Tải bản đầy đủ (.docx) (83 trang)

Biện pháp tổ chức, quản lý tài liệu các nhà khoa học tại trung tâm di sản các nhà khoa học việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.13 MB, 83 trang )

LỜI CAM ĐOAN
Nhóm nghiên cứu xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc
lập của riêng nhóm. Các số liệu, thông tin sử dụng phân tích trong đề tài, có nguồn
gốc rõ ràng. Các kết quả dùng để nghiên cứu trong công trình nghiên cứu này do
nhóm nghiên cứu tìm khảo sát thực tế tại Trung tâm Di sản các nhà khoa học Việt
Nam. Các kết quả này chưa từng được công bố trong bất kỳ nghiên cứu nào khác.


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
DANH MỤC CÁC TỪ VÀ CỤM TỪ VIẾT TẮT


DANH MỤC CÁC TỪ VÀ CỤM TỪ VIẾT TẮT
STT

Từ viết tắt

Giải nghĩa

01

UBND

02

NXB

04

GS



Giáo sư

05

PGS

Phó Giáo sư

06

TLLT

Tài liệu lưu trữ

07

TS

Uỷ ban nhân dân
Nhà xuất bản

Tiến sĩ


LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Từ sau khi Cách mạng tháng Tám thành công năm 1945, một đội ngũ trí
thức khoa học được hình thành và có nhiều đóng góp trong sự nghiệp xây dựng,
bảo vệ và phát triển đất nước. Mỗi nhà khoa học trong quá trình hoạt động khoa

học và xã hội đã để lại nhiều nguồn tư liệu quan trọng. Đó chính là những tư liệu
về cuộc đời các nhà khoa học hay còn gọi là di sản các nhà khoa học.
Tài liệu về cuộc đời các nhà khoa học có nhiều giá trị quan trọng trong việc
nghiên cứu lịch sử một con người, một gia đình, một ngành khoa học, một lĩnh vực
khoa học, rộng hơn gắn với từng giai đoạn lịch sử đất nước. Xét cho cùng thì
không có con người nói chung mà chỉ có những con người cụ thể làm nên lịch sử.
Ý nghĩa tài liệu của các nhà khoa học chứa đựng thông tin quá khứ phản ánh một
cách đầy đủ, chân thật các sự kiện, hiện tượng xảy ra trong đời sống tự nhiên cũng
như các phương diện chính trị, kinh tế,văn hóa... của xã hội loài người. Đặc biệt,
tài liệu nhà khoa học là những tài liệu về bối cảnh quê hương, gia đình, dòng họ, về
quá trình học tập, nghiên cứu khoa học, hoạt động chuyên môn, xã hội hay gắn liền
với cuộc sống đời thường của các nhà khoa học. Di sản để lại của các nhà khoa học
bao gồm các tài liệu như sổ ghi chép, bản thảo khoa học, giấy tờ, công văn, quyết
định, các công trình khoa học, thư từ, đồ dùng học tập, nghiên cứu, các hiện vật có
liên quan đến cuộc đời nhà khoa học, các băng ghi âm, hình ảnh, tư liệu về nhà
khoa học. Đó là nguồn tri thức vô giá cần phải lưu giữ. Khối tài liệu này đã, đang
và sẽ góp phần quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Từ đó, đặt
ra yêu cầu cần bảo tồn tài liệu các nhà khoa học, tổ chức và quản lý khai thác sử
dụng một cách hiệu quả để phát huy giá trị của nó.
Tuy nhiên, khối tài liệu của các nhà khoa học thuộc quyền sở hữu cá nhân;
nó được bảo quản chủ yếu tại gia đình của họ vì thế mà tài liệu không được bảo
quản một cách tốt nhất. Việc tài liệu được bảo quản tại gia đình thì được ít người
biết đến vì thế mà tài liệu của các nhà khoa học không được phát huy giá trị một
cách hiệu quả nhất.


Bởi vậy, đề ra các biện pháp nâng cao hiệu quả tổ chức, quản lý tài liệu các
nhà khoa học tại Trung tâm Di sản các nhà Khoa học Việt Nam là điều hết sức cần
thiết. Xuất phát từ tính cấp thiết của đề tài đối với tổ chức, quản lý tài liệu các nhà
khoa học tại Trung tâm Di sản các nhà khoa học Việt Nam, đồng thời nhóm nghiên

cứu có cơ hội trau dồi thêm kinh nghiệm nghề nghiệp. Từ đó, nhóm nghiên cứu
quyết định lựa chọn đề tài: “Biện pháp tổ chức, quản lý tài liệu các nhà khoa
học tại Trung tâm Di sản các nhà khoa học Việt Nam”.
2. Lịch sử nghiên cứu
Tài liệu các nhà khoa học đang được nhiều người quan tâm. Qua khảo sát
thực tế nguồn tài liệu, nhóm nghiên cứu đã tìm hiểu và tổng kết được các xuất bản
phẩm, đề tài, luận văn, bài viết, khóa luận, báo cáo khoa học, tạp chí, sách, trang
thông tin điện tử …có liên quan đến đề tài. Cụ thể là:
Nghiên cứu ở góc độ lý luận, trước hết là giáo trình “Lý luận và phương
pháp công tác lưu trữ”. Cuốn giáo trình đã cung cấp những kiến thức cơ bản về tài
liệu lưu trữ.
Về góc độ thực tiễn, các bài viết, công trình nghiên cứu trước đó đã tập
trung vào một số hướng nghiên cứu chính như sau:
Hướng đầu tiên là, tiêu chuẩn xác định giá trị tài liệu, với đề tài nghiên cứu
“Cơ sở khoa học xác định tiêu chuẩn tài liệu cá nhân, gia đình, dòng họ được nhà
nước bảo hộ” của Ths. Phạm Bích Hải.
Hướng thứ hai là, giá trị của tài liệu lưu trữ cá nhân, với xuất bản phẩm “Tổ
chức và phát huy giá trị tài liệu lưu trữ nhân dân”, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội
và bài khóa luận tốt nghiệp “Giá trị, ý nghĩa của tài liệu xuất xứ cá nhân – những
biện pháp tiếp cận và quản lý nhằm phát huy giá trị của chúng” của tác giả Phạm
Thị Ngân.
Hướng thứ ba, tổ chức sưu tầm và bổ sung tài liệu với các bài viết “Thảo
luận về chính sách thu thập tài liệu lưu trữ ở khu vực tư”, Khoa Lưu trữ học và
Quản trị văn phòng, Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn Hà Nội năm
2015 của NCS. Phạm Thị Diệu Linh, “Vài nét về công tác sưu tầm, bổ sung TLLT
cá nhân và một số đề xuất”, Tạp chí Văn thư Lưu trữ Nhà nước, số 8, số 9 năm
2012 của ThS. Phạm Bính Hải.


Hướng thứ tư là, tổ chức khai thác tài liệu, với các bài viết như: “Khai thác,

sử dụng tài liệu lưu trữ từ nhân dân”, Tạp chí Văn thư – Lưu trữ Việt Nam, số 3
năm 2004 của PGS.TSKH.Nguyễn Văn Thâm.
Hướng thứ năm là, vấn đề tổ chức, quản lý tài liệu Phông lưu trữ cá nhân,
với các bài viết như: “Vài nét về công tác sưu tầm, bổ sung tài liệu lưu trữ cá nhân
và một số đề xuất” của Ths. Phạm Bích Hải, tạp chí Văn thư Lưu trữ Việt Nam số
8/2012; Kỷ yếu tọa đàm khoa học “Quản lý tài liệu của cá nhân, gia đình, dòng họ”
của Cục Văn thư Lưu trữ Nhà nước năm 2015; “Khai thác, sử dụng tài liệu lưu trữ
từ nhân dân, Tạp chí Văn thư – Lưu trữ Việt Nam, số 3 năm 2004” của tác giả
Nguyễn Văn Thâm; Luận văn Thạc sỹ “Tổ chức và quản lý lưu trữ cấp huyện, thị
xã, thành phố thuộc tỉnh” năm 2014 của Ths. Trần Văn Quang; Khóa luận tốt
nghiệp “Tổ chức và quản lý tài liệu cá nhân, gia đình, dòng họ tại Trung tâm lưu
trữ Quốc gia III” năm 2017 của tác giả Trần Lệ Thu.
Chúng ta có thể nhận thấy ở các bài viết và các công trình nghiên cứu trước
đó, các tác giả đã khái quát được: vị trí, giá trị của tài liệu cá nhân nói chung; thành
phần tài liệu xuất xứ cá nhân; vấn đề quản lý cũng như việc sưu tầm tài liệu cá
nhân; tổ chức phát huy tài liệu lưu trữ nhân dân. Đó là những kết quả nghiên cứu
có ý nghĩa to lớn. Tuy nhiên, chưa có một công trình, nghiên cứu đề cập đến: tổ
chức và quản lý tài liệu các nhà khoa học tại Trung tâm Di sản các nhà khoa học
Việt Nam. Vì thế, đề tài nghiên cứu của nhóm nghiên cứu vừa có tính kế thừa, vừa
có tính sáng tạo về vấn đề này.
Qua đề tài này, dưới một góc nhìn mới, nhóm nghiên cứu muốn đóng góp
một phần công sức, thể hiện quan điểm trong công tác tổ chức và quản lý tài liệu
các nhà khoa học tại Trung tâm Di sản các nhà khoa học Việt Nam.
3. Mục tiêu nghiên cứu
Qua đề tài này, chúng tôi giới thiệu thành phần, nội dung, đặc điểm, giá trị
tài liệu các nhà khoa học đang bảo quản tại Trung tâm. Khảo sát thực trạng công
tác tổ chức, quản lý khối tài liệu này, và tìm ra những ưu điểm, hạn chế, nguyên
nhân hạn chế của công tác này. Từ đó, nhóm nghiên cứu đưa ra một số đề xuất để
nâng cao hiệu quả của công tác tổ chức, quản lý tài liệu các nhà khoa học tại Trung



tâm Di sản các nhà khoa học Việt Nam - một trung tâm lưu trữ tư nhân tại Việt
Nam, góp phần sưu tầm, bảo quản và phát huy giá trị của khối tài liệu xuất xứ cá
nhân.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu:
Với đề tài này, nhóm nghiên cứu tập trung hướng tới đối tượng nghiên cứu
là tổ chức, quản lý tài liệu của các nhà khoa học.
*Phạm vi nghiên cứu:
- Về không gian: Trung tâm Di sản các nhà khoa học Việt Nam đặt trụ sở tại
2 tỉnh Hòa Bình và Hà Nội. Với quy mô của một đề tài nghiên cứu của sinh viên,
nhóm nghiên cứu chỉ đề cập tới tổ chức, quản lý tài liệu các nhà khoa học hiện
đang được bảo quản tại trụ sở Hà Nội (26 Nghĩa Dũng, quận Ba Đình, Hà Nội).
- Về thời gian: Khối tài liệu được Trung tâm sưu tầm, bảo quản từ năm 2008
đến nay.
- Về loại tài liệu: Hiện nay, tài liệu ở Trung tâm đang bao gồm hai loại: loại
thứ nhất là tài liệu xuất xứ cá nhân của các nhà khoa học mà Trung tâm đã tiến
hành sưu tầm, bảo quản; loại thứ hai là tài liệu hình thành trong quá trình hoạt
động của chính Trung tâm. Ở đề tài này, chúng tôi chỉ tiến hành khảo sát, nghiên
cứu loại tài liệu thứ nhất: tài liệu xuất xứ cá nhân của các nhà khoa học mà Trung
tâm đã tiến hành sưu tầm, bảo quản.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
Ở đề tài này nhóm nghiên cứu tập trung vào những nhiệm vụ chủ yếu
sau:
- Tìm hiểu cơ sở lý luận, cơ sở pháp lý của vấn đề nghiên cứu;
- Tìm hiểu chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức Trung tâm Di
sản các nhà khoa học Việt Nam và đặc điểm, thành phần, nội dung tài liệu của các
nhà khoa học hiện đang bảo quản tại đây;
- Khảo sát, đánh giá thực trạng công tác tổ chức, quản lý tài liệu các nhà
khoa học đang được bảo quản tại Trung tâm Di sản các nhà khoa học Việt Nam;

- Tìm ra những ưu điểm, hạn chế trong công tác tổ chức, quản lý tài liệu các


nhà khoa học tại Trung tâm Di sản các nhà khoa học Việt Nam và nguyên nhân của
vấn đề này; từ đó đề xuất các kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả công tác này.
6. Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu các biện pháp tổ chức, quản lý tài liệu các nhà khoa học tại
Trung tâm Di sản các nhà khoa học Việt Nam, nhóm nghiên cứu sử dụng các
phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp điều tra, khảo sát, phỏng vấn: Đây là nhóm phương pháp
quan trọng mà nhóm sử dụng để thực hiện đề tài. Nhóm nghiên cứu đã tiến hành
điều tra, khảo sát đặc biệt kết hợp với phỏng vấn lãnh đạo Trung tâm và cán bộ
chuyên môn về công tác lưu trữ tại Trung tâm;
- Phương pháp phân tích, tổng hợp và thống kê: được áp dụng để phân tích
sự đa dạng của các loại hình tài liệu mà Trung tâm đã thu thập được. Do lượng
thông tin nhiều, nội dung phong phú vì vậy, đòi hỏi phải được phân tích, tổng hợp
nhằm rút ra những nhận định, giải pháp đối với công tác tổ chức, quản lý tài liệu
tại Trung tâm;
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Là phương pháp chọn lọc, nghiên cứu
tìm hiểu một số tài liệu liên quan đến vấn đề nghiên cứu như các tài liệu từ sách
giáo trình, các bài viết trên các tạp chí: Tạp chí Văn thư- Lưu trữ…; các bài Luận
văn, nghiên cứu khoa học có liên quan.
7. Đóng góp của đề tài
Nghiên cứu các biện pháp tổ chức, quản lý tài liệu các nhà khoa học tại
Trung tâm Di sản các nhà khoa học Việt Nam đã góp phần làm rõ thành phần, nội
dung của các tài liệu đang bảo quản tại Trung tâm Di sản các nhà khoa học Việt
Nam. Qua việc khảo sát sẽ đánh giá thực trạng của công tác tổ chức tài liệu, làm rõ
những kết quả đạt được qua đó rút ra được những tồn tại, hạn chế và tìm nguyên
nhân, giải pháp khắc phục.
Điều thành công của đề tài nghiên cứu cung cấp thông tin hữu ích là cơ sở

giúp cho giảng viên, sinh viên chuyên ngành lưu trữ đang giảng dạy, học tập tại các
trường đại học, cao đẳng, trung cấp nói chung và giảng viên, sinh viên của Trường
Đại học Nội vụ Hà Nội nói riêng có thêm tài liệu tham khảo thực tế phong phú, đa


dạng tư liệu liên quan đến chuyên ngành Lưu trữ học. Bên cạnh đó góp phần đa
dạng nhiều loại hình lưu trữ tài liệu tại Việt Nam.
8. Bố cục của đề tài
Đề tài được kết cấu gồm 3 phần:
Phần mở đầu
Phần nội dung chính gồm 03 chương:
Chương 1: Cơ sở khoa học của việc tổ chức và quản lý tài liệu các nhà
khoa học tại Trung tâm Di sản các nhà khoa học Việt Nam
Chương 2. Thực trạng tổ chức và quản lý tài liệu các nhà khoa học tại
Trung tâm Di sản các nhà khoa học Việt Nam
Chương 3. Các giải pháp nâng cao hiệu quả tổ chức và quản lý tài liệu
các nhà khoa học tại Trung tâm Di sản các nhà khoa học Việt Nam
Phần kết luận: Tổng kết của nhóm nghiên cứu về quá trình thực hiện và kết
quả triển khai đề tài.
Để hoàn thành đề tài này, nhóm nghiên cứu xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến
Ths.Trần Văn Quang đã tận tình hướng dẫn trong suốt quá trình nghiên cứu. Nhóm
nghiên cứu xin chân thành cảm ơn quý thầy, cô trong Khoa Văn thư - Lưu trữ,
Trường Đại học Nội Vụ Hà Nội đã tận tình truyền đạt khối kiến thức chuyên ngành
Lưu trữ học. Với vốn kiến thức được tiếp thu trong quá trình học tập không chỉ là
nền tảng cho quá trình nghiên cứu đề tài mà còn là hành trang quý báu để chúng
tôi bước vào đời một cách vững chắc và tự tin.
Trong quá trình thực hiện đề tài, nhóm nghiên cứu gặp không ít khó khăn về
việc tìm hiểu thực tế việc tổ chức, quản lý tài liệu trong kho lưu trữ, đặc biệt là việc
gặp gỡ trực tiếp lãnh đạo Trung tâm Di sản các nhà khoa học Việt Nam. Nhóm
nghiên cứu xin chân thành cảm ơn Trung tâm Di sản các nhà khoa học Việt Nam

đã cho phép và tạo điều kiện thuận lợi để tôi có cơ hội tìm hiểu thực trạng, khai
thác, thu thập thông tin, số liệu để hoàn thành đề tài.
Mặc dù đã cố gắng và nỗ lực để hoàn thành đề tài nghiên cứu, nhưng do hạn
chế về nhiều mặt trong quá trình thực hiện đề tài nên không tránh khỏi những
khiếm khuyết và sai sót. Nhóm nghiên cứu mong nhận được sự chỉ bảo, đóng góp


ý kiến của quý thầy cô cùng Hội đồng, để đề tài khoa học này được hoàn thiện
hơn.
Nhóm nghiên cứu xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày

tháng

năm 2017


PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA VIỆC TỔ CHỨC, QUẢN LÝ TÀI
LIỆU CÁC NHÀ KHOA HỌC TẠI TRUNG TÂM DI SẢN CÁC NHÀ KHOA
HỌC VIỆT NAM
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Khái niệm tài liệu, tài liệu lưu trữ
Tài liệu và tài liệu lưu trữ có vai trò quan trọng đối với toàn thể đời sống xã
hội. Thông qua tài liệu và tài liệu lưu trữ chúng ta có thể nghiên cứu, tìm hiểu được
sự phát triển của loài người. Thế giới ngày càng phát triển, cùng với đó là sự phát
triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ thì vị trí, ý nghĩa, tác dụng của việc nghiên
cứu tài liệu và tài liệu lưu trữ là rất cần thiết. Hiện nay tồn tại nhiều định nghĩa
khác nhau về khái niệm này.
Đối với định nghĩa tài liệu: Tại Khoản 2, Điều 2 của Luật Lưu trữ số

01/2011/QH13 năm 2011 do Quốc hội khóa XIII ban hành:
“Tài liệu là vật mang tin hình thành trong quá trình hoạt động của cơ quan,
tổ chức, cá nhân.
Tài liệu bao gồm văn bản, dự án, bản vẽ thiết kế, bản đồ, công trình nghiên
cứu, sổ sách, biểu thống kê; âm bản, dương bản phim, ảnh, vi phim; băng, đĩa ghi
âm, ghi hình; tài liệu điện tử; bản thảo tác phẩm văn học, nghệ thuật; sổ công tác,
nhật ký, hồi ký, bút tích, tài liệu viết tay; tranh vẽ hoặc in; ấn phẩm và vật mang
tin khác”.
Theo Cuốn Từ điển Tiếng Việt, NXB Đà Nẵng năm 2008 thì Tài liệu là “dữ
liệu, tin tức giúp cho việc tìm hiểu một vấn đề gì”. [20; tr.1095]
Đối với định nghĩa TLLT:
Theo định nghĩa Từ điển “Thuật ngữ lưu trữ” xuất bản năm 1988 bằng tiếng
Anh và tiếng Pháp của Hội đồng Lưu trữ Quốc tế, “Tài liệu lưu trữ là những tài
liệu hết giá trị hiện hành được bảo quản, có sự lựa chọn hoặc không cỏ sự lựa
chọn, bởi những ai có trách nhiệm về việc sản sinh ra nó hoặc bởi những người
thừa kế nhằm mục đích sử dụng riêng của họ, hoặc bởi một cơ quan lưu trữ tương
ứng vì giá trị lưu trữ của chúng”.
Theo Từ điển Thuật ngữ xuất bản năm 1982 tại Maxcơva: “Tài liệu lưu trữ


là tài liệu được bảo quản trong các lưu trữ”. Tuy nhiên, trong công tác lưu trữ của
Liên bang Nga hiện nay đã có một số điểm mới về khái niệm tài liệu lưu trữ. Nét
đổi mới này được thể hiện trong Luật Liên bang Nga về “Công tác lưu trữ tại Liên
bang Nga” có hiệu lực từ năm 2004. Trong Luật này tài liệu lưu trữ được định
nghĩa như sau: “Là vật mang vật chất với thông tin được ghi trên đó có các yếu tố
thể thức cho phép nhận dạng được nó và thuộc diện bảo quản do ý nghĩa của vật
mang vật chất và ý nghĩa của thông tin đã định đối với công dân, xã hội và nhà
nước” (Điều 3 mục 2 trong Luật Liên bang Nga số 125-fz về “Công tác lưu trữ ờ
Liên bang Nga”, ban hành ngày 22 tháng 12 năm 2004).
Trong Từ điển “Thuật ngữ Lưu trữ Việt Nam”: “Tài liệu lưu trữ là những

tài liệu có giá trị được lựa chọn từ trong khối tài liệu của các cơ quan, đoàn thể, xí
nghiệp và cá nhân được bảo quản có cố định trong các lưu trữ để khai thác sử
dụng phục vụ cho các mục đích chính trị, kinh tế, văn hỏa, khoa học, lịch sử... của
xã hội”. Định nghĩa này được nêu ra trong những năm 90 thế kỷ XX. Đến nay định
nghĩa về tài liệu lưu trữ ở nước ta đã có một số điểm đổi mới. Điểm mới này được
thể hiện trong định nghĩa nêu tại khoản 3 Điều 2 - Luật Lưu trữ năm 2011 như sau:
“Tài liệu lưu trữ là tài liệu có giá trị phục vụ hoạt động thực tiễn, nghiên cứu khoa
học, lịch sử được lựa chọn để lưu trữ. Tài liệu lưu trữu bao gồm bản gốc,bản
chính; trong trường hợp không có bản gốc, bản chính thì được thay thế bằng bản
bao hợp pháp”.
1.1.2. Khái niệm tài liệu lưu trữ cá nhân, Phông lưu trữ cá nhân
Ở nước ngoài, thuật ngữ tài liệu cá nhân, tài liệu gia đình được định nghĩa từ
nhiều góc độ khác nhau:
Theo trang web Từ điển Tâm lý học của Mỹ, tài liệu cá nhân là các tác phẩm,
tài liệu, vật liệu được tạo ta bởi một cá nhân, bất cứ khi nào đánh giá tài liệu cá
nhân có thể đưa ra kiến thức về đặc tính, đạo đức, quan điểm, niềm tin của cá nhân
đó. [24 ]
Theo trang web chịu sự điều hành của HighBeam Research - thư viện số nổi
tiếng ở Chicago, tài liệu cá nhân được định nghĩa là “… những tài liệu sử dụng
trong khoa học xã hội, ghi lại một phần cuộc sống của bản thân họ. Tài liệu này
bao gồm các tài liệu, nhật ký, tiểu sử, với nhiều loại hình khác nhau. Các tài liệu cá


nhân nhằm mục đích phản ánh chủ quan của một đời người và có giá trị thông tin
để nghiên cứu. [24]
Trong Từ điển “Thuật ngữ lưu trữ” xuất bản năm 1988 bằng Tiếng Anh và
Tiếng Pháp. Từ điển định nghĩa “ Tài liệu gia đình là tài liệu lưu trữ của một hay
nhiều gia đình liên quan với nhau và của các thành viên gia đình đó, liên quan đến
công viêc riêng, nhất là quản lý tài sản và có thể liên quan đến các hoạt động công
vụ của họ”.

Bên cạnh đó theo Bách khoa toàn thư mở “ Lưu trữ cá nhân là một nhánh của
khoa học và lưu trữ gia phả, tập trung vào việc sưu tầm và bảo quản các giấy tờ cá
nhân và các tài liệu khác của cá nhân có liên quan. Nó thường liên quan đến tiền sử
gia đình, khi tiểu sử của gia đình ảnh hưởng, đóng góp để lại như một di sản cho
thế hệ tương lai.” [24]
Còn tại Việt Nam, trong quá trình tồn tại và phát triển của mỗi gia đình, nhiều
văn bản giấy tờ, tài liệu đã hình thành, phản ánh hoạt động và các quan hệ xã hội
của từng thành viên và cả gia đình. Xuất phát từ nhu cầu tự thân, hầu hết các gia
đình ở Việt Nam đã có ý thức lựa chọn và lưu giữ một số giấy tờ, tài liệu quan
trọng.
Cụm từ “tài liệu cá nhân, gia đình, dòng họ” được xuất hiện lần đầu tiên
trong Pháp lệnh Bảo vệ tài liệu lưu trữ quốc gia năm 1982. Cho đến năm 1992,
trong Từ điển Lưu trữ Việt Nam do Cục Lưu trữ nhà nước xuất bản: “Tài liệu xuất
xứ cá nhân là tài liệu được hình thành trong quá trình sống và hoạt động của một
hoặc một nhóm người”.
Theo PGS. TS Vũ Thị Phụng, Tài liệu lưu trữ nhân dân (Private archives) là
từ dùng để chỉ những tài liệu hình thành trong quá trình hoạt động của các cá nhân,
gia đình, dòng họ; các hiệp hội, các tổ chức phi chính phủ các doanh nghiệp tư
nhân (gọi chung là tổ chức tư nhân) được các chủ sở hữu lựa chọn, tổ chức lưu giữ,
bảo quản và sử dụng để phục vụ cho những nhu cầu, lợi ích của cá nhân, tổ chức.
[12; tr.17]
Theo Giáo trình Lý luận và thực tiễn công tác lưu trữ thì Phông lưu trữ cá
nhân được định nghĩa là: “Toàn bộ tài liệu hình thành trong quá trình sống và hoạt


động của một nhân vật riêng biệt được đưa vào bảo quản trong một kho lưu trữ
nhất định”. [7; tr.60]
“Tài liệu lưu trữ cá nhân là một bộ phận của Phông Lưu trữ Quốc gia Việt
Nam. Đó là toàn bộ tài liệu được hình thành trong quá trình sống và hoạt động của
một cá nhân riêng biệt được đưa vào bảo quản trong một kho lưu trữ nhất định.

Phông lưu trữ cá nhân thường được thành lập đối với các nhân vật tiêu biểu, điển
hình hoạt động trên các lĩnh vực của đời sống xã hội”.[7; tr.12]
Tài liệu trong Phông lưu trữ cá nhân có rất nhiều giá trị và ý nghĩa to lớn.
Đây là nguồn sử liệu quan trọng để nghiên cứu về cuộc đời và sự nghiệp hoạt động
cách mạng, hoạt động khoa học, sáng tác nghệ thuật của các cá nhân tiêu biểu; về
các vấn đề chính trị, kinh tế, văn hóa, khoa học kỹ thuật... Đồng thời là đối tượng
để nghiên cứu và sử dụng vào các mục đích khác nhau của xã hội như: cung cấp tư
liệu cho việc xây dựng các tuyển tập (đối với tài liệu cá nhân trong lĩnh vực văn
học), phục vụ trưng bày triển lãm tài liệu tại các buổi hội thảo, hội nghị; phục vụ
nhu cầu nghiên cứu của các nhà khoa học... Tuy nhiên, việc tìm hiểu, nghiên cứu
giá trị và mục đích khai thác, sử dụng của chúng thì vẫn còn rất nhiều hạn chế.
Trên cơ sở các quan điểm trên, nhóm nghiên cứu xây dựng định nghĩa về tài
liệu cá nhân như sau: Tài liệu cá nhân hay còn gọi là tài liệu có xuất xứ cá nhân là
toàn bộ tài liệu hình thành trong quá trình sống và hoạt động riêng của từng người,
chúng mang thuộc tính cá nhân, thuộc sở hữu cá nhân.
1.1.3. Khái niệm tổ chức, quản lý
Hiện nay có nhiều cách định nghĩa, cách hiểu khác nhau về tổ chức. Nhìn từ
góc độ triết học, tổ chức được xem xét theo nghĩa rộng có ý nghĩa bao quát cả phần
tự nhiên và xã hội. Nhìn từ góc độ này theo tác giả Nguyễn Hữu Tri, trong cuốn
sách Lý thuyết Tổ chức giải thích “Tổ chức là cơ cấu tồn tại của sự vật. Sự vật
không thể tồn tại mà không có một hình thức liên kết nhất định các yếu tố thuộc
nội dung. Tổ chức chính vì vậy là thuộc tính của bản thân các sự vật’’ [16; tr.9]
Khái niệm tổ chức trong cuốn sách Hành chính công của Học viện Hành
chính Quốc gia, được sử dụng để chỉ “một tập hợp của nhiều người – hai người


trở lên, cùng với việc sắp xếp công việc cụ thể và thống nhất với nhau vì một hay
một vài mục tiêu’’.
Trong cuốn Đại từ điển Tiếng Việt do Nguyễn Như Ý chủ biên giải thích về
nghĩa động từ của tổ chức như sau:“1. Sắp xếp, bố trí thành các bộ phận để cùng

thực hiện một nhiệm vụ hoặc một chức năng chung; 2. Sắp xếp, bố trí để làm cho
có trật tự, nề nếp’’ [23; tr.1662]
Từ các khái niệm trên, nhóm nghiên cứu đưa ra khái niệm tổ chức tài liệu là
việc tổ chức bộ máy thực hiện công tác lưu trữ đến việc bố trí nhân sự làm về công
tác lưu trữ tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện các nghiệp vụ trong lưu trữ.
Về quản lý, khái niệm quản lý trong cuốn sách Khoa học tổ chức và Quản lí
của Trung tâm Nghiên cứu Khoa học giải thích ‘‘Quản lý là quá trình cùng làm
việc và thông qua hoàn thành các mục đích chung của một nhóm người, một tổ
chức’’.
Cũng theo cuốn Hành chính công khái niệm quản lý được hiểu “Tiến trình,
hoạt động hoặc giám sát việc thực thi nhiệm vụ để đảm bảo rằng các hoạt động
trong tổ chức được thực hiện theo hướng đạt được các mục tiêu đã đề ra của tổ
chức, đặc biệt là nhiệm vụ tạo ra và duy trì các điều kiện để thực hiện tốt mục tiêu
thông qua việc kết hợp những nỗ lực của các nhóm khác nhau trong tổ chức’’.
Theo Cuốn Từ điển Tiếng Việt, NXB Đà Nẵng năm 2008 khái niệm quản lý
là một động từ và được hiểu là :“1. Trông coi và giữ gìn theo những yêu cầu nhất
định. 2.Tổ chức và điều khiển các hoạt động theo những yêu cầu nhất định.” [20;
tr.991]
Bên cạnh việc đưa ra khái niệm tổ chức tài liệu, nhóm nghiên cứu đã đưa ra
được khái niệm: Quản lý tài liệu chính là việc xây dựng các văn bản quy định đến
việc thực hiện các nghiệp vụ lưu trữ để đảm bảo rằng tài liệu được bảo quản một
cách tốt nhất và tài liệu được tổ chức khai thác, sử dụng có hiệu quả nhất.
Qua khái niệm trên ta thấy việc quản lý gắn liền với tổ chức, đây là mối
quan hệ tương hỗ. Có tổ chức tài liệu tốt thì thuận lợi cho việc quản lý tài liệu và
ngược lại có quản lý tốt tài liệu thì việc tổ chức mới dễ dàng, thuận lợi. Vì vậy mà
cần phải quan tâm đồng thời cả hai hoạt động này, làm chưa tốt một trong hai thì
hoạt động còn lại cũng sẽ không hiệu quả. Quản lý là một quá trình gồm nhiều


công việc để đạt được mục tiêu thông qua việc phối hợp các nguồn lực. Việc phối

hợp các nguồn lực như nhân lực, vật lực được thực hiện thông qua các tiến trình và
thủ tục nhất định để tổ chức đi đúng hướng đạt được các mục tiêu đã đề ra. Việc tổ
chức tốt sẽ là tiền đề cho hoạt động quản lý tại Trung tâm Di sản các nhà khoa học
được hiệu quả.
Xuất phát từ những khái niệm về tổ chức và quản lý nói chung ta có thể hiểu
tổ chức, quản lý tài liệu các nhà khoa học tại Trung tâm là một quá trình từ việc tổ
chức, bố trí nhân sự làm về công tác lưu trữ, việc ban hành các văn bản hướng dẫn
nghiệp vụ đến việc thực hiện các nghiệp vụ lưu trữ để hướng đến mục đích cuối
cùng là tổ chức khai thác, sử dụng những tài liệu lưu trữ đó được hiệu quả nhất và
bảo vệ, bảo quản toàn nhất cho tài liệu.
1.2. Cơ sở pháp lý
Trong quá trình hình thành, phát triển và hoạt động của mình, những năm
qua Trung tâm đã áp dụng một số văn bản của Nhà nước trong việc thực hiện công
tác tổ chức và quản lý TLLT. Cụ thể như sau:
Văn bản quy phạm pháp luật quan trọng đánh dấu sự phát triển và khẳng
định tầm quan trọng của công tác lưu trữ đối với xã hội là Luật Lưu trữ số
01/2011/QH13 được Quốc Hội chính thức thông qua ngày 11 tháng 11 năm 2011
và có hiệu lực từ ngày 01 tháng 7 năm 2012 (sau đây gọi tắt Luật Lưu trữ). Tại
Khoản 1 Điều 5 trong khoản này quy định về quản lý tài liệu của cá nhân: “Những
tài liệu của cá nhân, gia đình, dòng họ (sau gọi chung là cá nhân) có giá trị phục
vụ hoạt động thực tiễn, nghiên cứu khoa học, lịch sử đối với quốc gia, xã hội được
đăng ký vào phông lưu trữ quốc gia Việt Nam“ như phim, ảnh, băng đĩa, công
trình của các nhà khoa học... Tại Khoản 6 Điều 2 của luật này quy định:“Phông
lưu trữ cá nhân là toàn bộ TLLT được hình thành trong quá trình hoạt động của
cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân“.
Điều 4 Luật Lưu trữ năm 2011 đã quy định chính sách của Nhà nước về lưu
trữ:
1. Bảo đảm kinh phí, nguồn nhân lực trong việc bảo vệ, bảo quản an toàn,
tổ chức sử dụng có hiệu quả tài liệu Phông lưu trữ quốc gia Việt Nam.



2. Tập trung hiện đại hóa cơ sở vật chất, kỹ thuật và ứng dụng khoa học,
công nghệ trong hoạt động lưu trữ.
3. Thừa nhận quyền sở hữu đối với tài liệu lưu trữ; khuyến khích tổ chức, cá
nhân hiến tặng, ký gửi, bán tài liệu lưu trữ của mình cho Nhà nước, đóng góp, tài
trợ cho hoạt động lưu trữ và thực hiện hoạt động dịch vụ lưu trữ.
4. Tăng cường mở rộng hợp tác quốc tế trong hoạt động lưu trữ.
Trong đó tại Khoản 3 Điều này“thừa nhận quyền sở hữu đối với TLLT”.
Như vậy, việc tư nhân sở hữu TLLT đã được pháp luật công nhận.
Bên cạnh đó, Khoản 1 Điều 5 Luật Lưu trữ 2011 cũng quy định rõ các loại
tài liệu của cá nhân, gia đình, dòng họ được đăng ký thuộc Phông lưu trữ quốc gia
Việt Nam gồm:
1. Những tài liệu sau đây của cá nhân, gia đình, dòng họ (sau đây gọi chung
là cá nhân) có giá trị phục vụ hoạt động thực tiễn, nghiên cứu khoa học, lịch sử
đối với quốc gia, xã hội được đăng ký thuộc Phông lưu trữ quốc gia Việt Nam:
a) Gia phả, tộc phả, bằng, sắc phong, tài liệu về tiểu sử;
b) Bản thảo viết tay, bản in có bút tích, công trình nghiên cứu khoa học,
sáng tác, thư từ trao đổi;
c) Phim, ảnh; băng, đĩa ghi âm, ghi hình; tài liệu điện tử;
d) Công trình, bài viết về cá nhân;
đ) Ấn phẩm, tài liệu do cá nhân sưu tầm được.
Luật Di sản văn hóa số 28/2001/QH10 ngày 29 tháng 6 năm 2001 của Quốc
hội, có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2001. Theo Khoản 2, Điều 04 của luật
này quy định:“Di sản văn hóa vật thể là sản phẩm vật chất có giá trị lịch sử, văn
hóa, khoa học, bao gồm di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh, di vật, cổ
vật, bảo vật quốc gia”.
Tài liệu về di sản các nhà khoa học cũng là một trong số các di sản văn hóa
vật thể - đó chính là tài liệu về quá trình học tập nghiên cứu khoa học, hoạt động
chuyên môn xã hội hay gắn liền với cuộc sống đời thường của các nhà khoa học.
Di sản bao gồm các hiện vật liên quan đến cuộc đời các nhà khoa học.



Trung tâm được hình thành và quản lý dưới dạng công ty trách nhiệm hữu
hạn một thành viên, trực thuộc Công ty công nghệ và xét nghiệm y học
(MEDLATEC), chịu sự chi phối bởi Luật Doanh nghiệp ngày 26 tháng 11 năm
2014 do Quốc Hội ban hành. Trong luật này, tại Khoản 1, 2 Điều 57 đã quy định
quyền và nghĩa vụ của Hội đồng thành viên:
1.Hội đồng thành viên nhân danh công ty thực hiện các quyền, nghĩa vụ của
chủ sở hữu, cổ đông, thành viên đối với công ty do công ty làm chủ sở hữu hoặc sở
hữu cổ phần, phần vốn góp.
2. Hội đồng thành viên có các quyền và nghĩa vụ sau đây:
a) Quyết định các nội dung theo quy định tại Luật quản lý, sử dụng vốn nhà
nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp;
b) Quyết định thành lập, tổ chức lại, giải thể chi nhánh, văn phòng đại diện
và các đơn vị hạch toán phụ thuộc;
c) Quyết định kế hoạch sản xuất kinh doanh hằng năm, chủ trương phát
triển thị trường, tiếp thị và công nghệ của công ty;
d) Tổ chức hoạt động kiểm toán nội bộ và quyết định thành lập đơn vị kiểm
toán nội bộ của công ty.
đ) Quyền và nghĩa vụ khác theo quy định của Luật này, pháp luật có liên
quan và Điều lệ công ty.
Theo Điều này có thể nhận thấy Hội đồng thành viên có quyền quyết định
các vấn đề quan trọng của Trung tâm như quyết định, định hướng chiến lược phát
triển Trung tâm trong tương lai cũng như là vai trò quan trọng của Hội đồng trong
việc tổ chức, quản lý tài liệu các nhà khoa học từ khi thành lập đến nay.
Căn cứ vào Luật Lưu trữ, Luật Di sản và Luật Doanh nghiệp chính là cơ sở
pháp lý cho hoạt động của Trung tâm nói chung và hoạt động tổ chức, quản lý tài
liệu các nhà khoa học tại Trung tâm nói riêng.
1.3. Cơ sở thực tiễn
1.3.1.Thành phần, nội dung tài liệu của các nhà khoa học tại Trung tâm

Di sản các nhà khoa học Việt Nam
1.3.1.1.Nhóm tài liệu về tiểu sử các nhà khoa học
Nhóm tài liệu về tiểu sử của các các nhà khoa học gồm có: sơ yếu lí lịch, các


giấy tờ tùy thân; sổ tay, hồi ký, nhật ký về tiểu sử, thư từ trao đổi; phim tư liệu về
tiểu sử các nhà khoa học; tài liệu về hoạt động học tập của các nhà khoa học; tài
liệu về quá trình lao động và làm việc của các nhà khoa học.
Ví dụ tài liệu về hoạt động học tập có văn bản hành chính để ông Nguyễn
Văn Nhân bảo vệ Luận án TSKH ở Liên Xô (1985-1987). Đại tá Nguyễn Văn
Nhân (1924-2013) là GS. bác sĩ nổi tiếng của Việt Nam trong lĩnh vực xương và
ghép xương. Ông được coi là cha đẻ của Ngân hàng xương đầu tiên ở Việt Nam.
Bác sĩ Nhân cũng là tác giả của Bộ dụng cụ Kết xương được hoàn thành năm 1960.
Ông còn được xem là một hiện tượng hiếm thấy ở Việt Nam khi bảo vệ luận án TS
khoa học ở tuổi 67 tại Liên Xô.

Hình ảnh 01: Văn bản hành chính để Ông Nguyễn Văn Nhân bảo vệ Luận án
TSKH ở Liên Xô (1985-1987)
Ví dụ về thư từ trao đổi: trong khối 3.000 tài liệu quý của GS Văn Tạo còn
có hơn 700 bức thư của các nhà khoa học như Trần Huy Liệu, Trần Văn Giàu,
Nguyễn Đổng Chi, Minh Tranh… gửi cho ông hay thư của hai vợ chồng ông gửi
cho nhau trong những khoảng thời gian xa cách; hàng trăm bản thảo sách, bản thảo
bài viết, bài viết, giấy tờ, công văn và sách báo. Đây là một khối tài liệu lớn có
nhiều giá trị về mặt khoa học để nghiên cứu không chỉ lịch sử của ngành sử học
Việt Nam, mà cả những vấn đề lịch sử và xã hội của đất nước trong gần 70 năm
qua.
Hay trong tài liệu về quá trình lao động và làm việc của các nhà khoa học có
lá Đơn tình nguyện đi làm chuyên gia ở nước ngoài của PGS.TS Bùi Vạn Trân.



Hình ảnh 02: Bản thảo lá đơn của PGS.TS Bùi Vạn Trân, 1984(Nguồn:
cpd.vn.)
1.3.1.2. Nhóm tài liệu về hoạt động nghiên cứu - sáng tác
Tài liệu về hoạt động nghiên cứu – sáng tác của các cá nhà khoa học bao
gồm bản thảo các tác phẩm văn học, nghệ thuật, công trình nghiên cứu khoa học
trên các lĩnh vực khác nhau của khoa học xã hội và khoa học tự nhiên, các bài viết
được đăng trên báo, tạp chí; các tập bài giảng, các cuốn giáo trình…
Cụ thể những tài liệu về hoạt động nghiên cứu y học của GS. Bác sĩ Tôn
Thất Tùng. Trong một lần phát hiện trong gan của một người bệnh có giun chui ở
các đường mật, ông đã nảy ra ý tưởng dùng những lá gan bị nhiễm giun để phẫu
tích cơ cấu của lá gan. Trong suốt thời gian từ năm 1935 đến năm 1939, chỉ bằng
một con dao nạo thô sơ, ông đã phẫu tích trên 200 lá gan của tử thi để nghiên cứu
các mạch máu và vẽ lại thành các sơ đồ đối chiếu.


Hình ảnh 03: Sơ đồ mạch máu trong lá gan do GS.Bác sĩ Tôn Thất Tùng vẽ
1.3.1.3.Nhóm tài liệu phim ảnh, ghi âm, ghi hình
Đây là những bức ảnh, những đoạn ghi âm, ghi hình của các nhà khoa học
về quá trình sống, học tập và làm việc của mình. Là nguồn sử liệu quý để nghiên
cứu lịch sử các sự kiện hiện tượng hoặc tiểu sử một con người, hay một giai đoạn
lịch sử đã xảy ra trong quá khứ mà các nhà nghiên cứu, các thế hệ sau có thể cảm
nhận một cách chân thực nhất.

Hình ảnh 04: GS-Bác sĩ Nguyễn Trinh Cơ và con trai Nguyễn Nguyên Hân tại
Matxcova, 1965(Nguồn: cpd.vn).
Ví dụ về tài liệu ghi âm có bộ sưu tập với 118 băng ghi âm có tên là “Một
thế kỷ qua những mẩu chuyện đời” là một bộ tư liệu di sản ký ức bằng chính giọng
GS. Văn Tạo nằm trong số 3.000 tài liệu quý mà GS.Văn Tạo đã tặng cho Trung
tâm Di sản các nhà khoa học Việt Nam. 8.000 phút ghi âm đã tái hiện những câu



chuyện về quê hương, về quá trình xây dựng Ban Văn - Sử - Địa và Viện Sử học,
về các nhân vật lịch sử như Trần Huy Liệu, Trần Văn Giáp, Minh Tranh, Nguyễn
Đổng Chi, Trần Đức Thảo, Đào Duy Anh…, về những buổi làm việc với các vị
lãnh đạo nhà nước như Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp….
1.3.1.4.Nhóm tư liệu hiện vật
Trong quá trình sống và làm việc, các nhà khoa học có một số đồ dùng cá
nhân như đồ dùng học tập, nghiên cứu, điện thoại, xe đạp, kính, máy tính, đồng hồ,
vali …đó là các hiện vật có liên quan đến cuộc đời nhà khoa học.

Hình ảnh 05: Các tư liệu hiện vật
1.3.1.5.Nhóm tài liệu các nhà khoa học sưu tầm được
Bên cạnh những tài liệu cá nhân của các nhà khoa khoa học còn có những tài
liệu mà các nhà khoa học sưu tầm được. Ví dụ như ấn phẩm, tài liệu, tranh ảnh,
sách báo…
Trong thành phần tài liệu của các nhà khoa học, một số trường hợp có cả tài
liệu được hình thành sau khi cá nhân ấy đã qua đời như: các bài báo, hồi ký về cá
nhân đó, tài liệu về tổ chức lễ kỷ niệm và xuất bản các tác phẩm của cá nhân đó.
như bài viết: “Tôn Thất Tùng- nhà bác học có tầm cỡ quốc tế” trên Tạp chí sông
Hương, năm 2012. Hay những bài viết của NSND. Đặng Nhật Minh viết về người
cha của mình là GS. Đặng Văn Ngữ.
Qua đó chúng ta thấy được rằng thành phần và nội dung tài liệu của các nhà
khoa học rất đa dạng và phong phú. Tài liệu mà Trung tâm thu thập, sưu tầm dựa


trên ngành, lĩnh vực hoạt động, giai đoạn lịch sử, cuộc đời, sở thích, quan điểm của
chính các nhà khoa học. Sự giữ gìn bảo quản tài liệu của các nhà khoa học hay của
người thân, đồng nghiệp của các nhà khoa học và cả từ sự cố gắng, kiên trì tiếp
cận, nghiên cứu tìm tòi của các cán bộ, nhân viên tại Trung tâm chính là một trong
những yếu tố hình thành nên khối tài liệu được bảo quản tại Trung tâm hiện nay.

1.3.2. Đặc điểm tài liệu của các nhà khoa học
Tài liệu của cá nhân là một loại hình tài liệu lưu trữ, nên có các đặc điểm
chung của tài liệu lưu trữ: nội dung chứa đựng những thông tin quá khứ, phản ánh
quá trình sinh sống, hoạt động của cá nhân cũng như truyền thống của gia đình,
dòng họ; đa dạng về loại hình. Bên cạnh đó, tài liệu cá nhân, gia đình, dòng họ tại
Trung tâm Di sản các nhà khoa học Việt Nam còn có các đặc điểm sau:
Thứ nhất, tài liệu thuộc sở hữu tư nhân
Tài liệu của các nhà khoa học là tài sản riêng thuộc sở hữu tư nhân. Phần lớn
tài liệu của các nhà khoa học được lưu trữ tại gia đình của các nhà khoa học hoặc
được lưu giữ tại gia đình bạn bè hay học trò của các nhà khoa học. Để sưu tầm, bảo
quản khối tài liệu của các nhà khoa học thì Trung tâm phải có các chính sách, biện
pháp để các nhà khoa học, gia đình nhà khoa học tin tưởng và trao tặng tài liệu của
mình cho Trung tâm.
Tài liệu của các nhà khoa học là những tài liệu hình thành trong quá trình
sống và hoạt động của họ. Tài liệu mà Trung tâm đang bảo quản được ra đời từ
những ý tưởng, tư duy sáng tạo của mỗi nhà khoa học, là sở hữu cá nhân của mỗi
nhà khoa học và được bảo hộ theo quy định của pháp luật hiện hành.
Thứ hai, phương thức trình bày thông tin không bị ràng buộc bởi các quy
định của nhà nước.
Nội dung tài liệu của các nhà khoa học trên vật mang tin cũng như những
yếu tố thông tin trên tài liệu không có quy luật nhất định. Mỗi loại tài liệu đều
được hình thành nên theo ý muốn chủ quan của tác giả. Ví dụ các tài liệu như thư
từ trao đổi, nhật ký hay những cuốn sổ ghi chép của các nhà khoa học. Những tài
liệu này được trình bày, ghi chép tùy theo ý muốn, sở thích của các nhà khoa học;
không bị chi phối bởi các quy định của công tác văn thư. Qúa trình hình thành
những tài liệu này thường không lệ thuộc vào bất cứ sự quản lý nào, mà chúng


được tạo nên một cách thầm lặng, tự phát trong sự hoạt động sáng tạo và đời sống
riêng tư của mỗi người

Ví dụ như vở tự học tiếng Đức, Trung và Anh của Đại tá, GS.TS Nguyễn
Thúc Tùng.

Hình ảnh 06: Vở tự học tiếng Đức, Trung và Anh của Đại tá, GS. TS Nguyễn
Thúc Tùng.
Thứ ba, hình thức tài liệu đa dạng, phản ánh đời sống riêng tư, sự cống
hiến và mang dấu ấn riêng của các cá nhân.
Mỗi con người có khả năng tư duy, sáng tạo khác nhau, vì thế mỗi sản phẩm
mà con người tạo ra cũng mang dấu ấn của tác giả làm nên chúng. Tài liệu cá nhân
được lựa chọn để các cá nhân lưu trữ cũng vậy, chúng phụ thuộc vào quan điểm
riêng của từng cá nhân. Ngoài những tài liệu liên quan trực tiếp, gián tiếp đến cá
nhân hoặc do họ tự sáng tạo, còn có những tài liệu khác được sưu tầm và lưu trữ do
sở thích riêng của cá nhân đó. Vì thế, thành phần, nội dung tài liệu được các nhà
khoa học lựa chọn lưu giữ phụ thuộc vào sở thích, nhu cầu, quan điểm riêng của họ
nên rất đa dạng và phong phú.
Nội dung của các tài liệu này mang đặc điểm cá nhân rõ nét bởi xuất phát từ
nhiều yếu tố như sự xuất thân, vị trí trong xã hội, hay nền văn hóa khác nhau. Bên
cạnh đó, mỗi cá nhân cũng có những tính cách riêng biệt, thậm chí dị biệt thể hiện


qua các sản phẩm sáng tạo.
Trung tâm hiện đang bảo quản khối tài liệu của gần 1000 nhà khoa trên
nhiều lĩnh vực như Y học, Toán học, Văn học, Kinh tế học và một số ngành khoa
học khác. Tài liệu xuất xứ cá nhân gồm tài liệu giấy và tài liệu nghe - nhìn. Tài liệu
giấy với nhiều loại giấy như: giấy dó, giấy ô li, giấy A4. Tài liệu nghe - nhìn được
chế tác trên vật liệu là phim ảnh, băng từ. Bên cạnh đó còn cả khối tài liệu điện tử,
đây chủ yếu là những tài liệu được Trung tâm số hóa từ các tài liệu trên nền giấy.
1.3.3. Giá trị tài liệu của các nhà khoa học tại Trung tâm Di sản các nhà
khoa Việt Nam
Cũng giống như các tài liệu khác, tài liệu của các nhà khoa học là một nguồn

tài liệu đặc biệt quan trọng, có giá trị trên nhiều phương diện như chính trị, lịch sử,
kinh tế, văn hóa, xã hội, … tài liệu các nhà khoa học đang bảo quản tại Trung tâm
có giá trị hết sức thiết thực trên nhiều phương diện đối với các nhà quản lý, các nhà
nghiên cứu và người dân có thể khai thác sử dụng cho nhiều mục đích khác nhau.
Xét một cách khái quát tài liệu các nhà khoa học tại Trung tâm có hai giá trị cơ
bản: Giá trị thực tiễn và giá trị lịch sử.
a) Giá trị thực tiễn
Thứ nhất, thông qua những tài liệu được sưu tầm và bảo quản tại Trung tâm,
các độc giả có thể tham quan, tìm hiểu rõ hơn về những thành tựu, đóng góp của
các nhà khoa học mỗi khi đặt chân đến đó. Mỗi tài liệu đều có giá trị vô cùng to
lớn trong việc phục vụ cho nhu cầu thông tin của những người làm nghiên cứu.
Trong đó, nổi bật hơn là những tài liệu về ngành y học. Có thể nói, số tác phẩm của
các nhà y học được sưu tầm, bảo quản tại Trung tâm đang chiếm phần lớn. Đây sẽ
là nguồn tư liệu, nguồn cảm hứng để giúp cho các bác sỹ, những người làm nghiên
cứu có thể khai thác, lấy đó làm động lực để có thêm những ý tưởng mới đạt hiệu
quả cao góp phần phục vụ cho sự phát triển của ngành.


×