Tải bản đầy đủ (.doc) (37 trang)

Tiểu luận Thị trường vốn: QUYỀN CHỌN CHO THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (200.76 KB, 37 trang )

PHẦN 1. TỔNG QUAN VỀ QUYỀN CHỌN VÀ THỊ TRƯỜNG QUYỀN
CHỌN
1.1 KHÁI QUÁT VỀ QUYỀN CHON
1.1.1 Quyền chọn
1.1.2 Các loại quyền chọn
1.1.2.1 Quyền chọn mua
1.1.2.2 Quyền chọn bán
1.1.3 Chiến lược phòng ngừa rủi ro với quyền chọn
1.1.3.1 Quyền chọn mua và cổ phiếu
1.1.3.2 Quyền chọn bán và cổ phiếu
1.2 THỊ TRƯỜNG QUYỀN CHỌN
1.2.1 Lịch sử hình thành và phát triển
1.2.2 Các thành phần của thị trường quyền chọn
1.2.2.1 Hàng hoá, cung và cầu
1.2.2.2 Nhà tạo lập thị trường
1.2.2.3 Các nhà môi giới
1.2.2.4 Trung tâm thanh toán
1.2.2.5 Hệ thống giám sát, kiểm soát
1.3 QUYỀN CHỌN VÀ CHỨNG KHOÁN
1.3.1 Khái niệm về quyền chọn chứng khoán
1.3.2 Đặc điểm về quyền chọn chứng khoán
1.4. ĐIỀU KIỆN PHÁT TRIỂN GIAO DỊCH QUYỀN CHỌN

PHẦN 2: ĐIỀU KIỆN PHÁT TRIỂN VỀ QUYỀN CHỌN Ở VIỆT NAM
2.1.SỰ CẦN THIẾT CỦA VIỆC ÁP DỤNG QUYỀN CHỌN CHỨNG KHOÁN VÀO
GIAO DỊCH TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM
2.1.1 Tạo ra công cụ bảo vệ nhà đầu tư
2.1.2 Đa dạng hóa cơ hội kinh doanh cho các nhà đầu tư tài chính trong và ngoài nước
2.1.3 Thúc đẩy sự phát triển của thị trường chứng khoán
2.1.4 Thu hút dòng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài vào Việt Nam
2.1.5 Nâng cao tính cạnh tranh của thị trường chứng khoán Việt Nam


2.2. ĐIỀU KIỆN THỰC TẾ VIẾT NAM TRONG VIỆC ÁP DỤNG QUYỀN CHỌN

PHẦN 3: KHẢ NĂNG ÁP DỤNG QUYỀN CHỌN CHO THỊ TRƯỜNG
CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM
3.1 ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG QUYỀN CHỌN VIỆT NAM
TRONG NHỮNG NĂM TỚI

1


3.2. KHÓ KHĂN VÀ THÁCH THỨC TRONG VIỆC ÁP DỤNG QUYỀN CHỌN
CHỨNG KHOÁN VÀO GIAO DỊCH TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT
NAM
a. Khung pháp lý chưa hoàn chỉnh
b. Hạ tâng kỹ thuật chưa đáp ứng được nhu cầu hiện tại
c.Nhận thức và trình độ của các nhà đầu tư trong nước
d. Sự phức tạp trong khâu tổ chức
3.3. THUẬN LỢI TRONG VIỆC ÁP DỤNG QUYỀN CHỌN CHỨNG KHOÁN
VÀO GIAO DỊCH TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM
a. Tiềm năng phát triển của thị trường chứng khoán là lớn
b. Ý thức về rủi ro chứng khoán của nhà đầu tư Việt Nam rất cao
c. Có sự định hướng của cơ quan Nhà nước
d. Kinh nghiệm từ việc ứng dụng quyền chọn trong giao dịch ngoại tệ và vàng ở Việt
Nam
3.4. ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ KHẢ NĂNG ÁP DỤNG QUYỀN CHỌN CHỨNG
KHOÁN VÀO GIAO DỊCH TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM

KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


2


PHẦN 1
TỔNG QUAN VỀ QUYỀN CHỌN VÀ THỊ TRƯỜNG QUYỀN CHỌN
1.1 Khái quát về quyền chọn
1.1.1 Quyền chọn
Quyền chọn là một hợp đồng ký kết giữa một bên là “người ký phát”
(Writer/Seller) và một bên là người mua hợp đồng (Buyer) trong đó, cho phép người
mua hợp đồng được quyền mua hoặc bán cho người ký phát hợp đồng một số lượng tài
sản với một giá cả nhất định và trong một thời hạn quy định của tương lai. Hợp đồng
quyền chọn cung cấp quyền cho người sở hữu nó chứ không phải là nghĩa vụ mua
hoặc bán. Vì vậy, người chủ quyền chọn có thể thực hiện hoặc không thực hiện quyền
trong thời gian hiệu lực của hợp đồng quyền chọn.
Các hàng hóa trong giao dịch quyền chọn có thể là cổ phiếu, chỉ số cổ phiếu, trái
phiếu, chỉ số trái phiếu, thương phẩm, tiền tệ hay hợp đồng tương lai…
Một quyền chọn phổ biến nhất trên thế giới hiện nay trong lĩnh vực tài chính và
có nhiều điểm tương đồng với giao dịch cổ phiếu là quyền chọn cổ phiếu.
Quyền chọn cổ phiếu là một công cụ giao dịch linh hoạt nhất đã được tìm ra
trong lĩnh vực kinh doanh – tài chính. Do chi phí cho quyền chọn thấp hơn giao dịch
cổ phiếu, quyền chọn cung cấp một đòn bẩy tài chính cao với một mức thiệt hại giới
hạn cụ thể trong việc giao dịch và đồng thời làm tăng thêm thu nhập cho nhà đầu tư.
Người mua quyền chọn có quyền nhưng không phải là nghĩa vụ bắt buộc, mua hoặc
bán các chứng khoán cơ sở (underlying stock) tại mức giá thực hiện đã thỏa thuận
trước (strike price/ exercise price) vào trước hoặc tại ngày đã định trước (expiry date).
Các quyền chọn này tồn tại đối với hàng ngàn cổ phiếu riêng lẻ, mặc dù khối lượng
giao dịch có thể thấp đối với quyền chọn của một số loại cổ phiếu nhất định.
Tất cả các quyền chọn niêm yết đều có quyền thực hiện cho tháng hiện tại hoặc
các tháng quy định trong tương lai (ở Mỹ thường là vào ngày thứ sáu của tuần thứ ba
trong tháng đáo hạn). Mỗi cổ phiếu sẽ có một chu kỳ thích hợp đối với quyền chọn.

Tại Sàn giao dịch Chứng khoán Chicago của Mỹ, có ba chu kỳ đáo hạn cố định được
quy định cho quyền chọn, mỗi chu kỳ thường cách nhau đều đặn là bốn tháng: Chu kỳ
thứ nhất bắt đầu từ tháng Giêng, tháng tư, tháng bảy và tháng mười; Chu kỳ thứ hai
bắt đầu từ tháng hai, tháng năm, tháng tám và tháng mười một; Chu kỳ thứ ba bắt đầu
từ tháng ba, tháng sáu, tháng chin và tháng mười hai.
Mỗi quyền chọn luôn có vài mức giá thực hiện (strike price) cao hơn hoặc thấp
hơn giá giao dịch hiện hành của chứng khoán cơ sở trên thị trường và tăng giảm theo
một biên độ nhất định, giá thực hiện được niêm yết giá với biên độ là 2 1/2, 5 và 10 điểm
tùy thuộc vào giá thị trường của chứng khoán cơ sở và chỉ có vài giá thực hiện ở trên
3


hoặc dưới giá hiện hành mới được giao dịch. Giá quyền chọn được xác định do cung
cầu trên cơ sở đấu giá công bằng, công khai và cạnh trang của sàn giao dịch. Ngoài ra,
giá đóng cửa của quyền chọn luôn được đăng báo phổ biến hằng ngày.
Người nắm giữ quyền chọn có ba phương pháp để hiện thực hóa lợi nhuận hoặc
giảm thiểu phần thua lỗ bằng cách: hoặc bán lại quyền chọn; hoặc thoát khỏi giao dịch
bằng cách giao dịch ngược lại với quyền chọn đang nắm giữ (offsetting); hoặc để
quyền chọn tự động đáo hạn không giá trị.
Với đặc tính Quyền chọn cổ phiếu đã nêu trên có nhiều điểm tương đồng với việc
giao dịch cổ phiếu như: thứ nhất, việc giá giao dịch mua bán hình thành và thực hiện
theo phương thức đấu giá mờ; thứ hai, giao dịch quyền chọn cổ phiếu được thực hiện
theo quy mô hợp đồng – tùy theo quy định cụ thể của từng sàn giao dịch, nhưng thông
thường là 100 cổ phần/hợp đồng quyền chọn – tương tự hình thức giao dịch theo lô đối
với cổ phiếu tại TTCK Việt Nam; thứ ba, nhà đầu tư quyền chọn còn có thể theo dõi
xu hướng giá, khối lượng giao dịch và thông tin liên quan mỗi ngày, thậm chí mỗi phút
của chứng khoán cơ sở giống như các nhà đầu tư cổ phiếu và nhanh chóng biết được
mức giá nào nên thực hiện hợp đồng Quyền chọn của mình.
1.1.2. Các loại Quyền chọn
1.1.2.1. Quyền chọn Mua (Call options)

Quyền chọn mua cho người mua có quyền, nhưng không phải là nghĩa vụ, mua
chứng khoán cơ sở tại một mức giá thực hiện đến khi đáo hạn. Có rất nhiều giá thực
hiện có sẵn tùy thuộc vào giá giao dịch hiện thời của chứng khoán cơ sở. Thời gian
đáo hạn có thể từ một tháng đến hơn một năm (Quyền chọn dài hạn LEAPS –
Longterm Equity Anticipation Securities). Tùy thuộc vào trạng thái thị trường mà
người mua quyền chọn có thể mua (go long a Call option) hoặc bán (go short a Call
option) một quyền chọn mua. Người mua quyền chọn mua có kỳ vọng về xu hướng
tăng giá của cổ phiếu.
Một quyền chọn mua mà giá chứng khoán cao hơn giá thực hiện được gọi là cao
giá ITM (quyền chọn mua có lãi); Nếu chứng khoán thấp hơn giá thực hiện, quyền
chọn mua được gọi là kiệt giá OTM (quyền chọn mua bị lỗ); Nếu giá chứng khoán
bằng với giá thực hiện, quyền chọn là ngang giá ATM (quyền chọn mua hòa vốn)
Hợp đồng quyền chọn mua (Call Option) là một loại hợp đồng tài chính diễn ra
giữa hai bên, cho phép người mua hợp đồng có quyền mua một số lượng tài sản nhất
định ở một mức giá ấn định trước, gọi là “strike price” hoặc “exercise price” – vào
hoặc trước ngày đáo hạn của hợp đồng. Đổi lại, người mua hợp đồng (holder) phải trả
cho người bán hợp đồng quyền chọn (writer) một khoản phí (call premium).
Nếu giá tài sản cơ sở tăng như dự đoán thì người mua hợp đồng sẽ thu được lợi
nhuận trong khi chỉ phải đầu tư một khoản nhỏ (phí hợp đồng) hơn là phải bỏ tiền ra
4


mua toàn bộ tài sản đó, trường hợp này người ta nói hợp đồng quyền chọn mua có lãi
(in-the-money call option), ngược lại hợp đồng quyền chọn mua bị lỗ (out-of-the
money call option). Về phía người bán, anh ta chỉ thu được một khoản lợi tức bằng với
phí quyền chọn, nhưng khi người mua thực hiện hợp đồng thì người bán sẽ bị lỗ không
giới hạn.
Nếu hợp đồng được thực hiện thì người bán sẽ phải từ bỏ quyền sở hữu đối với
số tài sản đã xác định trong hợp đồng. Nếu người mua hợp đồng cảm thấy không có
lợi anh ta có thể từ chối việc thực thi hợp đồng.

Trong hợp đồng quyền chọn mua, người mua bao giờ cũng kỳ vọng giá tài sản
tăng trong khi người bán kỳ vọng giá tài sản đứng hoặc giảm hoặc cũng có trường hợp
là do người bán sẵn sàng từ bỏ khoản lợi nhuận từ giá tài sản tăng để đổi lấy khoản phí
thực hiện hợp đồng (được thanh toán ngay). Do có những nguồn thông tin khác nhau,
cách phân tích, đánh giá khác nhau cho nên mới nảy sinh những kỳ vọng khác biệt
giữa người mua và người bán, dẫn đến việc các hợp đồng quyền chọn (Call option, put
option) như thế này diễn ra.
Vị thế của người mua, người bán và phí quyền chọn được mô tả bằng hình sau:
Hình 1.1: Vị thế của quyền chọn mua
Lãi

Lãi

Điểm
hòa vốn

Giá thực
hiện
Vùng lãi
Giá tài sản
tăng

Phí
0

0

Phí

Lỗ


Giá tài sản
tăng
Giá thực
hiện
(a)

Vùng lỗ

Lỗ
(b)

Điểm
hòa vốn

Hình 1.1(a) mô tả thành quả của người mua quyền chọn mua với lợi nhuận tiềm
năng là vô hạn khi giá của tài sản tăng trong tương lai. Ngược lại, nếu giá chứng khoán
giảm so với giá thực hiện, người mua quyền chỉ lỗ với mức lỗ tối đa bằng với phí mua
quyền chọn.
Hình 1.1(b) mô tả thành quả của người bán quyền chọn mua tài sản, người bán
quyền chọn mua chỉ kiếm lời bằng khoản phí nhận được từ người mua quyền chọn, và
sẽ bị thua lỗ vô hạn khi giá tài sản tăng so với giá thực hiện.
5


1.1.2.2. Quyền chọn bán
Nếu như Call option là hợp đồng quyền chọn mua thì ngược lại với nó có một
loại hợp đồng quyền chọn khác là Put option, hợp đồng quyền chọn bán. Hợp đồng
quyền chọn bán là một loại hợp đồng tài chính giữa hai bên, theo đó người mua hợp
đồng (holder) có quyền bán cho người bán hợp đồng (writer) một số tài sản nhất định

tại một mức giá xác định (strike price, exercise price), vào hoặc trước ngày đáo hạn
hợp đồng (expiration date). Để đổi lại người mua phải trả cho người bán một khoản
phí hợp đồng (option premium).
Cần lưu ý trong hợp đồng quyền chọn bán người mua hợp đồng lại chính là
người có quyền bán tài sản. Người mua hợp đồng sẽ có lợi nếu giá tài sản sụt giảm
mạnh, khi đó nếu người mua hợp đồng quyết định thực thi quyền bán (exercise the
option), người bán hợp đồng buộc phải mua số tài sản đó. Ngược lại, người bán hợp
đồng (người có nghĩa vụ mua tài sản khi đến hạn nếu người mua hợp đồng yêu cầu) sẽ
thu lợi khi giá chứng khoán tăng, đứng, hoặc giảm ít hơn khoản phí hợp đồng nhận
được.
Hợp đồng quyền chọn bán là một cách để nhà đầu tư bảo hiểm cho tài sản của
mình khi ông ta dự đoán tài sản đó có khả năng tụt giá trong tương lai, đồng thời
không muốn bán hẳn số tài sản đó hoặc để đầu cơ thu lợi trước dự đoán đó. Dù trường
hợp nào có xảy ra chăng nữa thì rủi ro người mua hợp đồng cũng chỉ giới hạn trong số
phí hợp đồng. Hợp đồng quyền chọn bán phổ biến nhất đối với cổ phiếu của một số
công ty nhất định, ngoài ra, hợp đồng put option còn được mua bán với tài sản tài
chính như lãi suất, hoặc mặt hàng thực như vàng, dầu mỏ.
Ngược lại với quyền chọn mua, vị thế của người mua, người bán và phí quyền
chọn được mô tả bằng hình sau:
Hình 1.2: Vị thế của quyền chọn bán
Lãi

Lãi

Điểm
hòa vốn

Giá thực
hiện


Phí
0

Giá tài sản tăng

Phí

Lỗ

Giá thực
hiện
(a)

Lỗ

Giá tài sản tăng
0

Điểm
hòa vốn

(b)

6


Tương tự. hình 1.2(a) mô tả thành quả của người mua quyền chọn bán và hình
1.2(b) mô tả thành quả của người bán quyền chọn bán. Với một khoản phí để sở hữu
quyền, người mua quyền chọn bán chỉ lỗ giới hạn bằng với khoản phí đã trả khi mua
quyền chọn mua tài sản và có lời vô hạn khi giá của tài sản giảm. Ngược lại, người bán

quyền chọn bán chỉ thu về có giới hạn bằng với phí quyền bán quyền chọn nhưng nếu
giá tài sản giảm thì họ sẽ gánh chịu một khoản lỗ là vô hạn.
Như vậy, khi nhà đầu tư có dự định mua tài sản và kỳ vọng giá của tài sản đó sẽ
tăng lên trong tương lai thì họ sẽ phòng ngừa rủi ro bằng cách mua một quyền chọn
mua. Ngược lại, khi nhà đầu tư đang sở hữu tài sản và họ dự đoán trong tương lai giá
tài sản sẽ giảm thì họ sẽ mua một quyền chọn bán.
Nếu như vậy, không có nghĩa là người bán quyền chọn mua và chọn bán là
những kẻ liều lĩnh hay thích đùa, đánh đổi một ít lợi nhuận bằng cả một rủi ro thua lỗ
vô hạn. Trên thị trường các nhà đầu tư khác nhau sẽ có nhận định và đánh giá khác
nhau về xu hướng thay đổi của thị trường vì vậy họ sẽ hành động theo nhận định, phân
tích, dự báo của mình. Ngoại trừ họ vững tin xu thế giá cả tài sản sẽ biến động theo
hướng kỳ vọng, bằng cách này hay cách khác họ sẽ tiến hành bù trừ vị thế rủi ro hay tự
bảo vệ mình khỏi thua lỗ bằng cách kết hợp nhiều chiến lược một cách khôn khéo và
độc đáo.
1.1.3. Chiến lược phòng ngừa rủi ro với quyền chọn
Một trong những đặc tính hấp dẫn nhất của quyền chọn là nó có thể được kết hợp
với cổ phiếu hoặc một quyền chọn khác để tạo ra nhiều chiến lược đa dạng. Các khả
năng có thể đạt được lợi nhuận đa dạng đến nỗi gần như bất kỳ một nhà đầu tư nào
cũng có thể tìm được một chiến lược đáp ứng mức rủi ro ưa thích của mình và phù hợp
dự báo thị trường.
Có nhiều cách kết hợp khác nhau giữa quyền chọn chứng khoán và nhà đầu tư
chứng khoán nhằm đạt được mục tiêu của nhà đầu tư. Việc kết hợp các chiến lược với
nhau như thế nào là tùy thuộc vào khẩu vị rủi ro và mục tiêu lợi nhuận của nhà đầu tư.
Sau đây là một vài chiến lược cơ bản:
Để có thể tính toán một số công thức, ta có các ký hiệu quy ước sau:
C: giá quyền chọn mua hiện tại
P: Giá quyền chọn bán hiện tại
So: Giá cổ phiếu hiện tại
T: Thời gian đến khi đáo hạn
X: Giá thực hiện

St: Giá cổ phiếu khi đáo hạn
π : Lợi nhuận của chiến lược
Nc: Số quyền chọn mua
7


Np: Số quyền chọn bán
Ns: Số lượng cổ phiếu
Với
Nc, Np, Ns > 0: nhà đầu tư mua quyền hay mua cổ phiếu, và
Nc, Np, Ns < 0: nhà đầu tư bán quyền hay cổ phiếu
1.1.3.1. Quyền chọn mua và cổ phiếu
Một trong số các chiến lược phổ biến nhất của nhà kinh doanh quyền chọn
chuyên nghiệp là mua cổ phiếu và bán quyền chọn mua đối với một loại cổ phiếu. Nhà
đầu tư thực hiện chiến lược này gọi là bán một quyền chọn mua có phòng ngừa. Vì
người kinh doanh quyền chọn đang sở hữu cổ phiếu nên nếu người mua quyền chọn
thực hiện quyền thì nhà kinh doanh quyền chọn này chỉ chuyển giao cổ phiếu mà
không phải mua trên thị trường với một mức giá có thể khá cao. Đứng trên quan điểm
khác, người sở hữu cổ phiếu mà không bán quyền chọn sẽ gặp phải một rủi ro đáng kể
khi giá cổ phiếu giảm xuống. Bằng cách bán một quyền chọn mua đối với cổ phiếu đó,
nhà đầu tư sẽ giảm rủi ro khi giá cổ phiếu giảm xuống đáng kể, vì lúc này khoản lỗ sẽ
được bù đắp một phần bởi phí bán quyền chọn mua.
Ta có phương trình lợi nhuận của việc mua cổ phiếu là
π = Ns(St – So) (1.1) Với Ns > 0
Và phương trình lợi nhuận của việc bán một quyền chọn mua như sau:
π = Nc(Max(0, St – X) – C) Với Nc < 0
Phương trình kết hợp lợi nhuận của hai chiến lược là:
π = Ns(St – So) + Nc(Max(0, St – X) – C)
Xét trường hợp của một cổ phiếu và một quyền chọn,với N s > 0 (mua cổ phiếu),
Nc < 0 (bán quyền chọn) và Ns = -Nc = 1, phương trình lợi nhuận lúc này là:

π = St – So – Max (0, St – X) + C
- Nếu St ≤ X, tức là giá cổ phiếu khi đáo hạn nhỏ hơn hoặc bằng giá thực hiện
quyền chọn, người mua quyền chọn sẽ không yêu cầu thực hiện quyền chọn, vì vậy lợi
nhuận của người bán quyền là phí quyền chọn tương ứng C. Tuy nhiên, do giá cổ
phiếu giảm nên nhà đầu tư sẽ bị lỗ một khoản là S t – So. Phương trình lợi nhuận kết
hợp của chiến lược là: π = St – So + C.
- Nếu St > X, tức giá cổ phiếu khi đáo hạn lớn hơn giá thực hiện, người mua
quyền yêu cầu thực hiện hợp đồng, lúc này giá trị lỗ của người bán quyền tỷ lệ thuận
với mức chênh lệch giữa giá thị trường và giá trị thực hiện và số lượng quyền chọn
trong hợp đồng.
- Lúc này, lợi nhuận của chiến lược mua cổ phiếu và bán quyền chọn mua là lợi
nhuận của chiến lược thực hiện hai vị thế song song. Phương trình lợi nhuận của nhà
đầu tư lúc này là: π = St – So - St + X + C = X – So + C.

8


1.1.3.2. Quyền chọn bán và cổ phiếu
Một chiến lược khác của quyền chọn là kết hợp giữa mua cổ phiếu và bán
một quyền chọn mua, người sở hữu cổ phiếu có thể được bảo vệ khi giá giảm.
Trong một thị trường giá lên, cổ phiếu gần như sẽ được mua lại bằng cách thực
hiện quyền chọn. Một cách để nhận được sự bảo vệ trước thị trường giá xuống và
vẫn có thể chia phần lợi nhuận trong một thị trường giá lên là mua một quyền chọn
bán bảo vệ, tức là nhà đầu tư mua cổ phiếu và mua một quyền chọn bán. Quyền
chọn bán cung cấp một mức giá bán tối thiểu dành cho cổ phiếu.
Ta có phương trình lợi nhuận của việc mua một quyền chọn bán như sau:
π = Np (Max(0, X – St) – P) (1.2) Với Np > 0
Phương trình kết hợp lợi nhuận của hai chiến lược được thiết lập bằng cách cộng
hai phương trình lợi nhuận của chiến lược mua cổ phiếu (1.1) và chiến lược mua
quyền chọn bán (1.2):

π = Ns(St – So) + Np(Max(0, X – St) – P)
Xét trường hợp mua một cổ phiếu và một quyền chọn, với N s > 0 (mua cổ phiếu),
Np > 0 (mua quyền chọn bán) và Ns = Np = 1, phương trình lợi nhuận lúc này là:
π = St – So + Max(0, X – St) – P
- Nếu St ≥ X, tức là giá cổ phiếu khi đáo hạn lớn hơn hoặc bằng giá thực hiện,
quyền chọn sẽ không được thực hiện và kết quả là: π = St – So – P, lợi nhuận từ việc
cổ phiếu tăng giá sẽ được trừ đi một phần chi phí dự phòng rủi ro.
- Nếu St < X, tức là giá cổ phiếu khi đáo hạn nhỏ hơn giá thực hiện, người mua
quyền chọn yêu cầu thực hiện quyền, tức là người bán quyền phải mua lại cổ phiếu.
Người mua quyền có phương trình lợi nhuận kết hợp của chiến lược này là:
π = St – So + X – St – P = X – So – P
Quyền chọn trong trường hợp này như một hợp đồng bảo hiểm với cổ phiếu.
Trong thị trường giá xuống, tổn thất của cổ phiếu sẽ phần nào được bù đắp bởi việc
thực hiện quyền chọn, trong thị trường giá lên, bảo hiểm là không cần thiết và mức
lợi nhuận do cổ phiếu tăng giá bị giảm đi do phí của quyền chọn trả trước đề phòng
rủi ro. Như vậy, quyền chọn bán bảo vệ ấn định mức lỗ tối đa do giá cổ phiếu giảm
nhưng lại chịu một loại chi phí là lợi nhuận ít hơn khi giá tăng. Nó tương tự như
một hợp đồng bảo hiểm tài sản.
1.2 Thị trường quyền chọn
1.2.1. Lịch sử hình thành và phát triển
Hệ thống quyền chọn hiện nay có nguồn gốc từ thế kỷ 19, khi quyền chọn mua
và quyền chọn bán được chào bán đối với cổ phiếu. Những năm đầu tiên của thập niên
1900, một nhóm các công ty được là Hiệp hội các nhà môi giới và kinh doanh quyền
chọn mua và quyền chọn bán đã thành lập thị trường các quyền chọn. Nếu một người
9


nào đó muốn muc quyền chọn, một thành viên của hiệp hội sẽ tìm kiếm một người bán
sẵn sàng muốn ký hợp đồng bán quyền chọn, nếu công ty không thể tìm được người
bán, tự công ty sẽ bán quyền chọn. Vì vậy, một công ty có thể vừa là nhà mội giới hoặc

là nhà kinh doanh. Tuy nhiên thị trường quyền chọn lúc này vẫn chỉ mang tính chất
của một thị trường phi tập trung, do chưa có thị trường thứ cấp nên các hợp đồng
quyền chọn có rất ít thậm chi là không có tính thanh khoản và cũng chưa được chuẩn
hóa
Năm 1973, sàn giao dịch Chicago Board of Trade (CBOT), sàn giao dịch lâu đời
nhất và lớn nhất về các hợp đồng giao sau hàng hóa, đã tổ chức một sàn giao dịch dành
riêng cho giao dịch quyền chọn cổ phiếu. Sàn giao dịch được đặt tên là Chicago Board
Options Exchange (CBOE), mở cửa giao dịch quyền chọn mua vào ngày 26/4/1973 và
giao dịch các quyền chọn bán trong tháng 6 năm 1977. CBOE đã tạo ra một thị trường
trung tâm cho các quyền chọn bằng cách tiêu chuẩn hóa các kỳ hạn và điều kiện của
một quyền chọn, nó đã làm tăng tính thanh khoản cho thị trường. Như vậy, nhà đầu tư
khi ký hợp đồng mua hoặc bán quyền chọn có thể trao đổi quyền chọn này trên thị
trường giao dịch trước khi hợp đồng đáo hạn. Và trên hết CBOE đã đưa ra hệ thống
các tiêu chuẩn cho việc thực hiện giao dịch, qua đó ràng buộc quyền và nghĩa vụ đầy
đủ của hợp đồng đối với bên bán và bên mua. Vì vậy người mua quyền chọn không
phải lo lắng về tính rủi ro tín dụng của người bán, điều này làm cho thị trường quyền
chọn trở nên hấp dẫn hơn đối với công chúng.
Tiếp theo đó, thị trường chứng khoán Mỹ (AMEX) và thị trường chứng khoán
Philadelpia (PHLX) bắt đầu thực hiện giao dịch quyền chọn vào năm 1975, thị trường
chứng khoán Pacific (PSE) thực hiện giao dịch vào năm 1976.
Thập niên 80 cũng là giai đoạn phát triển đối với thị trường quyền chọn ngoại tệ,
chỉ số chứng khoán và hợp đồng giao sau tại Mỹ. Thị trường chứng khoán Philadelpia
là nơi giao dịch quyền chọn ngoại tệ đầu tiên. Chicago Board Options Exchange bắt
đầu giao dịch quyền chọn của chỉ số chứng khoán của S&P 100 và S&P 500. Thị
trường chứng khoán Mỹ giao dịch chỉ số chứng khoán của một số thị trường chính và
thị trường chứng khoán New York giao dịch chi số NYSE. Đa số các thị trường đều
giao dịch quyền chọn đối với các hợp đồng giao sau. Từ thời điểm đó, nhiều sàn giao
dịch chứng khoán và gần như tất cả các sàn giao dịch giao sau bắt đầu giao dịch quyền
chọn. Ngành kinh doanh này tăng trưởng mạnh mẽ cho đến khi xảy ra cuộc sụp đổ thị
trường chứng khoán năm 1987.

Lúc này, các sàn giao dịch buộc phải đương đầu với một mối đe dọa cạnh tranh
mới đó là sự trở lại của các thị trường quyền chọn phi tập trung. Vào đầu thập niên
1980, đã xuất hiện chuyển biến thuận lợi của thị trường phi tập trung, các công ty bắt
đầu sử dụng hoán đổi tiền tệ và lãi suất để quản trị rủi ro, tạo ra các hợp đồng phi tập
10


trung khác như kỳ hạn và quyền chọn. Trên thị trường phi tập trung, các giao dịch
quyền chọn được thỏa thuận trên điện thoại nhiều hơn là trên sàn giao dịch. Một bên
đối tác thường là các ngân hàng đầu tư và bên còn lại là các khách hàng của ngân hàng
đầu tư như các nhà quản lý quỹ đầu tư hoặc là những người chịu trách nhiệm về vốn
và ngoại hối của các tập đoàn lớn. Vì định mức của mỗi giao dịch khá lớn và có rủi ro
tín dụng, công chúng không thể tham gia vào thị trường phi tập trung mới hồi sinh này.
Hiện nay, các sàn giao dịch tập trung phát triển theo hướng tạo ra các sản phẩm
giao dịch mới và phát huy những ưu thế của mình trong việc đảm bảo tính thanh khoản
và an toàn đối với các giao dịch quyền chọn. Thị trường tập trung và thị trường phi tập
trung đang cùng tồn tại và dường như đã phân khúc rõ đối tượng khách hàng phục vụ
của mình, tuy nhiên sự cạnh tranh giữa hai thị trường này vẫn không ngừng diễn ra.
1.2.2. Các thành phần của thị trường quyền chọn
1.2.2.1. Hàng hóa, cung và cầu
Trên thị trường quyền chọn, hàng hóa là các sản phẩm phái sinh, tức là một công
cụ phụ thuộc vào giá trị củ một hay một số hàng hóa khác và cách ly sản phẩm gốc
một vài cấp – hợp đồng quyền chọn.
Các bên trong thị trường phái sinh mang danh nghĩa là giao dịch một số hàng hóa
nhất định nhưng thực ra trong nhiều trường hợp, họ không cần phải thực sự sở hữu
hoặc trao đổi tiền – hàng đối với tất cả các loại hàng hóa đó. Họ chỉ mượn giá trị của
hàng hóa cơ sở để mua đi bán lại với mục đích bảo hộ hoặc kiếm lời. Nhưng không chỉ
dừng ở chỗ là một hợp đồng mua bán hàng hóa thông thường, quan hệ mua bán này
được nâng lên một tầm cao mới, được tổ chức quy củ tại các sàn giao dịch. Ở đó, các
quan hệ mua bán được thiết lập không nhằm mục đích chính là trao đổi hàng hóa mà

trở thành một nơi luân chuyển tiền tệ, luân chuyển vốn dựa trên cơ sở giá cả của các
loại hàng hóa.
1.2.2.2. Nhà tạo lập thị trường
Một cá nhân mua được một seat (quyền được tham gia thị trường) trên sàn giao
dịch có thể đăng ký để trở thành nhà tạo lập hay môi giới trên sàn. Nhà tạo lập thị
trường chịu trách nhiệm đáp ứng nhu cầu của nhà đầu tư đối với quyền chọn. Khi một
nhu cầu nua hay bán quyền chọn nhưng không tìm được người bán hay mua, nhà tạo
lập thị trường sẽ thực hiện giao dịch để đảm bảo tính thực hiện ngay lập tức của thị
trường.
Nhà tạo lập thị trường về bản chất là một doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh
vực chứng khoán. Để tồn tại, nhà tạo lập thị trường phải tạo ra lợi nhuận bằng cách
mua vào ở một mức giá và bán ra ở mức giá cao hơn, thực hiện thông qua việc hỏi
mua và chào bán, là mức giá cao nhất và giá thấp nhất mà nhà tạo lập thị trường chấp
nhận mua hay bán quyền chọn.
11


1.2.2.3. Các nhà môi giới
Nhà môi giới trên sàn giao dịch thực hiện các giao dịch cho các nhà đầu tư các
nhân. Nếu một nhà đầu tư muốn mua hay bán một quyền chọn, nàh đầu tư đó phải
đăng ký một tài khoản tại công ty môi giới. Công ty này sẽ giao cho nhân viên môi
giới của mình hoặc hợp tác với nhà môi giới độc lập hay nhà môi giới của công ty
khác để thực hiện giao dịch cho khách hàng. Các nhà môi giới thường không cần quan
tâm đến việc giá tăng hay giảm, tuy nhiên, một nhà môi giới giỏi sẽ tận dụng các khả
năng để đạt được mức giá tốt nhất cho khách hàng của mình.
1.2.2.4. Trung tâm thanh toán
Trung tâm thanh toán là một công ty thanh toán bù trừ trên quyền chọn hoạt động
độc lập đảm bảo cho việc thực hiện quyền của người bán. Trung tâm thanh toán là
trung gian trong mỗi giao dịch, người mua sẽ thực hiện quyền chọn không hướng vào
người bán mà hướng vào trung tâm giao dịch. Người bán thực hiện việc chi trả hoặc

giao chứng khoán cho trung tâm giao dịch. Mỗi thành viên của trung tâm chứng khoán
bù trừ trên quyền chọn, được gọi là công ty thanh toán, có mở một tài khoản tại công
ty thanh toán bù trừ trên quyền chọn. Các nhà tạo lập thị trường phải thanh toán tất cả
các giao dịch thông qua một công ty thành viên, cũng như mỗi công ty môi giới, mặc
dù trong một số trường hợp một công ty môi giới có thể đồng thời là một công ty
thanh toán.
1.2.2.5. Hệ thống giám sát, kiểm soát
Do ở Việt Nam hiện nay vẫn chưa hình thành một thị trường quyền chọn đúng
nghĩa do đó chúng ta sẽ tìm hiểu về hệ thống giám sát, kiểm soát thị trường quyền
chọn ở nền kinh tế lớn nhất thế giới.
Ở Mỹ, ngành kinh doanh quyền chọn giao dịch trên sàn được quản lý theo nhiều
cấp độ. Mặc dù các quy định pháp luật của Liên bang và từng bang giữ vai trò quan
trọng, ngành kinh doanh này cũng tự quản lý thông qua các nguyên tắc và chuẩn mực
được thiết lập bởi sàn giao dịch và công ty thanh toán bù trừ trên quyền chọn. Công ty
này cũng quản lý các thành viên của mình để giúp đảm bảo tất cả các hoạt động trên
thị trường quyền chọn là phù hợp mà không tạo ra rủi ro đối với sự tồn tại của thị
trường.
Bên cạnh đó, SEC (the US Securities and Exchange commission) là cơ quan
quản lý chính của thị trường quyền chọn ở Mỹ. SEC là một tổ chức liên bang được
thiết lập vào năm 1934 để giám sát lĩnh vực kinh doanh chứng khoán, bao gồm cổ
phiếu, trái phiếu, quyền chọn và quỹ đầu tư. Mục tiêu chung của SEC là đảm bảo công
khai đầy đủ các thông tin thích đáng về các khoản đầu tư được chào bán rộng rãi ra
công chúng. SEC có quyền thiết lập một số quy định, quy trình và điều tra các vụ vi
phạm luật chứng khoán liên bang. Ở hầu hết các nước, quyền chọn và hợp đồng giao
12


sau được quản lý bởi các cơ quan liên bang với mục tiêu chính là bảo vệ các nhà đầu
tư.
1.3 Quyền chọn về chứng khoán

1.3.1 Khái niệm về quyền chọn chứng khoán
Quyền chọn chứng khoán cho phép người nắm giữ hợp đồng cơ hội nhưng không
bắt buộc thực hiện mua hoặc bán chứng khoán với giá được thỏa thuận trước.
Người bán hoặc người phát hành quyền chọn bắt buộc phải thực hiện hợp đồng
quyền chọn nếu như người mua quyền chọn yêu cầu.
Các thị trường giao dịch quyền chọn về chứng khoán nổi tiếng ở Mỹ là Chicago
Board Option Exchange (CBOE), Philadelphia Stock Exchange (PHLX), New York
Stock Exchange (NYSE), American Stock Exchange (AMEX), Pacific Stock
Exchange (PSE).
Quyền chọn cổ phiếu (Stock option): là quyền chọn đối với cổ phần thường.
Quyền chọn này đối với các cổ phiếu riêng lẻ và tồn tại đối với hàng ngàn lô cổ phiếu
riêng lẻ.
Quyền chọn chỉ số (Index option): là quyền chọn đối với một chỉ số chứng
khoán. Quyền chọn này sử dụng một số chỉ số chứng khoán như NASDAQ 100, S&P
500, Dow Jone… Ngoài ra, còn sử dụng cả các chỉ số của nhiều ngành kinh doanh
khác nhau và những khu vực thị trường khác nhau.
Cần phân biệt giữa hợp đồng quyền chọn mua có thể chuyển nhượng được với
quyền mua chứng khoán ưu đãi (incentive stock option). Quyền mua chứng khoán ưu
đãi là quyền được chọn mua chứng khoán ở một công ty nhất định, do công ty đó dành
cho một người nhất định nào đó (thường là các nhà quản lý cấp cao). Khi quyền chọn
mua chứng khoán ưu đãi được thực hiện thì một số lượng cổ phần mới sẽ được phát
hành. Quyền chọn mua chứng khoán ưu đãi cũng không được mua bán rộng rãi trên thị
trường mở. Ngược lại khi một hợp đồng quyền chọn mua được thực hiện, không có cổ
phần mới nào được phát hành mà chỉ là sự chuyển nhượng từ chủ sở hữu này sang chủ
sở hữu khác.
1.3.2. Đặc điểm về quyền chọn chứng khoán
- Giá thực hiện (Exercise prise): Mức giá mà quyền chọn cho phép người sở hữu
mua hoặc bán chứng khoán cơ sở.
Trên sàn giao dịch quyền chọn giá thực hiện được chuẩn hoá. Sàn giao dịch qui
định mức giá thực hiện có thể ký kết hợp đồng quyền chọn. Quyền chọn chứng khoán

được qui định mức giá thực hiện có khoảng chênh lệch 2,5$ nếu giá cổ phiếu thấp hơn
25$, khoảng 5$ nếu giá cổ phiếu từ 25$ đến 200$, và trong khoảng 10$ nếu giá cổ
phiếu trên 200$. Đối với quyền chọn chỉ số, các khoản chênh lệch giá thực hiện có sự
khác biệt nhiều do biên độ rộng của nhiều chỉ số khác nhau
13


- Ngày đáo hạn (Expiration date): là ngày mà sau đó hợp đồng quyền chọn không
còn tồn tại nữa. Quyền chọn chứng khoán thường được qui định chu kỳ đáo hạn theo
các chu kỳ tháng: Chu kỳ tháng 1(gồm các tháng: 1, 4, 7 và 10); Chu kỳ tháng 2 (gồm
các tháng 2, 5, 8 và 11); Chu kỳ tháng 3 (gồm các tháng 3, 6, 9 và 12). Ngày đáo hạn
chính xác là vào lúc 22 giờ 59 phút (theo giờ của trung tâm giao dịch) của ngày thứ
bảy ngay sau ngày thứ sáu tuần lễ thứ ba của tháng đáo hạn. Theo thông lệ, nhà đầu tư
nắm giữ quyền chọn (nếu quyết định thực hiện quyền chọn) sẽ có thời gian đến hết 16
giờ 30 phút của ngày thứ sáu đó để ra chỉ thị cho nhà môi giới thực hiện quyền chọn.
Sau đó, nhà môi giới sẽ có thời gian đến 22 giờ 59 phút của ngày thứ bảy hôm sau để
hoàn thành các thủ tục giấy tờ thông báo cho Trung tâm giao dịch chứng khoán thực
hiện quyền chọn đó.
- Ảnh hưởng của việc phân chia cổ tức và cổ phiếu: quyền chọn chứng khoán
trên thị trường OTC được đảm bảo về cổ tức. Khi một công ty công bố chia cổ tức
bằng tiền mặt, thì giá thực hiện của quyền chọn về cổ phiếu sẽ giảm một khoản bằng
số cổ tức vào thời điểm không nhận cổ tức. Quyền chọn chứng khoán trao đổi qua
trung tâm giao dịch chứng khoán nói chung không được điều chỉnh theo cổ tức trả
bằng tiền mặt, nhưng điều chỉnh theo sự phân chia cổ phiếu. Việc phân chia cổ phiếu
xảy ra khi số cổ phiếu hiện tại được chia thành nhiều cổ phiếu nhỏ hơn. Ngoài ra,
quyền chọn về cổ phiếu còn được điều chỉnh theo cổ tức chi trả bằng cổ phiếu.
- Hạn mức vị thế và hạn mức thực hiện: được thiết kế nhằm ngăn ngừa tình trạng
thị trường quyền chọn bị chi phối quá mức bởi hành vi của một hoặc một nhóm các
nhà đầu tư cá biệt. Hạn mức vị thế (position limit): là số lượng quyền chọn tối đa mà
đầu tư có thể nắm giữ về một phía của thị trường. Sàn giao dịch chứng khoán ban hành

hạn mức vị thế cho từng chứng khoán căn cứ vào khối lượng cổ phiếu giao dịch và số
cổ phiếu trôi nổi. Hạn mức thực hiện (exercise limit): là số quyền chọn tối đa có thể
được thực hiện trong vòng 5 ngày làm việc liên tục bất kỳ bởi mỗi nhà đầu tư riêng lẻ
hay một nhóm các nhà đầu tư cùng hành động với nhau. Mục tiêu của hạn mức thực
hiện và hạn mức vị thế là nhằm ngăn cản từng cá nhân hoặc một nhóm người có tác
động đáng kể đến thị trường
- Điều kiện niêm yết: Các sàn giao dịch quyền chọn qui định các tài sản mà giao
dịch được phép. Đối với quyền chọn cổ phiếu, sàn giao dịch qui định những điều kiện
tối thiểu mà một cổ phiếu phải đạt được để có thể giao dịch quyền chọn.
- Qui mô hợp đồng: một hợp đồng quyền chọn giao dịch trên sàn tiêu chuẩn gồm
100 quyền chọn đơn lẻ, mỗi quyền chọn đơn lẻ được mua (bán) một cổ phiếu. Như vậy
một hợp đồng quyền chọn được mua (bán) tối thiểu là 100 cổ phiếu. Tuy nhiên, quyền
chọn cũng được tuân thủ nguyên tắc chia tách cổ phiếu và cổ tức
1.4. Điều kiện phát triển quyền chọn
14


1.4.1. Điều kiện về sự phát triển thị trường chứng khoán
Một trong những điều kiện quan trọng để có thể phát triển quyền chọn trên
TTCK là TTCK phải phát triển đến một mức độ nhất định thể hiện:
- Số lượng công ty niêm yết nhiều và có nhiều công ty cổ phần đại chúng lớn
- Hệ thống cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin hiện đại
- Chất lượng dịch vụ của các công ty chứng khoán cao, cung cấp nhiều dịch vụ
tiện ích cho khách hàng
- Số lượng tài khoản giao dịch chứng khoán nhiều
- Tính thanh khoản cao trên TTCK cao
- Mức vốn hóa thị trường lớn
1.4.2. Điều kiện về pháp lý
Quyền chọn chứng khoán là một sản phẩm chứng khoán phái sinh khá phức tạp,
vì vậy để có thể phát triển được quyền chọn cần có một cơ sở pháp lý chặt chẽ và hợp

lý để có thể kiểm soát được tình hình.
Trên TTCK nhiều rủi ro, quyền chọn có phương thức giao dịch khá đặc biệt do
đó luật pháp cần có luật chứng khoán hoàn chỉnh về nội dung của hợp đồng quyền
chọn, điều kiện đối với các chứng khoán cơ sở, quy định về giới hạn giá và số lượng
hợp đồng quyền chọn giao dịch, để điều chỉnh nhiều hành vi của các đối tượng này
nhằm đảm bảo nghĩa vụ cũng như quyền lợi của các bên tham gia.
Ngoài ra cũng cần có những quy tắc, điều lệ chuẩn mực của các sàn giao dịch
ban hành những quy định liên quan đến nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức, việc bổ nhiệm các
thành viên của sàn giao dịch.
Như vậy, để quyền chọn được phát triển có hiệu quả cần phải xây dựng được
khung pháp lý mang tính thực tiễn và thống nhất, hệ thống văn bản pháp luật phải
được điều chỉnh hoạt động TTCK theo hướng bao quát, toàn diện và phù hợp với thực
tiễn thị trường.
1.4.3. Điều kiện về thông tin trên thị trường
Đối với TTCK thông tin là một yếu tố rất nhạy cảm có tác động trực tiếp đến giá
chứng khoán. Muốn TTCK hoạt động hiệu quả thì việc cung cấp minh bạch, đầy đủ và
kịp thời các thông tin đóng vai trò vô cùng quan trọng. Các thông tin này bao gồm
thông tin vĩ mô, thông tin DN và thông tin thị trường.
Để đáp ứng vấn đề minh bạch hóa thông tin thì cần phải có các quy định cụ thể
về việc công bố thông tin. Ngoài ra thông tin cũng phải được cung cấp một cách rộng
rãi đưa trên các phương tiện công bố thông tin đại chúng hoặc phương tiện công bố
thông tin của trung tâm giao dịch chứng khoán, sở giao dịch chứng khoán để các nhà
đầu tư có thể tiếp cận một cách đầy đủ và dễ dàng.

15


Thông tin minh bạch đầy đủ kịp thời là một điều kiện để nhà đầu tư có cơ sở rõ
ràng và chính xác để thực hiện các quyết định đầu tư của mình và là điều kiện cần thiết
để thị trường quyền chọn chứng khoán phát triển

1.4.4. Điều kiện về kỹ thuật
Hoạt động của TTCK phụ thuộc hầu như hoàn toàn vào hệ thống máy tính. Đặc
điểm hoạt động của ngàng chứng khoán là khối lượng giao dịch rất lớn và yêu cầu thời
gian đặc biệt cấp bách nên bắt buộc phải có sự hỗ trợ của máy tính, vì vậy yêu cầu về
mặt kỹ thuật là rất cao.
Điều kiện về kỹ thuật cho hoạt động của TTCK nói chung và thị trường quyền
chọn nói riêng bao gồm một số yêu cầu cơ bản về kỹ thuật như hệ thống cơ sở hạ tầng
công nghệ thông tin, kỹ thuật đặt chuyển lệnh mua và lệnh bán, kỹ thuật hạch toán và
chuyển quyển sở hứu…
Việc hoàn thiện và đồng bộ hóa hệ thống công nghệ thông tin cho thị trường
đóng vai trò vô cùng quan trọng trong hoạt động của thị trường quyền chọn.
1.4.5. Điều kiện về con người
Nhân tố con người đóng vai trò quyết định trong mọi hoạt động và tất nhiên nó
quyết định sự thành công hay thất bại của việc ứng dụng quyền chọn chứng khoán ở
TTCK. Tất cả các điều kiện nói trên có thực hiện được hay không là đều do con
người.Con người để điều hành, quản lý, thực hiện nghiệp vụ, đầu tư…Do đó, để đáp
ứng được giao dịch quyền chọn thì trước tiên phải có con người am hiểu về TTCK
không chỉ là những nhà quản lý TTCK hay đội ngũ thực hiện các giao dịch quyền chọn
ở các CTCK mà cả đại đa số công chúng đầu tư. Chính công chúng đầu tư mới là nhân
tố tác động vào nguồn cầu làm cho thị trường này phát triển.
Như vậy, đây là các điều kiện cơ bản nhất quyết định sự phát triển giao dịch
quyền chọn trên thị trường chứng khoán.

16


PHẦN 2
ĐIỀU KIỆN PHÁT TRIỂN VỀ QUYỀN CHỌN Ở VIỆT NAM
2.1.Sự cần thiết của việc áp dụng quyền chọn chứng khoán vào giao dịch
trên thị trường chứng khoán Việt Nam

2.1.1 Tạo ra công cụ quản lý rủi ro và bảo vệ lợi nhuận cho nhà đầu tư
Các nhà đầu tư chứng khoán trên TTCK Việt Nam chủ yếu là các nhà đầu tư
cá nhân, đầu tư ngắn hạn theo phong trào phải gánh chịu nhiều rủi ro do thiếu thông
tin chính xác, khả năng tiếp nhận và tổng hợp thông tin còn manh mún, kỹ thuật phân
tích còn hạn chế, kinh nghiệm đầu tư chưa chuẩn xác … so với các định chế, tổ chức
đầu tư chuyên nghiệp nên dễ bị tác động đầu tư theo tâm lý bầy đàn hoặc không
nhạy bén trước sự biến đổi của thị trường hoặc do nguồn vốn nhỏ bé không thể thực
hiện được kế hoạch đầu tư của mình … dẫn đến có xu hướng mua cao bán thấp, không
đạt được lợi nhuận đầu tư mong đợi và chịu rất nhiều rủi ro thiệt hại nặng nề không
lường trước được. Một minh chứng khá rõ nét là sự lên xuống thất thường của VnIndex luôn nằm ngoài dự đoán của các chuyên gia. Vn-Index đạt tới 1.170,67 điểm
(12/03/2007), tăng hơn 55% so với phiên cuối cùng của năm 2006, cũng là lúc các nhà
đầu tư đổ vốn ào ào vào sàn giao dịch. Nhưng ngay sau đó, lên cao nhanh bao nhiêu,
Vn-Index đi xuống nhanh bấy nhiêu. Chỉ trong vòng 3 tháng, từ tháng 11/2007 đến
tháng 5/2008, Vn-Index sụt giảm hơn 60%. Các mức 900, 800, 750, 500 và 400 điểm
mà theo nhiều chuyên gia phân tích thị trường từng cho là “mức đáy”, liên tục bị phá
vỡ. Thực tế, đã có nhiều nhà đầu tư bị thua lỗ trong thời gian qua, điển hình là các nhà
đầu tư cá nhân nhỏ ít vốn, phải cầm cố tài sản, phải đi vay và thiếu kinh nghiệm cũng
như kiến thức đầu tư. Biểu đồ giao dịch trên thị trường cho thấy, khi giá cổ phiếu ở
đỉnh cao nhất, là lúc có nhiều người mua vào nhất. Khi thị trường đi xuống mạnh, họ
đứng trước nguy cơ thua lỗ lớn, và phải bán tháo hàng loạt. Thị trường lại càng xuống
dốc hơn nữa. Nhưng với đặc tính của quyền chọn đã đề cập ở Chương I, nhà đầu tư có
thể tự bảo vệ mình với các mức giá được xác định trước, dự kiến được mức rủi ro có
thể gánh chịu, bảo vệ mức lợi nhuận mong đợi và có thời gian phân tích, đánh giá lại
các thông tin, tiềm năng và cơ hội của chứng khoán … trước khi thực hiện đầu tư một
khoản tiền lớn vào chứng khoán. Ngoài ra, thu nhập bình quân của người Việt Nam
còn thấp nên một công cụ đầu tư với vốn ban đầu thấp, mức rủi ro giới hạn và đòn bẩy
tài chính cao sẽ rất thích hợp với đại đa số nhà đầu tư nhỏ lẻ tại Việt Nam, khả năng áp
dụng sẽ thành công rất cao khi thu hút được nhiều nhà đầu tư tham gia.
2.1.2 Tác động gián tiếp đến các công ty niêm yết
Để quyền chọn cổ phiếu của một công ty được niêm yết thì Công ty đó (cổ phiếu

công ty đã được niêm yết) phải đáp ứng các điều kiện về tình hình hoạt động kinh
17


doanh, cam kết công bố thông tin, số lượng cổ phiếu đang lưu hành, số cổ đông nắm
giữ cổ phần và các điều kiện khác nhằm tạo tính an toàn trong thanh khoản và bảo vệ
nhà đầu tư khi giao dịch quyền chọn. Giá giao dịch quyền chọn cũng như giá cổ phiếu
của chính công ty đó bị ảnh hưởng bởi tình hình hoạt động kinh doanh hiện tại và các
hoạch định tương lai của công ty niêm yết, đặc biệt, giá quyền chọn qua sự phân tích,
đánh giá và giao dịch của các nhà đầu tư sẽ thể hiện giá trị tương lai của công ty, và có
thể sẽ làm ảnh hưởng ngược lại đến xu hướng giá cổ phiếu công ty đang giao dịch.Là
một người chủ công ty hoặc là một người quản lý công ty hoặc là một cổ đông nắm
giữ phần lớn cổ phần tại công ty sẽ nhận biết được sự đánh giá của các nhà đầu tư
dành cho công ty như thế nào và họ sẽ phải tự động điều chỉnh những hoạt động hiện
tại, những kế hoạch sẽ triển khai và thậm chí cả việc xác định giá trị thương hiệu của
mình nhằm bảo vệ phần vốn đầu tư họ đã bỏ vào công ty. Do đó, có thể nói giá
quyền chọn cổ phiếu là một tấm gương phản chiếu để các công ty niêm yết tự đánh giá
và điều chỉnh trong việc xây dựng một thương hiệu uy tín và hoạt động một cách hiệu
quả hơn.
2.1.3 Thu hút dòng vốn đầu tư nước ngoài vào TTCK Việt Nam
Kể từ khi Việt Nam gia nhập WTO, giới đầu tư tài chính quốc tế đã nhìn nhận
TTCK Việt Nam là một thị trường mới nổi nhiều tiềm năng trong trung dài hạn và tính
thanh khoản ngày càng được cải thiện. Hiện có khoảng 9.000 nhà đầu tư nước ngoài
tham gia mở tài khoản đầu tư trên TTCK Việt Nam, trong đó có một số định chế tài
chính lớn như JP Morgan, Citigroup Global Group, HSBC, Deusch Bank … và hiện
đang nắm giữ 25-30% số lượng cổ phiếu của các công ty niêm yết. Và đặc biệt ở các
cổ phiếu tốt, thì tỉ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài thường là tỉ lệ nắm giữ tối đa
49% theo quy định. Các nhà đầu tư nước ngoài – thường là các tổ chức, định chế tài
chính, các quỹ đầu tư - nhanh chân vào TTCK Việt Nam đã nắm giữ cổ phần thường
không muốn bán ra cổ phần vì sợ các nhà đầu tư nước ngoài khác sẽ mua mất tỉ lệ giới

hạn quy định và sẽ không mua lại được cổ phiếu tốt, đồng thời họ cũng muốn hiện
thực hoá một số khoản lợi nhuận đầu tư trên báo cáo của mình vì mục đích mua cổ
phiếu đầu tư chính là tìm kiếm mức lợi nhuận mong đợi hoặc có một cơ sở để xác định
hiệu quả đầu tư và báo cáo cho những người đã góp vốn, các cơ quan quản lý, tổ chức
có liên quan... Đây là một bài toán nan giải dành cho các nhà đầu tư nước ngoài, đặc
biệt là các tổ chức đầu tư nước ngoài đang tham gia đầu tư trên TTCK Việt Nam. Mâu
thuẫn này sẽ được giải quyết bằng việc mua bán quyền chọn cổ phần, họ có thể hiện
thực hoá được lợi nhuận mong đợi tối thiểu của cổ phiếu đã đầu tư, đồng thời không
phải bán đi cổ phiếu đang nắm giữ và có được một phương tiện “bảo hiểm” chống lại
được rủi ro sự biến động của giá cổ phiếu trên thị trường. Có thể nói, áp dụng quyền

18


chọn cổ phiếu đã tạo ra thêm một hàng hoá cho nhà đầu tư nước ngoài và sẽ giúp họ
tự tin, mạnh dạn đầu tư và kêu gọi thêm nguồn vốn đầu tư vào TTCK Việt Nam.
2.1.4 Thúc đẩy sự phát triển của TTCK và nền kinh tế Việt Nam
Với tác động của việc áp dụng quyền chọn cổ phần vào TTCK Việt Nam đối với
các công ty niêm yết, nhà đầu tư nhỏ lẻ, nhà đầu tư nước ngoài cũng như các tổ chức
đầu tư như đã nêu ở trên, TTCK Việt Nam sẽ có thêm một công cụ “bảo hiểm” cho
đầu tư chứng khoán, vừa là một loại hàng hoá đặc biệt sẽ làm cho TTCK sôi động vì
tính thanh khoản và sự vận hành của nó. Quyền chọn làm tăng thêm lợi nhuận, giảm
thiểu rủi ro, là một công cụ có đòn bẩy tài chính cao, mức sinh lời hấp dẫn với mức
vốn đầu nhỏ sẽ là sự lựa chọn của mọi nhà đầu tư từ nhà đầu tư cá nhân nhỏ lẻ, nhà
đầu tư có tổ chức, quy mô lớn và đặc biệt là các nhà đầu tư mạo hiểm tìm kiếm lợi
nhuận từ việc kinh doanh quyền chọn sẽ làm TTCK Việt Nam sôi động hơn, thị trường
giao dịch với quy mô lớn hơn, nguồn vốn thu hút ngày càng nhiều … giá trị đóng góp
vào sự phát triển chung của đất nước cũng được nâng cao và hoàn thiện hơn. Đồng
thời, với quy mô thị trường lớn, cơ cấu hàng hoá hoàn thiện sẽ giúp TTCK Việt Nam
nâng cao tính cạnh tranh và khẳng định được vị thế của mình nói riêng và nền kinh tế

quốc gia nói chung trên thị trường thế giới.
2.1.5. Nâng cao tính cạnh tranh của thị trường chứng khoán Việt Nam
Một trong những động thái trước mắt cần làm là Việt Nam phải đưa thị trường
chứng khoán trở thành một thị trường có tính cạnh tranh cao và công bằng. Để thực
hiện được yêu cầu này cần thiết phải đưa thị trường chứng khoán vào xu thế hội nhập.
Trong xu thế hội nhập quốc tế, việc xây dựng thị trường các công cụ phái sinh mà
trong đó quyền chọn chứng khoán là việc hết sức cần thiết. Tuy nhiên với qui mô thị
trường còn nhỏ như hiện nay, việc đưa vào giao dịch các chứng khoán phái sinh sẽ
làm nâng cao tính cạnh tranh của thị trường, đa dạng hóa sản phẩm, sẽ tăng cung, kích
cầu cho thị trường, làm cho thị trường trở nên sôi động thu hút các nhà đầu tư trong và
ngoài nước từng bước đưa thị trường chứng khoán Việt Nam hòa mình vào dòng chảy
của thị trường tài chính trong khu vực Đông Nam Á nói riêng và Châu Á nói chung
Trong 2 năm trở lại đây, thị trường chứng khoán Việt Nam phát triển khá nhanh,
được các chuyên giá đánh giá là một trong những thị trường chứng khoán phát triển
nhanh nhất thế giới, được sự quan tâm rất lớn của các nhà đầu tư trong và ngoài nước,
góp phần quan trọng cho việc huy động vốn để phát triển nền kinh tế đất nước. Tuy
nhiên, xét về qui mô thì thị trường chứng khoán nước ta vẫn còn nhỏ bé so với các
nước trong khu vực và thế giới. Quá trình phát triển của thịtrường chứng khoán cũng
trải qua nhiều giai đoạn thăng trầm và tiềm ẩn những rủi ro rất lớn cho nhà đầu tư mà
đặc biệt là nhà đầu tư nhỏ lẻ. Vì vậy, đây là lúc chúng ta cần phải triển khai các công
cụ tài chính phái sinh nói chung mà trong đó quyền chọn chứng khoán nói riêng vào
19


giao dịch trên thị trường chứng khoán Việt Nam nhằm mục đích tạo ra công cụ bảo vệ
nhà đầu tư trước sự thay đổi bất thường của thị trường, đồng thời cũng góp phần đa
dạng hóa sản phẩm, đa dạng hóa hình thức đầu tư, nâng cao tính cạnh tranh của thị
trường chứng khoán trong quá trình hội nhập.
2.2. Điều kiện thực tế Việt Nam trong việc áp dụng quyền chọn
2.2.1. Cơ sở pháp lý

a. Đối với quyền chọn ngoại tệ
* Cơ sở pháp lý liên quan chính sách quản lý ngoại hối
Trong thời gian qua, thị trường ngoại hối phát triển với nhiều nghị định, quyết
định, văn bản hướng dẫn... Trong đó, Nghị định 05/2001/NĐ-CP ngày 17/1/2001 về
quản lý ngoại hối, quyết định 648/2002-2004/QĐ-NHNN về cơ chế thỏa thuận tỷ giá
kỳ hạn giữa NHTM với khách hàng trên cơ sở chênh lệch lãi suất, quyết định
1452/2004/QĐ-NHNN về điều chỉnh giao dịch hối đoái của tổ chức tín dụng đối với
khách hàng. Đặc biệt là pháp lệnh ngoại hối có hiệu lực từ ngày 1/6/2006, pháp lệnh
này như một khuôn khổ thống nhất về quản lý ngoại hối. Theo đó, NHNN nới lỏng
kiểm soát ngoại tệ, tự do hóa các giao dịch, tăng quyền tự chủ cho các NHTM và
TCTD, làm cho thị trường ngoại tệ diễn ra uyển chuyển và linh hoạt hơn.
Cơ chế điều hành tỷ giá cũng đã có những thay đổi đáng kể. Vào tháng 5/2004,
NHNN đã bãi bỏ các trần cố định về tỷ giá kỳ hạn để thay bằng chênh lệch lãi suất.
Tháng 7/2006, NHNN bỏ biên độ giao dịch đô la Mỹ tiền mặt, cho Eximbank thí điểm
cơ chế mua bán ngoại tệ mặt theo tỷ giá thỏa thuận.
Biên độ giao dịch USD không ngừng được mở rộng, ngày 10/3/2008 biên độ
được xác định là +/-1%, sau đó được nâng lên thành +/-2%, và gần đây nhất đã được
nâng lên +/-3%. Việc nới lỏng biên độ tỷ giá góp phần phản ánh chính xác quan hệ
cung cầu ngoại tệ trên thị trường, đồng thời chính việc này đã làm rủi ro hối đoái
không ngừng tăng lên.
Giai đoạn năm 1998-2008, với sự thông thoáng hơn trong cơ chế chính sách, thị
trường ngoại hối có nhiều khởi sắc với hoạt động mua bán trao đổi ngoại tệ sôi động
hơn, tạo cơ hội để mở rộng quan hệ hợp tác giữa các ngân hàng trong nước và nước
ngoài. Những chính sách này đã mở ra nhiều nghiệp vụ mới đặc biệt là các nghiệp vụ
phái sinh ngoại hối như kỳ hạn, hoán đổi, quyền chọn, …giúp doanh nghiệp có nhiều
sự lựa chọn để bảo hiểm rủi ro tỷ giá, đồng thời góp phần đa dạng hóa các hoạt động
kinh doanh ngoại tệ tại các NHTM.
* Cơ sở pháp lý về giao dịch quyền chọn giữa ngoại tệ với ngoại tệ
Ngày 10/01/1998, trên cơ sở nhận thức sự cần thiết thúc đẩy giao dịch ngoại hối
phát triển, thống đốc NHNN đã ký quyết định 17/1998/QĐ_NHNN ban hành quy chế

giao dịch hối đoái (quyết định 17). Quy chế này đã tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động
20


kinh doanh ngoại tệ của các NHTM, tạo công cụ phòng ngừa rủi ro tỷ giá và lãi suất,
đồng thời tăng cường sự quản lý và giám sát của NHNN về lĩnh vực ngoại hối. Tuy
nhiên, với quyết định này thì giao dịch ngoại hối chỉ mới được thực hiện thông qua các
công cụ giao ngay kỳ hạn và hoán đổi.
Ngày 12/02/2003, công văn số 135/NHNN-QLNH về giao dịch quyền chọn
ngoại tệ, trước tiên là quyền chọn giữa ngoại tệ với ngoại tệ chính thức ra đời.
Eximbank là NHTM đầu tiên thực hiện thí điểm nghiệp vụ này. Trong đó, công văn
này đã quy định cụ thể nhằm triển khai thực hiện giao dịch quyền chọn ngoại tệ ở các
ngân hàng như về đối tượng tham gia, đồng tiền giao dịch, thời hạn giao dịch, giới hạn
số dư…
Sau 7 năm đi vào hoạt động, đến cuối năm 2004, quyết định 17/1998/QĐ-NHNN
(quyết định 17) đã phát sinh những hạn chế. Vì vậy, ngày 10/11/2004, thống đốc
NHNN đã ký quyết định số 1452/2004/QĐ-NHNN về giao dịch hối đoái của các
TCTD để thay thế quyết định 17 và khắc phục những hạn chế này. Quyết định này có
những điểm mới như chính thức cho phép tất cả các TCTD được phép thực hiện các
giao dịch hối đoái đều được quyền thực hiện giao dịch quyền chọn ngoại tệ mà không
cần phải xin phép NHNN. Qua đó, thời điểm này NHNN đã chấm dứt thời gian thí
điểm nghiệp vụ này. Đồng thời, quy định kỳ hạn của giao dịch quyền chọn giữa các
ngoại tệ với nhau do tổ chức tín dụng được phép và khách hàng tự thỏa thuận. Quy
định này là một sự chuyển biến lớn trong cung cách quản lý các hoạt động giao dịch
ngoại hối giúp thị trường quyền chọn nước ta ngày càng đa dạng hơn. Bên cạnh đó,
quyết định này cho phép các cá nhân được phép tham gia ngoài các TCTD, tổ chức
kinh tế, tổ chức khác và NHNN. Đây thực sự là một cơ hội cho các nhà đầu tư cá nhân
có thêm một sân chơi mới trên thị trường tiền tệ.
* Cơ sở pháp lý về giao dịch quyền chọn giữa ngoại tệ với VNĐ
Ngày 18/4/2005, NHNN đã có công văn số 326/NHNN_QLNH cho phép ACB

triển khai thí điểm giao dịch quyền chọn giữa ngoại tệ và VNĐ. Theo công văn này,
NHNN đã đưa ra những quy định cụ thể về các loại ngoại tệ được giao dịch, cơ sở tính
phí quyền chọn, thời hạn giao dịch, đối tượng giao dịch… những quy định này là cơ sở
để triển khai thực hiện thí điểm nghiệp vụ quyền chọn giữa ngoại tệ và VNĐ tại các
NHTM khác dưới sự cho phép của NHNN.
Ngày 29/8/2006, NHNN cũng đã ban hành công văn số 7404/NHNN-KTTC. Nội
dung chính của công văn này gồm có các hướng dẫn cụ thể, chi tiết về nguyên tắc và
nội dung kế toán đối với các nghiệp vụ hối đoái kỳ hạn, nghiệp vụ hoán đổi tiền tệ,
nghiệp vụ quyền chọn ngoại tệ, để giải quyết vấn đề hạch toán kế toán nghiệp vụ phái
sinh tiền tệ tại các NHTM.
b. Đối với quyền chọn chứng khoán (Cụ thể là quyền chọn cổ phiếu)
21


Từ khi thị trường chứng khoán ra đời ngày 20-7-2000, các văn bản pháp lý để tạo
lập, vận hành và quản lý thị trường được các cơ quan nhà nước ban hành khá nhiều.
Nhưng nhìn chung, những thiếu sót, bất cập vẩn còn rất lớn, thị trường chứng khoán
Việt Nam vẫn còn rất non trẻ, đang trên con đường phát triển và trưởng thành. Ngày
29-6-2006, luật chứng khoán chính thức được Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam
thông qua và có hiệu lực thi hành từ 1-1-2007, đánh dấu bước chuyển mình của thị
trường chứng khoán Việt Nam, tạo một đường băng cất cánh cho thị trường.
Đáng chú ý nhất là trong giai đoạn thị trường suy giảm mạnh từ khoảng cuối quí
I đến thời gian gần đây, UBCK nhà nước đã lần lượt giảm biện độ dao động giá cổ
phiếu, chứng chỉ quĩ xuống còn +/-1% đối với HOSE và +/-2% đối với HASTC. Sau
một thời gian ngắn thị trường phục hồi nhẹ, UBCK đã cho phép nâng biên độ lên +/2% đối HOSE và +/-3% đối với HASTC, sau đó lại tiếp tục được nâng lên +/-3% đối
với HOSE và +/-4% đối với HASTC.
Gần đây nhất, ngày 14/8/2008, UBCK nhà nước ban hành công văn số
1650/UBCK-PTTT về việc điều chỉnh biên độ giá cổ phiếu, chứng chỉ quỹ. Theo đó,
biên độ giao dịch giá của cổ phiếu, chứng chỉ quỹ là +/-5% đối với HOSE và +/-7%
đối với HASTC, điều này sẽ làm cho giá cả chứng khoán giao động mạnh hơn, phản

ánh đúng cung cầu hơn, nhưng rủi ro cho các nhà đầu tư sẽ nhiều hơn, mở ra cơ hội
cho việc sử dụng các công cụ phòng ngừa rủi ro như quyền chọn cổ phiếu để bảo hiểm
cho các nhà đầu tư.
Thế nhưng, cho đến nay, vẫn chưa có một văn bản pháp lý chính thức nào qui
định, hướng dẫn hay cho phép thực hiện về quyền chọn cổ phiếu tất cả chỉ mới ở giai
đoạn dự thảo, ngoại trừ một số công văn cho phép một số tổ chức thí điểm triển khai
nghiệp vụ này như VCBS…
c. Đánh giá chung về cơ sở pháp lý
Như vậy, có thể thấy, các văn bản pháp lý liên quan đến chính sách quản lý ngoại
hối và quyền chọn ngoại tệ được ban hành là khá nhiều nhưng chúng vẫn chưa quy
định cụ thể và thúc đẩy được các giao dịch mua bán quyền chọn phát triển, nó chỉ
mang tính tức thời bổ sung cho thị trường ngoại hối, cũng giống như chúng ta chỉ ban
hành văn bản luật khi thị trường cần thực hiện các giao dịch này trong ngắn hạn, chứ
chưa đưa ra các bộ luật chuẩn quy định cụ thể, thống nhất như luật công cụ bảo hiểm
phái sinh chẳng hạn. Như vậy, sẽ gây khó khăn cho các tổ chức tài chính và các doanh
nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu, các nhà đầu tư… trong việc hoạch định các chiến
lược dài hạn để kinh doanh trên thị trường.
Đối với quyền chọn cổ phiếu chúng ta dường như chưa có văn bản pháp luật nào
quy định, hướng dẫn cụ thể việc thực hiện giao dịch quyền chọn trên thị trường chứng
khoán, ngoại trừ một số công văn cho phép vài tổ chức thí điểm triển khai nghiệp vụ
22


này như công ty chứng khoán Vietcombank (VCBS)… Với yêu cầu cấp thiết hiện nay,
những lúc thị trường chứng khoán giảm sâu, các nhà đầu tư hoang mang, bán đổ bán
tháo cổ phiếu vì họ chưa thể áp dụng các công cụ để bảo vệ mình. Như vậy, việc ban
hành các văn bản luật liên quan đến quyền chọn cổ phiếu và thành lập thị trường của
chúng hiện nay đang là nhu cầu cấp thiết đòi hỏi các cơ quan chức năng sớm thực hiện
Nói tóm lại , cơ sở pháp lý cho sự hình thành và phát triển các giao dịch quyền
chọn ngoai tệ cũng như các quyền chọn cổ phiếu có một lỗ hổng lớn so với nhu cầu

thực tế, mà không thể một sớm một chiều có thể khỏa lấp được. Các cơ quan chức
năng cần tập trung nghiên cứu, tham khảo nhằm ban hành các văn bản pháp luật liên
quan để dần xóa bỏ lỗ hổng pháp lý lớn này, đưa thị trường quyền chọn ngoại tệ và
quyền chọn cổ phiếu vào đường băng của sự phát triển.
2.2.2. Thực trạng triển khai options ngoại tệ và options cổ phiếu của các tổ
chức tài chính ở Việt Nam trong thời gian qua
Thời gian qua ở Việt Nam, quyền chọn ngoại tệ dường như là công cụ phái sinh
được thị trường hoan nghênh và đón nhận nhiều nhất do những ưu điểm vốn có của nó
trong bối cảnh tỷ giá luôn ở trạng thái tăng giảm liên tục. Trong khi đó, quyền chọn cổ
phiếu chỉ mới được thí điểm bước đầu ở VCBS.
a. Quyền chọn ngoại tệ
Gồm quyền chọn ngoại tệ với ngoại tệ và quyền chọn ngoại tệ với nội tệ (VNĐ)

Quyền chọn ngoại tệ với ngoại tệ
- Về phía ngân hàng tham gia
Trong giai đoạn thí điểm, các ngân hàng thương mại (NHTM) muốn thực hiện
giao dịch quyền chọn ngoại tệ phải là ngân hàng đã được phép kinh doanh ngoại hối,
có vốn tự có tối thiểu là 200 tỷ VNĐ kinh doanh ngoại tệ có lãi trong ít nhất 5 năm gần
nhất và doanh số mua bán ngoại tệ của năm trước tối thiểu là 1 tỷ USD. Ngoài ra,
NHTM phải lập ra quy trình nghiệp vụ quyền chọn ngoại tệ và trình cho thống đốc
ngân hàng nhà nước (NHNN) chấp thuận bằng văn bản cho thực hiện thí điểm.
Theo công văn số 135/NHNN-QLNH, cho phép Eximbank là ngân hàng đầu tiên
trong cả nước được thực hiện thí điểm nghiệp vụ quyền chọn ngoại tệ với ngoại tệ. Sau
Eximbank, NHNN cũng cho phép 7 ngân hàng khác thực hiện thí điểm nghiệp vụ này,
gồm có hai ngân hàng nước ngoài hoạt động tại Viet Nam là Citibank, HSBC chi
nhánh TPHCM và 5 ngân hàng trong nước là BIDV, ACB, Vietcombank, ICB, và
Argribank.
- Đặc điểm giao dịch
Nguyên tắc chính của loại quyền chọn này là các doanh nghiệp và cá nhân được
quyền đặt mua hay đặt bán USD với VNĐ thông qua một tỷ giá do khách hàng tự

chọn, được gọi là tỷ giá thực hiện. Đặc biệt, quyền chọn USD và VNĐ đáp ứng cho cả
23


nhà nhập khẩu và nhà xuất khẩu trong đó quyền chọn mua áp dụng cho nhà nhập khẩu
và quyền chọn bán áp dụng cho nhà xuất khẩu, trong đó:
• Người mua quyền chọn là các doanh nghiệp hoạt động tại Việt Nam.


Người bán quyền chọn là các NHTM.



Đồng tiền giao dịch: giao dịch bằng ngoại tệ tự do chuyển đổi.



Kiểu quyền chọn: kiểu Mỹ hoặc Châu Âu.

- Về doanh số giao dịch
Tính đến tháng 6/2004, mặc dù lợi ích trong việc sử dụng các công cụ bảo hiểm
rủi ro đã thấy rõ như một nhu cầu cấp thiết, nhưng số lượng hợp đồng được ký kết chỉ
dừng lại con số 50 hợp đồng quyền chọn với doanh số thực hiện hơn 50 triệu USD của
Eximbank ký với các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu trong thời gian thí
điểm nghiệp vụ quyền chọn, còn 6 ngân hàng còn lại không ký được hợp đồng nào.
Từ 2004 đến 2007, mặc dù không còn giới hạn về số lượng NHTM tham gia giao
dịch quyền chọn ngoại tệ với ngoại tệ nhưng thực tế cho thấy các hoạt động mua bán
này chưa thực sự sôi động, chỉ tập trung vào chi nhánh các ngân hàng nước ngoài như
HSBC hay Citibank và một số ít NHTM Việt Nam như Eximbank, Techcombank, còn
lại các ngân hàng vẫn không có giao dịch.

Với nghiệp vụ này, chắc chắn tương lai sẽ được mở rộng bởi khi đó VNĐ sẽ có
cơ hội tiếp cận với thị trường tài chính thế giới. Vị thế của VNĐ và Việt Nam cũng qua
đó mà tăng lên. Tuy nhiên, vì đang trong giai đoạn thí điểm nên các ngân hàng này bị
giới hạn bởi thời gian thực hiện. Sau 4 năm hoạt động, công cụ phòng ngừa rủi ro đã
có những bước phát triển nhưng vẫn chưa thu được kết quả như mong muốn, và hầu
hết các doanh nghiệp vẫn chưa thiết tha với các nghiệp vụ này lắm. Dù gặp phải một
số khó khăn trong việc áp dụng, song các công cụ này đang là nhu cầu cấp thiết cho
các doanh nghiệp và là cơ hội cho các ngân hàng mở rộng hoạt động kinh doanh trong
giai đoạn hiện nay.
 Quyền chọn ngoại tệ với nội tệ (VNĐ)
- Về phía ngân hàng tham gia giao dịch
Tháng 4/2005 NHNN Việt Nam đã bắt đầu cho triển khai thực hiện thí điểm giao
dịch quyền chọn giữa ngoại tệ với VNĐ. ACB là ngân hàng đầu tiên được thí điểm
nghiệp vụ này, với mức tối đa giá trị hợp đồng là 10 triệu USD và mức tối thiểu là
10.000 USD (quy đổi ngoại tệ khác tương đương mức này cho quyền chọn giao dịch
giữa các ngoại tệ khác và VNĐ).
Tiếp theo ACB là ngân hàng Techcombank với giá trị hợp đồng là 8 triệu USD100.000 USD và chỉ được thực hiện với quyền chọn Châu Âu. BIDV được phép thí
điểm từ ngày 22/8/2005 và kể từ đây không còn quy định giới hạn cho giá trị hợp đồng
quyền chọn. Ngoài ra, còn có các ngân hàng như Eximbank, GPbank cũng tham gia
24


nghiệp vụ này. Như vậy, tính đến tháng 5/2008, đã có 7 ngân hàng được phép thực
hiện giao dịch quyền chọn giữa ngoại tệ và VNĐ.
- Đặc điểm giao dịch
Cũng giống với giao dịch giữa quyền chọn ngoại tệ với ngoại tệ, quyền chọn
ngoại tệ với VNĐ yêu cầu các NHTM muốn thực hiện nghiệp vụ này phải có đề án chi
tiết quy trình nghiệp vụ, phương án phòng ngừa rủi ro, và được NHNN chấp nhận
bằng văn bản. Quy định về tỉ giá thực hiện như sau:
• Đối với hợp đồng quyền chọn USD/VNĐ: tỷ giá này không vượt quá tỷ

giá kỳ hạn USD/VNĐ cùng thời hạn.
• Đối với hợp đồng quyền chọn giữa ngoại tệ khác với VNĐ: tỷ giá do
ngân hàng và khách hàng tự thỏa thuận.
- Doanh số giao dịch
Mặc dù được triển khai từ năm 2005, nhưng doanh số mua bán thực tế của các
NHTM không đáng kể, hầu hết các giao dịch đều được tiến hành theo kiểu Mỹ vì điều
kiện thanh toán linh hoạt hơn. Qua kết quả thăm dò, các ngân hàng như ACB,
Techcombank, BIDV, VIB dù là những ngân hàng tham gia các nghiệp vụ này từ rất
sớm nhưng họ chỉ mới thực hiện được một số hợp đồng với doanh số không đáng kể.
Riêng Vietcombank và Eximbank được xem là hai ngân hàng mạnh về lĩnh vực
này nhưng doanh số hoạt động vẫn không cao. Tính trong năm 2006-2007
Vietcombank chỉ đạt khoảng 37,53 triệu USD (chiếm chưa đến 0,1% tổng doanh số
giao dịch ngoại tệ), Eximbank đạt 128,12 triệu USD (chiếm khoảng 0,8% trong tổng
số giao dịch ngoại tệ).
Qua thực tế trên, chúng ta thấy rằng giao dịch quyền chọn giữa ngoại tệ và VNĐ
chưa phát triển. Nhưng chúng ta cũng không thể phủ nhận rằng với kết quả ban đầu
trong giai đoạn thí điểm này là một dấu hiệu đáng mừng góp phần tạo tiền đề cho sự
phát triển sau này.
b. Quyền chọn chứng khoán (cổ phiếu)
Trong giai đoạn thí điểm hiện nay, UBCK chỉ cho công ty chứng khoán VCBS
thí điểm triển khai nghiệp vụ quyền chọn cổ phiếu, với đối tượng giao dịch là giữa
VCBS và các nhà đầu tư (kể cả cá nhân và tổ chức). Thế nhưng, do là một nghiệp vụ
mới nên rất ít các nhà đầu tư biết đến và sử dụng dịch vụ này, các con số về hợp đồng,
doanh thu của tổ chức thực hiện VCBS hầu như là không đáng kể.
Theo khảo sát nhanh của Trung tâm NCKH – ĐTCK (UBCKNN), Giai đoạn
cuối năm 2010, trên TTCK nổi lên một sự kiện liên quan tới hoạt động giao dịch
quyền chọn là việc CTCK Vn Direct (VNDS) đưa vào thực hiện sản phẩm quyền chọn
với mục đích tăng thêm cơ hội kinh doanh thông qua việc giúp nhà đầu tư có thể giao
25



×