Tải bản đầy đủ (.pdf) (26 trang)

luận văn chính sách bồi thường, hỗ trợ, tái định cư cho người dân bị thu hồi đất nông nghiệp trên địa bàn thành phố hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (356.55 KB, 26 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN NGỌC MAI

CHÍNH SÁCH BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ, TÁI ĐỊNH CƯ
CHO NGƯỜI DÂN BỊ THU HỒI ĐẤT NÔNG NGHIỆP
TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
Chuyên ngành: Chính sách công
Mã số: 60 34 04 02

TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG

HÀ NỘI, 2017


Công trình được hoàn thành tại
Học viện Khoa học Xã hội
Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Hoàng Văn Tú

Phản biện 1: PGS.TS. Bùi Quang Tuấn

Phản biện 2: GS.TS. Dương Xuân Ngọc

Luận văn được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận văn, họp tại Học
viện Khoa học Xã hội – Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam.
Vào hồi: 08 giờ 15 ngày 19 tháng 10 năm 2017.


Có thể tìm hiểu luận văn tại: Thư viện Học viện Khoa học xã hội.


PHẦN MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài.
Việc thu hồi đất nông nghiệp có ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp
đến lựa chọn sinh kế thông qua việc tạo ra các cơ hội việc làm phi nông
nghiệp và thay đổi tài sản sinh kế tương ứng. Lao động nông thôn của
Việt Nam phần lớn là lao động không có kỹ năng hoặc có kỹ năng thấp
và tài sản sinh kế tốt nhất và có giá trị nhất là đất nông nghiệp.
DFID (1999) cho rằng đất là tài sản sinh kế bởi vì nó cung cấp
nơi ở và lương thực mà các hoạt động sinh kế khác phải nhờ cậy vào
đất. Đất đai còn giúp người nghèo đạt được sự bình đẳng cao hơn và
giảm thiểu tính tổn thương của sinh kế khi họ được đảm bảo quyền
sử dụng và tiếp cận với đất đai. Ngoài ra, đất đai và sự đầu tư của
người nông dân vào đất đai trở thành tài sản có giá trị nhất. Tuy thế,
khi thảo luận về vai trò của chính sách đất đai đối với giảm nghèo,
tài liệu này cũng cho rằng việc có đất để canh tác là một điều kiện
cần và không phải là một điều kiện đủ để giảm nghèo. Kinh nghiệm
quốc tế cho thấy đô thị hóa và tăng trưởng kinh tế nhanh luôn đi
cùng với quá trình chuyển đổi mục đích sử dụng đất từ nông nghiệp
sang phục vụ công nghiệp, cơ sở hạ tầng và xây dựng nhà ở. Sự xuất
hiện của những công trình này là cần thiết cho quá trình tăng trưởng
kinh tế nhưng người dân bị thu hồi đất có khả năng sẽ gặp khó khăn
và xáo trộn trong cuộc sống.
Trên thực tế, việc thu hồi đất nông nghiệp ảnh hưởng trực tiếp
đến sinh kế của hộ gia đình nông dân. Vì vậy, cần phải đưa ra chính
sách và giải pháp hợp lý nhằm hạn chế tác động tiêc cực và phát huy
tác động tích cực từ thu hồi đất nông nghiệp để đảm bảo an sinh xã
hội của người dân bị thu hồi đất nông nghiệp.

Trong bối cảnh như vây, việc lựa chọn đề tài “Chính sách bồi
thường, hỗ trợ tái định cư cho người dân bị thu hồi đất nông nghiệp
trên địa bàn thành phố Hà Nội” là hết sức cần thiết, có ý nghĩa về cả
lý luận và thực tiễn.
1


2. Tình hình nghiên cứu đề tài.
Dưới đây là một số tài liệu và công trình nghiên cưu liên quan
đến đề tài chính sách bồi thường, hỗ trợ, tái định cư cho người dân bị
thu hồi đất nông nghiệp như sau:.
- Bùi Văn Tuấn (2015), Thực trạng và giải pháp đảm bảo sinh
kế bền vững cho cộng đồng dân cư ven đô Hà Nội trong quá trình đô
thị hóa. Tạp chí Khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội.
- Nguyễn Thị Hồng Hạnh, Nguyễn Thanh Trà và Hồ Thị Lam
Trà (2013), Ảnh hưởng của việc thu hồi đất nông nghiệp đến đời
sống, việc làm của nông dân huyện Văn Lâm, Hưng Yên.
- Phí Thị Hương (2009), Nghiên cứu sinh kế của hộ nông dân
sau thu hồi đất sản xuất nông nghiệp để xây dựng khu công nghiệp
tại xã Đông Mỹ - thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình.
- Nguyễn Quốc Nghi và cộng sự (2012), Nghiên cứu tác động
của khu công nghiệp đến sự thay đổi thu nhập của cộng đồng bị thu
hồi đất: Trường hợp khu công nghiệp Hòa Phú tỉnh Vĩnh Long.
- Trần Quang Tùng (2016), Thực hiện chính sách bồi thường, hỗ
trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn huyện Ba Vì,
thành phố Hà Nội. Luận văn thạc sĩ Chính sách công, Học viện Khoa
học xã hội.
- Nguyễn Mạnh Cường (2011), Giải quyết việc làm cho nông dân
ngoại thành Hà Nội trong quá trình đô thị hóa. Luận văn thạc sĩ Kinh tế,
Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh.

- Quách Thị Kiều Dung (2012), Ảnh hưởng của việc thu hồi đất
đến đời sống nông dân qua thực tiễn huyện Mê Linh – Hà Nội. Luận
văn thạc sĩ ngành Kinh tế chính trị, Trung tâm đào tạo, bồi dưỡng giảng
viên lý luận lý luận chính trị.
- Trần Quang Tuyến (2013), Đất đai, việc làm phi nông nghiệp
và mức sống hộ gia đình: Bằng chứng mới từ dữ liệu khảo sát vùng
ven đô Hà Nội.

2


3. Mục đích và nghiệm vụ nghiên cứu.
Luận văn có mục đích là xây dựng cơ sở khoa học nhằm tăng
cường thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ tái định cư cho người
nông dân bị thu hồi đất nông nghiệp.
Để thực hiện mục đích nêu trên, luận văn có các nhiệm vụ sau đây:
- Làm rõ những vấn đề lý luận về chính sách bồi thường, hỗ
trợ tái định cư cho người nông dân bị thu hồi đất nông nghiệp.
- Đánh giá thực trạng chính sách bồi thường, hỗ trợ tái định cư
cho người nông dân bị thu hồi đất nông nghiệp tại thành phố Hà Nội.
- Trên cơ sở đó, kiến nghị các giải pháp nhằm tăng cường thực
hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ tái định cư cho người nông dân bị
thu hồi đất nông nghiệp.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
Về không gian: địa bàn thành phố Hà Nội.
Về thời gian: giai đoạn 2000-2015.
Về đối tượng và nội dung: nghiên cứu thực tiễn việc thực hiện
chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư cho người nông dân bị
thu hồi đấy nông nghiệp trên địa bàn thành phố Hà Nội.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu.

Đề tài tiếp cận từ góc độ lợi ích của hộ gia đình ở Việt Nam
trong bối cảnh công nghiệp hóa, đô thị hóa gia tăng, đất đai nông
nghiệp bị thu hồi tác động đến đời sống của hộ gia đình, cách tiếp
cận vi mô.
Luận văn áp dụng một số phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp khảo cứu tài liệu, thu thập, nghiên cứu các công
trình nghiên cứu có liên quan ở trong nước và nước ngoài. Thông qua việc
tổng hợp, phân tích và so sánh kinh nghiệm quốc tế để tìm ra các nhân tố
quyết định sinh kế/việc làm và phúc lợi của các hộ nông dân mất đất.
- Phương pháp thống kê mô tả: Bằng cách lập bảng, biểu đồ...
đề tài mô tả thực trạng an sinh xã hội của các hộ gia đình trước và
sau khi mất đất.
3


- Phương pháp chuyên gia, tham khảo ý kiến góp ý, bình luận
của các chuyên gia, nhà khoa học.
- Phương pháp phân tích SWOT
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn.
Kết quả nghiên cứu luận văn thể hiện ở các nội dung sau:
- Nghiên cứu hệ thống lý luận chung về bồi thường, hỗ trợ và
tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp của người dân.
- Phân tích, đánh giá thực trạng thực hiện chính sách bồi
thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp
trên địa bàn thành phố Hà Nội. Làm rõ vai trò và tác động của việc
bồi thường, hỗ trợ, tái định cư.
- Trên cơ sở những phân tích và đánh giá trên, luận văn đề
xuất một số phương hướng và giải pháp cụ thể nhằm tăng cường thực
hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ, tái định cư cho các hộ gia đình bị
thu hồi đất nông nghiệp.

7. Cơ cấu của luận văn.
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu
tham khảo, nội dung đề tài được kết cấu thành 3 chương.
Chương 1: Những vấn đề lý luận về chính sách bồi thường,
hỗ trợ, tái định cư cho người dân bị thu hồi đất nông nghiệp.
Chương 2: Thực trạng chính sách bồi thường, hỗ trợ, tái định
cư,chongười dân bị thu hồi đất nông nghiệp tại thành phố Hà Nội.
Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách
bồi thường, hỗ trợ, tái định cư cho người dân bị thu hồi đất nông nghiệp.

4


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHÍNH SÁCH BỒI
THƯỜNG, HỖ TRỢ, TÁI ĐỊNH CƯ CHO NGƯỜI DÂN BỊ
THU HỒI ĐẤT NÔNG NGHIỆP
1.1. Một số khái niệm cơ bản về chính sách bồi thường, hỗ
trợ, tái định cư cho người dân bị thu hồi đất nông nghiệp
1.1.1. Khái niệm chính sách
Có thể hiểu: Chính sách là chương trình hành động do các nhà
lãnh đạo hay nhà quản lý đề ra để giải quyết một vấn đề nào đó thuộc
phạm vi thẩm quyền của mình.
Những chính sách do các cơ quan hay các cấp chính quyền
trong bộ máy nhà nước ban hành nhằm giải quyết những vấn đề có
tính cộng đồng được gọi là chính sách công. Cho đến nay có nhiều
quan điểm về khái niệm này:
William Jenkin cho rằng: “Chính sách công là một tập hợp các
quyết định có liên quan lẫn nhau của một nhà chính trị hay một nhóm
nhà chính trị gắn liền với việc lựa chọn các mục tiêu và các giải pháp

để đạt được các mục tiêu đó”.
Giáo trình chính sách kinh tế – xã hội, các tác giả đưa ra định
nghĩa: “Chính sách kinh tế -xã hội là tổng thể các quan điểm, tư
tưởng, các giải pháp và công cụ mà Nhà nước sử dụng để tác động
lên các đối tượng và khách thể quản lý nhằm giải quyết vấn đề chính
sách, thực hiện những mục tiêu nhất định theo định hướng mục tiêu
tổng thể của xã hội”.
Như vậy : “Chính sách công là thuật ngữ dùng để chỉ một
chuỗi các quyết định hoạt động của nhà nước nhằm giải quyết một
vấn đề chung đang đặt ra trong đời sống kinh tế – xã hội theo mục
tiêu xác định”.

5


1.1.2. Khái niệm thu hồi đất và tác động của việc thu hồi đất
nông nghiệp đến người dân bị thu hồi đất
Khái niệm thu hồi đất: thu hồi đất là quyền lực của Nhà nước
ta được quy định trong luật căn cứ vào vị thế đại diện chủ sở hữu
toàn dân đối với đất đai. Thu hồi đất là việc Nhà nước ra quyết định
hành chính để thu lại quyền sử dụng đất của người được Nhà nước
trao quyền sử dụng đất hoặc thu lại đất của người sử dụng đất vi
phạm pháp luật về đất đai. Nhà nước chỉ được thu hồi đất trong
những trường hợp được quy định tại Điều 16, Luật đất đai năm 2013.
Khái niệm đất nông nghiệp và tác động của việc thu hồi đất
nông nghiệp.
- Khái niệm đất nông nghiệp:
Theo quan niệm truyền thống của người Việt Nam thì đất nông
nghiệp thường được hiểu là đất trồng lúa, trồng cây hoa màu như: ngô,
khoai, sắn và những loại cây được coi là lương thực. Tuy nhiên, trên

thực tế việc sử dụng đất nông nghiệp tương đối phong phú, không chỉ
đơn thuần là để trồng lúa, hoa màu mà còn dùng vào mục đích chăn
nuôi gia súc, nuôi trồng thủy sản hay để trồng các cây lâu năm…
Nhóm đất nông nghiệp được quy định tại Khoản 1, Điều 10
Luật đất đai năm 2013.
- Tác động của việc thu hồi đất nông nghiệp đến đời sống của
người dân bị thu hồi đất.
Trong những năm qua, quá trình thu hồi đất đã diễn ra mạnh
mẽ ở nhiều địa phương trên cả nước. Quá trình THĐ đã có nhiều ảnh
hưởng đến đời sống của người nông dân bị mất đất trên nhiều mặt.
Quá trình này có cả những tác động tích cực và tiêu cực tới các
hộ gia đình bị thu hồi, bên cạnh đó cũng có những quan điểm trái
chiều về việc có nên chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp
sang các hoạt động phi nông nghiệp hay không. Những quan điểm
như vậy có thể được chia thành hai nhóm:
- Nhóm ủng hộ sự phát triển nông thôn
6


- Nhóm ủng hộ sự phát triển đô thị
1.1.3. Khái niệm bồi thường
BT khi nhà nước thu hồi đất là việc Nhà nước trả lại giá trị quyền
sử dụng đất đối với diện tích đất thu hồi cho người sử dụng đất.
Các nguyên tắc về BT được quy định tại Điều 74 Luật đất đai 2013.
1.1.4. Khái niệm hỗ trợ
Hỗ trợ khi Nhà nước THĐ là việc Nhà nước giúp đỡ, tạo điều
kiện cho người bị thu hồi đất ổn định đời sống, sản xuất và phát
triển, vượt qua khó khăn khi bị thu hồi đất.
Các khoản HT khi Nhà nước thu hồi đất bao gồm: HT ổn định
đời sống và sản xuất; HT đào tạo, chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc

làm đối với trường hợp thu hồi đất nông nghiệp của hộ gia đình, cá
nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp; THĐ ở kết hợp kinh doanh dịch
vụ của hộ gia đình, cá nhân mà phải di chuyển chỗ ở; HT tái định cư
đối với trường hợp thu hồi đất ở của hộ gia đình, cá nhân, người Việt
Nam định cư ở nước ngoài mà phải di chuyển chỗ ở; HT khác.
1.1.5. Khái niệm tái định cư
Khi Nhà nước thu hồi đất của người sử dụng đất, để đảm bảo
quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng đất thì Nhà nước cần phải
có phương án về đất ở, nhà ở khác cho họ. TĐC là khu đất ở, nhà ở Nhà
nước giao cho hộ gia đình, cá nhân bị thu hồi đất phải di chuyển chỗ ở.
UBND cấp tỉnh căn cứ vào kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội
của địa phương, căn cứ vào quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất được cấp
có thẩm quyền xét duyệt có trách nhiệm lập và thực hiện các dự án tái
dịnh cư để đảm bảo phục vụ TĐC cho người bị thu hồi đất phải di
chuyển chỗ ở. Vấn đề lập và thực hiện dự án TĐC và bố trí tái định cư
được quy định tại Điều 84, Điều 85 Luật Đất đai năm 2013.
1.1.6. Khái niệm chính sách bồi thường, hỗ trợ tái định cư đối
với người dân bị thu hồi đất
Quan điểm trong luận văn này cho rằng, về mặt lý luận, có thể coi
chính sách BT, HT TĐC là một dạng chính sách đặc biệt của Nhà nước,
7


thể hiện cách ứng xử vừa đại diện cho chủ sở hữu đất đai, vừa phản ánh
thái độ của cơ quan được xã hội trao quyền quản lý đất đai, vừa bao hàm
nội dung điều hòa lợi ích theo hướng bảo đảm quyền và lợi ích chính
đáng của các bên liên quan, phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội,
đảm bảo công bằng, trong đó các cơ quan Nhà nước sử dụng nhiều công
cụ như pháp luật, tài chính, giá cả để đạt được các mục tiêu của mình.
1.2. Nội dung chính sách bồi thường, hỗ trợ, tái định cư đối

với người dân bị thu hồi đất ở Việt Nam
1.2.1. Mục tiêu chính sách
- Bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người sự dụng đất,
người sở hữu nhà ở.
- Khuyến khích người dân bàn giao đất.
- Ổn định cuộc sống, việc làm cho người dân.
- Góp phần thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai,
xây dựng và phát triển nhà ở, phát triển kinh tế - xã hội.
1.2.2. Nguyên tắc xây dựng chính sách
Bao gồm các nguyên tắc: Nguyên tắc công bằng; Nguyên tắc
hiệu quả; Nguyên tắc dân chủ; Nguyên tắc tiết kiệm ngân sách Nhà
nước; Nguyên tắc hỗ trợ người khó khăn.
1.2.3. Nội dung chính sách
- Quy định mức và phương thức bồi thường khi thu hồi đất.
- Quy định hỗ trợ người bị thu hồi đất.
- Quy định phương thức và mức tài trợ tái định cư.
1.2.4. Các nhân tố ảnh hưởng dến chính sách bồi thường,
hỗ trợ, tái định cư khi người dân bị thu hồi đất
Công tác quản lý nhà nước về đất đai.
Công tác định giá đất và giá đất.
Công tác cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Cơ sở pháp lý.

8


1.3. Kinh nghiệm một số tỉnh, thành phố về chính sách hỗ
trợ, bồi thường, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất
1.3.1. Thành phố Đà Nẵng
Theo đánh giá, thành phố Đà Nẵng là địa phương thực hiện tốt

nhất cả nước về công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng.
Cụ thể, đối với cơ chế “Nhà nước thu hồi đất theo quy hoạch”,
mức giá đền bù và tái định cư đối với tất cả các dự án được áp dụng
theo biểu giá chung và thống nhất do thành phố duyệt. Điều này đã
giúp tạo sự công bằng trong xã hội và hạn chế các biến động về giá
đất một cách bất thường. Công tác quy hoạch, kiểm đếm, đền bù, áp
giá, chi trả, bố trí TĐC và giải phóng mặt bằng đều do các Hội đồng
GPMB của thành phố thực hiện.
Trong quá trình lập phương án bồi BT, HT TĐC, đại đa số các
gia đình trong diện bồi thường GPMB được tham gia, cho thấy mức
độ công khai hóa rất cao của chính quyền thành phố. Có rất ít những
vụ kiện căng thẳng, người dân tự nguyện hiến đất đai vì ý thức chung tay
phát triển thành phố. Bên cạnh đó, chính quyền thành phố sớm ban hành rõ
ràng đơn giá BT, HT đối với từng loại đất, vị trí đất,… tạo thuận lợi cho quá
trình thực hiện và kiểm tra giám sát của người dân.
1.3.2. Tỉnh Quảng Ninh
Trên cơ sở quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất và biểu giá đất,
tỉnh Quảng Ninh đã ban hành nhiều văn bản cụ thể hóa chính sách
BT, HT TĐC tương đối hợp lý, được nhân dân chấp nhận nên tỉnh
đã giải phóng được nhiều mặt bằng, tạo điều kiện cho hàng loạt các
dự án triển khai, cụ thể: Dự án cải tạo và nâng cấp Quốc lộ 18A đoạn
Yên Hưng – Bãi Cháy, Hạ Long – Cẩm Phả và Cẩm Phả - Móng Cái,
cầu Bãi Cháy; Các dự án thuộc khu du lịch quốc tế Tuần Châu, khu
du lịch Bãi Dài, khu di tích Yên Tử,…
Chính sách BT, HT TĐC đối với người dân bị THĐ trên địa
bàn tình Quảng Ninh tuân thủ chính sách chung của Nhà nước. Tỉnh
cũng đã cụ thể những nội dung mà Trung ương giao cho Ủy ban
9



nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương theo hướng đơn
giản hóa, dễ hiểu và dễ thực hiện.
Kết luận Chương I
Qua những nội dung được trình bày trong chương một, những vấn
đề cơ bản nhất về mặt lý luận của chính sách bồi thường, hỗ trợ tái định
cư cho người dân bị thu hồi đất nông nghiệp đã được đề cập, bao gồm:
Khái niệm thu hồi đất; Khái niệm bồi thường khi thu hồi đất; Khái niệm
hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất; Khái niệm tái định cư khi nhà nước thu
hồi đất.
Tuy nhiên, điểm mấu chốt cho việc đặt ra chính sách chính là việc
tuân thủ chặt chẽ các mục tiêu và nguyên tắc xây dựng chính sách. Nếu
không tuân thủ các mục tiêu và nguyên tắc xây dựng chính sách, nội dung
chính sách sẽ xa rời thực tế và không phát huy được hiệu quả.
Một phần không thể tách rời khi phân tích các mục tiêu trong việc
xây dựng chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư cho người bị thu hồi
đất nông nghiệp là các nguyên tắc xây dựng chính sách, bao gồm 5
nguyên tắc sau: Nguyên tắc công bằng; Nguyên tắc hiệu quả;Nguyên tắc
dân chủ; Nguyên tắc tiết kiệm ngân sách Nhà nước; Nguyên tắc hỗ trợ
người khó khăn.
Chương 2
THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ,
TÁI ĐỊNH CƯ CHO NGƯỜI DÂN BỊ THU HỒI
ĐẤT NÔNG NGHIỆP TẠI THÀNH PHỐ HÀ NỘI
2.1. Những yếu tố tác động, ảnh hưởng đến chính sách bồi
thường, hỗ trợ, tái định cư cho người dân bị thu hồi đất nông
nghiệp tại thành phố Hà Nội
Việc ban hành và thực hiện chính sách BT,HT, TĐC của các
hộ gia đình trước và sau khi thu hồi đất nông nghiệp tại thành phố Hà
Nội còn bị tác động, ảnh hưởng bởi một số yếu tố sau:
10



Thứ nhất, yếu tố về điều kiện kinh tế xã hội của từng địa bàn
có thực hiện thu hồi đất nông nghiệp tại thành phố Hà Nội. Như đã
biết, kể từ sau khi sáp nhập tỉnh Hà Tây (cũ), diện tích đất của thành
phố Hà Nội tăng lên nhiều lần, kèm theo đó là sự đa dạng về điều
kiện kinh tế xã hội của từng quận, huyện. Do đó, việc thực thi chính
sách BT,HT, TĐC khi tiến hành thu hồi đất nông nghiệp sao cho
đảm bảo đúng pháp luật, công bằng, hài hòa lợi ích giữa nhà nước,
doanh nghiệp và người dân là điều không dễ dàng.
Thứ hai, yếu tố thực thi việc thu hồi đất nông nghiệp. Trong quá
trình tham vấn lấy ý kiến của người bị thu hồi đất tại một số địa
phương, hầu hết ý kiến của người dân tại các địa phương tổ chức lấy ý
kiến đều cho rằng quá trình thực hiện thu hồi đất luôn thiếu minh bạch,
người dân luôn bị đặt vào thế bị động, thậm chí là ép buộc di dời và
mất chỗ ở. Số tiền mà nhiều người được đền bù bồi thường, thậm chí
không đủ để mua một suất ở tái định cư. Họ cũng mất cả sinh kế từ
nông nghiệp mà gần như không có cơ hội tìm sinh kế mới.
Nhìn chung, thu hồi đất nông nghiệp là vấn đề lớn, phức tạp
và rất nhạy cảm, trong khi các quy định về bồi thường, hỗ trợ và tái
định cư thường xuyên thay đổi dẫn tới tình trạng so bì, khiếu nại của
người có đất bị thu hồi qua các dự án hoặc trong một dự án nhưng
thực hiện thu hồi đất qua nhiều năm. Mặt khác, chưa chú trọng tạo
việc làm mới, chuyển đổi nghề cho người có đất bị thu hồi; việc lập
và tổ chức thực hiện phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư tại
một số dự án còn thiếu kiên quyết, thiếu dân chủ, công khai, minh
bạch; năng lực, phẩm chất của đội ngũ cán bộ làm công tác GPMB ở
nhiều nơi còn chưa đáp ứng yêu cầu; chưa phát huy vai trò của các tổ
chức quần chúng tham gia thực hiện.


11


2.2. Thực trạng chính sách bồi thường, hỗ trợ, tái định cư
cho người dân bị thu hồi đất nông nghiệp tại thành phố Hà Nội
2.2.1. Thực trạng chính sách bồi thường, hỗ trợ, tái định cư
cho người dân bị thu hồi đất nông nghiệp trên địa bàn huyện Ba

Nhưng vướng mắc về xác định giá đất tại thời điểm thu hồi
Trên thực tế, việc áp dụng nguyên tắc định giá đất và phương
pháp xác định giá đất của UBND cấp tỉnh vẫn còn bộc lộ một số bất
cập, đầu tiên là việc giá đất do UBND cấp tỉnh quy định thường thấp
hơn nhiều so với giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất trên thị
trường, khiến người có đất nông nghiệp bị thu hồi không giao đất với
lý do không chấp nhận mức bồi thường do nhà nước đưa ra.
Giá đất nông nghiệp trồng lúa nước và trồng cây hàng năm
được định giá lần lượt là 108.000 đồng/m2; 84.000 đồng/m2 và
56.800 đồng/m2 cho diện tích đất nông nghiệp nằm ở vị trí đồng
bằng; trung du và miền núi. Tuy nhiên, trên thực tế, khảo sát cho
thấy vào thời điểm giá thị trường lên cao, các diện tích đất tại các xã
như Vân Hòa, Yên Bài, Cổ Động, Tản Lĩnh (Ba Vì)…tại thời điểm
2010 - 2011, hầu hết vẫn là 6 triệu đồng/m2, hoặc 155 triệu đồng/mét
dài trên các trục đường dẫn vào trung tâm huyện Ba Vì. Ngay cả khi
giá đất tại Ba Vì hạ nhiệt do Chủ tịch UBND Hà Nội Nguyễn Thế
Thảo có văn bản kiến nghị Thủ tướng không quy hoạch Trung tâm
hành chính quốc gia ở Ba Vì thì cũng những mảnh đất đó, giá vẫn
còn khoảng 1 - 2 triệu đồng/m2, đất vườn đất trồng cây lâu năm cũng
được chào bán dao động trong khoảng 50 - 70 triệu đồng/sào Bắc bộ.
Qua những số liệu trên, có thể thấy sự chênh lệch rất lớn trong giá
bồi thường THĐdo nhà nước quy định và giá thị trường. Với mức

chênh lệch cả chục lần thì việc người có đất nông nghiệp bị thu hồi
khiếu nại, chậm bàn giao đất cũng là điều dễ hiểu.
Vấn đề xác định loại đất bị thu hồi (mục đích sử dụng của đất
bị thu hồi)
12


Trong việc tính tổng giá trị bồi thường khi THĐ nông nghiệp,
mục đích sử dụng của đất bị thu hồi là yếu tố cơ bản quyết định tổng
mức giá trị mà người bị THĐ được giải quyết bồi thường. Mặc dù khi
triển khai quyết định THĐ, Nhà nước đã có chính sách quy định rõ thửa
đất nào được quy hoạch là đất nông nghiệp và được áp dụng chính sách
BT THĐ nông nghiệp, nhưng trên thực tế còn nhiều trường hợp không
thông nhất giữa hiện trạng sử dụng thực tế của thửa đất với mục đích
SDĐ do nhà nước quy định. Điều này gây khó khăn rất lớn cho các cơ
quan nhà nước khi xác định mức bồi thường khi THĐ do nhiều hộ dân
cố ý làm phát sinh công trình xây dựng, hoa màu, thậm chí mồ mả trên
diện tích đất bị thu hồi; hoặc có những hộ dân còn cho rằng diện tích đất
bị thu hồi có mục đích sử dụng là đất thổ cư thay vì đất nông nghiệp.
Ba Vì vẫn còn phổ biến tình trạng tự chuyển đổi mục đích sử
dụng đất từ đất nông nghiệp sang mục đích đất ở và mục đích phi nông
nghiệp. Vì lý do trên, một số chủ SDĐ không chấp nhận diện tích đất
bị thu hồi được áp theo khung giá THĐ nông nghiệp mà cương quyết
đòi áp dụng khung giá THĐ phi nông nghiệp, trong khi mục đích sử
dụng đất bị các chủ sở hữu tự ý chuyển đổi trái pháp luật.

2.2.2. Thực trạng chính sách bồi thường, hỗ trợ, tái định cư
cho người dân bị thu hồi đất nông nghiệp trên địa bàn quận Tây Hồ
Quận Tây Hồ là một quận nằm ở phía bắc nội thành thủ đô Hà
Nội, Việt Nam. Phía đông giáp quận Long Biên; phía tây giáp quận

Bắc Từ Liêm; phía nam giáp quận Ba Đình; phía bắc giáp huyện
Đông Anh, và được xác định là trung tâm dịch vụ – du lịch - văn
hóa, vùng có cảnh quan thiên nhiên của Hà Nội.
Theo định hướng phát triển của thủ đô Hà Nội đến năm 2020,
toàn bộ quận Tây Hồ thuộc khu vực phát triển của Thành phố trung
tâm. có điều kiện đặc biệt thuận lợi thu hút các nguồn lực vốn tài chính,
nguồn nhân lực và khoa học công nghệ để thúc đẩy nhanh sự phát triển
kinh tế – xã hội của quận nói riêng và của Hà Nội nói chung.

13


Quận Tây Hồ có nhiều điểm đặc thù trong canh tác nông
nghiệp, với diện tích lớn trồng các loại hoa, cây cảnh có giá trị cao,
bà con nông dân canh tác lâu đời. Từ việc nghiên cứu thực tiễn áp
dụng các quy định BT nhà ở, nhà và các công trình gắn liền với đất;
thực tiễn áp dụng các quy định về BT, HT di chuyển mồ mả; thực
tiễn áp dụng các quy định BT, HT đối với cây trồng, qua các tình
huống cụ thể, học viên xin nêu ra một số nhận xét sau đây:
Thứ nhất, đơn giá cây trồng lâu năm, hoa màu và các công trình
trên đất phục vụ nông nghiệp do UBND thành phố Hà Nội quy định
làm căn cứ BT, HT thường thấp hơn rất nhiều so với số tiền thực tế mà
người có đất nông nghiệp bị thu hồi có thể được hưởng lợi nếu tiếp tục
canh tác. Mức BT đối với cây trồng hàng năm tính bằng giá trị sản
lượng của vụ thu hoạch đó, giá trị sản lượng của vụ thu hoạch được
tính theo năng suất của vụ cao nhất trong 3 năm trước liền kề của cây
trồng chính tại địa phương và giá trung bình tại thời điểm thu hồi
(Khoản 1, Điều 24, NĐ số 197/2004/NĐ-CP). Thế nhưng, Luật Đất
đai năm 2013 và các văn bản hướng dẫn thi hành lại không nêu cụ thể
cấp nào có thẩm quyền xác định cây trồng chính của địa phương, nếu

thẩm quyền này thuộc về UBND cấp huyện thì tại địa bàn quận Tây
Hồ cũng rất khó xác định trong những loại cây trồng như lúa, rau xanh,
các loài hoa…loại cây nào là cây trồng chính. Vì vậy, đây là một quy định
không hợp lý và rất khó áp dụng, nhất là đối với những địa phương thuộc
khu vực đô thị như quận Tây Hồ. Bên cạnh đó, đơn giá BT, HT về cây
trồng, hoa màu hiện nay nhìn chung còn thấp và chưa sát với giá bán cây
trồng trên thị trường, nhất là các cây trồng có giá trị kinh tế cao như: đào,
cây cau vua, cau lùn, vạn tuế, bách... Ngoài ra, việc quy định trường hợp
cây trồng chưa thu hoạch nhưng có thể di chuyển được đến địa điểm khác
thì được BT chi phí di chuyển và thiệt hại thực tế do phải di chuyển, phải
trồng lại (Khoản 3, Điều 24, NĐ số 197/2004/NĐ-CP), cũng là quy định
không khả thi vì Luật Đất đai năm 2003 không quy định cụ thể mức BT
tối đa trong trường hợp này, quận Tây Hồ hiện đang áp dụng QĐ số
14


108/2009/QĐ-UBND, theo đó UBND Quận căn cứ vào thực tế để quyết
định mức HT thiệt hại và chi phí di chuyển nhưng mức HT tối đa không
quá 30% mức BT (Khoản 2, Điều 36)
Thứ hai, Khoản 3, Điều 18, NĐ số 197/2004/NĐ-CP quy định
trường hợp nhà, công trình khác gắn liền với đất được xây dựng sau khi
quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất công bố mà không được cơ quan nhà
nước có thẩm quyền cho phép xây dựng thì không được bồi thường.
Tuy nhiên, việc lập và công bố quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất cũng
như việc công bố công khai quy hoạch xây dựng đô thị còn nặng tính
hình thức, thậm chí có nơi còn xem việc công bố quy hoạch là “đặc
quyền” thuộc về cơ quan có thẩm quyền lập quy hoạch, kế hoạch sử
dụng đất và quy hoạch xây dựng đô thị. Không chỉ vậy, việc cắm mốc
giới quy hoạch (cắm mốc chỉ giới đường đỏ, chỉ giới xây dựng, ranh
giới khu vực cấm xây dựng ngoài thực địa…theo hồ sơ cắm mốc đã

được phê duyệt) trên thực địa chưa được tiến hành hoặc chưa kịp thời
sau khi quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất và quy hoạch xây dựng đô
thị được xét duyệt.
Thứ ba, việc bồi thường di chuyển mồ mả trong thực tế cũng
gặp nhiều bất cập do hiện nay dân số tại các đô thị tăng nhanh, trong
khi quỹ đất dành cho việc mở rộng các khu nghĩa địa tập trung phục
vụ cho việc tập kết mồ mả đối với các dự án đầu tư mà có sự di
chuyển mồ mả trên địa bàn thành phố Hà Nội nói chung và quận Tây
Hồ nói riêng ngày càng bị co hẹp hoặc một số dự án có số lượng mồ
mả di chuyển lớn còn chưa chủ động để chuẩn bị trước về quỹ đất.
Để cởi được nút thắt trong BT, GPMB, Luật Đất đai năm 2003 và
các văn bản hướng dẫn thi cho phép người bị THĐ tự lo liệu chỗ
chôn cất thì Nhà nước sẽ BT, HT bằng tiền, nhưng lại chưa có quy
định cụ thể, rõ ràng về cơ chế giám sát quá trình thực hiện việc chôn
cất, cũng như chưa xử lý nghiêm các vi phạm cam kết việc tự lo liệu
di chuyển mồ mả của người bị thu hồi đất.

15


2.3. Đánh giá về chính sách bồi thường, hỗ trợ, tái định cư
cho người dân bị thu hồi đất nông nghiệp tại thành phố Hà Nội
hiện nay
2.3.1. Những kết quả đạt được
Ngoài những khó khăn, vướng mắc còn tồn tại, phải thừa nhận
rằng, trên thực tế, chính quyền thành phố Hà Nội đã có rất nhiều nỗ
lực trong công tác thực thi pháp luật về bồi BT, HT, TĐC khi nhà
nước thu hồi đất nông nghiệp trên địa bàn. Việc thực hiện BT, HT về
đất tại địa từ khi Luật Đất đai năm 2013 có hiệu lực đến nay, về cơ
bản là đúng đắn và thống nhất theo Luật Đất đai năm 2013, các Nghị

định hướng dẫn thi hành và các văn bản hướng dẫn cụ thể của
UBND thành phố Hà Nội. Nhờ đó, việc thực hiện BT, HT về đất đạt
được những kết quả tích cực như: thời gian BT, HT được rút ngắn,
dự án nhanh chóng được triển khai, các quyền và lợi ích của người bị
THĐ, lợi ích hợp pháp của NĐT cũng như lợi ích của Nhà nước ngày
càng được quan tâm, bảo vệ và đảm bảo thực hiện, giảm bớt được
tình trạng khiếu nại kéo dài, khiếu nại tập thể từ phía người bị THĐ,
góp phần không nhỏ trong việc ổn định chính trị, trật tự an toàn xã
hội, phát triển kinh tế và góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả công
tác quản lý của Nhà nước về đất đai. Thêm vào đó, thông qua môi
trường thực tiễn, các quy định của pháp luật về bồi thường khi Nhà
nước THĐ ngày càng được quy định rõ ràng, chi tiết hơn, góp phần
đảm bảo tính thống nhất, tính đồng bộ giữa các văn bản quy phạm
pháp luật của Trung ương với chính quyền địa phương.
Theo Quy hoạch vùng Hà Nội, trong vùng còn có một nghĩa
trang quốc gia tại huyện Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình, quy mô đất xây
dựng 100ha và một nghĩa trang sinh thái thuộc khu vực huyện Sóc
Sơn, quy mô đất xây dựng 150ha. Trong 600 ha đất dự kiến nằm
trong quy hoạch nghĩa trang thì xã Vật Lại khoảng 35ha, xã Cẩm
Lĩnh khoảng 60ha, xã Thái Hoà khoảng 40ha, còn lại là diện tích xã
Phú Sơn khoảng 460ha. Cùng với đó, dự án cũng dự kiến dành 100ha
16


quy hoạch khu điều dưỡng Người cao tuổi thuộc địa bàn xã Phú Sơn,
Tòng Bạt và tỉnh Phú Thọ.
Theo huyện Ba Vì, qua khảo sát sơ bộ về hiện trạng sử dụng
đất khu dân cư trong phạm vi dự án gồm các khu Phú Mỹ C, Gò
Ong, Canh Nhỉm, Đội 4 nông trường Suối Hai, Rừng Phường, Phú
Mỹ A, Yên Kỳ với khoảng 210 hộ, diện tích khu dân cư gồm cả đất ở

và đất vườn khoảng 79ha (xã Phú Sơn). Ngoài ra, còn một số hộ
thuộc xã Cẩm Lĩnh, Vật Lại tự làm nhà ở trên đất lâm nghiệp. Cũng
theo huyện Ba Vì, có khoảng 290 ha đất lâm nghiệp trồng cây lâu
năm thuộc 4 xã nêu trên cùng với 160ha đất lúa (chủ yếu ở xã Phú
Sơn), 5.9ha đất mặt nước, 18,2ha đất đường giao thông, 70ha đất
quốc phòng đều nằm trong diện tích dự án. Có khoảng 592 hộ thuộc
các xã Phú Mỹ A, Phú Mỹ B, Phú Mỹ C, Rừng Phường, Đồi Chùa,
xã Phú Sơn và một số hộ thuộc xã Thái Hoà, Vật Lại sẽ bị thu hồi từ
30% đất nông nghiệp trở lên.
Với quy mô của dự án, có thể thấy số dân phải di chuyển
nhiều, số hộ nông nghiệp bị mất đất canh tác khá lớn nên huyện Ba Vì đề
nghị TP Hà Nội khi triển khai thực hiện dự án quan tâm giải quyết các
vấn đề tái định cư, việc làm, xây dựng hạ tầng và tạo cảnh quan môi
trường để không ảnh hưởng đến đời sống nhân dân khu vực.
Theo đó, về hạ tầng khi lập quy hoạch xây dựng dự án công
viên nghĩa trang Yên Kỳ mới chú trọng việc tạo diện mạo mới cho
khu vực và kết nối hài hoà với các quy hoạch hạ tầng chung của khu
vực như đường 411C, đường Suối Hai đi quốc lộ 32, dự án khu du
lịch Suối Hai.
UBND huyện Ba Vì cũng đã phối hợp tốt với chính quyền các
cấp, nhằm xây dựng các khu tái định cư cần xây dựng đồng bộ về hạ
tầng, các công trình phúc lợi xã hội để đảm bảo điều kiện sống cho
người dân phải di dời đến nơi ở mới có điều kiện sống tốt hơn nơi ở
cũ. Theo đó, 3 khu tái định cư tại xã Phú Sơn, khu vực ven đường

17


tỉnh lộ 411C: 10ha, khu vực Đồi Chùa khoảng 20ha; xã Cẩm Linh:
khu vực Cống Chuốc khoảng 20ha.

Huyện Ba Vì cũng đề nghị TP Hà Nội giải quyết việc làm cho
khoảng 1.200 lao động nông nghiệp bị mất việc làm bằng việc cho
lập dự án đào tạo nghề chuyển đổi và có phương án sử dụng số lao
động dôi dư vào cá ngành nghề khác. Đồng thời, đề nghị việc lập
quy hoạch công viên nghĩa trang Yên Kỳ giữ gìn được cảnh quan của
khu vực và đảm bảo vệ sinh môi trường chung.
2.3.2. Những hạn chế
Thứ nhất, thực tiễn xác định đối tượng và điều kiện được BT,
HT về đất trong thời gian qua gặp không ít khó khăn, vướng mắc,
thậm chí có trường hợp đã xác định sai đối tượng hoặc sai điều kiện
được BT, HT. Đây là khó khăn chung mà chính quyền các cấp của
thành phố Hà Nội đều gặp phải trong quá trình giải quyết chính sách
BT, HT, TĐC khi thu hồi đất nông nghiệp giống như trường hợp
huyện Ba Vì đã nêu ở trên.
Việc xác định đối tượng bồi thường hỗ trợ không thỏa đáng
xảy ra ở nhiều dự án trên địa bàn quận Tây Hồ.
Thứ hai, hiện nay, giá đất do UBND thành phố Hà Nội quy
định, công bố và áp dụng vào ngày 1 tháng 1 hàng năm được áp
dụng để làm căn cứ BT, HT về đất, nhưng giá đất vẫn còn nhiều bất
cập, chưa phản ánh được lợi ích của các bên trong quá trình sử dụng
đất.
Ví dụ cho trường hợp khiếu kiện liên quan đến giá đất có thể
kể đến Dự án Công viên cây xanh và nhà điều hành, tổ chức sự kiện
phục vụ vui chơi giải trí công cộng Tây Hồ do Cty cổ phần Đầu tư
thương mại Hà Nội Xanh làm CĐT được duyệt quy hoạch trên khu
đất trồng quất cảnh “đắc địa” rộng 1,8ha của 56 hộ dân thuộc tổ 8,
phường Quảng An (Tây Hồ, Hà Nội). Tuy nhiên, suốt từ năm 2011
đến nay, hai bên vẫn chưa tìm được tiếng nói chung xung quanh câu
chuyện thu hồi - đền bù.
18



Ngày 15.3, UBND phường Quảng An đã ra Quyết định số 56/QĐCTUBND về việc cưỡng chế phá dỡ công trình vi phạm của người dân
trên khu đất này và chỉ 2 ngày sau đó, lực lượng cưỡng chế đã tiến hành
tháo dỡ các công trình tạm được người dân dựng lên, toàn bộ khu đất
1,8ha này vốn là vùng ao sâu, đất trũng từ nhiều năm về trước được Hợp
tác xã Nông nghiệp Quảng An giao cho 56 hộ dân địa phương canh tác.
Do đó, các hộ dân đều nhất trí cho rằng, khi thực hiện THĐ, Nhà nước
cần xem xét đến thực trạng đất, công sức đầu tư của người dân và cả tác
động từ việc mất đất, từ đó đưa ra chính sách bồi thường phù hợp, tránh
đẩy người dân vào cảnh khó khăn.
Căn cứ vào khung giá đất của thành phố Hà Nội đã ban hành
(Theo Quyết định 96/QD-UB) mức bồi thường được thành phố tính
theo công thức: 1m2 = tiền đơn giá 252.000 đồng + tiền hỗ trợ đào
tạo, chuyển đổi nghề (5 x 252.000 đồng) + tiền hỗ trợ ổn định đời
sống (30kg gạo x 4.500 đồng x số người x số tháng) + tiền thưởng
tiến độ bàn giao mặt bằng (3.000 đồng/m2). Tổng cộng tiền bồi
thường chỉ khoảng 1,5 triệu đồng/m2. Mức giá này được người dân
cho là quá thấp, không tương xứng với vị trí “vàng” của khu đất và
nhiều vấn đề đi kèm khác.
Theo đại diện của các hộ dân trong danh sách THĐ nông
nghiệp, tại các văn bản số 935/UBND-BBT ngày 5.8.2016 gửi Ban
chỉ đạo GPMB TP.Hà Nội và văn bản số 1181/UBND-BBT ngày
20.9.2016 gửi Sở Tài nguyên và Môi trường, UBND quận Tây Hồ
cũng đã dựa vào khoản 5, Điều 23 Quyết định 23/2014/QĐ-UBND
để đề nghị thành phố phê duyệt hỗ trợ khác cho 56 hộ dân. Cụ thể là
được hỗ trợ 30% giá đất ở trung bình vị trí 3 của khu vực.
2.3.3. Nguyên nhân các hạn chế
Nguyên nhân của sự hạn chế này được liệt kê cụ thể như sau:
Thứ nhất, về nguyên nhân chủ quan, việc UBND cấp tỉnh đặt

mục tiêu trong xác định giá đất nhằm phát triển kinh tế xã hội. Tuy
nhiên, theo đánh giá tổng hợp của các cơ quan chuyên môn thì giá đất
19


do các tỉnh quy định vẫn chỉ bằng 30% hoặc cao nhất cũng chỉ bằng
70% giá đất chuyển nhượng thực tế trên thị trường.
Thứ hai, cần thừa nhận một nguyên nhân về mặt khách quan rằng
việc chênh lệch giá đất theo khung giá được nhà nước ban hành với giá
thị trường rất khó để xác định. Hiện nay, thị trường bất động sản hoạt
động chủ yếu trên cơ sở thỏa thuận về giá, khiến giá trị thực tế của đất
nông nghiệp tăng giảm bất thường. Hơn nữa, thị trường đất nông nghiệp
và đất phi nông nghiệp không phải là đất ở chưa được nhà nước bảo hộ
về mặt pháp lý, do vậy không thể xác định được mức giá chuyển
nhượng thực tế cho một diện tích đât cụ thể, và càng không thể xác định
mức giá được cho là “sát với thực tế“.
Thứ ba, còn tồn tại mâu thuẫn giữa chính sách giá đất cho thuê
đất, giao đất cho doanh nghiệp có nhu cầu sử dụng đất bị thu hồi với
mức giá bồi thường. Nếu nhà nước áp dụng chính sách thu hồi, hỗ trợ và
tái định cư theo cơ chế giá thị trường, sẽ đẩy giá thuê đất, tiền sử dụng
đất lên cao, trong khi doanh nghiệp,dự án có nhu cầu sử dụng đất luôn
có nguyện vọng thuê đất với giá thấp. Đây là điểm khó khăn cơ bản
trong thực tiễn áp dụng chính sách giá đất để bồi thường hỗ trợ khi
nhà nước THĐ.
Kết luận Chương 2
Qua những nội dung được đề cập ở chương 2, chúng ta có thể
đi đến kết luận như sau:
Thứ nhất, việc áp dụng chính sách bồi thường, hỗ trợ, tái định
cư khi tiến hành thu hồi đất nông nghiệp trên địa bàn thành phố Hà
Nội diễn ra rất đa dạng tùy thuộc vào địa bàn có dự án cần phải thu

hồi đất.
Thứ hai, việc áp dụng chính sách bồi thường, hỗ trợ, tái định
cư khi tiến hành thu hồi đất nông nghiệp tại huyện Ba Vì, quận Tây
Hồ nói riêng và thành phố Hà Nội nói chung, trong những năm vừa
20


qua đã mang lại nhiều lợi ích về mặt kinh tế, xã hội, góp phần phát
triển kinh tế cho Thủ đô.
Thứ ba, ngoài những thành tựu đạt được, vẫn còn tồn tại nhiều
khó khăn, vướng mắc trong việc ban hành chủ trương, chính sách,
pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp và áp dụng pháp luật trên những
địa bàn cụ thể. Những khó khăn vướng mắc này dẫn đến sự cần thiết
của các nhóm giải pháp được đề cập trong chương 3 của luận văn.
Chương 3
GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN
CHÍNH SÁCH BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ, TÁI ĐỊNH CƯ
CHO NGƯỜI DÂN BỊ THU HỒI ĐẤT NÔNG NGHIỆP
3.1. Mục tiêu chính sách bồi thường, hỗ trợ, tái định cư cho
người dân bị thu hồi đất nông nghiệp
Thực hiện chích sách bồi BT, HT, TĐC cần hướng tới mục
tiêu bảo đảm quyền lợi hợp pháp của người SDĐ, đáp ứng nhu cầu
thực tế của người dân, khuyến khích người dân tự nguyện giao đất,
nhằm hạn chế tối đa việc khiếu nại tranh chấp đất đai. Bên cạnh đó,
mục tiêu của chính sách còn phải ổn định cuộc sống, việc làm cho
người dân, đặc biệt đối với người dân bị thu hồi đất nông nghiệp.
3.2. Giải pháp tăng cường hoàn thiện chinh sách bồi
thường, hỗ trợ, tái định cư cho người dân bị thu hồi đất nông
nghiệp
3.2.1. Các giải pháp nhằm hoàn thiện chính sách bồi

thường, hỗ trợ tái định cư cho người dân bị thu hồi đất nông
nghiệp
- Thiết lập khung pháp lý về bồi thường khi Nhà nước thu hồi
đất trên cơ sở đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ và tính ổn định
tương đối cao.

21


- Thực hiện các biện pháp đẩy nhanh việc cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất.
- Hoàn thiện các quy định về giá đất
- Hoàn thiện các quy định về đơn giá tính bồi thường, hỗ trợ
về tài sản (cây trồng, hoa màu… đối với đất nông nghiệp)
- Hoàn thiện các quy định về trình tự, thủ tục thực hiện bồi
thường, hỗ trợ tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất.
3.2.2. Các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các chính
sách về bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất
- Tăng cường và kiểm tra, giám sát việc tuyên truyền, phổ
biến và giáo dục pháp luật đất đai nói chung và pháp luật về bồi
thường khi Nhà nước thu hồi đất nói riêng cho cán bộ và nhân dân
trên địa bàn thành phố Hà Nội.
- Kiện toàn bộ máy giúp vệc để tổ chức thực hiện chính sách,
bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn
thành phố Hà Nội.
- Tăng cường thanh tra, kiểm tra, giám sát và xử lý vi phạm
trong quản lý và sử dụng đất đai.
- Tăng cường công tác phối hợp giữa các ngành trong việc
hướng dẫn thực hiện chính sách bồi thường, giải phóng mặt bằng đối
với người bị thu hồi đất.

- Chấn chỉnh công tác lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất;
tăng cường thanh tra, kiểm tra, giám sát việc thực hiện quy hoạch, kế
hoạch sử dụng đất.
- Xác lập cơ chế giải quyết việc làm cho người bị thu hồi đất.
Kết luận Chương 3
Chương 3 đưa ra mục tiêu của chính sách bồi thường, hỗ trợ
tái định cư cho người dân bị thu hồi đất nông nghiệp.
Thực hiện chích sách bồi BT, HT TĐC cần hướng tới mục tiêu
bảo đảm quyền lợi hợp pháp của người SDĐ, đáp ứng nhu cầu thực
22


tế của người dân, khuyến khích người dân tự nguyện giao đất, nhằm
hạn chế tối đa việc khiếu nại tranh chấp đất đai. Bên cạnh đó, mục
tiêu của chính sách còn phải ổn định cuộc sống, việc làm cho người
dân, đặc biệt đối với người dân bị thu hồi đất nông nghiệp.
Từ đó đưa các giái pháp nhằm tăng cường hoàn thiện chính sách
về và giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các chính sách về bồi
thường, hỗ trợ và tái định cư cho người dân bị thu hồi đất nông nghiệp.
KẾT LUẬN
Để thực hiện tốt chính sách BT, HT, TĐC khi nhà nước quyết
định thu hồi đất nông nghiệp đòi hỏi phải giải quyết rất nhiều vấn đề
phức tạp, mang tính chất kinh tế, xã hội. Mặc dù trong những năm
vừa qua, với sự nỗ lực của các ban ngành từ Trung ương đến địa
phương, pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp, hỗ trợ, bồi thường và
tái định cư của thành phố Hà Nội ngày càng hoàn thiện và phát huy
hiệu quả trên thực tế, tuy nhiên, không thể tránh khỏi thiếu sót trong
quá trình thực thi.
Một văn bản mới ra đời, với mong muốn làm lợi cho người bị thu
hồi đất nhưng có khi lại đặt ra rất nhiều vấn đề nan giải cho các cơ quan

nhà nước, cá nhân có thẩm quyền, nhất là chính quyền cơ sở khi thực
hiện việc bồi thường, hỗ trợ, giải quyết chính sách tái định cư. Thêm vào
đó, các văn bản quy phạm pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi
đất thay đổi quá nhanh không những tác động trực tiếp đến lợi ích kinh
tế giữa Nhà nước - người bị thu hồi đất – nhà đầu tư mà nó còn tác động
đến vấn đề an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Giải quyết như thế
nào cho những người bị thu hồi đất đã gương mẫu và nghiêm chỉnh
chấp hành pháp luật của Nhà nước nhưng lại không được hưởng lợi ích
từ văn bản quy phạm pháp luật mới với những quy định cởi mở hơn?
Hay cần cơ chế, biện pháp nào để khắc phục những thiếu sót, hạn chế
mà các cơ quan, cá nhân có thẩm quyền do chưa thực hiện đúng tinh
23


×