Tải bản đầy đủ (.pdf) (30 trang)

luận văn nhà ở của người tày ở xã bình yên, huyện định hóa, tỉnh thái nguyên (tt)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (294.82 KB, 30 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
----------

TRẦN THỊ DUNG

NHÀ Ở CỦA NGƢỜI TÀY Ở XÃ BÌNH YÊN,
HUYỆN ĐỊNH HÓA, TỈNH THÁI NGUYÊN

Chuyên ngành: Dân tộc học
Mã số: 60.31.03.10

TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ DÂN TỘC HỌC

Hà Nội – 2017



Công trình đƣợc hoàn thành tại:
VIỆN HÀM LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Võ Thị Mai Phƣơng

Phản biện 1: ……………………........………………
Phản biện 2: .………………….……..………………

Luận văn đƣợc bảo vệ trƣớc Hội đồng chấm Luận văn thạc
sĩ tại Học viện Khoa học xã hội


vào hồi …. h00 ngày .. tháng .. năm 2017

Có thể tìm hiểu luận văn tại:
Thƣ viện Học viện Khoa học xã hội


CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ
ĐÃ CÔNG BỐ
Trần Thị Dung (2017), Nhà ở của người Tày xã Bình Yên:
Truyền thống và biến đổi, Tạp chí Dân tộc, số 5 (194) trang 53-55.




MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Người Tày là dân tộc thiểu số đông người nhất ở Việt Nam,
dân tộc Tày là một trong 8 dân tộc thuộc nhóm ngôn ngữ Tày Thái. Theo số liệu thống kê của Ban Dân tộc tỉnh Thái Nguyên năm
2015, người Tày trong cả nước gồm 1.766.927 nhân khẩu, trong đó
tỉnh Thái Nguyên có 123.1971 nhân khẩu. Người Tày cư trú hầu hết
các tỉnh thành trong cả nước, trong đó tập trung ở các tỉnh thuộc
vùng núi phía Đông Bắc, Tây Bắc ở nước ta như: Thái Nguyên,
Lạng Sơn, Cao Bằng, Tuyên Quang, Bắc Giang, Bắc Kạn, Hà
Giang, Yên Bái... Sau năm 1975 một bộ phận người Tày đã di cư
vào các tỉnh phía Nam và Tây Nguyên để làm ăn và sinh sống.
Nhà ở là một trong các thành tố của văn hóa vật chất, là nhu
cầu sinh hoạt không thể thiếu của con người. Do điều kiện tự nhiên,
xã hội của từng vùng khác nhau mà mỗi dân tộc có cách làm nhà
riêng của từng dân tộc đó. Nó thể hiện sự khác biệt, đặc trưng của
ngôi nhà cũng như yếu tố văn hóa, xã hội và phong tục tập quán của

tộc người đó. Người Tày ở nước ta thường sinh sống ở vùng thung
lũng, nhà dựng dưới chân núi, bên sườn đồi hoặc trên bãi đất ven
suối, ven sông theo kiểu tựa lưng vào núi và hướng ra cánh đồng.
Nhà ở nói chung và nhà của người Tày nói riêng luôn là một
trong những đề tài nghiên cứu được nhiều nhà khoa học trong và
ngoài nước quan tâm. Nghiên cứu về ngôi nhà ở của dân tộc Tày ở
xã Bình Yên, huyện Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên cho ta thấy được
mặt vật chất của ngôi nhà, một trong những thành tố văn hóa động,
cho ta thấy được sự thay đổi của môi trường sống của từng vùng
khác nhau mà mỗi dân tộc thể hiện qua cách làm nhà và sinh sống
trong ngôi nhà của họ. Ngoài ra, nghiên cứu nhà ở của người Tày ở
huyện Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên còn đóng góp thêm những hiểu
biết về văn hóa truyền thống và sự biến đổi trong bối cảnh hiện nay
của nước ta, nhất là vấn đề bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa tộc
người hướng tới phát triển bền vững. Nghiên cứu nhà ở cho ta thấy
được bản sắc văn hóa dân tộc, góp phần xây dựng và phát triển nền
văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc theo nghị quyết
hội nghị lần thứ IX, Khóa XI của Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
“Với mục tiêu Bảo tồn di sản văn hóa, các ngôi nhà hay các công
trình trưng bày ngoài trời ở Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam thường
được giữ nguyên mẫu, trong trường hợp bất khả kháng thì tái tạo
theo nguyên mẫu, kể cả về chất liệu và kỹ thuật chế tác” [32, tr.7].
Bảo tàng đã tiến hành nhiều chuyến nghiên cứu, khảo sát rất nhiều
1


tỉnh khác nhau về nhà ở của người Tày, nhưng đã chọn ra ngôi
nhà ở Định Hóa, Thái Nguyên ở đây mang nhiều nét kiến trúc đặc
trưng cho nhà người Tày ở vùng phía Đông Bắc. Ngoài ra, hiện
nay, tôi đang công tác tại Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam, với

nhiệm vụ thuyết minh cho khách tham quan trong và ngoài nước về
ngôi nhà của người Tày ở Định Hóa, Thái Nguyên, có cơ hội tiếp
xúc, làm việc với những nghệ nhân người Tày đã dựng ngôi nhà
Tày trong khuôn viên Bảo tàng và những người Tày là khách tham
quan. Chính vì vậy, việc tìm bản sắc và văn hóa của họ thông qua
ngôi nhà đã cuốn hút tôi lựa chọn đề tài “Nhà ở của người Tày ở xã
Bình Yên, huyện Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên” làm đề tài luận văn
Thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Từ lâu, các học giả nước ngoài cũng đã quan tâm đến loại hình
nhà cửa của một vùng văn hóa hay một tộc người nào đó. Chẳng
hạn như cuốn House and Housing: Concept, architecture (Nhà ở và
nơi ăn chốn ở: Khái nhiệm, kiến trúc) do Seoul CA.Press ấn hành
năm 1996; Cuốn House form and culture (Các dạng thức nhà và văn
hóa) của tác giả Rapoport, do Prentice – Hall, Inc xuất bản năm
1969. Trong đó tác giả dựa trên những dữ liệu về kiến trúc dân gian
của nhiều nước từ châu Á, châu Phi đến châu Âu, chứng minh rằng,
chính văn hóa là yếu tố quan trọng nhất trong việc định hình và xác
định những nguyên tắc hình thức trong kiến trúc nhà dân gian. Tuy
nhiên, ban đầu các công trình khảo cứu về nhà ở chủ yếu lại do các
nhà địa lý học tiến hành.
Đối với các học giả trong nước, nhà ở cũng được các nhà
nghiên cứu trú trọng và quan tâm. Công trình nghiên cứu “Nhà ở cổ
truyền của các dân tộc Việt Nam” xuất bản năm (1993) của tác giả
Nguyễn Khắc Tụng đã khảo tả khá chi tiết các loại nhà ở truyền
thống của 22 dân tộc thuộc 5 nhóm ngôn ngữ. Trong đó có đề cập
đến nhà của nhóm ngôn ngữ Tày - Thái.
Gần đây, chúng tôi còn thấy có thêm vài chuyên khỏa dân tộc
học về nhà ở của các dân tộc người cụ thể. Đó là các chuyên khảo:
Nhà ở của người Triêng ở Việt Nam của Phạm Văn Lợi (2010) [42]

và Nhà ở của người Chăm Ninh Thuận: Truyền thống và biến đổi do
Lê Duy Đại làm chủ biên (2011) [18]... Tuy nhiên, đối với chúng
tôi, đáng lưu ý vẫn là hai cuốn Nhà ở truyền thống các dân tộc Việt
Nam (tập 1 và tập 2) của Nguyễn Khắc Tụng [63, 64]. Mặc dù tác
giả chưa có điều kiện mô tả chi tiết nhà ở của các tộc người, nhưng
những yếu tố cơ bản nhất của ngôi nhà đều được nói tới. Đặc biệt,
các tư liệu chủ yếu trong công trình này đều là tư liệu điền dã, được
2


trình bày một cách khoa học dưới dạng mô tả, bản vẽ và ảnh minh
họa, theo một nguyên tắc nhất quán trong toàn bộ cuốn sách.
Tác phẩm “Nhà sàn truyền thống của người Tày ở vùng Đông
Bắc Việt Nam” của tác giả Ma Ngọc Dung (2004); Luận án tiến sỹ
của Lê Thị Thúy Hoàn về “Nhà sàn truyền thống của cư dân Tày ở
Chiêm Hóa (Tuyên Quang)” (2010); Công trình nghiên cứu “Ngôi
nhà của người Tày trong khu trưng bày ngoài trời của Bảo tàng
Dân tộc học Việt Nam” của tác giả La Công Ý (2010), đã cho chúng
ta thấy được bức tranh về đặc điểm của ngôi nhà sàn, quá trình dựng
nhà, các nghi lễ và ẩm thực, âm nhạc có liên quan. Tuy nhiên, công
trình nghiên cứu này chủ yếu mô phỏng nhà ở và các nghi lễ truyền
thống của người Tày mà chưa làm rõ được cách bố trí mặt bằng sinh
hoạt trong ngôi nhà và chưa đề cập đến sự biến đổi chúng qua các
thời kỳ.
Những tài liệu nói trên là nguồn tư liệu phong phú, giúp tác
giả luận văn có cái nhìn khái quát về lĩnh vực nhà ở nói chung của
người người Tày nói riêng. Đây là nguồn tư liệu quý, gợi mở và
được tác giả kế thừa cho luận văn: “Nhà ở của người Tày tại xã
Bình Yên, huyện Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên ”.
3. Mục đích nghiên cứu

- Cung cấp một cách có hệ thống tư liệu về giá trị văn hóa, xã
hội của người Tày thông qua ngôi nhà sàn của người Tày ở xã Bình
Yên, huyện Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên.
- Nêu lên những biến đổi ngôi nhà sàn của người Tày ở xã
Bình Yên, huyện Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên và xác định yếu tố
tạo nên sự biến đổi đó.
- Đề xuất một số giải pháp để bảo tồn và phát huy các giá trị
văn hóa vật thể và phi vật thể thông qua ngôi nhà của người Tày ở
Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên nói riêng và người Tày nói chung.
4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là nhà ở của người Tày ở xã Bình Yên,
huyện Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên.
Luận văn nghiên cứu về nhà ở của người Tày trước và sau
năm đổi mới (1986).
Địa bàn nghiên cứu chính của luận văn này là ở xã Bình Yên,
huyện Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu chính của luận văn là Điền dã dân
tộc học nhằm khảo sát, thu thập tư liệu cơ bản đánh giá đối tượng
nghiên cứu với các phương pháp sau đây: quan sát tham dự, phỏng
3


vấn sâu, thảo luận nhóm, trao đổi, tọa đàm, ghi chép trực tiếp, đo vẽ
kỹ thuật, chụp ảnh khảo tả. Ngoài ra còn sử dụng phương pháp tổng
hợp, phân tích, hệ thống, so sánh lịch đồng đại và lịch đại trong việc
tìm hiểu về nhà ở của người Tày.
6. Đóng góp của luận văn
Là công trình có tính hệ thống chuyên sâu về nhà ở với các

yếu tố xã hội và phong tục tập quán liên quan đến ngôi nhà của
người Tày tại xã Bình Yên, huyện Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên
đồng thời nêu lên các biến đổi của ngôi nhà cũng như các yếu tố tác
động đến sự biến đổi đó.
Đề tài này còn góp phần xây dựng chương trình giáo dục về
văn hóa truyền thống, tạo nên ý thức trách nhiệm về giữ gìn di sản
văn hóa người Tày trong cộng đồng/khách tham quan tại Bảo tàng
Dân tộc học VN cũng như tại cộng đồng người Tày ở Định Hóa,
tỉnh Thái Nguyên.
Những kết quả nghiên cứu của luận văn là cơ sở khoa học
bước đầu nhằm bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống
tốt đẹp của người Tày thông qua nhà ở của họ.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và phụ lục, luận văn gồm 3
chương.
Chương 1: Cơ sở lí luận và khái quát địa bàn nghiên cứu.
Chương 2: Các yếu tố vật chất, xã hội và phong tục tập quán
liên quan đến ngôi nhà.
Chương 3: Biến đổi của ngôi nhà và việc bảo tồn, phát huy
các giá trị văn hóa của nhà ở của người Tày.

4


Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NHÀ Ở VÀ
KHÁI QUÁT ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Các khái niệm cơ bản
Chúng tôi bắt đầu tìm hiểu các khái niệm cơ bản như: Nhà,

nhà cửa, nhà ở, văn hóa, truyền thống, biến đổi...
1.2. Cơ sở lý thuyết
Chúng tôi sử dụng lý thuyết như: Lý thuyết về giao lưu, tiếp
biến văn hóa, Lý thuyết cấu trúc - chức năng, Lý thuyết sinh thái
văn hóa làm cơ sở để nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
1.3. Khái quát về địa bàn nghiên nghiên cứu
1.3.1. Khái quát về tỉnh Thái Nguyên
Thái Nguyên là một tỉnh miền núi, thuộc vùng trung du - miền
núi Đông Bắc. Theo tổng dân số toàn quốc năm 2009, toàn tỉnh
Thái Nguyên có 1.127.170 người, mật độ dân số 319,07 người/km2,
lớn nhất trong các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam.
Ngày nay, Thái Nguyên được xác định là trung tâm kinh tế văn hóa của vùng trung du và Đông Bắc Bộ. Tại đây có nhiều cơ sở
kinh tế, văn hóa, quốc phòng có tầm chiến lược của đất nước: Khu
công nghiệp gang thép, khu công nghiệp Sông Công, 5 trường đại
học, 16 trường cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề, Bộ
tư lệnh quân khu I. Nằm kề phía bắc Thủ đô Hà Nội, Thái Nguyên
còn có lợi thế rất lớn trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội cả
hiện tại và trong tương lai.
Người Tày ở Thái Nguyên có dân số đông thứ hai sau người
Kinh (Việt). Theo tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, người
Tày ở Thái Nguyên có 123.197 nhân khẩu, chiếm 11% dân số toàn
tỉnh . Người Tày cư trú ở hầu hết các huyện, thị xã, thành phố, trong
tỉnh, tập trung đông nhất là ở huyện Định Hóa.
1.3.2. Một vài nét về người Tày ở huyện Định Hóa, tỉnh Thái
Nguyên
Người Tày hiện nay, chia làm 4 nhóm địa phương: Pa Dí, Thu
Lao, Ngạn và Phén. Mỗi nhóm có những nét đặc trưng riêng, tương
đối dị biệt so với cộng đồng người Tày nói chung. Riêng người Tày
ở một số huyện thuộc Tuyên Quang và Thái Nguyên còn tự gọi
mình là “Tày Măng giang” (Tày Mảy rạng) hoặc “Tày Mục” (Tày

Đooc) để phân biệt với Tày nói theo các phương ngôn khác mà họ
gọi là Tày Thúa. Trải qua quá trình lịch sử lâu dài hàng nghìn năm,
các thế hệ người Tày ở Việt Nam đã khai phá những thung lũng
5


tương đối bằng phẳng và màu mỡ thuộc vùng Đông Bắc của đất
nước.
Trong số các dân tộc sinh sống tại huyện Định Hóa, người Tày
chiếm số lượng đông nhất (46.004 người) sau đó mới đến các dân
tộc Kinh (26.212 người), Sán Chay (8.339 người), Nùng (3.437
người)…
Tiểu kết chương 1
Nhà ở là một lĩnh vực văn hóa chứa đựng những giá trị văn
hóa vật chất và văn hóa tinh thần phong phú, đa dạng được các học
giả trong và ngoài nước quan tâm nghiên cứu. Có nhiều công trình
viết về nhà ở như các cuốn sách, các đề tài, các bài đăng trên tạp
chí. Mỗi tác phẩm có thể đi sâu, khái quát về nhà ở của một dân tộc
cụ thể, cũng có thể là những mô tả khái quát giúp ta hình dung về
nhà ở của các tộc người khác nhau.
Tác giả lựa chọn đề tài “Nhà ở của người Tày ở xã Bình Yên,
huyện Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên” làm luận văn thạc sĩ với mục
đích đi sâu tìm hiểu và làm rõ những phong tục tập quán, tri thức
dân gian, nghi lễ, các thói quen, sinh hoạt văn hóa văn nghệ tác
động đến quá trình dựng nhà và diễn ra trên ngôi nhà truyền thống
của người Tày để từ đó đưa ra giá trị và biện pháp giữ gìn, bảo tồn
giá trị của ngôi nhà truyền thống.
Để thực hiện đề tài này, tác giả đã tìm hiểu một số khái niệm
cơ bản liên quan đến nội dung của đề tài luận văn đã vận dụng lý
thuyết chức năng - cấu trúc và thuyết giao lưu tiếp biến văn hóa

đồng thời áp dụng một số phương pháp nghiên cứu của dân tộc học
để tiến hành nghiên cứu như: Phương pháp luận, phương pháp điền
dã dân tộc học, phương pháp so sánh, phương pháp thống kê,
phương pháp chuyên gia.
Điạ bàn nghiên cứu chính của luận văn là xã Bình Yên, huyện
Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên. Tại xã Bình Yên, cư dân bản địa chủ
yếu là người Tày, có địa hình, điều kiện sinh thái tiêu biểu đặc trưng
cho vùng cư trú của đồng bào Tày. Đồng bào nơi đây có các điều
kiện về kinh tế, văn hóa, xã hội, đời sống vật chất, tinh thần thể hiện
nét tiêu biểu của người Tày nói chung. Số lượng người Tày và nhà
truyền thống nơi đây còn nhiều, đồng thời cũng có sự biến đổi mạnh
về nhà ở qua thời gian.

6


Chƣơng 2
CÁC YẾU TỐ VẬT CHẤT, XÃ HỘI VÀ PHONG TỤC
TẬP QUÁN LIÊN QUAN ĐẾN NGÔI NHÀ
2.1. Các yếu tố vật chất và quá trình dựng nhà của ngƣời Tày
Ngôi nhà sàn có chức năng đầu tiên là nơi cho con người trú
ngụ, là nơi che mưa che nắng cho con người. Sự phản ánh đời sống
của con người thông qua mỗi ngôi nhà là phản ánh đời sống của một
nhóm người và nhiều ngôi nhà là phản ánh đời sống của một cộng
đồng tộc người. Thông qua ngôi nhà sàn của người Tày có thể nhận
thấy được sự tồn tại và bản sắc của các tộc người đồng thời thấy
được sự phát triển, biến đổi qua từng giai đoạn của cộng đồng người
Tày ở đây.
Ngôi nhà sàn của người Tày là sự phản ánh điều kiện sống và
lao động của đồng bào đồng thời thể hiện tính tiện ích đối với đời

sống sinh hoạt của đồng bào.
Trước hết, ngôi nhà sàn phản ánh điều kiện tự nhiên và địa
vực cư trú của đồng bào. Trước đây, Định Hóa là khu vực miền núi
rậm rạp, có nhiều thú dữ với các triền núi cao và khu vực thung
lũng, hệ thống sông suối bao quanh. Khí hậu đặc trưng của vùng
miền núi phía bắc, thời tiết luân chuyển bốn mùa, mùa đông gió rét,
mùa hè nóng bức. Để có được nơi trú ngụ an toàn vừa chắc chắn
người Tày đã sáng tạo ra ngôi nhà sàn. Ngôi nhà sàn có sàn nhà cao
là không gian sinh hoạt của con người vừa tránh thú dữ, vừa ấm áp
vào mùa đông, thoáng mát về mùa hè (thể hiện trong kiến trúc ngôi
nhà, bếp lửa được đặt nơi trung tâm của ngôi nhà luôn sáng lửa tạo
sự ấm áp vào mùa đông, nhà sàn có nhiều cửa sổ, mùa hè chống các
liếp cửa lên để đón gió và ánh sáng tạo sự thoáng mát, mùa đông
hoặc ban đêm hạ liếp cửa xuống để chắn gió...). Sàn nhà là nơi sinh
hoạt của con người, trong đó bao gồm sinh hoạt tự nhiên như: ăn,
uống, nghỉ; đến các hoạt động mang tính xã hội như: vui chơi giải
trí, chăm sóc, dạy dỗ con cái; hoạt động lao động sản xuất thủ công
trong gia đình như đan lát, dệt vải, thêu thùa, giã gạo, chế biến
lương thực, thực phẩm và các hoạt động văn hóa tinh thần khác.
Ngôi nhà sàn không chỉ là nơi cư trú của con người mà với
cấu trúc đặc biệt, nó còn có những chức năng khác: Chức năng nuôi
nhốt gia súc, gia cầm (dưới gầm sàn); là kho chứa công cụ lao động
(gầm sàn) và các lương thực, thực phẩm (trên gác, gác bếp).
Ngôi nhà sàn của người Tày còn là sản phẩm mang tính nghệ
thuật của kiến trúc dân gian. Nghệ thuật kiến trúc dân gian của ngôi
nhà sàn người Tày thể hiện ở tính phù hợp với điều kiện tự nhiên,
7


không gian thiên nhiên của ngôi nhà và làng bản. Làng bản người

Tày nằm dưới chân các thung lũng và có hệ thống sông suối bao
quanh, điều đó không chỉ thể hiện quan niệm có núi, có sông mà
còn thể hiện tính thẩm mỹ, sơn thủy hữu tình trong quan niệm chọn
đất, chọn hướng làm nhà. Ngôi nhà được đồng bào Tày sáng tạo từ
điều kiện tự nhiên và môi trường sống thể hiện tính hài hòa với
thiên nhiên, tiện ích cho con người, đồng thời trong quá trình làm
nhà cũng cho thấy ý thức giữ gìn và bảo tồn không gian môi trường
sống của mình
liệu

2.1.1. Kinh nghiệm lựa chọn, khai thác và xử lý nguyên vật

Ngôi nhà sàn của người Tày chủ yếu sử dụng nguồn nguyên
liệu được khai thác từ thiên nhiên. Trong quá trình khai thác nguyên
vật liệu để làm nhà, người Tày ở xã Bình Yên, huyện Định Hóa có
những tri thức nhất định để lựa chọn nguồn nguyên vật liệu phù hợp
để làm nhà đồng thời tạo cho ngôi nhà có độ bền, chắc và ít mối
mọt. Một số nguyên vật liệu dùng để làm nhà sàn được người Tày
khai thác trong thiên nhiên như: gỗ, tre, nứa, lá cọ...
Việc khai thác vật liệu làm nhà của người Tày được tiến hành
sau khi thu hoạch vụ mùa, khoảng từ tháng chín đến tháng mười
một hàng năm.
Việc xử lý nguyên vật liệu làm nhà là vấn đề hết sức quan
trọng và cần thiết để tránh mối mọt, tăng tuổi thọ cho cây. Người
Tày ở xã Bình Yên có cách xử lý vật liệu bằng cách dìm các cây gỗ
mới được khai thác xuống ao, ngâm nước bùn một thời gian nhất
định, đến khi các chất hữu cơ đã bị phân hủy hết mới vớt lên đục
đẽo, chế tác. Tùy theo loại vật liệu mà thời gian ngâm dài hay ngắn,
với gỗ dùng làm cột kèo phải ngâm tương đối lâu, ít nhất là hai
năm; tre để làm đòn tay thì ngâm khoảng 3 tháng, với rui, mè ngâm

khoảng 2 tháng còn với giát chỉ ngâm khoảng 1 tháng. Để nước
ngấm nhanh, ngấm sâu hơn, với gỗ dùng làm cột kèo phải bóc bỏ
lớp vỏ đi còn với tre làm đòn tay thì đục lỗ ở từng đầu mắt. Khi vớt
gỗ từ dưới bùn lên đồng bào thường chưa sử dụng ngay mà để gỗ ở
nơi khô, thoáng hoặc phơi ngay ngoài trời để gỗ khô hết mới đưa
vào chế tác, sử dụng.
2.1.2. Quá trình dựng nhà
Cấu trúc nhà sàn của người Tày ở Bình Yên chủ yếu là nhà ba
gian hai chái. Xung quanh nhà được bưng bằng phên đan bằng các
cây tre, nứa đập dập hoặc bằng ván mỏng và có nhiều cửa sổ. Mặt
bằng sinh hoạt trên ngôi nhà được bố trí như sau: Chái bên phải kề
8


với một sàn phơi. Cầu thang lên nhà đặt ở phía trước, gần đầu cầu
thang về bên trái là nơi đặt các ống nước để khách rửa chân trước
khi vào nhà. Gian đầu tiên: Góc nhà phía trước là buồng ngủ của bố,
mẹ ông chủ nhà, nơi dành cho khách nam; gian giữa phía trước là
nơi tiếp khách, ở giữa có bếp, nơi sinh hoạt chung của gia đình, giáp
vách sau là chạn bát; gian thứ ba: Phía trước là buồng của ông bà
chủ nhà, phía sau là buồng của con gái, vợ chồng con trai trưởng,
gian này có cửa buồng thông với sàn phụ. Chái bên trái, gần giường
chủ nhà là bàn thờ tổ tiên.
Gần cửa ra vào là bếp để nấu ăn hàng ngày và sưởi ấm trong
mùa đông. Từ bếp chiếu ra, khu vực về phía “trên” dành cho bà chủ
và khách quý là phụ nữ, phía “ngoài” để cho con trai, con rể và
khách nam, còn phía “dưới” được gọi là chỗ thấp kém nhất, để cho
con dâu, con gái và khách nữ.
Khâu quan trọng hàng đầu của quá trình làm nhà là quy trình
dựng bộ khung nhà và lắp vì kèo. Ngày cất dựng nhà là ngày quan

trọng nên chủ nhà phải nhờ thầy chọn ngày lành tháng tốt đồng thời
phải tiến hành lễ cúng.
Bộ đồ nghề để làm nhà của người Tày ở xã Bình Yên khá đơn
giản, chủ yếu là rìu và dao.
Lưỡi rìu hình chữ nhật, dài khoảng 12cm, rộng khoảng 5-6cm,
làm bằng thép lắp cán gỗ tạo thành hình chữ T hoặc chữ L. Đây là
một loại công cụ được sử dụng trong nhiều việc khác nhau như chặt
cây, đốn cành, đẽo gỗ, bổ lỗ cột.
Dao là dụng cụ không thể thiếu trong quá trình làm nhà, dao
có thể dùng để chặt cây, chẻ lạt, đẽo gỗ... Dao sử dụng để làm nhà
thường là dao cán dài, dao dày, lưỡi sắc, đầu dao cong khum (đồng
bào nơi đây gọi là dao quắm).
Ngoài ra, người Tày còn sử dụng một số dụng cụ chuyên dụng
của nghề mộc như cưa, đục, bào, hộp dây mực. Trước đây khi chưa
có dây mực đồng bào thường đo đạc bằng gang tay và sải tay. Gang
tay là khoảng cách từ đầu ngón tay cái đến đầu ngón giữa khi lòng
bàn tay xòe căng ra. Còn sải tay là khoảng cách từ đầu ngón giữa
của bàn tay này sang đầu ngón giữa của bàn tay kia khi 2 cánh tay
dang rộng.
Ngày nay, để đo lường chủ yếu dùng hộp dây mực hình chữ
nhật gồm 2 ngăn thông nhau bởi một lỗ nhỏ. Ngăn thứ nhất lắp trục
quấn dây bằng gỗ giống như ống chỉ được gắn tay quay bằng sắt.
Ngăn thứ 2 chứa mực viết hoặc nhọ nồi, nhọ chảo hòa với nước. Bộ
phận quan trọng nhất của loại hộp này là sợi dây mảnh; một đầu
buộc vào trục quấn còn đầu kia luồn qua ngăn đựng mực ra ngoài.
9


Hộp dây mực, căn đường thẳng, làm chuẩn cho việc chế tác gỗ. Khi
sử dụng thì căng dây dọc theo cây cột, đoạn xuyên hay tấm gỗ cần

được xử lý, sau đó nhấc nó lên rồi buông tay ra.
Đặc biệt, khi làm nhà thợ mộc người Tày còn sử dụng một số dụng
cụ tự tạo như: sào, “càng cua,”, búa và “cần cẩu”, tuy các dụng cụ
này rất đơn giản, thô sơ nhưng tiện dụng và hiệu quả. Có hai loại
sào và cả hai cùng được làm bằng đoạn vầu dài khoảng 3-4m, dùng
trong việc hỗ trợ nâng miệng cột, đưa cây xuyên, kèo hay đòn tay
lên cao.
Để hoàn thành một ngôi nhà sàn, phải trải qua nhiều công
đoạn và mất nhiều thời gian. Việc dựng nhà mất bao nhiêu thời gian
tùy thuộc vào quá trình chuẩn bị nguyên vật liệu, nhân lực và khả
năng kinh tế của mỗi gia đình. Với người Tày ở Bình Yên, để dựng
một ngôi nhà khang trang thường mất khoảng 2-3 năm để chuẩn bị
các điều kiện và vật chất và việc chuẩn bị công việc này thường do
người đàn ông trong gia đình (chủ nhà) đảm nhận.
2.2. Các mối quan hệ xã hội thể hiện qua mặt bằng sinh
hoạt
2.2.1. Mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình
Mối quan hệ gia đình của người Tày thường gặp là những gia
đình hạt nhân gồm 2 thế hệ, gồm bố mẹ và con cái chưa lấy vợ hoặc
lấy chồng và gia đình 3 thế hệ (ông bà - bố mẹ - con cái). Trong mỗi
gia đình có từ 5 đến 7 người, rất ít có gia đình có từ 10 hoặc trên 10
người.
Khu vực phía trước (còn gọi là phía trên) và phía ngoài gần
như dành riêng cho nam giới, đây có chỗ ngủ của ông chủ nhà, các
con trai chưa vợ và khách nam. Khu vực phía sau (còn gọi là phía
dưới) và phía trong chủ yếu dành cho nữ giới; được bố trí làm chỗ
ngủ của bà chủ nhà, trẻ em và khách nữ. Phần chái nhà phía trong
và hiên sau được ngăn ra thành từng ngăn. Một số ngăn được quây
làm buồng ngủ cho con dâu cũng như con gái đến tuổi trưởng thành
nhưng chưa lấy chồng hoặc đã lấy chồng rồi nhưng chưa mang thai

cho nên theo phong tục dân tộc chưa dọn về ở hẳn bên nhà chồng.
Các ngăn còn lại dùng làm chạn bát, chỗ chứa lương thực và một số
đồ dùng lặt vặt. Khu vực giữa nhà là nơi dọn cơm ăn hàng ngày.
Nơi ngủ của bố ông chủ nhà được đặt ở chái nhà nơi đặt cầu
thang lên xuống, sát với gian tiếp khách nam. Nơi ngủ của mẹ ông
chủ nhà được đặt ở phía dưới gần nơi ngủ của bố ông chủ nhà và
gần vị trí bếp lửa. Nơi ngủ của vợ chồng chủ nhà đặt ở chái nhà phía
trong, tiếp theo là buồng ngủ của con gái chủ nhà, liền kề là buồng
ngủ của vợ chồng con trai con dâu lần lượt theo thứ tự.
10


Buồng cô dâu mới bao giờ cũng được bố trí ở phần dưới của
ngôi nhà, gần bếp lửa, tiện cho con dâu dậy sớm đun nước uống hay
nước rửa mặt mà ít làm ảnh hưởng đến giấc ngủ của các thành viên
khác trong gia đình, điều này cũng thể hiện cách ứng xử của người
Tày trong sinh hoạt gia đình. Căn buồng được quây bằng liếp nứa,
cửa có rèm che bằng vải hoa. Trong buồng, ngoài chiếc rương gỗ để
cất giữ quần áo, tư trang, tiền bạc còn có cái giỏ tre đựng đồ may
vá. Trước lễ cưới, căn buồng được sửa sang lại cho chắc chắn và
đẹp hơn. Theo phong tục của người Tày, trong ngày cưới, một
người phụ nữ luống tuổi có phúc đức được mời đến trải chiếu tân
hôn và đón cô dâu nhập phòng. Trước đây, người ta còn treo trên
cửa buồng một chiếc quần của chú rể đã qua sử dụng để khi nhập
phòng cô dâu buộc phải chui qua phía dưới với ý nghĩa người vợ
chấp nhận phục tùng người chồng, điều này thể hiện sự đề cao vai
trò của nam giới trong gia đình người Tày.
2.2.2. Mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình với
cộng đồng
Ở đây quan hệ giữa các thành viên trong gia đình người Tày

với cộng đồng được hiểu là mối quan hệ giữa các thành viên sống
cùng một ngôi nhà với những thành viên sống trong các ngôi nhà
khác nhau trong làng và ở mức độ xa hơn là với những thành viên ở
ngoài cộng đồng làng. Trước tiên là quan hệ với những người huyết
thống họ hàng, thông gia, bố mẹ với các “trưởng bản” trong làng.
Thứ hai là quan hệ láng giềng với những thành viên sống ở những
ngôi nhà bên cạnh. Tiếp đến là mối quan hệ với những thành viên
khác trong làng khi tham gia các hoạt động chung của làng, nhất là
trong nhiều nghi lễ tín ngưỡng như cúng miếu làng đầu xuân, cúng
cầu mùa.
2.2.3. Quan hệ với thần linh
Ở gian giữa hoặc trái nhà phía trong là nơi đặt bàn thờ tổ tiên.
Đó được xem là vị trí trung tâm của ngôi nhà, là nơi tôn nghiêm
nhất của người Tày.
Bếp có ý nghĩa quan trọng trong đời sống sinh hoạt cũng như
ý thức tâm linh của người Tày, đó không chỉ là nơi có chức năng
nấu nướng mà còn là nơi giữ linh hồn của ngôi nhà. Bếp còn được
coi là không gian công cộng của một gia đình và là nơi tiếp khách.
2.3. Các phong tục tập quán liên quan đến ngôi nhà
2.3.1. Phong tục tập quán liên quan đến quá trình làm nhà
Việc làm ngôi nhà mới có thể ảnh hưởng tới sự bình yên, sức
khỏe của những người trong gia đình hay mang lại cho họ điều bất
hạnh. Vì thế khi chuẩn bị làm nhà mới đồng bào phải rất thận trọng
11


trong mọi quá trình làm nhà đều phải xem ngày. Người Tày có
nhiều phong tục tập quán liên quan đến chọn đất làm nhà, chọn
hướng, chọn tuổi… cho đến các nghi lễ vào nhà mới đều được tiến
hành rất cẩn thận.

2.3.2. Các phong tục tập quán diễn ra trong ngôi nhà
Các phong tục tập quán trong chu kỳ đời người của người Tày
đều diễn ra trong ngôi nhà của người Tày, đặc biệt là các nghi lễ
sau:
Nghi lễ cưới: Các lễ trong nghi lễ cưới xin của người Tày diễn
ra đều gắn với không gian linh thiêng của ngôi nhà sàn, ngôi nhà
sàn vừa là nơi chứng kiến, vừa là nơi để thực hành các nghi lễ, nơi
cô dâu đã được sinh ra và nuôi dưỡng trưởng thành.
Nghi lễ sinh đẻ: Người Tày với mong muốn có đông con nhiều
cháu, đồng bào thường lấy vợ sớm cho con trai. Con dâu khi có thai
được hai, ba tháng thì làm lễ báo cho Mẻ Bjoóc (Mẹ hoa) biết và cầu
xin mẹ che trở bảo hộ cho đứa trẻ trọng bụng.
Nghi lễ tang ma: Tục làm ma cho người chết là để tiễn đưa
người chết về với thế giới tổ tiên. Đó là một hình thức thể hiện việc
hiếu nghĩa quan trọng của người sống đối với người chết. Nghi lễ
tang ma diễn ra theo quy trình nhất định trên không gian ngôi nhà
sàn.

12


Tiểu kết chương 2
Người Tày sống gần gũi với thiên nhiên, dựa vào tự nhiên và
họ coi cuộc sống của họ được chi phối bằng một lực lượng thiên
nhiên thần bí. Trải qua quá trình lịch sử phát triển lâu dài, đồng bào
Tày đã đúc rút được những kinh nghiệm trong cuộc sống trở thành
một kho tàng tri thức dân gian phong phú ứng xử với thiên nhiên
với mong ước xây dựng cuộc sống tốt đẹp đầy đủ và sung túc hơn.
Trong đó, tập quán cư trú nhà sàn của người Tày ở xã Bình Yên,
huyện Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên cũng được hình thành từ hệ

thống tri thức phong phú đúc rút từ ngàn năm.
Ngôi nhà truyền thống của người Tày được xây dựng nên bằng
nguồn nguyên liệu khai thác từ tự nhiên. Từ quá trình lựa chọn, khai
thác và xử lý nguyên vật liệu đến quá trình dựng nhà, các kết cấu,
kiến trúc trong ngôi nhà sàn truyền thống đều phản ánh một cách hệ
thống các tri thức về tự nhiên cũng như phản ánh quan niệm, văn
hóa của đồng bào Tày nơi đây. Các hình thức bố trí mặt bằng sinh
hoạt, các dụng cụ truyền thống được sử dụng trong gia đình truyền
thống, các phong tục tập quán cũng là hệ thống các tri thức dân gian
cũng như hệ thống quan niệm sống, cái nhìn nhân sinh quan, vũ trụ
quan của con người đối với cuộc sống của họ đồng thời còn thể hiện
giá trị vật chất, giá trị tinh thần được chứa đựng trong ngôi nhà.
Ngôi nhà sàn của người Tày là sự phản ánh điều kiện sống và lao
động của đồng bào đồng thời thể hiện tiện ích đối với đời sống sinh
hoạt của đồng bào. Ngôi nhà sàn của người Tày còn là sản phẩm
mang tính nghệ thuật của kiến trúc dân gian được thể hiện ở tính
phù hợp với điều kiện tự nhiên, không gian thiên nhiên của ngôi nhà
và làng bản.
Bên cạnh việc phục vụ sinh hoạt thường ngày, ngôi nhà sàn
còn là nơi diễn ra các nghi lễ trong chu kỳ đời người, thể hiện quan
niệm, ý thức của con người trong đời sống gia đình, xã hội. Vì thế,
ngôi nhà sàn còn có giá trị tinh thần thiêng liêng trong tâm thức của
mỗi người. Những kiêng kỵ trong quá trình làm nhà cũng như diễn
ra trong ngôi nhà sàn đều mang tính triết lý thể hiện đời sống tinh
thần và quan niệm về thế giới quan, nhân sinh quan của người Tày
trong đó nó hàm chứa những ý nghĩa nhất định cả về tâm linh và
thực tiễn mang tính nhân quả nhất định.

13



Chƣơng 3
BIẾN ĐỔI CỦA NGÔI NHÀ VÀ VIỆC BẢO TỒN, PHÁT
HUY CÁC GIÁ TRỊ VĂN HÓA
CỦA NHÀ Ở CỦA NGƢỜI TÀY
3.1. Những biến đổi của nhà ở ngƣời Tày
3.1.1. Biến đổi yếu tố vật chất, kỹ thuật
Hiện nay, việc làm nhà ở của đồng bào Tày xã Bình Yên đã
chuyển sang sử dụng các loại nguyên vật liệu mới hết sức phong
phú do con người sản xuất ra như các loại gạch, xi măng, sắt thép,
ngói, tấm lợp, gỗ nhân tạo, đồ nhựa... Ban đầu, ngôi nhà sàn truyền
thống của người Tày được thay đổi các nguyên vật liệu dần dần từ
các bộ phận phụ như: cửa sổ, cửa... đến các bộ phận quan trọng hơn
dần được thay thế như: Mái, vật liệu lợp mái, từ mái lá cọ được thay
thế bằng mái ngói, mái tôn, hoặc mái prô xi măng; vật liệu lát sàn,
ban đầu một phần sàn của ngôi nhà được lát bằng gỗ để mộc, phần
giữa được lát bằng giát tre, mai đập dập, hiện nay được thay thế
toàn bộ bằng sàn gỗ, đánh véc ni sáng bóng, tạo nên sự bắt mắt
nhưng mất đi vẻ đơn sơ, mộc mạc của ngôi nhà; tảng kê chân cột,
theo truyền thống là những tảng đá có hình dáng và kích thước đồng
đều nhau được đồng bào lấy từ bờ sông, suối về, nay tảng kê chân
cột được đồng bào đổ bằng bê tông tạo độ bền, chắc và kích thước
đồng đều hơn; gầm sàn nhà truyền thống trước đây là đất thịt được
đầm chặt là nơi để chứa dụng cụ lao động, nhốt gia súc gia cầm,
hiện nay, một số ngôi nhà gầm sàn được lát gạch hoa hoặc láng xi
măng, tạo mặt bằng phẳng, mịn, sạch sẽ nhằm mở rộng không gian
sinh hoạt cho ngôi nhà. Không chỉ đối với các nguyên vật liệu làm
thay đổi, các vật dụng trong gia đình cũng có sự thay đổi lớn. Hiện
nay đồng bào có nhiều loại chăn, chiếu, gối và màn chủ yếu là mua
sẵn ở chợ có nhiều loại và nhiều màu sắc đa dạng nên không còn

dùng các loại chăn, gối truyền thống tự tay làm. Sự biến đổi này do
đồng bào Tày tiếp nhận từ các ngôi nhà của người Kinh. Theo ông
Ma Quang Tuyển, 72 tuổi, thôn Thẩm Rộc, xã Bình Yên cho biết:
“Sự biến đổi về các nguyên vật liệu, kiến trúc và không gian sinh
hoạt của ngôi nhà sàn hiện nay mặc dù làm mất đi tính truyền thống
nhưng đã tạo sự tiện ích trong sinh hoạt của đồng bào, mở rộng
không gian sinh hoạt, đồng thời tạo môi trường sạch sẽ hơn trong
sinh hoạt khi không nhốt gia súc gia cầm dưới gầm sàn”.
Kỹ thuật dựng nhà của người Tày cũng là một yếu tố không
ngừng tiếp nhận những tiến bộ kỹ thuật của các tộc người khác, đặc
biệt kỹ thuật dựng nhà của người Tày chịu ảnh hưởng sâu sắc kỹ
14


thuật dựng nhà trệt của người Kinh. Sự kết hợp giữa kỹ thuật bản
địa và kỹ thuật làm nhà của người Kinh đã giúp dần kỹ thuật đục, kỹ
thuật lắp ráp, trang trí để nâng cao giá trị thẩm mỹ đồng thời tiết
kiệm nguyên vật liệu cho ngôi nhà.
Theo thống kê của cán bộ văn hóa xã Bình Yên thì hiện nay có
35 ngôi nhà sàn truyền thống của người Tày trên địa bàn toàn xã.
Chính vì thế, các ngôi nhà sàn cổ truyền được khuyến khích giữ lại,
bảo tồn, hình thành nên làng văn hóa du lịch tại địa phương.
3.1.2. Biến đổi yếu tố xã hội và phong tục tập quán liên quan
đến ngôi nhà
Ngôi nhà sàn của người Tày trước đây không chỉ là nơi trú
ngụ mà còn là không gian linh thiêng chứng kiến con người từ khi
sinh ra đến khi trưởng thành và chết đi. Vì thế, người Tày có một hệ
thống quan niệm về cách bố trí không gian sinh hoạt cho từng người
phù hợp với từng vị trí, khu vực cụ thể. Tuy nhiên, ngày nay, cùng
với sự giao lưu, hội nhập và phát triển, đời sống vật chất cũng như

văn hóa và nhận thức của người Tày nơi đây ngày càng được nâng
cao vì thế cách bố trí không gian sinh hoạt cũng được thay đổi một
cách mạnh mẽ.
Trong không gian nội thất của ngôi nhà, vị trí sinh hoạt của
từng người ngày càng được cá nhân hóa. Trẻ em hiện nay được xếp
đặt góc học tập riêng; các vật dụng hiện đại được bổ sung nhiều
trong ngôi nhà như đài phát thanh, ti vi, giường, tủ đựng quần áo,
những vật dụng này cũng được xếp đặt ở một vị trí thích hợp để
phục vụ cho cả gia đình. Có nhiều gia đình tuy ở nhà sàn nhưng vẫn
mua sắm giường đặt ở buồng để thay vì việc trải chiếu trực tiếp lên
sàn nhà như trước đây.
Hiện nay, do đời sống văn hóa và nhận thức của người dân
được nâng cao nên sự phân biệt giữa nam và nữ trong quan niệm
của người Tày cũng được giảm bớt. Cách bố trí không gian sinh
hoạt giữa nam và nữ trong không gian ngôi nhà không còn quá khắt
khe, trong sinh hoạt gia đình, giữa nam và nữ có thể ngồi cùng nhau
bên bếp lửa, ngồi ăn cơm cùng nhau và khi gia đình có khách có thể
cùng nhau tiếp khách.
Đặc biệt, trong quá trình xây dựng nông thôn mới, một số
phong tục tập quán được cho là lạc hậu, gây nhiều tốn kém cho bà
con dần dần được thay đổi.
3.2. Các yếu tố tác động đến sự biến đổi nhà ở của ngƣời
Tày
3.2.1. Tác động từ các chủ trương, chính sách của Đảng và
Nhà nước
15


Từ khi nước ta dành được độc lập, Đảng và Nhà nước ta có rất
nhiều chủ trương, chính sách ưu tiên phát triển kinh tế miền núi,

vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số. Các chính sách đó góp
phần nâng cao đời sống kinh tế, văn hóa xã hội cho đồng bào miền
núi nói chung và đồng bào Tày ở Bình Yên nói riêng.
Báo cáo Chính trị tại Đại hội Đảng IV của nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa đã chỉ rõ: Chính sách dân tộc của Đảng ta là thực
hiện triệt để quyền bình đẳng mọi mặt giữa các dân tộc, tạo những
điều kiện cần thiết để xóa bỏ sự chênh lệch về trình độ kinh tế, văn
hóa giữa các dân tộc ít người và dân tộc đông người (Văn kiện Đại
hội Đại biểu của Đảng toàn quốc lần thứ IV, tháng 12 năm 1976).
Từ đó, các chủ trương, chính sách của Đảng và nhà nước ta đã hiện
thực hóa, thu hẹp khoảng cách giữa miền núi và miền xuôi, giữa
dân tộc thiểu số và dân tộc đa số. Năm 1980, Đảng ta có chính sách
đưa người Kinh ở miền xuôi lên định cư tại xã Bình Yên; năm 1979
một nhóm người Kinh đến định cư ở xã Bình Yên mang theo nhiều
kỹ thuật làm nhà của người miền xuôi. Sự định cư của một số tộc
người khác xen kẽ với các làng bản người Tày đã làm thay đổi
thành phần dân tộc; thay đổi cơ cấu kinh tế, người Tày đã biết khai
thác đất rừng để trồng chè, tạo nguồn thu nhập chính trong đời sống
của cả cộng đồng, thay đổi cơ cấu đất canh tác và đất ở đồng thời
tạo nên tình trạng khai thác rừng bừa bãi để phục vụ nhu cầu tái
định cư đã tàn phá nguồn tài nguyên rừng vốn rất giàu có ở đây.
Chính vì vậy mà rừng ngày một cạn kiệt, nguồn vật liệu để làm nhà
ngày một khan hiếm.
Vào cuối những năm 80 của đầu những năm 90, Đảng ta chủ
trương thực hiện việc giao đất, giao rừng cho từng hộ nông dân.
Đây là chủ trương mới, mở đầu cho thời kỳ đổi mới cơ chế kinh tế.
Năm 1993, chủ trương này được hiện thực hóa bằng chương trình
327 với nội đung chủ đạo là thực hiện giao đất, khoản rừng đến từng
hộ gia đình. Chương trình này có tác động nhiều mặt đến đời sống
xã hội và đặc biệt đối với việc xây dựng nhà sàn truyền thống của

người Tày ở Bình Yên. Việc khai thác rừng bị cấm tuyệt đối,
chương trình đồng thời còn phát triển hoạt động khoanh nuôi bảo vệ
rừng trong xã và giúp dân phát triển việc trồng rừng kinh tế khiến
đời sống đồng bào ngày càng được nâng cao.
Năm 1977, chỉ thị 286/TTg ngày 2/5/1997 của Thủ tướng
Chính phủ về việc tăng cường các biện pháp cấp bách bảo vệ rừng
thì việc quản lý rừng càng trở nên chặt chẽ, điều đó đồng nghĩa với
việc khai thác nguồn nguyên liệu từ rừng để làm nhà sàn bị hạn chế
đến mức tối đa.
16


3.2.2. Tác động của sự phát triển kinh tế
Trước đây Bình Yên là vùng miền núi nhiều rừng già, cây cối
rậm rạp, nguồn nguyên liệu để làm nhà sàn của người Tày ở đây chủ
yếu khai thác từ thiên nhiên. Tuy nhiên, từ những năm 1986 trở lại
đây, cùng với việc đổi mới nền kinh tế thị trường, làn sóng di cư từ
miền xuôi lên miền núi, do sự thay đổi tập quán canh tác. Đồng bào
quan niệm nguồn tài nguyên rừng là vô tận, vì thế sự khai thác rừng
triệt để của người dân nên rừng nguyên sinh ở Bình Yên không còn
đủ nguyên vật liệu cung cấp cho việc khai thác để làm nhà cho đồng
bào. Các cây gỗ quý, gỗ to hầu như cạn kiệt. Việc tàn phá rừng còn
gây ra những thiên tai nghiêm trọng như lũ quét, sạt lở đất, hạn hán,
hỏa hoạn... làm biến đổi môi trường tự nhiên, gây ô nhiễm môi
trường, gây hậu quả về mọi mặt của đời sống.
Ngoài ra, từ sau những năm Đổi mới, kinh tế thị trường mở
cửa, đời sống của bà con người Tày ở xã Bình Yên đã có nhiều đổi
thay. Nguồn thu nhập của người dân ở đây không chỉ đơn thuần là
từ nông nghiệp nữa mà có các ngành nghề khác bổ trợ như nuôi
trồng các loại con, cây đặc sản. Kể từ khi khu An toàn khu trở thành

điểm du lịch của Thái Nguyên, hệ thống đường giao thông được cải
tạo, đi lại thuận lợi, tạo điều kiện cho việc lưu thông hàng hoá phát
triển. Kinh tế của người Tày ở đây được nâng lên rõ rệt. Nhiều ngôi
nhà sàn được thay thế bằng những nhà xây, nhà cao tầng. Một số
người già vẫn hoài niệm về văn hoá truyền thống nên có nhiều hộ
vẫn giữ nếp nhà sàn làm bếp, và là nơi sinh hoạt của những người
già. Những cặp vợ chồng trẻ thường sinh hoạt trong ngôi nhà xây, vì
họ cho rằng như thế tiện nghi và phù hợp với thế hệ trẻ.
3.2.3. Tác động của quá trình giao lưu, hội nhập và phát
triển
Giao lưu và hội nhập là một xu hướng tất yếu của sự phát triển
văn hóa xã hội. Từ chính sách di dân từ các vùng miền khác đến
định cư tại Bình Yên, người Tày nơi đây có nhiều cơ hội giao lưu
với nhiều dân tộc khác, từ đó tiếp thu nhiều giá trị văn hóa vào văn
hóa của tộc người mình, làm thay đổi nhiều tập quán trong đời sống
vật chất, tinh thần, trong đó đặc biệt phải kể đến tập quán cư trú.
Nền kinh tế thị trường được hình thành ở Bình Yên cùng với
sự thông thương buôn bán với các vùng miền khác; sự phát triển của
cơ sở hạ tầng, các hình thức tiếp cận văn hóa mới xuất hiện như
truyền thanh, truyền hình; số lượng con em dân tộc Tày đi các tỉnh
thành khác học tập, lao động ngày càng nhiều có sự giao lưu thường
xuyên với các dân tộc khác tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình
giao lưu, hội nhập và phát triển.
17


Trong quá trình giao lưu và hội nhập của người Tày không chỉ
tiếp nhận được những giá trị tích cực mà còn tiếp thu những ảnh
hưởng tiêu cực từ nền văn hóa khác. Đối với tập quán cư trú, người
Tày du nhập kỹ thuật làm nhà trệt của người Kinh, thay đổi cách

thức sử dụng không gian trong ngôi nhà, thay đổi các vật dụng
truyền thống bằng những vật dụng hiện đại tiện ích hơn, thay đổi
mô hình gia đình theo xu thế tất yếu của sự phát triển xã hội, điều
đó mang lại cho con người sự tiện ích trong sinh hoạt, vệ sinh môi
trường, bảo vệ nguồn tài nguyên rừng. Mặt khác, sự du nhập kỹ
thuật làm nhà trệt của người Kinh cũng đã và đang làm biến đổi thói
quen trong sinh hoạt diễn ra trong ngôi nhà và diện mạo của nó từng
bước phá vỡ không gian cảnh quan làng bản vốn có của tộc người.
3.3. Bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống của
nhà ở ngƣời Tày trong bối cảnh hiện nay
3.3.1. Quan điểm bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa của
nhà sàn Tày
Nhà ở của người Tày không chỉ là một loại hình di sản kiến
trúc, văn hóa vật chất mà còn chứa đựng các giá trị văn hóa tinh
thần, gắn bó với đời sống sinh hoạt tâm linh của mỗi dân tộc. Vì
vậy, mục đích của việc bảo tồn các giá trị văn hóa truyền thống là
giữ gìn những tinh hoa văn hóa, coi đó là nguồn tài sản thiêng liêng
của dân tộc, là công cụ giáo dục có hiệu quả về tinh thần yêu quê
hương đất nước, yêu dân tộc, xây dựng trong lòng mỗi người niềm
tự tôn, tự hào về văn hóa dân tộc. Mục đích cuối cùng là làm cho
dân tộc Tày nói riêng và cộng đồng các dân tộc Việt Nam nói chung
phát triển bền vững trên cơ sở một nền văn hóa mang sắc thái riêng.
Đó cũng là mục đích mà Đảng ta đã đề ra trong Nghị quyết Trung
ương V, Khóa VIII về việc “Xây dựng văn hóa Việt Nam tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc”.
Tăng cường mối quan hệ với cộng đồng và khuyến khích chủ
thể văn hóa tự giới thiệu bản sắc văn hóa của mình tại Bảo tàng trở
thành một định hướng quan trọng trong hoạt động của Bảo tàng
DTHVN. Trên thực tế, những thành công của Bảo tàng tiên phong
trong việc tổ chức những hoạt động với sự tham gia của cộng đồng

chủ thể văn hóa, như: các hoạt động trình diễn nghề thủ công hoặc
văn nghệ dân gian; xây dựng và sửa chữa các công trình kiến trúc
dân gian; làm phim dựa vào cộng đồng... Chính cộng đồng - chủ thể
văn hóa đã sáng tạo, sở hữu, nuôi dưỡng và mong muốn bảo tồn các
di sản văn hóa (vật thể và phi vật thể) của chính mình. Bởi vậy, sẽ là
đúng đắn và rất tốt khi họ là những đối tác, những người bạn đồng
hành quan trọng của Bảo tàng trong sứ mệnh bảo tồn và phát huy di
18


sản văn hóa. Công chúng tham quan Bảo tàng DTHVN có nhiều cơ
hội được giao lưu trực tiếp với các chủ thể văn hóa, tham gia vào
quan hệ tương tác hai chiều giữa người tìm hiểu (công chúng) và
người sở hữu văn hóa (chủ thể), từ đó hình thành tình yêu, lòng tự
hào và ý thức bảo tồn di sản văn hóa của cả người thưởng thức và
người thể hiện văn hóa.
3.3.2. Một số đề xuất giải pháp bảo tồn và phát huy giá trị
văn hóa thông qua ngôi nhà sàn của người Tày
Công tác nghiên cứu, sưu tầm
Tiến hành nghiên cứu, sưu tầm các hiện vật gốc và mang tính
lịch sử liên quan đến văn hóa ngôi nhà sàn truyền thống của người
Tày ở Thái Nguyên nhằm mục đích bảo quản, lưu giữ chúng để làm
tư liệu phục vụ các công tác nghiên cứu khác đồng thời nhằm phát
huy giá trị văn hóa của các hiện vật nhằm phục vụ cho công tác
trưng bày, tuyên truyền, giới thiệu khách tham quan, giáo dục cho
quần chúng nhân dân về truyền thống văn hóa dân tộc, tạo niềm tự
hào về văn hóa dân tộc.
Gắn các di sản văn hóa với hệ thống di tích lịch sử An toàn
khu (ATK ) để phát triển du lịch nhằm quảng bá các giá trị văn hóa
của người Tày

Xã Bình Yên nằm trong khu vực di tích lịch sử ATK, một di
tích lịch sử nổi tiếng. Khu di tích này đã được công nhận là di tích
quốc gia đặc biệt quan trọng của Việt Nam. Đây là nơi Chủ tịch Hồ
Chí Minh và các nhà lãnh đạo Đảng, Nhà nước Việt Nam đã sống
và làm việc từ 20/5/1947 - 1954 để lãnh đạo cuộc kháng chiến 9
năm chống thực dân Pháp. Chính vì vậy, cần giáo dục cho thế hệ trẻ
các giá trị văn hóa truyền thống gắn với giá trị lịch sử. Thông qua
các chương trình ngoại khóa tại trường học, tại địa phương giới
thiệu thêm về nét văn hóa đặc trưng thông qua ngôi nhà sàn truyền
thống. Có thể gắn tour du lịch Khu di tích ATK với bản Quyên –
nơi còn lưu giữ hầu hết các ngôi nhà sàn truyền thống để giới thiệu
với khách du lịch trong và ngoài nước về đặc trưng văn hóa của
người Tày thông qua ngôi sàn của họ và các vật dụng phản ánh đời
sống sinh hoạt hàng ngày của người Tày trong truyền thống cũng
như trong cuộc sống hiện nay.
.Xây dựng chương trình giáo dục về văn hóa truyền thống, tạo
nên ý thức trách nhiệm về giữ gìn di sản văn hóa người Tày trong
cộng đồng/khách tham quan tại Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam
Nằm trong các hoạt động nhằm trưng bày, giới thiệu văn hoá
54 dân tộc ở Việt Nam, Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam đã xây
dựng ngôi nhà sàn truyền thống của người Tày theo khuôn mẫu nhà
19


×