: BIẾN ĐỔI CỦA NGÔI NHÀ VÀ VIỆC BẢO
TỒN, PHÁT HUY CÁC GÍA TRỊ VĂN HÓA CỦA NHÀ Ở
CỦA NGƢỜI TÀY

59

3.1.

Những biến đổi của nhà ở người Tày

59

3.2.

Những yếu tố tác động đến sự biến đổi nhà ở của người Tày

65

3.3.

Bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống của nhà ở người

68


Tày trong bối cảnh hiện nay
Tiểu kết chương 3

77

KẾT LUẬN

78

TÀI LIỆU THAM KHẢO

81

PHỤ LỤC


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Người Tày là dân tộc thiểu số đông người nhất ở Việt Nam, dân tộc Tày là
một trong 8 dân tộc thuộc nhóm ngôn ngữ Tày - Thái. Theo số liệu thống kê của
Ban Dân tộc tỉnh Thái Nguyên năm 2015, người Tày trong cả nước gồm 1.766.927
nhân khẩu, trong đó tỉnh Thái Nguyên có 123.1971 nhân khẩu. Người Tày cư trú
hầu hết các tỉnh thành trong cả nước, trong đó tập trung ở các tỉnh thuộc vùng núi
phía Đông Bắc, Tây Bắc ở nước ta như: Thái Nguyên, Lạng Sơn, Cao Bằng, Tuyên
Quang, Bắc Giang, Bắc Kạn, Hà Giang, Yên Bái... Sau năm 1975 một bộ phận
người Tày đã di cư vào các tỉnh phía Nam và Tây Nguyên để làm ăn và sinh sống.
Nhà ở là một trong các thành tố của văn hóa vật chất, là nhu cầu sinh hoạt
không thể thiếu của con người. Do điều kiện tự nhiên, xã hội của từng vùng khác
nhau mà mỗi dân tộc có cách làm nhà riêng của từng dân tộc đó. Nó thể hiện sự
khác biệt, đặc trưng của ngôi nhà cũng như yếu tố văn hóa, xã hội và phong tục tập

quán của tộc người đó. Người Tày ở nước ta thường sinh sống ở vùng thung lũng,
nhà dựng dưới chân núi, bên sườn đồi hoặc trên bãi đất ven suối, ven sông theo kiểu
tựa lưng vào núi và hướng ra cánh đồng.
Nhà ở nói chung và nhà của người Tày nói riêng luôn là một trong những đề
tài nghiên cứu được nhiều nhà khoa học trong và ngoài nước quan tâm. Nghiên cứu
về ngôi nhà ở của dân tộc Tày ở xã Bình Yên, huyện Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên
cho ta thấy được mặt vật chất của ngôi nhà, một trong những thành tố văn hóa động,
cho ta thấy được sự thay đổi của môi trường sống của từng vùng khác nhau mà mỗi
dân tộc thể hiện qua cách làm nhà và sinh sống trong ngôi nhà của họ. Ngoài ra,
nghiên cứu nhà ở của người Tày ở huyện Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên còn đóng
góp thêm những hiểu biết về văn hóa truyền thống và sự biến đổi trong bối cảnh
hiện nay của nước ta, nhất là vấn đề bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa tộc người
hướng tới phát triển bền vững. Nghiên cứu nhà ở cho ta thấy được bản sắc văn hóa
1

Theo số liệu thống kê của Ban Dân tộc tỉnh Thái Nguyên năm 2015

1


dân tộc, góp phần xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc theo nghị quyết hội nghị lần thứ IX, Khóa XI của Ban Chấp hành
Trung ương Đảng. “Với mục tiêu Bảo tồn di sản văn hóa, các ngôi nhà hay các công
trình trưng bày ngoài trời ở Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam thường được giữ
nguyên mẫu, trong trường hợp bất khả kháng thì tái tạo theo nguyên mẫu, kể cả về
chất liệu và kỹ thuật chế tác” [32, tr.7]. Bảo tàng đã tiến hành nhiều chuyến nghiên
cứu, khảo sát rất nhiều tỉnh khác nhau về nhà ở của người Tày, nhưng đã chọn ra
ngôi nhà ở Định Hóa, Thái Nguyên ở đây mang nhiều nét kiến trúc đặc trưng cho
nhà người Tày ở vùng phía Đông Bắc. Ngoài ra, hiện nay, tôi đang công tác tại Bảo
tàng Dân tộc học Việt Nam, với nhiệm vụ thuyết minh cho khách tham quan trong

và ngoài nước về ngôi nhà của người Tày ở Định Hóa, Thái Nguyên, có cơ hội tiếp
xúc, làm việc với những nghệ nhân người Tày đã dựng ngôi nhà Tày trong khuôn
viên Bảo tàng và những người Tày là khách tham quan. Chính vì vậy, việc tìm bản
sắc và văn hóa của họ thông qua ngôi nhà đã cuốn hút tôi lựa chọn đề tài “Nhà ở
của người Tày ở xã Bình Yên, huyện Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên” làm đề tài luận
văn Thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Nhà ở luôn là đối tượng nghiên cứu của nhiều nhà khoa học, thuộc các lĩnh
vực khác nhau, nhất là ngành Dân tộc học/ Nhân học, bởi nhà ở là nơi ăn chốn ở, là
nhu cầu quan trọng trong đời sống xã hội.
2.1. Nghiên cứu của các học giả nước ngoài
Từ lâu, các học giả nước ngoài cũng đã quan tâm đến loại hình nhà cửa của
một vùng văn hóa hay một tộc người nào đó. Chẳng hạn như cuốn House and
Housing: Concept, architecture (Nhà ở và nơi ăn chốn ở: Khái niệm, kiến trúc) do
Seoul CA.Press ấn hành năm 1996; Cuốn House form and culture (Các dạng thức
nhà và văn hóa) của tác giả Rapoport, do Prentice - Hall, Inc xuất bản năm 1969.
Trong đó tác giả dựa trên những dữ liệu về kiến trúc dân gian của nhiều nước từ
châu Á, châu Phi đến châu Âu, chứng minh rằng, chính văn hóa là yếu tố quan
trọng nhất trong việc định hình và xác định những nguyên tắc hình thức trong kiến

2


trúc nhà dân gian [28, tr.34]. Tuy nhiên, ban đầu các công trình khảo cứu về nhà ở
chủ yếu lại do các nhà địa lý học tiến hành. Theo tác giả Sophie Charpenier và
Pierre Clement, phải đến khi xuất hiện các công trình của Demanglon, trong đó có
cuốn Thử phân loại các kiểu nhà ở nông thôn (chủ yếu nước Pháp) xuất bản năm
1920; hay công trình của Dauzat về Sự hình thành theo lịch sử của các kiểu nhà cổ
xưa, xuất bản năm 1924… mới thực sự mở ra con đường cho việc nghiên cứu nhân
học về nhà ở [49, tr.13]. Cũng đã có những công trình nghiên cứu khá chi tiết về

nhà ở của các tộc người thiểu số ở Việt Nam như: Công trình Vietnam Traditional
Folk Houses (Nhà ở cổ truyền Việt Nam) do Bộ Văn hóa - thông tin phối hợp với
trường Đại học phụ nữ Showa thuộc Viện nghiên cứu Văn hóa quốc tế Nhật Bản
nghiên cứu và xuất bản năm 2000. Các công trình nghiên cứu của các học giả nước
ngoài nghiên cứu về kiến trúc nhà ở nói chung và các tộc người nói riêng hầu hết
đều mang tính khái quát.
2.2. Nghiên cứu của các tác giả Việt Nam
2.2.1. Tổng quan nghiên cứu về nhà ở các dân tộc Việt Nam
Đối với các học giả trong nước, nhà ở cũng được các nhà nghiên cứu trú
trọng và quan tâm. Công trình nghiên cứu “Nhà ở cổ truyền của các dân tộc Việt
Nam” xuất bản năm (1993) của tác giả Nguyễn Khắc Tụng đã khảo tả khá chi tiết
các loại nhà ở truyền thống của 22 dân tộc thuộc 5 nhóm ngôn ngữ. Trong đó có đề
cập đến nhà của nhóm ngôn ngữ Tày - Thái. Trong cuốn sách này tác giả cũng giới
thiệu về một số ngôi nhà của người Tày, Nùng cùng với các hình vẽ minh họa chi
tiết về mặt bằng sinh hoạt cũng như các kỹ thuật về các vì kèo, cột. Tuy vậy, tác giả
vẫn chủ yếu tập trung giới thiệu khái quát một ngôi nhà cổ truyền về mặt kỹ thuật
dựng và cách bố trí không gian sinh hoạt còn các yếu tố về sinh hoạt văn hóa, các
nghi thức nghi lễ liên quan đến dựng nhà và diễn ra trong ngôi nhà ít được đề cập
đến.
Kể từ những thập kỷ đầu của thế kỷ XX, khi trên sách báo khoa học bắt đầu
xuất hiện các công trình nghiên cứu về nhà ở các dân tộc nước ta thì nghiên cứu về
nhà ở với cách nhìn là một hiện tượng văn hóa tộc người ngày càng thu hút được sự

3


quan tâm các nhà dân tộc học trong nước. Về số lượng các công trình, năm 1986,
hai nhà dân tộc học Ngô Đức Thịnh và Chu Thái Sơn [56, tr.75] cho biết rằng, đã có
nhiều luận văn hướng sự chú ý vào đề tài này, trong đó các tác giả trong nước có
hơn 70 công trình, còn có tác giả ngoài nước có khoảng 40. Nội dung những luận

văn nghiên cứu trên đã đi nhiều vào khía cạnh khác nhau của nhà ở như kỹ thuật,
môi trường, quan hệ xã hội, văn hóa... Đến khi Nguyễn Khắc Tụng điểm lại tình
hình nghiên cứu văn hóa vật chất từ thập niên 70 thế kỷ trước đến cuối thế kỷ XX
[65, tr.474], đã có khoảng hơn 100 bài và trên 5 cuốn sách viết về nhà cửa các dân
tộc ở Việt Nam, trong đó có tộc người Tày. Ngô Đức Thịnh và Chu Thái Sơn trong
bài Một số vấn đề nghiên cứu về nhà ở của các dân tộc (đặc trưng và mối quan hệ
văn hóa) đã nêu lên những đặc trưng về nhà cửa các dân tộc theo suốt chiều dài đất
nước, từ Trường Sơn - Tây Nguyên đến vùng núi phía Bắc bộ, từ nhà cửa các dân
tộc vùng cao biên giới đến nhà của người Việt ở đồng bằng và ven biển. Bài nghiên
cứu trú trọng nhiều đến yếu tố kỹ thuật và so sánh tương đồng cũng như khác biệt
trong kỹ thuật dựng, trong các dạng thức nhà của các tộc người ở các địa phương
khác nhau để đi đến một kết luận: đặc trưng nhà cửa của các tộc người phản ánh
một mối quan hệ văn hóa dân gian giữa các dân tộc bản địa Việt Nam và cả một số
dân tộc ở Trung Hoa. Công trình cũng bước đầu đề cập đến truyền thống và giao
lưu văn hóa qua những ngôi nhà dân gian của các tộc người [56, tr.75-87].
Gần đây, chúng tôi còn thấy có thêm vài chuyên khảo dân tộc học về nhà ở
của các dân tộc người cụ thể. Đó là các chuyên khảo: Nhà ở của người Triêng ở
Việt Nam của Phạm Văn Lợi (2010) [42] và Nhà ở của người Chăm Ninh Thuận
Truyền thống và biến đổi do Lê Duy Đại làm chủ biên (2011) [18]... Tuy nhiên, đối
với chúng tôi, đáng lưu ý vẫn là hai cuốn Nhà ở truyền thống các dân tộc Việt Nam
(tập 1 và tập 2) của Nguyễn Khắc Tụng [63, 64]. Mặc dù tác giả chưa có điều kiện
mô tả chi tiết nhà ở của các tộc người, nhưng những yếu tố cơ bản nhất của ngôi
nhà đều được nói tới. Đặc biệt, các tư liệu chủ yếu trong công trình này đều là tư
liệu điền dã, được trình bày một cách khoa học dưới dạng mô tả, bản vẽ và ảnh
minh họa, theo một nguyên tắc nhất quán trong toàn bộ cuốn sách. Quan trọng nhất
4


là tác giả đã làm rõ nội hàm của một số thuật ngữ thuộc về ngôi nhà và đưa ra một
vài khái niệm mà trước đó chưa được làm rõ. Trước hết, tác giả đã xác định nội hàm

khái niệm “nhà”, rồi phân biệt sự khác nhau giữa các thành tố văn hóa trong cùng
một ngôi nhà như “cái tạo nên ngôi nhà” và “cái thuộc về ngôi nhà”, phân biệt hai
dạng mặt bằng của ngôi nhà: mặt bằng thiết kế và mặt bằng sinh hoạt. Bên cạnh đó,
tác giả còn nêu lên một số phương pháp, một số nguyên tắc cần được áp dụng vào
việc nghiên cứu nhà cửa của Nguyễn Khắc Tụng đối với ngành Dân tộc học Việt
Nam, mà chúng tôi thấy các nhà dân tộc học sau này đã tiếp thu và thể hiện trong
các công trình nghiên cứu về nhà ở của họ. Như vậy, ngoài khối lượng lớn về tư
liệu, cuốn sách còn đóng góp nhất định về lý luận và phương pháp nghiên cứu về
nhà ở cổ truyền của các dân tộc nước ta với tư cách là một thành tố văn hóa tộc
người.
2.2.2. Tổng quan nghiên cứu về nhà ở của người Tày
Tư liệu điền dã năm 1990 của tác giả Hoàng Minh Lợi lưu tại thư viên Viện
Dân tộc học với tựa đề “Nhà cửa và trang phục của người Tày và Nùng ở Cao
Bằng, Lạng Sơn” cũng đã bước đầu đề cập đến hai loại nhà chính là: Nhà sàn và nhà
đất. Trong đó, tác giả đi sâu về các phần: Kết cấu kỹ thuật; kết cấu mặt bằng; quá
trình dựng một ngôi nhà sàn cùng với những phong tục tập quán và quan niệm có
liên quan. Song tác giả Hoàng Minh Lợi cũng chỉ chú ý phân tích đặc điểm về nhà ở
truyền thống của người Tày, Nùng mà chưa đề cập đến những yếu tố văn hóa tinh
thần có liên quan cũng như sự biến đổi của nó.
Tác phẩm “Nhà sàn truyền thống của người Tày ở vùng Đông Bắc Việt Nam”
của tác giả Ma Ngọc Dung (2004) không chỉ đề cập đặc điểm về môi trường, tự
nhiên ở vùng Đông Bắc, nơi có người Tày cư trú mà còn cho thấy một số đặc trưng
văn hóa Tày. Trong tác phẩm này, tác giả bước đầu đề cập đến các nguyên vật liệu,
quá trình làm nhà sàn của người Tày; sơ lược về lịch sử nhà ở của ngôi nhà sàn
đồng thời ông cũng cấu trúc chung của ngôi nhà sàn của tộc người Tày; những đặc
điểm chung, riêng trong sinh hoạt và những kiêng kỵ có liên quan đến ngôi nhà sàn

5



của người Tày bước đầu được chú ý. Song tác giả cuốn sách này mới chỉ dừng lại ở
nhà sàn truyền thống mà chưa chú ý đến sự biến đổi của nó.
Luận án tiến sỹ của Lê Thị Thúy Hoàn về “Nhà sàn truyền thống của cư dân
Tày ở Chiêm Hóa (Tuyên Quang)” (2010) là công trình nghiên cứu chuyên sâu dưới
góc nhìn văn hóa học, luận án đã thể hiện rõ môi trường tự nhiên, văn hóa, xã hội
cũng như kỹ thuật làm nhà truyền thống của người Tày ở huyện Chiêm Hóa, tỉnh
Tuyên Quang. Mặc dù vậy, khi thực hiện đề tài này, tác giả chưa chú ý đến yếu tố
về văn hóa tộc người, các nghi thức, nghi lễ, phong tục tập quán diễn ra trên ngôi
nhà sàn của người Tày.
Nhà ở của người Tày còn được đề cập đến trong một số đề tài nghiên cứu
khoa học như đề tài: Văn hóa truyền thống một số dân tộc tỉnh Tuyên Quang, do Sở
Văn hóa Thông tin Tuyên Quang thực hiện năm 2001. Trong đề tài này, nhà ở của
người Tày được đề cập đến một cách khái quát với hình dáng, kiến trúc, các công
trình phụ trợ, khuôn viên và cách bố trí nội thất trong ngôi nhà.
Công trình nghiên cứu “Ngôi nhà của người Tày trong khu trưng bày ngoài
trời của Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam” của tác giả La Công Ý (2010), đã cho
chúng ta thấy được bức tranh về đặc điểm của ngôi nhà sàn, quá trình dựng nhà, các
nghi lễ và ẩm thực, âm nhạc có liên quan. Tuy nhiên, công trình nghiên cứu này chủ
yếu mô phỏng nhà ở và các nghi lễ truyền thống của người Tày mà chưa làm rõ
được cách bố trí mặt bằng sinh hoạt trong ngôi nhà và chưa đề cập đến sự biến đổi
của chúng qua các thời kỳ.
Ngoài ra, nhà ở của các dân tộc thiểu số nói chung và của người Tày nói
riêng còn được đề cập đến trong nhiều công trình, nhiều bài nghiên cứu công bố
trên các báo tạp chí như: Một số đề tài nghiên cứu về nhà ở của các dân tộc (đặc
trưng và mối quan hệ văn hóa), của tác giả Ngô Đức Thịnh, Chu Thái Sơn đăng
trên tạp chí Dân tộc học; Vài nét về sự thay đổi cấu trúc nhà sàn người Tày ở Chiêm
Hóa, tỉnh Tuyên Quang của tác giả Lê Thị Thúy Hoàn đăng trên tạp chí Văn hóa
dân gian. Các bài viết này chủ yếu đề cập đến một khía cạnh cụ thể trong quá trình
nghiên cứu về nhà ở mà không mở rộng nghiên cứu các yếu tố văn hóa, tự nhiên, xã
hội khác ảnh hưởng đến quá trình dựng nhà và diễn ra trong ngôi nhà truyền thống.


6


Những tài liệu nói trên là nguồn tư liệu phong phú, giúp tác giả luận văn có cái nhìn
khái quát về lĩnh vực nhà ở nói chung của người người Tày nói riêng. Đây là nguồn
tư liệu quý, gợi mở và được tác giả kế thừa cho luận văn: “Nhà ở của người Tày ở
xã Bình Yên, huyện Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên”.
3. Mục đích nghiên cứu
- Cung cấp một cách có hệ thống tư liệu về giá trị văn hóa, xã hội của người
Tày thông qua ngôi nhà sàn của người Tày ở xã Bình Yên, huyện Định Hóa, tỉnh
Thái Nguyên.
- Nêu lên những biến đổi ngôi nhà sàn của người Tày ở xã Bình Yên, huyện
Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên và xác định yếu tố tạo nên sự biến đổi đó.
- Đề xuất một số giải pháp để bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa vật thể
và phi vật thể thông qua ngôi nhà của người Tày ở Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên nói
riêng và người Tày nói chung.
4. Đối tƣợng, phạm vi, địa bàn nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu chính của luận văn
Đối tượng nghiên cứu chính là nhà ở của người Tày ở xã Bình Yên, huyện
Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên.
4.2. Phạm vi nghiên cứu của luận văn
Phạm vi nội dung nghiên cứu của luận văn này là tập trung nghiên cứu các
yếu tố xã hội và phong tục tập quán liên quan đến ngôi nhà sàn của người Tày ở xã
Bình Yên, huyện Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên.
Luận văn nghiên cứu về nhà ở của người Tày trước và sau năm đổi mới
(1986).
4.3. Địa bàn nghiên cứu
Địa bàn nghiên cứu chính của luận văn này là ở xã Bình Yên, huyện Định
Hóa, tỉnh Thái Nguyên nơi có nhiều người Tày cư trú. Đây là nơi còn lưu giữ được

nhiều nhà ở truyền thống của người Tày.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận

7


Cơ sở lý luận của luận văn: Dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa duy
vật lịch sử, duy vật biện chứng của Chủ nghĩa Mác - Lê nin; Quan điểm của Đảng,
Nhà nước ta và tư tưởng Hồ Chí Minh về bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa
truyền thống...
5.2. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp điền dã dân tộc học: Phương pháp nghiên cứu chính của luận
văn là phương pháp điền dã dân tộc học. Đây là phương pháp chủ đạo được tác giả
sử dụng trong luận văn để thu thập tư liệu. Tháng 12/2016 và tháng 1- 3/2017 tôi đã
đi điền dã nhiều đợt tại xã Bình Yên, huyện Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên. Tại địa
bàn nghiên cứu, tôi sử dụng phương pháp quan sát trực tiếp, quan sát tham dự,
phỏng vấn sâu, thảo luận nhóm, trao đổi, tọa đàm, đo vẽ kỹ thuật, chụp ảnh khảo tả.
Đối tượng phỏng vấn là những người cao tuổi, hiểu biết về phong tục và kỹ thuật
làm nhà của người Tày, những gia đình mới làm nhà, những người làm công tác
chính quyền tại địa phương... Nội dung phỏng vấn thường được chuẩn bị trước với
hệ thống các câu hỏi mở, để người trả lời có thể đưa ra những ý kiến riêng của
mình.
- Phương pháp thu thập dữ liệu thứ cấp: Tác giả thu thập dữ liệu thứ cấp
thông qua các công trình nghiên cứu đã công bố về kiến trúc nhà ở các dân tộc Việt
Nam, nhà ở truyền thống của người Tày, văn hóa dân tộc Tày. Ngoài ra còn có các
báo cáo về tình hình kinh tế - xã hội, báo cáo tổng kết, báo cáo chuyên đề, những số
liệu thống kê về dân số, dân tộc của UBND tỉnh Thái Nguyên, UBND huyện Định
Hóa và UBND xã Bình Yên... để tham khảo và so sánh.
Ngoài các phương pháp trên chúng tôi còn sử dụng phương pháp tổng hợp,

phân tích, hệ thống, so sánh lịch đồng đại và lịch đại trong việc tìm hiểu về nhà ở
của người Tày.
6. Đóng góp của luận văn
6.1. Là công trình có tính hệ thống chuyên sâu về nhà ở với các yếu tố xã hội
và phong tục tập quán liên quan đến ngôi nhà của người Tày tại xã Bình Yên, huyện

8


Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên đồng thời nêu lên các biến đổi của ngôi nhà cũng như
các yếu tố tác động đến sự biến đổi đó.
6.2. Đề tài này còn góp phần xây dựng chương trình giáo dục về văn hóa
truyền thống, tạo nên ý thức trách nhiệm về giữ gìn di sản văn hóa người Tày trong
cộng đồng/khách tham quan tại Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam cũng như tại cộng
đồng người Tày ở huyện Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên.
6.3. Những kết quả nghiên cứu của luận văn là cơ sở khoa học bước đầu
nhằm bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của người Tày
thông qua nhà ở của họ.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và phụ lục, luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lí luận và khái quát địa bàn nghiên cứu.
Chương 2: Các yếu tố vật chất, xã hội và phong tục tập quán liên quan đến
ngôi nhà.
Chương 3: Biến đổi của ngôi nhà và việc bảo tồn, phát huy các giá trị văn
hóa của nhà ở của người Tày.

9


Chƣơng 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NHÀ Ở VÀ
KHÁI QUÁT ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Một số khái niệm cơ bản
- Nhà: Theo từ điển Tiếng Việt [75, tr.699]: Nhà là công trình xây dựng có
mái, có tường vách để ở hay để dùng vào việc nào đó: Nhà, nhà ngói, nhà cao tầng,
nhà kho...
- Nhà cửa: Theo theo từ điển Tiếng Việt định nghĩa nhà cửa là nhà ở [75,
tr.700].
- Nhà ở: Theo luật nhà ở ban hành năm 2005 và Điều 3 nghị định số
71/2010/NĐ/CP ngày 23/6/2010 của chính phủ để giải thích các khái niệm liên
quan đến nhà ở như sau: “Nhà là công trình xây dựng với mục đích để ở và phục vụ
các nhu cầu sinh hoạt của hộ gia đình, cá nhân”. (Điều 1 của Luật nhà ở năm
2005).
Theo từ điển Bách khoa Việt Nam: Nhà là tập hợp công trình xây dựng, hình
thành một tổ hợp những không gian nhân tạo để phục vụ sinh hoạt và sản xuất của
con người. Nhà có thể làm bằng gỗ, tre, nứa, lá, lợp tranh... hoặc làm bằng gạch, bê
tông cốt thép, đất dẻo. Tùy theo chức năng sử dụng, có thể chia ra: Nhà ở, nhà máy,
nhà bảo tàng, nhà hát... [30, tr.207].
Theo nhà dân tộc học Chu Thái Sơn định nghĩa “nhà ở là một công trình kiến
trúc, một dạng tồn tại của văn hóa vật chất gắn bó mật thiết với đời sống hàng ngày
của mỗi gia đình và mỗi con người. Ngôi nhà để ở, sản phẩm lao động của mỗi dân
tộc là một công trình văn hóa mang tính tổng hợp, mang những sắc thái văn hóa
riêng của từng dân tộc, một tiện nghi thích hợp với đặc điểm môi trường thiên
nhiên, một trung tâm của mọi hoạt động sản xuất, một biểu hiện của cơ cấu xã hội
và của tổ chức gia đình” [56, tr.7].

10



Như vậy, có thể nói nhà ở vừa là nơi con người trú ngụ, vừa là chỗ cất giữ
hạt giống lương thực, thực phẩm... sau đó con người đã sáng tạo ra nhiều loại nhà
với các công dụng khác nhau: Nhà ở, nhà kho, nhà công cộng, nhà phục vụ cho các
nghi lễ, tôn giáo tín ngưỡng... của tộc người.
Nhà của các dân tộc dù với các kiểu kiến trúc khác nhau nhưng đều là sản
phẩm do bàn tay, khối óc con người sáng tạo. Kết cấu ngôi nhà, cách bài trí không
gian sinh hoạt... trong đó cấu trúc của ngôi nhà tùy thuộc vào sở thích, thói quen,
nhu cầu sử dụng của mỗi tộc người để từ đó tạo ra các yếu tố mang tính tộc người
và những yếu tố mang tính địa phương. Hiện nay, có nhiều định nghĩa về nhà ở của
nhiều tác giả khác khác nhau, nhưng đa số ý kiến thống nhất cho rằng: nhà ở không
chỉ là không gian nhân tạo dùng để cư trú mà còn là không gian sinh hoạt văn hóa,
sáng tạo văn hóa của con người. Vì thế nhà ở thường biến đổi theo sự phát triển của
văn hóa và sự thay đổi của môi trường sinh thái, biến đổi về môi trường xã hội.
Theo từ điển Tiếng Việt định nghĩa: Nhà sàn là nhà có sàn để ở, làm ở lưng chừng
cột cách mặt đất hay mặt nước một khoảng, thường thấy ở miền rừng núi hay trên
các mặt hồ rộng [75, tr.70].
- Văn hóa (cutural) là khái niệm mang nội hàm rộng có rất nhiều cách hiểu
khác nhau, liên quan đến mọi mặt đời sống vật chất và tinh thần của con người.
Theo từ điển Tiếng Việt [75, tr.1100]: “Văn hóa là tổng thể nói chung
những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra trong quá trình lịch sử”.
E.B. Tylor đưa ra định nghĩa “Văn hóa hay văn minh, theo nghĩa rộng về
tộc người học, nói chung gồm có tri thức, tín ngưỡng nghệ thuật, đạo đức, luật
pháp, tập quán và một số năng lực và thói quen khác được con người chiếm lĩnh với
tư cách một thành viên của xã hội” [68, tr.13].
Theo định nghĩa của UNESCO năm 2002: Văn hóa nên đề cập đến như là
một tập hợp của những đặc trưng về tâm hồn, vật chất trí thức và xúc cảm của một
xã hội hay một nhóm người trong xã hội và nó chứa đựng, ngoài văn hóa và nghệ
thuật, cả cách sống, phương thức chung sống, hệ thống giá trị truyền thống và đức
tin.


11


Khi nghiên cứu về văn hóa các nhà Dân tộc học thường chia văn hóa ra
thành ba lĩnh vực: Văn hóa vật chất, văn hóa tinh thần, văn hóa xã hội.
- Văn hóa vật chất (material culture): Theo định nghĩa rộng là tổng hòa tất
cả các sản phẩm vật chất, hữu hình do lao động sáng tạo của con người tạo nên
trong một xã hội nhất định (cơ sở tôn giáo, nhà ở, trang phục, ẩm thực...).
- Văn hóa tinh thần (spiritual culture): Văn hóa tinh thần hội tụ những khía
cạnh thuộc về tôn giáo, tín ngưỡng phong tục tập quán (liên quan đến đời sống kinh
tế, xã hội...), các loại hình sân khấu, văn hóa dân gian, nghệ thuật, lễ hội...
- Văn hóa xã hội (social cuture): Văn hóa xã hội bao gồm những ứng xử
trong gia đình cộng đồng, các quy tắc xã hội về hôn nhân, tang lễ, các thiết chế văn
hóa, xã hội...
- Văn hóa tộc người: Theo Giáo sư Ngô Đức Thịnh: Văn hóa tộc người là
tổng thể các yếu tố văn hóa mang tính đặc thù của tộc người, nó thực hiện chức
năng cố kết tộc người và phân biệt tộc người này với tộc người khác. Trong văn hóa
tộc người, các yếu tố đầu tiên nhận diện là ngôn ngữ, trang phục, các tín ngưỡng và
nghi lễ, vốn văn học dân gian, trí thức dân gian về tự nhiên xã hội, về bản thân con
người và tri thức sản xuất, khẩu vị ăn uống, tâm lý dân tộc...
- Truyền thống: Theo từ điển Tiếng Việt, truyền thống là thói quen hình
thành đã lâu đời trong lối sống và nếp nghĩ, được truyền lại từ thế hệ này sang thế
hệ khác [75, tr.1053].
- Biến đổi: Theo từ điển Tiếng Việt [75, tr.64], biến đổi là sự thay đổi thành
khác trước (quang cảnh biến đổi, những biến đổi sâu sắc trong xã hội). Cũng giống
như tự nhiên, mọi xã hội không ngừng biến đổi. Biến đổi xã hội là một quá trình
qua đó những khuôn mẫu của các hành vi xã hội, các quan hệ xã hội, các thiết chế
xã hội các hệ thống phân tầng xã hội được thay đổi theo thời gian.
Ngôi nhà sàn của người Tày là sản phẩm văn hóa vật thể mang tính trí tuệ,
sáng tạo của cộng đồng người nó được hình thành trải qua quá trình lịch sử lâu dài.

Nghiên cứu ngôi nhà sàn là nghiên cứu về giá trị văn hóa vật chất (vật thể) là ngôi
nhà và văn hóa tinh thần (phi vật thể) bao gồm các sản phẩm tinh thần như phong
tục tập quán, tri thức dân gian và các yếu tố tinh thần khác chứa đựng trong ngôi
nhà.
12


1.2. Cơ sở lý thuyết
- Lý thuyết về giao lưu tiếp biến văn hóa:
Được trường phái nhân học Anglo Saxon đưa vào Mỹ cuối thế kỷ XIX để
chỉ sự tiếp xúc rộng rãi lâu dài giữa hai nền văn hóa khác nhau và hậu quả của sự
tiếp xúc này là sự thay đổi hay biến đổi của một số loại hình văn hóa của cả hai nền
văn hóa đó [67, tr.12]. Theo các nhà Nhân học Mỹ, sự giao lưu, tiếp biến văn hóa là
quá trình một nền văn hóa thích nghi, ảnh hưởng của một nền văn hóa bằng cách
vay mượn bằng nhiều nét đặc trưng của một nền văn hóa ấy. Vì thế sự giao lưu, tiếp
biến văn hóa cũng là một cơ chế khác của biến đổi văn hóa, đó là sự trao đổi của
những đặc tính văn hóa nảy sinh các cộng đồng tiếp xúc trực diện và liên tục.
Từ điển Nhân học cho rằng: Tiếp biến văn hóa còn có thể được cấu trúc rõ
ràng về mặt xã hội như trong trường hợp xâm lược hay trong tình trạng bất bình
đẳng về mặt xã hội hoặc chính trị khác định hướng dòng chảy của các yếu tố văn
hóa. Tiếp biến văn hóa bao gồm các quá trình khác nhau, gồm khuyếch tán, thích
nghi mang tính ứng phó, các loại hình thái tổ chức xã hội và văn hóa khác nhau sau
tiếp xúc và giải văn hóa hay phân giải văn hóa. Một loạt các điều chỉnh phát sinh,
gồm việc có được sự tự trị đáng kể văn hóa hay điển hình hơn, là sự đồng hóa của
nhóm tiếp xúc yếu hơn bởi nhóm tiếp xúc mạnh hơn và sự hỗn dung văn hóa, nhờ
đó hai văn hóa có thể trao đổi đủ các yếu tố để sau đó tạo ra một văn hóa riêng [67,
tr.12].
Như vậy lý thuyết về giao lưu tiếp biến văn hóa cho thấy, biến đổi là tất yếu
của mọi sự vật, hiện tượng, trong đó có văn hóa tộc người. Ngày nay, dưới tác động
của quá trình phát triển, toàn cầu hóa và hội nhập đang diễn ra mạnh mẽ, sự giao

lưu biến đổi của các tộc người, các nền văn hóa là không tránh khỏi. Do đó về mặt
phương pháp luận, khi nghiên cứu văn hóa tộc người, trong đó có nghiên cứu về tập
quán cư trú của người Tày và ngôi nhà sàn truyền thống của người Tày thì cần xem
xét và đánh giá sự biến đổi là một xu thế tất yếu.
- Lý thuyết cấu trúc - chức năng:
A. Radchiffe Brown là người tiêu biểu cho trường phái cấu trúc - chức
năng ở Anh. Theo ông, khi tìm hiểu các nền văn hóa khác nhau, cần phải nghiên

13


cứu văn hóa của họ từ bên trong, có ý thức đối với giá trị của nền văn hóa khác
nhau. Chính vì vậy, thuyết cấu trúc - chức năng có một ý nghĩa với Nhân học ở chỗ:
Bất cứ nền văn hóa nào cũng được các nhà khoa học nghiên cứu dưới cái nhìn hiện
thực các chức năng khác nhau. Khái niệm văn hóa thường đồng nhất với tổng thể
các chức năng của nó, vì không có nền văn hóa cơ sự dập khuôn với một cấu trúc
đẳng cấp, bao gồm các tiểu hệ thống chức năng của một cộng đồng văn hóa tộc
người [67, tr.26].
Thuyết cấu trúc - chức năng đòi hỏi nhà nghiên cứu văn hóa tộc người,
trong đó có nghiên cứu về tập quán cư trú của một tộc người phải thấy được ý nghĩa
giá trị văn hóa bên trong, những ý nghĩa sâu sắc, những quan niệm tập tục, về tri
thức dân gian, về thế giới quan nhân sinh quan của một tộc người được thể hiện qua
kỹ thuật, phong tục làm nhà truyền thống cũng như cách thức sử dụng mặt bằng
sinh hoạt, các nghi thức, nghi lễ có liên quan trong ngôi nhà.
Việc vận dụng lý thuyết cấu trúc - chức năng đối với các đề tài này để thấy
được nhà ở của người Tày là sản phẩm mang tính nghệ thuật của kiến trúc dân gian,
có cấu trúc độc đáo mang đặc trưng của văn hóa tộc người. Nhà sàn của người Tày
không chỉ có chức năng là nơi trú ngụ, che mưa, che nắng cho con người mà đó là
một kiến trúc văn hóa đặc sắc nơi thể hiện quan niệm, ý thức, nhân sinh quan, vũ trụ
quan của người Tày, là nơi hội họp, giao lưu gặp gỡ và tổ chức các buổi sinh hoạt

mang tính chất cộng đồng, làng xóm.
- Lý thuyết sinh thái văn hóa
Được ra đời vào năm 1950 và gắn với tên tuổi của nhà nhân học người Mỹ
Julian Steward. Lý thuyết sinh thái văn hóa tập trung nghiên cứu mối quan hệ giữa
con người - môi trường - văn hóa. Lý thuyết sinh thái văn hóa đưa ra phương pháp
nghiên cứu đòi hỏi phải làm rõ quan hệ giữa văn hóa và môi trường, từ quan điểm
con người là chủ thể tồn tại thích ứng với môi trường thông qua văn hóa, còn văn
hóa chịu ảnh hưởng lớn của các tài nguyên môi trường mà con người sử dụng.
Trong những khu vực khác nhau nhưng có môi trường giống nhau và phương pháp
khai thác môi trường giống nhau thì có khả năng có nền văn hóa song hành.

14


Khi thuyết sinh thái văn hóa ra đời, nó đã được vận dụng khá rộng rãi ở
nhiều quốc gia trên thế giới, trong đó có khá nhiều nghiên cứu ở Việt Nam. A.
Terry Rambo, trong công trình nghiên cứu của mình là: “Văn hóa như là một hệ
thống thích nghi” đã dựa vào lý thuyết sinh thái văn hóa để phân tích và làm rõ
được mối quan hệ giữa bệnh sốt rét với tái định cư và phong tục nhà ở miền núi
phía Bắc Việt Nam.
Khi nghiên cứu về nhà ở, Chu Thái Sơn - nhà Dân tộc học Việt Nam đã viết:
“Nhìn chung, mỗi dân tộc đều có một kiểu nhà để ở”. Kiểu nhà đó phụ thuộc vào
địa hình của nơi cư trú, tùy thuộc vào các nguồn nguyên liệu xây dựng có sẵn ở địa
phương, vào trình độ kỹ thuật của cư dân, vào phương thức sinh hoạt kinh tế của
cộng đồng, vào thang bậc của chế độ xã hội mà cư dân đạt tới, vào hình thức tổ
chức của gia đình, vào kiểu thẩm mỹ, vào khả năng kinh tế và nhất là các truyền
thống văn hóa của mỗi tộc người” [56, tr.71].
1.3. Khái quát về địa bàn nghiên nghiên cứu
1.3.1. Khái quát về tỉnh Thái Nguyên
Thái Nguyên là một tỉnh miền núi, thuộc vùng trung du - miền núi Đông

Bắc; diện tích tự nhiên 3.541,67km2; nằm trong hệ tọa độ địa lý từ 21o19’ đến
22o03’ vĩ độ bắc và 105o29’ đến 106o15’ kinh độ đông, từ bắc đến nam dài 43 phút
vĩ độ (80km), từ tây sang đông rộng 46 phút kinh độ (85km).
- Điểm cực bắc ở vĩ độ 22003’ thuộc xã Lình Thông, huyện Định Hóa.
- Điểm cực nam ở vĩ độ 21019’ thuộc xã Thuận Thành, huyện Phổ Yên.
- Điểm cực tây ở kinh độ 105028’ thuộc xã Yên Lãng, huyện Đại Từ.
- Điểm cực đông ở kinh độ 106014’ thuộc xã Phượng Giao, huyện Võ Nhai.
Thái Nguyên phía bắc giáp tỉnh Bắc Kạn; phía đông giáp các tỉnh Lạng Sơn;
Bắc Giang; phía nam giáp Thủ đô Hà Nội; phía tây giáp các tỉnh Vĩnh Phúc, Tuyên
Quang.
Thái Nguyên là miền đất nối giữa vùng núi rừng Việt Bắc với đồng bằng
châu thổ sông Hồng, là cửa ngõ bảo vệ Kinh đô Thăng Long, Đông Đô xưa và Thủ
đô Hà Nội ngày nay.

15


Ngày nay, Thái Nguyên được xác định là trung tâm kinh tế - văn hóa của
vùng trung du và Đông Bắc Bộ. Tại đây có nhiều cơ sở kinh tế, văn hóa, quốc
phòng có tầm chiến lược của đất nước: Khu công nghiệp gang thép, khu công
nghiệp Sông Công, 5 trường đại học, 16 trường cao đẳng, trung học chuyên nghiệp
và dạy nghề, Bộ tư lệnh quân khu I. Nằm kề phía bắc Thủ đô Hà Nội, Thái Nguyên
còn có lợi thế rất lớn trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội cả hiện tại và trong
tương lai.
Cùng với vị trí trung tâm của Việt Bắc, Thái Nguyên còn là một trung tâm
kinh tế, trung tâm văn hóa, trung tâm đào tạo lớn của đất nước.
Vị tri địa lý của Thái Nguyên đã tạo ra nhiều điều kiện thuận lợi mà nhiều
tỉnh miền núi phía Bắc không có, giúp cho Thái Nguyên có tiềm năng phát triển,
không chỉ hiện nay mà cả trong tương lai [21, tr.22].
Địa hình Thái Nguyên chủ yếu là đồi núi thấp chạy theo hướng bắc - nam,

thấp dần từ bắc xuống nam. Bao quanh phía tây nam và phía bắc là những dãy núi
Tam Đảo, Ngân Sơn, Bắc Sơn. Phía tây nam có dãy Tam Đảo với đỉnh cao nhất
1.591m, các vách núi dựng đứng và kéo dài theo hướng tây bắc - đông nam. Dãy
Ngân Sơn bắt đầu từ Bắc Kạn chạy theo hướng đông bắc - tây nam đến Võ Nhai.
Dãy núi Bắc Sơn chạy theo hướng tây bắc - đông nam.
Được ba dãy núi Tam Đảo, Ngân Sơn, Bắc Sơn đều là những dãy núi hình
cánh cung che chắn nên Thái Nguyên ít chịu ảnh hưởng lớn của gió mùa đông bắc.
Địa hình của Thái Nguyên với nhiều đồi thấp, thuận lợi cho phát triển nông, lâm
nghiệp và xây dựng các công trình công nghiệp [21, tr.39].
Thái Nguyên là một tỉnh giàu tài nguyên. Vì thế ngay từ thời xa xưa đã thu
hút dân cư ở nhiều vùng đồng bằng và các vùng lân cận để khai khẩn, làm ăn sinh
sống. Trải qua quá trình diễn biến của lịch sử, cùng với các hoạt động chính trị - xã
hội cũng như phát triển kinh tế, nơi đây đã trở thành vùng đất hội nhập dân cư từ
phía bắc xuống và vùng đồng bằng phía nam lên sinh cơ lập nghiệp [21, tr.101].
Thái Nguyên là một tỉnh có nhiều dân tộc mang nguồn gốc bản địa như
người Kinh, người Tày. Có dân tộc nhập cư trong những thế kỷ gần đây như Nùng,

16


Dao, Sán Chay, Sán Dìu, Hmông, Hoa. Người Kinh chiếm tỷ trọng chính chiếm
75,38% dân số trong tỉnh; người Tày xếp thứ hai sau người Kinh, tập trung đông
nhất là huyện Định Hóa.
Theo tổng dân số toàn quốc năm 2009, toàn tỉnh Thái Nguyên có 1.127.170
người, mật độ dân số 319,07 người/km2, lớn nhất trong các tỉnh miền núi phía Bắc
Việt Nam [21, tr.103].
Thái Nguyên là một trong số 38 tỉnh, thành có số dân từ trên 1 triệu người trở
lên. Vào năm 1991, tỉnh Thái Nguyên có số dân bằng 1,38% tổng số dân cả nước.
Đến năm 1995, tỷ lệ này là 1,40% và đến năm 2003, dân số toàn tỉnh Thái Nguyên
bằng 1,34% tổng số dân của cả nước [21, tr.103].

Thái Nguyên có vùng chè nổi tiếng rộng trên 16.000 ha, đứng thứ hai cả
nước, ngoài ra trên địa bàn tỉnh có công ty gang thép Thái Nguyên lớn nhất cả
nước.
Với điều kiện đất đai, khí hậu, thổ nhưỡng và độ ẩm thích hợp nên thiên
nhiên đã ưu đãi cho núi rừng Thái Nguyên nhiều loại lâm thổ sản và muông thú quý
hiếm đã góp phần tạo nên những đặc trưng cơ bản cho những ngôi nhà sàn ở tỉnh
Thái Nguyên.
Định Hóa là huyện miền núi của tỉnh Thái Nguyên, nằm trong khoảng tạo độ
105029’ đến 105043’ kinh độ đông, 21045’ đến 22030’ vĩ độ bắc; phía Tây - Tây bắc
giáp tỉnh Tuyên Quang, Bắc - Đông bắc giáp tỉnh Bắc Kạn, Nam - Đông nam giáp
huyện Đại Từ, Phú Lương; huyện lỵ là thị trấn Chợ Chu, cách thành phố Thái
Nguyên 50km về phía Tây bắc.
Địa hình huyện Định Hóa khá phức tạp và tương đối hiểm trở, ở dạng núi
thấp đồi cao. Xen giữa các dãy núi đá vôi và đồi, núi đất là những cánh đồng hẹp.
Hướng địa hình thấp dần từ tây bắc xuống đông nam, phân làm hai vùng. Vùng núi
bao gồm các xã ở phía bắc huyện. Vùng này có các dãy núi cao từ 200 đến 400m so
với mặt nước biển, thuộc phần cuối của dãy núi đá vôi cánh cung Sông Gâm, chạy
theo hướng tây bắc - đông nam, từ bắc qua trung tâm huyện đến xã Trung Hội, tạo
nên bức tường thành ở phía đông thị trấn Chợ Chu và những thung lũng nhỏ hẹp.

17


Nhiều hang động trong các dãy núi đá này có những nhũ đá hình thù kỳ thú, đẹp
mắt.
Định Hóa có 520,75km2 đất tự nhiên, trong đó: 99,29km2 đất nông nghiệp,
221,7km2 đất lâm nghiệp, 8,46km2 đất chuyên dùng, 7,33km2 đất ở, 183,98km2 đất
chưa sử dụng [21, tr.916].
1.3.2. Một vài nét về người Tày ở huyện Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên
1.3.2.1. Vài nét về lịch sử tộc người

Người Tày - Thái cổ đã có mặt ở vùng Đông Bắc Việt Nam từ rất sớm, có
thể từ nửa cuối thiên niên kỷ I trước Công Nguyên. Trải qua quá trình lịch sử lâu
dài hàng nghìn năm, chịu những ảnh hưởng nhất định đến từ dân tộc này hay dân
tộc khác, họ dần dần bị phân hóa, trở thành những bộ phận cư dân khác nhau. Bộ
phận sinh sống ở vùng trung du hòa vào người Việt, trở thành bộ phận dân tộc Việt
với một số đặc trưng riêng, mang tính địa phương khá rõ nét. Trong khi đó, bộ phận
cư trú ở miền núi chịu ảnh hưởng sâu sắc của người Việt, trở thành tổ tiên của
người Tày hiện nay [77, tr.23]. Lịch sử, tộc người Tày có mối quan hệ gần gũi về
nhiều mặt với các dân tộc khác trong nhóm ngôn ngữ Tày - Thái cùng cư trú ở phía
Đông Bắc Việt Nam trong đó có người Nùng, người Cao Lan (thuộc nhóm dân tộc
Sán Chay), người Giáy, người Bố Y và trong chừng mực nào đó với cả người
Choang ở tỉnh Quảng Tây (Trung Quốc).
Ở Việt Nam, tộc người Tày là sự tập hợp của nhiều thành phần như người
Tày bản địa, người Tày gốc Kinh, người Tày gốc Tày, Thái, Nùng từ Trung Quốc di
cư sang. Người Tày hiện nay, chia làm 4 nhóm địa phương: Pa Dí, Thu Lao, Ngạn
và Phén. Mỗi nhóm có những nét đặc trưng riêng, tương đối dị biệt so với cộng
đồng người Tày nói chung. Riêng người Tày ở một số huyện thuộc Tuyên Quang và
Thái Nguyên còn tự gọi mình là “Tày Măng giang” (Tày Mảy rạng) hoặc “Tày
Mục” (Tày Đooc) để phân biệt với Tày nói theo các phương ngôn khác mà họ gọi là
Tày Thúa.
Người Tày chủ yếu sinh sống ở các vùng thung lũng, vùng giữa nơi có đất
đai màu mỡ, gần nguồn nước, giao thông đi lại thuận tiện.

18


Người Tày ở Thái Nguyên có dân số đông thứ hai sau người Kinh (Việt).
Theo tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, người Tày ở Thái Nguyên có 123.197
nhân khẩu, chiếm 11% dân số toàn tỉnh . Người Tày cư trú ở hầu hết các huyện, thị
xã, thành phố, trong tỉnh, tập trung đông nhất là ở huyện Định Hóa. Trong số các

dân tộc sinh sống tại huyện Định Hóa, người Tày chiếm số lượng đông nhất (46.004
người) sau đó mới đến các dân tộc Kinh (26.212 người), Sán Chay (8.339 người),
Nùng (3.437 người)…2
1.3.2.2. Một số đặc điểm kinh tế, văn hóa, xã hội
Đời sống kinh tế
Trải qua quá trình lịch sử lâu dài hàng nghìn năm, các thế hệ người Tày ở
Việt Nam đã khai phá những thung lũng tương đối bằng phẳng và màu mỡ thuộc
vùng Đông Bắc của đất nước. Cũng như người Tày ở Thái Nguyên nói chung,
người Tày ở Định Hóa nói riêng không ngừng cải tạo tự nhiên, biến những đồi cằn,
núi hoang, gò bãi, đầm lầy... thành các tràn ruộng, cánh đồng, ao cá, vườn cây phục
vụ đời sống con người. Người Tày ở đây chủ yếu sinh sống bằng phương thức trồng
trọt, chăn nuôi. Người ta khai phá nương rẫy từ rừng tự nhiên rất màu mỡ thích hợp
với từng loại cây trồng như lúa, ngô, khoai, sắn, lạc, vừng... Hiện nay, đồng bào còn
nuôi trồng một số cây công nghiệp như chè để xuất khẩu ra nhiều địa phương khác,
trong đó chè là cây công nghiệp quan trọng nhất vì nó có giá trị kinh tế ổn định, là
một trong những nông sản xuất khẩu chủ yếu của tỉnh. Ngoài trồng trọt đồng bào
còn biết khai thác nguồn lợi từ thiên nhiên: trên rừng, dưới sông, suối, trong lòng
đất, và đó cũng là nguồn thu nhập quan trọng đảm bảo đời sống của dân tộc Tày.
Không chỉ giỏi về chăn nuôi, trồng trọt, các tộc người tỉnh Thái Nguyên nói chung,
người Tày nói riêng còn làm các nghề thủ công truyền thống như khai thác, chế
biến nông sản và dược liệu; thêu dệt và các vật liệu và mặt hàng sợi bông, thổ cẩm
và vải nhuộm, sáng chế ra các công cụ lao động, đồ dùng sinh hoạt và các đồ trang
sức. Đã từ lâu, các sản phẩm thủ công truyền thống của người Tày ở tỉnh Thái
Nguyên được biết đến, được đánh giá cao bởi chất lượng cũng như độ tinh xảo.

2

Tổng cục Thống kê(2009), Niên giám thống kê tỉnh Thái Nguyên, tr309

19



×