Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

Đề bài: Phân tích luận điểm Hồ Chí Minh: “ Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội trước hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa.” Liên hệ thực tiễn Việt Nam hiện nay.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (123.5 KB, 13 trang )

Đề bài: Phân tích luận điểm Hồ Chí Minh: “ Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội
trước hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa.” Liên hệ thực tiễn Việt Nam
hiện nay.

Bài làm
I. Đặt vấn đề.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là một vị lãnh tụ vĩ đại và muôn vàn kính yêu của Đảng
và dân tộc Việt Nam, một nhà hoạt động cách mạng lỗi lạc của phong trào cộng sản
và công nhân quốc tế, một anh hùng lỗi lạc trong sự nghiệp giải phóng dân tộc.
Những tư tưởng, lí luận của Người được Đảng và nhân dân ta học tập và vận dụng
đặc biệt là trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay.
Theo Người, động lực quan trọng và quyết định của xây dựng chủ nghĩa xã hội
chính là nhân tố con người. Con người là động vật bậc cao, có tư duy, ngôn ngữ,
biết lao động để phục vụ, thỏa mãn các nhu cầu về vật chất và tinh thần của bản
thân. Trong quan niệm của mình, Hồ Chí Minh luôn nhìn nhận con người như một
thể thống nhất – thống nhất về tâm lực, thể lực và các hoạt động của nó. Con người
là yếu tố cần thiết cho việc xây dựng xã hội chủ nghĩa bởi con người là mục tiêu và
động lực của chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, Người đã nói: “ Muốn xây dựng chủ nghĩa
xã hội, trước hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa”. Luận điểm này của
Người đã xác định đúng đắn mục tiêu, động lực của công cuộc xây dựng chủ nghĩa
xã hội; từ đó góp phần xác định hình thức, biện pháp và bước đi lên chủ nghĩa xã
hội phù hợp với những đặc điểm dân tộc Việt Nam và xu thế vận động của thời đại
ngày nay.

II. Giải quyết vấn đề.


1 . Phân tích luận điểm: “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội trước hết cần
có những con người xã hội chủ nghĩa.”
Trong luận điểm của mình Bác đã đề cập đến hai phạm trù đó là chủ nghĩa xã
hội và con người xã hội chủ nghĩa. Vậy thế nào là chủ nghĩa xã hội và con người xã


hội chủ nghĩa.?
1.1 . Quan niệm về chủ nghĩa xã hội
Chủ nghĩa xã hội theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin là giai đoạn đầu của
hình thái kinh tế- xã hội cộng sản chủ nghĩa.Chủ nghĩa xã hội tiến bộ, ưu việt hơn
tất cả xã hội trước đó về các đặc trưng kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội nhằm giải
phóng con người khỏi mọi tình trạng áp bức,bóc lột,bất công. Xã hội chủ nghĩa là
tập hợp các tư tưởng phản ánh các cuộc đấu tranh chống áp bức bóc lột giữa giai
cấp bị áp bức bóc lột và giai cấp thống trị, là tập hợp các tư tưởng phản ánh ước
mơ,nguyện vọng, mong muốn, nhu cầu của con người mà trước hết là những người
lao động nghèo khổ về một xã hội tương lai tốt đẹp không có áp bức bóc lột, đồng
thời cũng chỉ ra những phương pháp khả thi để đi đến xã hội mong muốn đó.
Vận dụng những nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin về chủ nghĩa xã
hội, Hồ Chí Minh đã có những phát triển sáng tạo về chủ nghĩa xã hội. Đề cập
những nội dung cơ bản, những mục tiên lâu dài của chủ nghĩa xã hội, Người viết:
“Xây dựng chủ nghĩa xã hội là thay đổi cả xã hội, thay đổi cả thiên nhiên, làm cho
xã hội không còn người bóc lột người, không còn đói rét, mọi người đều được ấm
no hạnh phúc”. Chủ nghĩa xã hội là một xã hội mới mang bản chất tốt đẹp có khả
năng giải phóng con người triệt để nhất, tạo điều kiện tốt nhất cho sù phát triển toàn
diện cá nhân. Chủ nghĩa xã hội là một chế độ không có người bóc lột người, là một
chế độ quan tâm đến lợi ích thiết thực nhất của con người, nhân dân lao động là
người chủ của xã hội mới.


Hồ Chí Minh nêu rõ: “Chủ nghĩa xã hội là xã hội ngày càng tiến tới vật chất
ngày càng tăng, tinh thần ngày càng tốt”. Nói một cách tóm tắt mộc mạc chủ nghĩa
xã hội trước hết làm cho nhân dân lao động thoát khỏi bần cùng, có việc làm, no
ấm, sống cuộc đời hạnh phúc. Chủ nghĩa xã hội là làm cho dân giàu, nước mạnh.
Chủ nghĩa xã hội có nền tảng là học thuyết Mác - Lênin được dựa vào quy luật
khách quan để vạch ra mục tiêu, điều kiện, phương pháp giải phóng triệt để xã hội,
giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người khỏi áp bức, bất

công, bóc lột, tha hoá, đói nghèo dưới mọi hình thức. Có thể nói, bản chất của chủ
nghĩa xã hội là một xã hội đầy tính nhân văn, tất cả vì con người, vì hạnh phúc của
nhân dân. Hồ Chí Minh đề cập đến chủ nghĩa xã hội tuy có những khác nhau về chi
tiết tuỳ thuộc vào đối tượng, vào thời điểm Người nói hay viết nhưng nổi lên những
điểm chủ yếu sau:



Một xã hội có dân chủ.
Một xã hội dân giàu, nước mạnh từng bước xoá bỏ bất công, xoá bỏ bóc lột

trên cơ sở phát triển sản xuất, dần dần biến nước ta từ một nước nông nghiệp lạc
hậu thành một nước có công nông nghiệp hiện đại, khoa học tiên tiến.


Gắn phát triển kinh tế với chính sách xã hội, với công bằng xã hội; không

ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân các dân tộc, “bảo đảm
mọi người đều có ăn, có mặc, có chỗ ở, được học hành”, “các dân tộc miền núi tiến
kịp các dân tộc miền xuôi”.


Phát triển văn hóa khoa học giáo dục, “biến nước ta từ một nước dốt nát, cực

khổ thành một nước văn hoá cao, có đời sống tươi vui, hạnh phúc”.


Bình đẳng, hữu nghị với các dân tộc, các quốc gia trên thế giới, trên tinh thần

hợp tác, tôn trọng độc lập chủ quyền của nhau, hai bên cùng có lợi.





Tiến lên chủ nghĩa xã hội là sự nghiệp của toàn dân dưới sự lãnh đạo của

Đảng tiên phong.
1.2. Quan niệm về con người xã hội chủ nghĩa
Chủ nghĩa Mác – Lenin cho rằng con người vừa là thực thể tự nhiên, vừa là thực
thể xã hội, đồng thời là chủ thể cải tạo hoàn cảnh. Con người là một chủ thể “song
trùng” tự nhiên và xã hội, là sự két hợp cái tự nhiên và cái xã hội. Hai yếu tố này
gắn kết với nhau, đan quyện vào nhau, trong cái tự nhiên chứa đựng cái xã hội và
cũng không có cái xã hội tách rời cái tự nhiên. “Bản chất con người không phải là
một cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản
chất con người là tổng hòa những quan hệ xã hội” (1). Chỉ trong xã hội con người
mới có thể trao đổi lao động, thông qua đó mà thỏa mãn những nhu cầu trong cuộc
sống như ăn, ở, đi lại,..
Trong quan niệm của Hồ Chí Minh, con người là tổng hòa của các quan hệ xã
hội từ hẹp đến rộng. Người không bao giờ xem xét con người một cách trừu tượng
mà luôn xuất phát từ hoàn cảnh con người hiện thực cụ thể trong các quan hệ xã hội
với nhiều bình diện, nhiều chiều khác nhau. Có thể khẳng định các tiếp cận cơ bản
nhất của Hồ Chí Minh vẫn là đặt con người trong mối quan hệ với cộng đồng dân
tộc. Bởi vì hơn bất cứ ai Bác luôn luôn ở trong lòng nhân dân, mang cùng một
truyền thống anh hùng, gắn bó với con người, với nhân dân từ trong khát vọng, con
tim và trọn vẹn suốt đời.
Trong lý luận về xây dựng chế độ mới, Hồ Chí Minh đã khẳng định xây dựng
chế độ dân chủ nhân dân gắn liền với việc thực hiện bước tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Quan niệm về con người của Bác là coi con người như một thực thể thống nhất của
“cái cá nhân” và “cái xã hội”, con người tồn tại trong mối quan hệ biện chứng giữa
các nhân với cộng đồng, dân tộc, giai cấp, nhân loại; yêu thương con người, tin

tưởng tuyệt đối ở con người, coi con người vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự


nghiệp giải phóng xã hội và giải phóng chính bản thân con người. Tư tưởng về con
người của Hồ Chí Minh thông qua thực tiễn cách mạng đã trở thành một sức mạnh
vật chất to lớn và là nhân tố quyết định thắng lợi của chính sự nghiệp cách mạng
ấy.
Con người xã hội chủ nghĩ là con người phát triển toàn diện, hài hòa được từng
bước hình thành trong quá trình cách mạng xã hội chủ nghĩa. Con người xã hội chủ
nghĩa vừa là chủ thể trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, vừa là sản phẩm
của quá trình đó. Con người xã hội chủ nghĩa không chỉ là mục tiêu của chủ nghĩa
xã hội mà còn là động lực của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa xã
hội sẽ không thành công nếu không xây dựng và phát triển con người xã hội chủ
nghĩa.
Trong chế độ chủ nghĩa xã hội, mọi hoạt động đều hướng vào vấn đề xây dựng
con người xã hội chủ nghĩa, hình thành những phẩm chất của con người theo bản
chất và mục tiêu của xã hội. Đó sẽ là tiền đề cho việc thúc đẩy quá trình hình thành
và phát triển chủ nghĩa xã hội. Con người xã hội chủ nghĩa phải mang những đặc
điểm chính sau:


Đậm đà bản sắc dân tộc: Kiên định giữ vững nền độc lập dân tộc, tự hào dân

tộc, yêu quê hương, thương đồng bào, phát triển đất nước theo lí tưởng xã hội chủ
nghĩa.


Có trình độ khoa học, công nghệ: Có sức khỏe, được đào tạo có tay nghề, có

tư duy tốt, linh hoạt, sáng tạo, thích nghi, có nếp sống và làm việc văn minh, hợp

lí, làm việc có hiệu quả, làm giàu cho mình, cho nhà, cho nước.


Có tinh thần công dân: Sống và làm việc theo pháp luật, có hiểu biết và ý

thức tuân theo pháp luật, có thế giới quan Mác – Lênin, Hồ Chí Minh.


Đầy đủ tình nghĩa, nhân nghĩa, đạo đức, đạo lí: Có các quan hệ đẹp trong


giao tiếp đầy tính người, tình người, nghĩa cử vì một lí tưởng cao đẹp, hiếu thảo,
chân tình, có tinh thần làm chủ, coi trọng tín ngưỡng gia tiên, có cuộc sống văn
hoá, phong phú, thanh lịch, đẹp.


Biết tiếp thu tinh hoa văn minh nhân loại: Nhân văn, nhân ái, nhân đạo;

quốc tế vô sản chân chính, lập trường giai cấp vững vàng, tiến lên chủ nghĩa xã
hội; hoà bình, hữu nghị, hợp tác, hội nhập vào xu thế của thời đại và cộng đồng.
Chúng ta biết rằng trong xã hội có rất nhiều nguồn lực có thể khai thác khác
nhau như: những nguồn lực tự nhiên, nguồn lực khoa học- kĩ thuật,…Tuy nhiên tất
cả những nguồn lực này đều chịu sự chi phối của một nguồn lực chung chính là
nguồn lực con người. Những yếu tố tự nhiên có được khai thác và sử dụng một
cách đúng đắn hay không là do tác động từ phía con người, không có con người thì
cũng không thể có những công nghệ tiên tiến, khoa học kĩ thuật hiện đại,….Nhiều
nguồn lực đang trở nên ngày càng cạn kiệt, song nguồn lực con người theo thời
gian càng ngày càng trở nên phong phú, đa dạng và phát triển hơn. Mục tiêu của xã
hội chủ nghĩa chính là xây dựng những phẩm chất tốt đẹp này bên trong mỗi con
người, tạo động lực cho việc xây dựng chủ nghĩa xã hội, đi lên chủ nghĩa cộng sản.

Chủ nghĩa xã hội có được xây dựng thành công hay không tùy thuộc vào việc
chúng ta có phát huytốt nguồn lực con người hay không. Đây là mối quan hệ biện
chứng giữa “xây dựng chủ nghĩa xã hội” và “con người xã hội chủ nghĩa”.
Quan niệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về con người mới xã hội chủ nghĩa có
hai mặt gắn bó chặt chẽ với nhau. Một là, kế thừa những giá trị tốt đẹp của con
người truyền thống (Việt Nam và phương Đông). Hai là, hình thành những phẩm
chất mới như: có tư tưởng xã hội chủ nghĩa; có đạo đức xã hội chủ nghĩa; có trí tuệ
và bản lĩnh để làm chủ (bản thân, gia đình, xã hội, thiên nhiên,…); có tác phong xã
hội chủ nghĩa; có lòng nhân ái, vị tha, độ lượng.

2. Liên hệ thực tiễn


2.1. Những đặc trưng con người xã hội chủ nghĩa mà chúng ta cần phấn đấu
xây dựng.
Trong thời kì khoa học thế giới phát triển mạnh mẽ với những thành tựu lớn
trong các lĩnh vực thì con người Việt Nam cũng phải có những đặc trưng nhất định
để bắt kịp thời cuộc, theo kịp sự phát triển của khu vực và thế giới. Điều này yêu
cầu con người Việt Nam phải thay đổi để có thể đáp ứng được các yêu cầu hội
nhập thế giới và thời đại. Theo thực tiễn phát triển hiện tại của xã hội và khoa học
nước ta nói riêng và thế giới nói chung đòi hỏi con người Việt Nam những đặc
trưng sau:


Con người xã hội chủ nghĩa là con người lao động mới, có tri thức sâu sắc về

công việc mà mình đang đảm nhận, lao động có ý thức kỷ luật, có tinh thần hợp tác
với dồng nghiệp, biết đánh giá chất lượng lao động, hiệu quả lao động của bản
thân.



Con người xã hội chủ nghĩa là con người có ý thức, trình độ và năng lực làm

chủ. Đồng thời xã hội tạo ra những điều kiện về kinh tế, chính trị, xã hội,… để con
người thực hiện được quyền làm chủ đó.


Con người xã hội chủ nghĩa là con người sống có văn hóa, có tình nghĩa với

anh em, bạn bè, mọi người xung quanh, biết được vị trí của mình trong từng mối
quan hệ xã hội và giải quyết được đúng đắn mối quan hệ đó. Thường xuyên có ý
thức nâng cao trình độ tri thức về mọi mặt, ra sức rèn luyện sức khỏe, bảo đảm phát
triển toàn diện cá nhân.


Quan trọng hơn cả, con người xã hội chủ nghĩa là con người giàu lòng yêu


nước, có tình thương yêu giai cấp, thương yêu đồng bào, sống nhân văn, nhân đạo,
có ý thức và kiên quyết bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ những thành quả
cách mạng mà cha ông ta đã phải đánh đổi bằng xương máu để gìn giữ.
2.2. Các văn kiện của Đảng về xây dựng con người mới
Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhân tố con người luôn được đặt vào
vị trí trung tâm của chiến lược phát tiển kinh tế - xã hội, coi con người vừa là mục
tiêu vừa là động lực của sự phát triển. Bởi vì, suy cho cùng mục tiêu của sự nghiệp
xây dựng và phát triển đất nước là phải hướng tới phục vụ con người, giải phóng
con người, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho con người, tạo cơ hội và
điều kiện để con người tham gia làm chủ vào quá trình sáng tạo xã hội. Có thể
khẳng định, đổi mới không thể thành công, nếu chúng ta không tạo ra được môi
trường xã hội thuận lợi để khơi dậy hoạt động sáng tạo của con người. Tính chất và

hiệu quả của sự nghiệp đổi mới phụ thuộc vào tính chất và hiệu quả của việc giải
quyết vấn đề con người. Chính vì lẽ đó, Đảng Cộng sản Việt Nam đã luôn đặt công
cuộc đổi mới trong mối quan hệ với việc giải quyết vấn đề con người nói chung,
trong xây dựng con người nói riêng.


Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV (1976): xây dựng mô hình chủ nghĩa xã

hội với bốn đặc trưng cơ bản của thời kì quá độ, một trong số đó là xây dựng con
người mới xã hội chủ nghĩa.


Đại hội Đảng lần thứ VII (1991) đã thông qua “ Cương lĩnh xây dựng đất

nước trong thời kỳ quá dộ lên chủ nghĩa xã hội”. Trong đó xác định một trong số
các đặc trưng cơ bản của mô hình chủ nghĩa xã hội là: “Con người được giải phóng
khỏi áp bức bóc lột, bất công, làm việc theo năng lực và hưởng theo lao động, có
điều kiện được phát triển toàn diện.”


Nghị quyết đại hội Đảng lần thứ VIII (1996) và Nghị quyết đại hội Đảng lần


thứ IX (2001) đã khẳng định:


Nâng cao dân trí, bồi dưỡng và phát huy nguồn lực to lớn của con

người Việt Nam là nhân tố quyết định thắng lợi của sự nghiệp đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa, là yếu tố cơ bản để phát

triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững thực hiện dân giàu nước mạnh,
xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.


Phát triển con người Việt Nam – đó chính là động lực, là mục tiêu

nhân văn, là nền ảng, là cơ sở lâu bền, tạo đà cho bước phát triển tiếp theo của sự
nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa xã hội mà Đảng ta đang lãnh đạo
nhân dân ta từng bước thực hiện.


Mọi sự phát triển của xã hội trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn

hóa, xã hội đều do con người quyết định, đều hướng về con người và cuộc sống
ngày một tốt đẹp hơn của mỗi người, mỗi gia đình trong cộng đồng dân tộc Việt
Nam. Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa vì
mục tiêu con người đó phải lấy sự phát triển con người Việt Nam làm thước đo
chung.


Đại hội Đảng lần thứ X (2006) đã chỉ rõ để thực hiện thắng lợi công cuộc

đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với kinh tế tri thức phải phát triển
nguồn nhân lực chất lượng cao, tức là chuyển hướng chiến lược phát triển nguồn
nhân lực theo chiều rộng sang chiều sâu, coi trọng và gia tăng nhanh chất lượng của
nguồn lực.


Đại hội Đảng lần thứ XI (2011) đã bổ sung và phát triển thêm “Cương lĩnh


xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.”


2.3. Những hạn chế mà Việt Nam vẫn gặp phải trong quá trình phát triển con
người mới
Hiện nay, bối cảnh và tình hình thế giới cũng như trong nước đã có nhiều thay
đổi, sự hội nhập mang tính toàn cầu và phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông
tin, đã và đang tác động trực tiếp đến quá trình phát triển của nước ta. Nhận diện
được những hạn chế mà Việt Nam vẫn gặp phải trong quá trình phát triển con người
mới sẽ giúp chúng ta định hình được hướng đi phù hợp trong thời kỳ tiếp theo. Đó
là:


Trước hết, chúng ta còn đề cao mặt xã hội, nặng động viên tinh thần, không

quan tâm đúng mức tới nhu cầu vật chất, chưa thực sự chú ý tới lợi ích các nhân
người lao động.


Chúng ta cũng đề cao quá mức tính giai cấp, coi nhẹ tính nhân loại, không

chú ý kế thừa những giá trị truyền thống dân tộc.


Tình trạng quan liêu trong bộ máy Nhà nước vẫn đang diễn ra. Một bộ phận

cán bộ tham nhũng cửa quyền, vi phạm quyền tự do dân chủ của công dân đang
làm biến dạng nhân cách con người.




Sự kết hợp các nguồn lực ở nước ta còn nhiều hạn chế.
Năng lực và trình độ lao động của người Việt Nam còn hạn chế.

2.4. Những phương hướng và giải pháp phát nhằm phát triển con người xã
hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay.
Để phát huy những điểm mạnh, những nhân tố tích cực, đồng thời hạn chế, khắc
phục những yếu kém của con người Việt Nam có những giải pháp căn bản là:


Phải nâng cao vị thế của người lao động trong sản xuất. Phát huy sáng kiến


của người lao động, chăm lo đời sống vật chất tinh thần của họ, thực hiện phân
phối công bằng, công khai, dân chủ. Động viên mọi người dân bỏ vốn ra sản xuất,
kinh doanh. Tăng cường giáo dục đạo đức, khơi dậy lương tâm nghề nghiệp, nêu
cao trách nhiệm của mỗi người trong hoạt động sản xuất kinh doanh.


Nâng cao trình độ của cán bộ, Đảng viên và nhân dân về nhận thức chính trị,

luật pháp. Tăng cường vai trò kiểm sát của quần chúng nhân dân trong mọi hoạt
động của bộ máy nhà nước.


Thực hiện tốt các chính sách giáo dục, chính sách xóa đói giảm nghèo và các

vấn đề về giải quyết lao động việc làm.



Đẩy mạnh giáo dục tư tưởng thông qua văn hóa nghệ thuật. Phê phán những

tư tưởng phản động đang tìm cách phủ nhận con đường xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam.
Hiện nay, trong sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước, trước xu thế toàn cầu hóa
và hội nhập kinh tế quốc tế, thế hệ trẻ Việt Nam luôn kiên định lý tưởng xã hội chủ
nghĩa mà Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh dày công vun trồng. Họ đã và đang chứng
tỏ bản lĩnh, sức trẻ, sự sáng tạo và tinh thần dám nghĩ, dám làm của mình. Họ đang
ra sức tu dưỡng, học tập và rèn luyện về mọi phương diện, tích cực lao động sản
xuất, tiến vào khoa học - công nghệ, để cùng với toàn Đảng, toàn dân thực hiện
công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nhằm xây dựng một
nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Rất
nhiều phong trào thi đua, như Thanh niên tình nguyện, Thanh niên lập nghiệp, Tuổi
trẻ học đường, được đông đảo đoàn viên, thanh niên, sinh viên và học sinh hưởng
ứng, thực hiện.

III. Kết thúc vấn đề


Bất chấp thăng trầm của lịch sử, từ khi ra đời đến nay, tư tưởng của Chủ tịch Hồ
Chí Minh luôn luôn tỏ rõ sức sống mãnh liệt của mình. Nhờ nắm vững và vận dụng
sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh mà Đảng ta đã dẫn dắt cách mạng Việt Nam đi từ
thắng lợi này đến thắng lợi khác.Đối với thế hệ trẻ những chủ nhân tương lai của
đất nước, lớp người kế tục trung thành sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng, của
dân tộc “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” là một niềm vinh
dự đồng thời là một nhiệm vụ vô cùng quan trọng và cần thiết để xây dựng một đội
ngũ con người mới xã hội chủ nghĩa.Mỗi đoàn viên thanh niên cần nhận thức sâu
sắc về vấn đề học tập, nâng cao trình độ trong hội nhập và phát triển. Người đã
từng dạy: “ Học để phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân, làm cho dân giàu nước
mạnh, tức là để làm tròn nhiệm vụ người làm chủ nước nhà”.

Đảng và nhà nước ta coi chủ nghĩa Mác Lê – nin, tư tưởng Hồ Chí Minh là kim
chỉ nam cho mọi hoạt động của Đảng. Mỗi cán bộ đảng viên phải đặt lợi ích của
Đảng, của nhân dân lên trên hết, phải cố gắng học tập chính trị, chuyên môn, gắn
bó với nhân dân, dựa vào dân để xây dựng và chỉnh đốn Đảng, gương mẫu trước
quần chúng. Then chốt trong công tác xây dựng Đảng theo tư tưởng Hồ Chí Minh
là thật thà tự phê bình và phê bình. Hồ Chí Minh đã nhiều lần nhấn mạnh tự phê
bình và phê bình phải thành khẩn, trung thực, kiên quyết và có văn hóa. Mỗi đảng
viên cần phải học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, cần kiệm liêm
chính, chí công vô tư.
Tư tưởng về văn hóa, đạo đức và xây dựng con người mới là một bộ phận rất
quan trọng trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh. Từ lâu, tư tưởng đó đã trở thành
một bộ phận của nền văn hóa dân tộc và là ngọn đèn pha soi đường cho công cuộc
xây dựng một nền văn hóa và đạo đức mới ở Việt Nam. Tư tưởng đạo đức Hồ Chí
Minh vẫn còn giữ nguyên tính thời sự, soi sáng cho Đảng và nhân dân ta hoàn
thành sự nghiệp vẻ vang, xây dựng nền đạo đức Việt Nam ngang tầm với những
yêu cầu của giai đoạn cách mạng mới.


Tài liệu tham khảo:
-

Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh, NXB Chính trị Quốc gia Hà Nội.
C.Mác và Ph.Ăngghen Toàn tập, NXB Chính trị Quốc gia Hà Nội.
Vở ghi Tư tưởng Hồ Chí Minh.
Trang web:
 lyluanchinhtri.vn
 nhandan.com
 doc.edu.vn
 vi.wikipedia.org




×