Tải bản đầy đủ (.doc) (104 trang)

Mối quan hệ giữa hạnh phúc với đạo đức trong triết học phương tây trước mác và ý nghĩa của nó đối với giáo dục đạo đức ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (439.96 KB, 104 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong bất cứ thời đại nào vấn đề hạnh phúc luôn chiếm vị trí trung tâm
trong đời sống xã hội. Tất cả các tôn giáo đều có mục đích cuối cùng là mưu
cầu hạnh phúc cho con người ở “Thiên đường” hay “Niết bàn” cực lạc. Các
quan điểm thế tục thì mưu cầu hạnh phúc cho con người ở thế giới hiện thực.
Quyền mưu cầu hạnh phúc được ghi trong Tuyên ngôn Độc lập của nước Mỹ,
trong Tuyên ngôn nhân quyền của Cách mạng Pháp. Độc lập, Tự do, Hạnh
phúc là mục đích của chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay, như Hồ Chí Minh
đã từng nói, “nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do thì độc
lập cũng chẳng có nghĩa lý gì” [28, tr 56]. Như vậy đủ thấy hạnh phúc là mục
đích cao nhất của con người. Tuy nhiên, thế nào là hạnh phúc thì trong lịch sử
triết học phương Đông vấn đề này ít được bàn đến. Trái lại, trong lịch sử triết
học phương Tây, các tác giả từ thời cổ đại đến cận đại đều ít nhiều đều bàn
đến phạm trù “hạnh phúc” và chỉ ra mối quan hệ giữa hạnh phúc và đạo đức.
Đối với các nhà triết học phương Tây, đạo đức luôn luôn đi liền với hạnh
phúc, hạnh phúc là một phạm trù của Đạo đức học. Theo Arixtôt (Aristotle),
mục đích trực tiếp của con người không phải là cái hay, cái đẹp mà chính là
hạnh phúc. Hạnh phúc là sự phát triển hoàn toàn đầy đủ các đức tính của một
con người Hạnh phúc đồng nghĩa với đạo đức.
Quan niệm về hạnh phúc của con người có ý nghĩa hết sức quan trọng
trong đời sống tinh thần nói chung và đời sống đạo đức nói riêng. Nó là một
trong những nền tảng giúp con người xây dựng những lý tưởng, mục tiêu, thái
độ sống. Nó cũng là hạt nhân, là thước đo, định hướng để con người thiết lập
các khái niệm thiện, ác, phẩm giá và hàng loạt các khái niệm nhân bản khác.
1
Ở Việt Nam, từ khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, việc gìn giữ và
phát huy các giá trị đạo đức truyền thống cũng như xây dựng hệ giá trị đạo
đức mới đã và đang đặt ra nhiều vấn đề cần phải được giải quyết. Quan niệm
nhân nghĩa của Nho giáo cho rằng hành vi đạo đức (việc nghĩa) đòi hỏi phải
hy sinh lợi ích cá nhân vì hạnh phúc của người khác; “nghĩa” và “lợi” hoàn


toàn đối lập, không thể dung hợp được với nhau đã từng được coi là chân lý
tuyệt đối trong hàng nghìn năm lịch sử. Quan niệm này nếu không được đổi
mới thì không còn phù hợp với điều kiện kinh tế thị trường hiện nay. Ngược
lại, cũng có tình trạng một số không ít người đã chà đạp lên các quy phạm đạo
đức truyền thống để đạt được hạnh phúc cá nhân. Do không am hiểu vấn đề
bản chất của hạnh phúc và mối quan hệ giữa hạnh phúc với đạo đức nên nhiều
người đã suy nghĩ một cách phiến diện rằng đạo đức là hy sinh hạnh phúc của
cá nhân vì hạnh phúc của người khác; còn hạnh phúc của cá nhân thì không
liên quan gì đến vấn đề đạo đức cả. Vì thế, nhiều người đã đặt ra mục tiêu
“vật chất là mục đích của cuộc sống”, thậm chí còn chà đạp lên các quy phạm
đạo đức để đạt được hạnh phúc cá nhân. Chính điều đó đã làm cho họ ngày
càng trượt dốc về phẩm chất đạo đức. Thực tế cho thấy, trong đời sống xã hội
đã có những biểu hiện coi nhẹ những giá trị truyền thống, chạy theo thị hiếu
không lành mạnh, coi thường những giá trị truyền thống của dân tộc, chạy
theo lối sống thực dụng, cá nhân vị kỷ đang gây hại đến thuần phong mỹ
tục. Không ít trường hợp vì đồng tiền và danh dự mà chà đạp lên tình nghĩa
gia đình, đồng chí, đồng nghiệp…
Các nhà triết học phương Tây từ thời cổ đại đã nghiên cứu sâu sắc vấn
đề mối quan hệ giữa hạnh phúc cá nhân và đạo đức xã hội. Đạo đức không
những không mâu thuẫn với hạnh phúc cá nhân, mà còn là một trong những
yếu tố để cá nhân đạt đến hạnh phúc cao nhất. Do vậy, chúng ta cần phải
nghiên cứu vấn đề này để bổ sung cho triết lý phương Đông về đạo đức. Làm
2
rõ mối quan hệ giữa hạnh phúc với đạo đức trong lịch sử triết học phương
Tây trước Mác không chỉ có mục đích hệ thống được những quan niệm trong
lịch sử, mà nó còn có ý nghĩa sâu sắc đối với việc giáo dục về đạo đức, vì để
giáo dục chuẩn mực và hành vi đạo đức, quan niệm đúng đắn về hạnh phúc cá
nhân thì trước hết có một vấn đề quan trọng cần phải được làm rõ, đó là: Tại
sao phải có đạo đức? Đạo đức có liên quan gì đến hạnh phúc? Đây không chỉ
là vấn đề chính trị, đạo đức, mà còn là vấn đề triết học, nó đã đặt ra từ thời cổ

đại và được tranh luận trong suốt lịch sử phát triển của triết học. Tìm hiểu vấn
đề này là việc làm cần thiết để có được quan niệm đúng đắn và hệ thống, bởi
lẽ, đây là vấn đề có ý nghĩa lớn trong việc xác định lẽ sống cho mỗi người,
nhất là đối với việc giáo dục nhân cách cho thế hệ trẻ Việt Nam trong giai
đoạn hiện nay.
Với mục đích làm rõ một cách có hệ thống mối quan hệ giữa hạnh phúc
và đạo đức, góp phần định hướng về giá trị đạo đức cho bản thân mình và cho
xã hội nên tôi chọn đề tài Luận văn của mình “Mối quan hệ giữa hạnh phúc
với đạo đức trong triết học phương Tây trước Mác và ý nghĩa của nó đối
với giáo dục đạo đức ở Việt Nam hiện nay”.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Vấn đề đạo đức và quan niệm về hạnh phúc là một trong những vấn đề
được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm, đặc biệt là vấn đề đạo đức trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Có thể nói rằng, cùng với sự chuyển
đổi cơ chế kinh tế, chúng ta đã và đang phải đối diện với một loạt biến đổi
diễn ra trong lĩnh vực đạo đức. Vì vậy, từ khi nước ta bước vào thời kỳ đổi
mới, vấn đề đạo đức được nhiều tác giả nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác
nhau, nhưng dưới tính chất là những chủ đề nghiên cứu riêng biệt, các phạm
trù riêng lẽ, chưa trở thành hệ thống lý luận về vấn đề trên.
3
Nghiên cứu Phạm trù hạnh phúc và phạm trù đạo đức có một số công
trình, tác phẩm tiêu biểu như:
Đạo đức học, tập 1, 2, của G. Bandzeladze, Nxb Giáo dục, Hà Nội 1985;
Đạo đức học, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Nxb Đại học và Giáo dục chuyên
nghiệp, Hà Nội 1991; Giáo trình Đạo đức học của Khoa Triết học, Học viện
Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, (2000), Nxb Chính trị Quốc gia Hà Nội; Cơ
chế, chuẩn mực đạo đức xã hội và những hành vi đạo đức cá nhân của Đỗ
Huy, Tạp chí triết học 2002; Đạo đức mới - Đạo đức cách mạng từ các cách
tiếp cận khác nhau của Trịnh Duy Huy, Tạp chí Triết học, 2006 ; Một số biểu
hiện sung đột giá trị trong lĩnh vực đạo đức của đời sống xã hội của Nguyễn

Sinh Huy, Tạp chí triết học, 1995; Toàn cầu hóa và nguy cơ suy thoái đạo đức,
lối sống con người Việt Nam hiện nay, của Nguyễn Thị Thanh Huyền, Tạp chí
triết học, số 2 năm 2007; Quan hệ giữa đạo đức và kinh tế trong việc định
hướng các giá trị đạo đức hiện nay, của Nguyễn Thế Kiệt, Tạp chí triết học,
1996; Vấn đề giá trị đạo đức trong đạo đức học Cantơ của Vũ Thị Thu Lan,
Tạp chí triết học, số 5 năm 2006; Đạo đức học - Giáo trình cho các trường Đại
học của Hà Nhật Thăng, Hà Nội, 1997; Bảo vệ giá trị truyền thống dân tộc của
Nguyễn Tài Thư, Tạp chí Cộng sản, số 6 năm 1994.
Về vấn đề đạo đức cách mạng của cán bộ lãnh đạo quản lý có các công
trình nghiên cứu tiêu biểu như: Đạo đức một bộ phận cán bộ quản lý nước ta
hiện nay, thực trạng và giải pháp - Trần Văn Phòng, Tạp chí Thông tin lý
luận số 6, năm 1995; Sự biến đổi của thang giá trị đạo đức trong nền kinh tế
thị trường với việc xây dựng đạo đức mới cho cán bộ quản lý ở nước ta hiện
nay - Nguyễn Chí Mỳ (chủ biên), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999; Ảnh
hưởng của đạo đức phong kiến trong cán bộ lãnh đạo quản lý hiện nay -
Nguyễn Thế Kiệt, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2001; Tác động của kinh
thế thị trường đến đạo đức của người cán bộ lãnh đạo quản lý - Vũ Trọng
4
Dung, Tạp chí triết học số 5, năm 2004; Đạo đức cán bộ lãnh đạo chính trị
hiện nay, thực trạng và giải pháp - Nguyễn Thế Kiệt (chủ biên), Nxb Chính
trị Quốc gia, Hà Nội, 2005.
Tuy nhiên, trong các tác phẩm trên, việc tìm hiểu, nghiên cứu đa phần
chỉ dừng lại ở các phạm trù đạo đức và hạnh phúc chứ không đi sâu vào
nghiên cứu mối quan hệ giữa hạnh phúc với đạo đức một cách có hệ thống.
Nghiên cứu mối quan hệ giữa hạnh phúc và đạo đức trong những năm
gần đây đã được một số nhà nghiên cứu Phật học quan tâm, như: tác phẩm
“Đạo đức Phật Giáo Và Hạnh Phúc Con Người” của Hòa thượng Thích
Minh Châu, Nhà Xuất Bản Tôn giáo Hà Nội, 2002; Bài “Đạo đức và hạnh
phúc” của Hòa Thượng Thích Viên Trí (phatgiaodaichung.com).
Tuy nhiên trong các tác phẩm nói trên, mối quan hệ giữa hạnh phúc và

đạo đức mới chỉ được nghiên cứu ở khía cạnh tôn giáo.
Trên cơ sở tiếp thu, kế thừa những thành tựu đã đạt được của những
người đi trước, Luận văn tiếp tục tìm hiểu, làm rõ vấn đề này, góp phần vào
việc giáo dục, định hướng đạo đức cho người Việt Nam hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích của luận văn
Nghiên cứu các quan niệm trong lịch sử triết học phương Tây trước
Mác về mối quan hệ giữa hạnh phúc với đạo đức để từ đó làm rõ tính tất yếu,
nêu ra những định hướng và đề ra những giải pháp nhằm góp phần vào việc
giáo dục quan niệm về hạnh phúc phù hợp với giá trị đạo đức trong điều kiện
kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn: Để đạt được mục đích nêu trên, luận văn
tập trung vào thực hiện các nhiệm sau:
5
1) Làm rõ các khái niệm “đạo đức”, “hạnh phúc”. Phân tích các quan
niệm của các nhà triết học phương Tây trước Mác về hạnh phúc và mối quan
hệ giữa hạnh phúc với đạo đức để chứng minh rằng đạo đức là con đường tất
yếu để đi đến hạnh phúc.
2) Kế thừa có phê phán những nội dung về mối quan hệ giữa hạnh phúc
với đạo đức trong lịch sử triết học phương Tây trước Mác dưới ánh sáng của
triết học Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh để nêu ra những định hướng và
giải pháp trong việc giáo dục quan niệm về hạnh phúc phù hợp với giá trị đạo
đức trong điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
Để thực hiện cho việc nghiên cứu của luận văn, người thực hiện dựa trên
cơ sở lý luận của triết học Mác - Lênin và đường lối xây dựng phát triển con
người Việt Nam của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh làm cơ sở xem xét,
đánh giá để rút ra những kết luận về nội dung nghiên cứu.
Về phương pháp nghiên cứu: Luận văn dựa trên cơ sở phương pháp luận
của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; Vận dụng các

nguyên tắc phương pháp luận của phép biện chứng duy vật. Bên cạnh đó,
trong quá trình thực hiện luận văn, người thực hiện còn sử dụng một số
phương pháp khác như: phương pháp lịch sử - logic, phương pháp phân tích
và tổng hợp, phương pháp quy nạp và diễn dịch, phương pháp so sánh - đối
chiếu để nghiên cứu.
5. Phạm vi nghiên cứu của luận văn
Vì đây là một vấn đề có phạm vi rộng nên trong khuôn khổ của một luận
văn mang tính chuyên ngành, người thực hiện chỉ giới hạn đối tượng nghiên
cứu của đề tài nằm trong lịch sử triết học trước Mác, từ triết học Hy Lạp - La
Mã cổ đại đến triết học Cổ diển Đức. Từ đó làm rõ một số quan niệm về mối
quan hệ giữa hạnh phúc với đạo đức trong lịch sử triết học phương Tây và nội
6
dung cơ bản của vấn đề trên đối với giáo dục quan niệm về hạnh phúc phù
hợp với đạo đức ở Việt Nam hiện nay.
Để chứng minh quan điểm của triết học phương Tây về mối quan hệ
giữa hạnh phúc với đạo đức là có tính tất yếu và phổ biến, Luận văn có so
sánh với quan điểm phương Đông (ví dụ, với quan điểm của Khổng Tử). Để
đánh giá và bổ sung, hoàn thiện các quan điểm phương Tây về hạnh phúc và
đạo đức, Luận văn đứng trên quan điểm thế giới quan và phương pháp luận
của chủ nghĩa Mác-Lênin. Tuy nhiên, trọng tâm của Luận văn là triết học
phương Tây trước Mác, các trích dẫn khác chỉ là để so sánh, đối chiếu hoặc
làm cơ sở để phân tích, đánh giá mà thôi.
Luận văn không bàn đến vấn đề giáo dục đạo đức và hạnh phúc nói
chung vì đây là một vấn đề rất rộng. Luận văn chỉ vận dụng quan điểm triết
học phương Tây trước Mác để định hướng việc giáo dục quan niệm về hạnh
phúc phù hợp với đạo đức, khắc phục những quan niệm sai trái nảy sinh và
phát triển trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay là mưu cầu hạnh phúc cá
nhân bằng bất cứ giá nào, bất chấp giá trị đạo đức.
6. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của luận văn
Đề tài đã góp phần hệ thống hóa lý luận về mối quan hệ giữa hạnh phúc

và đạo đức ttrong lịch sử triết học phương Tây trước Mác cũng như những
quan niệm cơ bản về đạo đức trong lịch sử triết học phương Tây trước Mác.
Từ vấn đề lý luận trong lịch sử triết học, luận văn đã rút ra những vấn đề
có ý nghĩa giáo dục định hướng trong xây dựng và phát triển con người Việt
Nam hiện nay.
Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu tư tưởng
triết học trước Mác về hạnh phúc và đạo đức, là một bộ phận rất quan trọng
trong Lịch sử triết học. Nghiên cứu và nắm vững mối quan hệ này sẽ góp
phần làm tăng thêm tính thuyết phục cho việc giảng dạy về đạo đức.
7
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
có nội dung chính gồm 2 chương (5 tiết).
8
NỘI DUNG
Chương 1
QUAN NIỆM VỀ HẠNH PHÚC VÀ MỐI QUAN HỆ
GIỮA HẠNH PHÚC VỚI ĐẠO ĐỨC TRONG LỊCH SỬ
TRIẾT HỌC PHƯƠNG TÂY TRƯỚC MÁC
Trước khi đi sâu nghiên cứu các quan điểm cụ thể của các nhà triết học
phương Tây trước Mác về hạnh phúc và mối quan hệ giữa hạnh phúc với đạo
đức, chúng ta cần làm rõ khái niệm “đạo đức”, khái niệm “hạnh phúc” và mối
quan hệ giữa hai khái niệm này trong triết học nói chung cũng như trong đạo
đức học nói riêng.
1.1. Khái niệm về đạo đức, hạnh phúc và mối quan hệ giữa hạnh
phúc với đạo đức
1.1.1. Khái niệm đạo đức
Thuật ngữ “đạo đức” trong ngôn ngữ phương Tây (thí dụ, ethics hay
morality trong tiếng Anh) xuất phát từ “ethos” trong tiếng Hy lạp và “mores”
trong tiếng Latinh đều có nghĩa là “tập tục”. Gắn với sự ra đời của Triết học

(philosophia) là sự hình thành Đạo đức học (tiếng Hy Lạp: ethikos, tiếng
latin: ethicus hay ethica) với tư cách là lý luận về đạo đức ra đời từ thời Hy
Lạp cổ đại, khoảng thế kỷ thứ VIII (TrCN).
Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, là hệ thống các quan niệm,
nguyên tắc, chuẩn mực của một giai cấp, dân tộc có tác dụng điều chỉnh hành
vi cá nhân phù hợp với lợi ích tập thể, xã hội nhằm đảm bảo sự tồn tại của
cộng đồng xã hội.
Ý nghĩa triết học của thuật ngữ đạo đức nó bao quát một phạm vi rộng
lớn, là mối quan hệ giữa con người với con người, là cung cách ứng xử của
9
con người trong đời sống xã hội, là đạo làm người trong đời sống. Mối quan
hệ giữa con người với con người, từ góc độ đạo đức, được đồng nghĩa với cái
thiện. Thiện là hành vi tốt đẹp của con người đưa lại lợi ích cho người khác và
cho toàn xã hội. Nếu làm trái với quan hệ đạo đức tốt đẹp, tức là đối lập với
cái thiện, sẽ là cái ác. Nhận thức đúng thế giới khách quan, thể hiện lý tính
cao cả trong nhận thức, tư duy để hoạt động thực tiễn có hiệu quả, thúc đẩy sự
phát triển của lịch sử, xã hội, đó là đạo đức. Ngược lại, nếu nhận thức sai lầm,
phi khoa học, hạ thấp lý trí anh minh của con người, kéo lùi sự phát triển của
lịch sử, đó là vô đạo đức. Hành vi tốt đẹp đem lại niềm vui và sự bình yên cho
con người là có đạo đức. Hành vi gây ra hiệu quả xấu cho con người, đem đến
cho con người cái ác và sự khổ đau, là đối lập với đạo đức.
Đạo đức không chỉ là ý thức mà còn là quan hệ xã hội, hành vi, lối sống
của con người trong xã hội. Trung tâm của đạo đức là “cái thiện” (cái tốt), đối
lập với cái thiện là “cái ác” (cái xấu). Phạm trù “cái thiện” được cụ thể hóa
trong một số khái niệm khác như “lương tâm”, “danh dự”, “công bằng”,
“nghĩa vụ”, “hạnh phúc”, v.v Người sống có lương tâm, có nghĩa vụ đối với
gia đình và xã hội, đối xử công bằng với mọi người là người “thiện”. Trái lại,
người không có lương tâm, không biết trọng danh dự, không có ý thức nghĩa
vụ, không công chính là người ác, người xấu. Người thiện là người luôn luôn
tìm cách đem lại hạnh phúc cho người khác. Người ác thì luôn luôn tìm cách

chà đạp lên hạnh phúc của người khác.
Tuy nhiên, thế nào là thiện, ác, danh dự, nghĩa vụ, lương tâm, hạnh
phúc, ngoài yếu tố khách quan, còn phụ thuộc vào sự đánh giá chủ quan
nữa. Do vậy, đạo đức ngoài tính khách quan, còn mang tính chất lịch sử, giai
cấp, dân tộc.
Tính lịch sử của đạo đức thể hiện ở chỗ: trong các học thuyết về đạo đức,
có học thuyết chỉ có giá trị thúc đẩy tiến bộ xã hội ở một thời điểm nhất định
10
nào đó, nhưng cũng có những học thuyết đạo đức có thể có giá trị lâu dài đối
với sự phát triển xã hội.
Trong xã hội có giai cấp, đạo đức mang tính giai cấp. Mỗi giai cấp đều
có đạo đức riêng, phản ánh những quan hệ thực tiễn đang làm cơ sở cho vị trí
giai cấp của mình, tức là những quan hệ kinh tế mà trong đó, người ta tiến
hành sản xuất và trao đổi.
Tuy nhiên, thông qua tính lịch sử và tính giai cấp của đạo đức, người ta
tìm thấy những giá trị đạo đức tương đối bền vững có tính phổ biến cho một
dân tộc, thậm chí cho cả nhân loại trong mọi thời kỳ lịch sử.
Giá trị đạo đức bao gồm những quan niệm, nguyên tắc, chuẩn mực đạo
đức phù hợp với quy luật khách quan của tồn tại xã hội, có ý nghĩa thiết thực
đối với sự tồn tại, phát triển và hạnh phúc của cộng đồng xã hội, được toàn
thể cộng đồng đánh giá, chấp nhận và tự giác tuân theo.
Giá trị đạo đức cũng không phải là những cái vĩnh viễn, bất di bất dịch,
tuy nhiên nó có tính lâu dài hơn so với những quan niệm đạo đức thông
thường.
Vì vậy, đạo đức là biểu hiện mối quan hệ giữa người với người trong xã
hội, thể hiện từ ý thức đạo đức tới hành vi đạo đức. Theo nghĩa hẹp, đạo đức
thể hiện mặt hành vi, thái độ, cách ứng xử, từ nhận thức tới hành động của
con người. Theo nghĩa rộng, đạo đức bao hàm cả những yếu tố thuộc về quan
hệ xã hội, nền tảng kinh tế, hoàn cảnh, điều kiện lịch sử để dẫn tới sự chi phối
nhận thức và hành động của con người trong đời sống xã hội.

Từ góc độ mối quan hệ cá nhân và xã hội, đạo đức vừa thể hiện tính phổ
biến của quan hệ xã hội, có ý nghĩa định hướng, dẫn dắt và làm chuẩn mực
cho nhận thức và hành động cá nhân; lại vừa thể hiện tính cụ thể, riêng biệt,
xuất phát bởi cá nhân sống trong hoàn cảnh, điều kiện nhất định. Có thể nói,
quan hệ đạo đức của con người trong đời sống xã hội là sự thể hiện mối quan
11
hệ hài hòa, thống nhất giữa yếu tố cá nhân và yếu tố xã hội, vừa thống nhất,
vừa đối lập, vừa khẳng định, vừa phủ định. Điều đó làm cho quan hệ đạo đức
đa dạng, phức tạp và không thể nhận thức đầy đủ nếu bằng góc độ nhận thức
của tư duy siêu hình, mà phải bằng tư duy biện chứng thì mới nhận thức đúng
đắn quan hệ đạo đức.
Từ thực tiễn đạo đức, dẫn tới sự ra đời của lý luận về đạo đức, với tư
cách là sự phản ánh hiện thực khách quan các quan hệ đạo đức trong xã hội
loài người.
Một quan niệm khác thì coi:
Đạo đức là một phương thức điều chỉnh hành vi con người trong
mọi lĩnh vực của đời sống xã hội; đồng thời là một hệ thống những giá trị,
nguyên tắc, chuẩn mực biểu thị sự quan tâm tự nguyện tự giác của con người
với con người, con người với xã hội [36, tr 2].
- Chức năng của đạo đức:
Vấn đề đặt ra: đạo đức với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, có
những chức năng, vai trò gì trong đời sống con người? Có thể khẳng định các
chức năng cơ bản của đạo đức sau đây:
Chức năng giáo dục là chức năng quan trọng nhất của đạo đức. Thông
qua ý thức đạo đức và thực tiễn đạo đức, những giá trị đạo đức tốt đẹp sẽ
được truyền bá, học tập, trở thành biểu tượng mang ý nghĩa giáo dục cao đẹp.
Bản thân giá trị đạo đức (trong hành vi và ý thức) vừa tự giáo dục chủ thể,
vừa hướng đến khách thể (con người, xã hội) để giáo dục. Vì vậy, giá trị đạo
đức từ góc độ bản chất, là giá trị giáo dục đạo đức tốt đẹp cho con người
trong đời sống xã hội.

Đạo đức cũng thể hiện chức năng điều chỉnh hành vi. Muốn cho sự phát
triển của xã hội và con người trong xã hội đó đúng hướng và ngày càng tốt
đẹp, tất yếu phải có hệ thống các nguyên tắc, quy tắc chuẩn mực để điều
12
chỉnh hành vi con người. Thông qua các quan hệ trung gian, trực tiếp hoặc
gián tiếp như pháp luật, văn học, nghệ thuật, truyền thống, tôn giáo mà đạo
đức chuyển hóa thành các yêu cầu chuẩn mực để định hướng hành vi. Phương
thức điều chỉnh hành vi của đạo đức không phải bằng sự áp đặt, bắt buộc, mà
bằng ý thức tự giác của chủ thể để điều chỉnh hành vi đạo đức.
Chức năng định hướng giá trị của đạo đức xuất phát từ chức năng giáo dục
và chức năng điều chỉnh hành vi. Định hướng giá trị trên cơ sở lựa chọn các giá
trị đạo đức phù hợp để tự giác nhận thức và hành động đúng. Định hướng giá trị
phải trên cơ sở giá trị học, nghĩa là phải xác định được nội hàm của hệ thống
phạm trù, khái niệm các giá trị đạo đức như thiện, ác, đúng, sai, cao thượng, thấp
hèn, lương tâm, vô lương tâm, hạnh phúc, bất hạnh để từ đó lựa chọn giá trị tối
ưu nhất trong các thang bậc giá trị. Định hướng giá trị bao hàm 2 quá trình: nhận
thức đúng và hành động đúng. Chỉ nhận thức đúng mà không hành động hoặc
hành động không đúng thì yếu tố định hướng giá trị không có kết quả.
Chức năng nhận thức, dù không phải là đặc trưng cơ bản nhất của giá trị
đạo đức, nhưng cũng không thể xem nhẹ chức năng này. Chức năng nhận
thức biểu hiện ở chủ thể nhận thức đó nắm bắt tính quy luật của các quan hệ
đạo đức như thế nào? Phân biệt được yếu tố giá trị và phản giá trị, xác lập
được mối quan hệ nhận thức giữa chân lý và sai lầm, thấy được vai trò, tác
động của các quan hệ đạo đức đối với con người. Có thể nói, nhận thức quy
luật của đạo đức trong đời sống xã hội là yêu cầu có ý nghĩa quyết định của
chức năng nhận thức.
Các chức năng trên có mối quan hệ thống nhất, không tách rời. Trong
đó, chức năng giáo dục là mục đích, các chức năng khác có vai trò là điều
kiện, phương pháp, cách thức để chủ thể đạo đức có thể xác lập các yếu tố
hiện thực và phù hợp, có kết quả cho quá trình giáo dục đạo đức con người.

- Mối quan hệ giữa đạo đức với các hình thái ý thức xã hội khác.
13
Mối quan hệ giữa đạo đức với chính trị
Đạo đức với chính trị, cũng như các hình thái ý thức xã hội khác, không
phải tách rời nhau, mà có mối liên hệ với nhau. Lịch sử xuất hiện của đạo đức
sớm hơn chính trị. Khi con người xuất hiện và dựa vào nhau để tồn tại, đạo
đức cũng bắt đầu hình thành. Nhưng chính trị xuất hiện muộn hơn, phải đến
lúc xã hội phân chia giai cấp thì chính trị mới ra đời. Đạo đức và chính trị đều
bị quyết định bởi quan hệ kinh tế trong xã hội. Nếu đạo đức có những giá trị
mang tính phổ biến, mặc dù vẫn bị chi phối bởi quan hệ giai cấp, như lòng
nhân ái, chủ nghĩa nhân đạo, những giá trị như bình đẳng, tự do thì chính trị
là biểu hiện tập trung nhất của quan hệ lợi ích giai cấp trong xã hội. Một nền
chính trị tiến bộ sẽ chứa đựng các giá trị đạo đức tốt đẹp, và ngược lại, nền
chính trị bị tha hóa bởi giai cấp thống trị đối lập với lợi ích của quần chúng
nhân dân thì sẽ chứa đựng giá trị phản đạo đức. Chính trị là điều kiện để hình
thành và phát triển các giá trị đạo đức trong mối quan hệ tương ứng với nhau.
Sự phát triển của lịch sử xã hội tất yếu sẽ dẫn tới một giai đoạn tương lai mà
chính trị và quan hệ giai cấp không còn tồn tại, nhưng đạo đức con người
trong đời sống xã hội thì vẫn tồn tại vĩnh viễn. Cho nên, đạo đức là phạm trù
mang tính vĩnh viễn, còn chính trị là phạm trù mang tính lịch sử.
Mối quan hệ giữa đạo đức với pháp luật
Giữa đạo đức và pháp luật cũng có mối liện hệ với nhau. Đạo đức xuất
hiện cùng với sự xuất hiện của con người, còn pháp luật chỉ ra đời khi xã hội
đã phân chia giai cấp.
Mặc dù đều có vai trò và chức năng điều chỉnh hành vi con người và
giáo dục con người, nhưng phương thức điều chỉnh giữa đạo đức và pháp luật
khác nhau căn bản. Đạo đức điều chỉnh hành vi, giáo dục con người thông
qua sự tự nhận thức về ý thức đạo đức và hành vi đạo đức để tự điều chỉnh
quan hệ cá nhân với xã hội. Đồng thời, thông qua dư luận xã hội để tự điều
14

chỉnh. Do vậy, tính tự giác, yếu tố nhân văn để điều chỉnh hành vi đạo đức là
một đặc trưng nổi bật của đạo đức. Đối với pháp luật, thông qua bộ máy
cưỡng chế của Nhà nước và các văn bản pháp luật, để bắt con người thực hiện
các nghĩa vụ của công dân trong xã hội. Phương pháp điều chỉnh đó bắt buộc
tất cả mọi người phải thực thi pháp luật, dù pháp luật đó đúng hay sai, phù
hợp hay không phù hợp với lợi ích của mình. Đạo đức điều chỉnh hành vi con
người từ tối thiểu đến tối đa, còn pháp luật điều chỉnh hành vi tối thiểu, đúng
như yêu cầu của pháp luật. Trong mối quan hệ tương ứng, hệ thống pháp luật
tiến bộ sẽ là điều kiện để hình thành và phát triển các quan hệ đạo đức tốt đẹp.
Ngược lại, hệ thống pháp luật đi ngược lại lợi ích con người cũng là yếu tố
làm cho các giá trị đạo đức tốt đẹp bị tha hóa, không có điều kiện để tồn tại và
phát triển.
Mối quan hệ giữa đạo đức và tôn giáo
Đạo đức và tôn giáo đều có nguồn gốc hình thành từ trong đời sống xã
hội, từ sự ước mong thoát khỏi đời sống khổ đau, vì một cuộc sống tương lai
tốt đẹp. Hướng tới hạnh phúc và những điều tốt đẹp trong đời sống con người
là ước mơ chung, mong muốn chung để con người ngày càng tự do, đều thể
hiện trong lý thuyết đạo đức và tôn giáo.
Ngược lại, dù là những mong muốn tốt đẹp, nhưng tôn giáo hướng tới
hạnh phúc siêu thoát ở thế giới thiên đường. Hạnh phúc thật sự của đời người
chỉ có thể đạt được giá trị tuyệt đối ở thế giới vĩnh hằng, Niết bàn của phật
giáo, thiên đường của Kitô giáo Con đường và phương pháp để đạt được
hạnh phúc phải thông qua sự rèn luyện, tu dưỡng đạo đức thuần túy (không
hoạt động thực tiễn, không đấu tranh giai cấp ), nghĩa là bằng sự tu dưỡng
rèn luyện trong tâm tưởng, trong ý thức để đạt đến giá trị đạo đức tôn giáo.
Cho nên, phương pháp rèn luyện của tôn giáo mang tính chất duy tâm, siêu
hình. Rõ ràng, rất khó để chuyển hóa từ ước mơ đến hiện thực trong lý thuyết
15
đạo đức của tôn giáo. Vì vậy, dù có những yếu tố giống nhau như mục đích
của cuộc sống, khuyên con người làm điều thiện, tránh điều ác, nhưng đạo

đức với tính cách là một hình thái ý thức xã hội, và tôn giáo là một hình thái ý
thức xã hội siêu thoát, là khác nhau về bản chất.
1.1.2. Khái niệm “hạnh phúc” và mối quan hệ giữa khái niệm hạnh
phúc với khái niệm đạo đức
Lịch sử đạo đức học quan niệm về hạnh phúc với nhiều nội dung đa
dạng, phong phú khác nhau. Có quan niệm cho rằng “hạnh phúc là sự thỏa
mãn nhu cầu vật chất như ăn, mặc, ở, đi lại, tiện nghi sinh hoạt của con
người”. Có quan niệm nhấn mạnh “hạnh phúc là sự thỏa mãn nhu cầu vật chất
và tinh thần của con người”. Cũng có quan niệm phủ nhận hạnh phúc trên trần
thế, trong thế giới hiện thực, con người không thể có hạnh phúc mà chỉ có khổ
đau. Hạnh phúc thực sự của con người “chỉ đạt được khi về với thế giới vĩnh
hằng” [24, tr 106 - 107]
Hạnh phúc là mục đích cao nhất và suy cho cùng của con người. Tất cả
các trường phái triết học, các hệ tư tưởng chính trị đều thống nhất với nhau ở
điểm này. Các tôn giáo cũng đều có mục đích mưu cầu hạnh phúc, mặc dù
mang tính chất ảo tưởng. Hòa thượng Thích Minh Châu trong bài “Đạo đức
và hạnh phúc của con người” đã trích lời Đức Phật và khẳng định: “Này các
tỷ - kheo, xưa cũng như nay Ta chỉ nói nên sự khổ và diệt khổ” [7, tr 140]…
Những lời tuyên bố trên của đức Phật nêu rõ hoài bão tha thiết của Ngài là
cứu khổ độ sanh, diệt khổ ưu, đem lại hỷ lạc cho tất cả loài hữu tình. Và như
vậy chúng ta có thể định nghĩa, đạo đức Phật giáo là một nếp sống đem lại
hạnh phúc và an lạc cho mọi loài chúng sinh, đặc biệt là loài người chúng ta.
[39]
Tuy nhiên, ở các trường phái triết học, chính trị. tôn giáo có sự khác
nhau rất sâu sắc về thế nào là hạnh phúc và con đường mưu cầu hạnh phúc.
16
Do đó, không có một định nghĩa thống nhất cho khái niệm hạnh phúc. Tuy
nhiên, thông qua việc nghiên cứu những quan niệm khác nhau về hạnh phúc,
chúng ta có thể rút ra một số đặc trưng chung:
- Hạnh phúc là một trạng thái thỏa mái trong tâm lý và tư tưởng của cá

nhân, do được thỏa mãn những nhu cầu vật chất và tinh thần và do không bị
chi phối bở sự lo âu, sợ hãi, phiền muộn, hối hận, đau khổ.
- Hạnh phúc có tính khách quan ở sự thỏa mãn những nhu cầu vật chất
và tinh thần nhất định, thí dụ một người nghèo đói, bệnh tật, thất bại trong
tình yêu, hôn nhân thì không thể có hạnh phúc được.
- Tuy nhiên, hạnh phúc cũng có mặt chủ quan, thể hiện ở sự cảm nhận
chủ quan của mỗi người. Có người mặc dù sống trong sự đầy đủ nhưng vẫn
cảm thấy bất hạnh và đi tìm sự giải thoát bằng cách tự tử hoặc sự quên lãng
trong ma túy. Yếu tố chủ quan nhiều khi giữ vai trò quyết định cuối cùng
trong việc cảm nhận hạnh phúc. Do nhận thức và cảm nhận không đúng nên ở
nhiều người, hạnh phúc hay bất hạnh mà họ cảm nhận được chỉ là ảo tưởng,
không có tính thực tại. Ví dụ, những khoái cảm vật chất như ăn uống, tình
dục, nhà cao cửa rộng, vợ đẹp con xinh, .v.v., mà người đời thường cho là
những yếu tố của hạnh phúc thì đối với Phật giáo chỉ là những cái ảo, cái giả.
Trái lại. đối với Phật giáo, hạnh phúc chân chính chỉ có ở Niết bàn cực lạc, cái
mà đối với người vô thần thì không có tính thực tại vì không có gì làm bằng
chứng cả về sự tồn tại của nó.
Như vậy, sự khác nhau trong quan niệm về hạnh phúc thường thể hiện ở
quan niệm về vai trò của các yếu tố vật chất và tinh thần trong hạnh phúc.
Những người theo chủ nghĩa khoái lạc thô thiển đi tìm hạnh phúc ở sự thỏa
mãn những nhu cầu xác thịt như ăn uống, tình dục. Những người theo chủ
nghĩa khổ hạnh thì coi khinh những nhu cầu đó. Những người theo chủ nghĩa
vị kỷ cho rằng hạnh phúc là sự thỏa mãn những nhu cầu cá nhân. Trái lại
17
những người theo chủ nghĩa vị tha đi tìm hạnh phúc trong quan hệ với người
khác, với cộng đồng. Những tín đồ tôn giáo đi tìm hạnh phúc ở kiếp sau, thế
giới bên kia. Những người vô thần mưu cầu hạnh phúc trong cuộc sống thực
tại.
Về con đường và phương tiện mưu cầu hạnh phúc cũng thể hiện sự đối
lập giữa các quan điểm. Có người coi sự giàu có, tiền bạc là phương tiện

quyết định nên họ tìm cách kiếm tiền bằng bất cứ giá nào. Những người khác
mưu cầu hạnh phúc bằng con đường tu luyện được giải thoát khỏi những ràng
buộc vật chất đó.
Theo quan điểm triết học Mác-Lênin, hạnh phúc của con người trước hết
cũng phải là hạnh phúc của những cá nhân con người đang sống. Mọi quan
niệm, tiêu chuẩn về hạnh phúc do xã hội đặt ra nếu không phù hợp với nhu
cầu hạnh phúc của cá nhân thì mãi mãi chỉ là những lý tưởng thuần túy. Tuy
nhiên, hạnh phúc cá nhân không thể tách rời hạnh phúc của cộng đồng; bởi vì,
“Chỉ có trong đời sống cộng đồng cá nhân mới có được những phương tiện để
có thể phát triển toàn diện những năng khiếu của mình và do đó, chỉ có trong
cộng đồng mới có thể có tự do cá nhân” [38, tr 108].
Hạnh phúc của cá nhân không chỉ thể hiện ở việc thỏa mãn nhu cầu, đạt
được mục đích, mà là một quá trình con người không ngừng phấn đấu, từ chỗ
đặt ra mục đích, vạch kế hoạch, tìm kiếm phương tiện, đến việc phấn đấu thực
hiện và đạt được những mục đích đó. Khi con người thỏa mãn được một nhu
cầu, đạt được một mục đích nào đó thì cảm thấy hạnh phúc, tuy nhiên nếu
dừng lại ở đó, khoái cảm hạnh phúc cũng sẽ dần dần mất đi ý nghĩa của nó.
Hơn nữa, con người cảm thấy hạnh phúc ngay trong quá trình thực hiện chứ
không phải đợi đến khi đã đạt được mục đích đó. Điều bất hạnh nhất đối với
con người là thiếu mục đích, thiếu lý tưởng, không có gì để phấn đấu trong
18
cuộc sống. Điều này giải thích tại sao nhiều thanh niên nam nữ xuất thân từ
gia đình giàu có nhưng chán sống.
Trong triết học nói chung và triết học Mác-Lênin nói riêng, hạnh phúc là
một phạm trù triết học. Hạnh phúc là mục đích cao nhất mà xã hội loài người
hướng tới. Hạnh phúc với tư cách là một phạm trù triết học thì được hiểu theo
nghĩa rộng nhất, được thực hiện bằng nhiều con đường, phương tiện, như
kinh tế, chính trị, đạo đức. Kinh tế chính trị học Mác-Lênin vạch ra tính chất
bóc lột, bất công trong phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, sự tha hóa, bất
hạnh của người lao động trong phương thức sản xuất đó để rồi định hướng

cho việc xây dựng một phương thức sản xuất mới nhằm đạt đến hạnh phúc
toàn diện cho con người.
Trong lĩnh vực chính trị, mục đích cao nhất của con người cộng sản là sự
phát triển tự do, toàn diện và hạnh phúc của mọi cá nhân trong một cộng đồng
xã hội giàu mạnh, văn minh, hài hòa. Độc lập, tự do, hạnh phúc những là mục
tiêu của cách mạng trong thuyết “Tam dân” của Tôn Trung Sơn và được Chủ
tịch Hồ Chí Minh áp dụng vào cách mạng Việt Nam.
Nhưng, như Hồ Chí Minh đã vạch ra, hạnh phúc mới là mục đích
cao nhất và cuối cùng. Giành độc lập dân tộc để nhân dân được tự do, nhân
dân được tự do là để nhân dân được hạnh phúc. Nếu một nước có độc lập mà
dân không được hưởng tự do hạnh phúc thì độc lập chẳng có ý nghĩa gì cả
[28, tr 54].
Hạnh phúc ngoài lĩnh vực kinh tế và chính trị còn được thể hiện trong
lĩnh vực đạo đức. Trong đạo đức học Mác-Lênin, hạnh phúc được coi là một
phạm trù cơ bản, ngoài phạm trù trung tâm là thiện – ác và bên cạnh các
phạm trù cơ bản khác như lương tâm, nghĩa vụ, vinh dự. Hạnh phúc có một
vị trí quan trọng trong đạo đức, vì hạnh phúc là mục đích của đạo đức. Vì sao
19
chúng ta phải sống có đạo đức? Đây là một câu hỏi mà nếu không được trả lời
một cách thỏa đáng thì việc giáo dục đạo đức sẽ không có tác dụng.
Trong một giáo trình triết học ở Mỹ, GS. TS. T.Z. Lavine viết:
Có phải đôi khi bạn hỏi, tại sao tôi phải có đạo đức? Bạn có nhận
thấy rằng trong số những người mà bạn biết thì những người đúng đắn và
lương thiện phải gánh chịu đủ loại đau khổ, phải sống cuộc đời thất bại và
tuyệt vọng; còn những kẻ ích kỷ, lừa đảo thì thường phát đạt và hạnh phúc?
Vậy thì tại sao lại không sống cuộc đời của kẻ ăn chơi trong đó cái tốt nhất là
lạc thú, cuộc đời chìm ngập trong khoái lạc, trong ăn uống, tình dục, thuốc
phiện, ngủ và tất cả những kích thích của cơ thể. Tuy nhiên nếu cuộc sống
khoái lạc không thể biện minh như là điều tốt nhất, vậy thì cái gì là điều tốt
nhất đáng phải sống, đáng phải tranh đấu? [45, p.2].

Các tôn giáo đều nêu rõ: đạo là con đường để đạt được sự giải thoát và
hạnh phúc ở kiếp sau, thế giới bên kia. Thí dụ, “Bát chính đạo” của Phật giáo.
Kitô giáo, Hồi giáo đều cho rằng sống đạo đức là một yếu tố để được lên
Thiên đường. Các quan điểm triết học thì có cách giải thích phức tạp hơn,
chúng ta sẽ nghiên cứu kỹ trong tiết sau.
Như vậy, xét ở góc độ triết học, hạnh phúc và đạo đức không trùng nhau.
Hạnh phúc không phải là bộ phận nằm hoàn toàn trong đạo đức, vì nó còn có
yếu tố kinh tế, chính trị, văn hóa, văn minh… nữa. Khi người ta nói rằng hạnh
phúc là một phạm trù của đạo đức học thì người ta đứng ở góc độ đạo đức học
để xem xét, chứ không phải ở góc độ triết học. Trong triết học, có nhiều quan
điểm coi hạnh phúc là mục đích cao nhất; đạo đức là một yếu tố của hạnh
phúc, là một con đường để đạt đến hạnh phúc. Như vậy có thể nói hạnh phúc
và đạo đức là hai khái niệm giao nhau chứ không phải là hai khái niệm bao
hàm nhau. Đạo đức và hạnh phúc có một phần chung với nhau là điều không
20
có gì nghi ngờ. Nhưng các phần còn lại có quan hệ khắng khít với nhau như
thế nào là vấn đề phức tạp cần phải được xem xét kỹ.
Trong đạo đức học, hạnh phúc thể hiện mục đích của đạo đức. Phạm trù
hạnh phúc có vai trò định hướng lý tưởng, mục đích của cuộc sống, xác lập
các mối quan hệ để chủ thể hành động thực tiễn, nhằm thực hiện hạnh phúc
con người. Đồng thời, phạm trù hạnh phúc cũng có vai trò điều chỉnh nội
dung và phương thức hoạt động thực tiễn để xây dựng, thực hiện các phạm trù
khác. Thông qua phạm trù hạnh phúc để biểu hiện các nội dung phạm trù
nghĩa vụ, lương tâm, trách nhiệm, danh dự, thiện và ác
Phạm trù hạnh phúc, theo quy luật của sự phản ánh mối quan hệ giữa chủ
thể và khách thể trong lý luận nhận thức, là kết quả của sự khái quát hóa, trừu
tượng hóa đời sống hiện thực xã hội. Nó không phải là sản phẩm của trí tưởng
tượng chủ quan trong tư duy, ý thức con người, không có mối liên hệ tới đời
sống thực tại, thế giới quan. Vì vậy, phạm trù hạnh phúc có tính khách quan,
vì nó phản ánh thế giới khách quan, mặc dù được trừu tượng hóa và khái quát

hóa từ tư duy chủ quan, nhưng không phải vì tư duy chủ quan mà không phản
ánh đúng quy luật khách quan của đời sống xã hội.
Hạnh phúc cũng biểu hiện mối liên hệ giữa tính phổ biến và tính cá biệt,
giữa cái chung và cái riêng. Nó vừa là phạm trù định hướng giá trị chung cho
các phạm trù khác, vừa là phạm trù thể hiện tính phong phú, đa dạng, với
nhiều quan niệm khác nhau, và thực tiễn đạo đức của phạm trù hạnh phúc
cũng rất khác nhau. Tuy nhiên, không phải vì tính đa dạng, phong phú đó mà
phạm trù hạnh phúc không có tính phổ biến, thể hiện giá trị có ý nghĩa khái
quát, bao trùm. Dù lịch sử luôn luôn vận động, biến đổi, trải qua các giai đoạn
khác nhau, với những tiền đề kinh tế - xã hội khác nhau, các quan hệ về chính
trị, văn hóa khác nhau, nhưng những giá trị căn bản nhất của hạnh phúc vẫn
21
được kế thừa, phát triển và trở thành định hướng giá trị chung cho nhân loại,
cho các dân tộc trên thế giới.
Phạm trù hạnh phúc cũng như phạm trù đạo đức khác, chịu sự chi phối
của các mối quan hệ trong đời sống xã hội như quan hệ giai cấp, quan hệ dân
tộc, các yếu tố về chính trị và pháp luật Trong xã hội có giai cấp, hạnh phúc
bao giờ cũng mang tính giai cấp, luôn chịu sự tác động của các nhân tố như
đường lối chính trị, hệ thống pháp luật của các giai cấp khác nhau trong xã
hội, nhất là hệ tư tưởng chính trị của giai cấp thống trị.
Do đó, quan niệm về hạnh phúc mang tính tương đối, cả trong nhận thức
và thực tiễn hạnh phúc. Tùy thuộc vào mỗi cá nhân, mỗi giai cấp, mỗi dân tộc
trong những hoàn cảnh và điều kiện kinh tế - xã hội mang tính lịch sử cụ thể
để xác lập nội dung của hạnh phúc phù hợp.
Tóm lại, hạnh phúc được xét ở hai phương diện. Với tư cách là một
phạm trù triết học, hạnh phúc có quan hệ thống nhất và khác nhau với phạm
trù đạo đức. Với tư cách là một phạm trù của đạo đức học, hạnh phúc đóng
vai trò là phạm trù cơ bản, là mục đích của đạo đức, chi phối các phạm trù
khác của đạo đức, như thiện, ác, vinh dự, nghĩa vụ, lương tâm. Đồng thời,
phạm trù hạnh phúc cùng phạm trù đạo đức đều có tính nhân loại, tính dân tộc

và tính giai cấp, tính phổ biến và tính lịch sử cụ thể, tính tuyệt đối và tính
tương đối.
1.2. Mối quan hệ giữa hạnh phúc với đạo đức trong lịch sử triết học
phương Tây trước Mác
1.2.1. Trong triết học Hy Lạp cổ đại
Trong triết học Hy Lạp cổ đại có hai khuynh hướng khác nhau về mối
quan hệ giữa hạnh phúc và đạo đức: Một là, khuynh hướng cực đoan gồm có
chủ nghĩa khổ hạnh và chủ nghĩa khoái lạc. Chủ nghĩa khổ hạnh hiểu hạnh
phúc một cách đơn giản, đồng nhất hạnh phúc với đạo đức, chỉ cần có đạo
22
đức là có hạnh phúc. Ngược lại, chủ nghĩa khoái lạc lại đồng nhất hạnh phúc
với khoái lạc, coi khoái cảm vật chất là hạnh phúc và đồng thời là cái thiện
cao nhất. Hai là, quan điểm coi đạo đức và hạnh phúc có quan hệ đan xen lẫn
nhau, tiếp cận vấn đề đạo đức một cách phức tạp hơn, để đạt đến hạnh phúc
có thể có nhiều yếu tố khác với đạo đức, nhưng không được trái với đạo đức,
tất cả đều phải thông qua đạo đức mới đạt được hạnh phúc.
- Quan niệm của chủ nghĩa khổ hạnh
Chủ nghĩa khổ hạnh ở Hy Lạp cổ đại có đặc điểm là đồng nhất hạnh
phúc với đạo đức, chỉ cần có đạo đức là đủ để có hạnh phúc. Đó là lối sống
của những người theo trường phái Xinich (Cynics) do Antixtenet
(Antisthenes, khoảng 445-365 TCN), một môn đồ của Xôcrat (Socrates) sáng
lập và được Điôgien ở Xinôp (Diogenes of Sinope, khoảng 404-323 TCN)
phát triển.
Theo Điôgien, những người chạy theo lối sống văn hóa, văn minh đều
không có đạo đức, do đó mới có truyền thuyết rằng Điôgien thường cầm đèn
đi giữa ban ngày để tìm một người lương thiện [46].
Theo phái này lối sống đạo đức là sống một cách tự nhiên, coi khinh và
từ bỏ tất cả những thành quả của văn minh, văn hóa, sống một cách cuộc
sống lang thang, rách rưới, bẩn thỉu như súc vật. Vì vậy, những người theo
phái này được gọi là “chó”, trong tiếng Việt. Tên của trường phái này được

dịch là trường phái “Khuyển nho”. Đây là một quan niệm cực đoan về mối
quan hệ giữa hạnh phúc và đạo đức, nó ra đời trong giai đoạn đầu của xã hội
văn minh, coi cuộc sống nguyên thủy là đạo đức nhất, cuộc sống văn minh là
trái với đạo đức. Ở phương Đông cũng có quan điểm tương tự như vậy ở phái
Đạo gia.
Những nguyên tắc căn bản triết học Cynic có thể tóm tắt như sau:
23
• Mục đích của cuộc đời là hạnh phúc, đó là sống trong sự hòa hợp với
Tự nhiên.
• Hạnh phúc phụ thuộc vào khả năng tự mãn nguyện và làm chủ tinh
thần.
• Sự tự mãn nguyện chỉ có thể có được bằng cuộc sống có đạo đức.
• Con đường đi đến đạo đức là giải phóng cá nhân khỏi mọi ảnh hưởng,
như sự giàu có, danh vọng hay quyền lực, vì những thứ này không có giá trị
trong Tự nhiên.
• Đau khổ bị gây ra bởi những sự phán xét sai lầm về những giá trị, tạo
ra những tình cảm tiêu cực và tính cách xấu xa [47].
Quan niệm này về sau không còn được chấp nhận hoàn toàn nhưng lại
được cải biên để có nhiều yếu tố hợp lý hơn trong chủ nghĩa khắc kỷ.
- Quan niệm của chủ nghĩa khoái lạc
Phái Xirenait (Cyrenaics) do Arixtippôt (Aristippus, khoảng 430-350
TCN), một môn đồ của Xôcrat sáng lập, là một thứ chủ nghĩa khoái lạc tầm
thường, vị kỷ, đưa ra một học thuyết theo đó sự thỏa mãn những dục vọng
trực tiếp của cá nhân, không cần quan tâm đến người khác, được coi là mục
đích tối cao. Sự khoái cảm xác thịt theo phái này còn đáng giá hơn những
niềm vui trí tuệ hư ảo và phức tạp.
Arixtippôt cho rằng khoái lạc là động lực căn bản của cuộc sống và
khoái lạc luôn luôn là tốt bất kể nguồn gốc nào. Arixtippôt phủ nhận khả
năng có sự khác nhau về chất giữa các loại khoái lạc. Ông khẳng định rằng
khoái lạc cảm tính là mãnh liệt hơn khoái lạc tinh thần hay khoái lạc tình

cảm nên chúng là tốt nhất. Vì vậy khoái lạc vật chất cao hơn tất cả các loại
khoái lạc khác. Chỉ có khoái lạc vật chất mới làm cho cuộc sống hứng thú,
năng động, đáng sống. Không chỉ thế, những khoái lạc thực tế hiện tại là hấp
24
dẫn hơn những khoái lạc tiềm năng, là những khoái lạc có thể hoặc không thể
diễn ra trong tương lai [48].
Chủ nghĩa khoái lạc phái Xirenait có điểm hợp lý ở sự thừa nhận vai trò
của khoái cảm trong hạnh phúc, nhưng sai lầm cơ bản của nó là tuyệt đối hóa
khoái cảm vật chất, không thấy vai trò của khoái cảm tinh thần. Khi cá nhân
con người chạy theo những khoái cảm xác thịt tầm thường thì sẽ hành động
trái với đạo đức và không thể có được hạnh phúc toàn diện, lâu dài được. Vì
thế chủ nghĩa khoái lạc phái Xirenait bị lên án và về sau được cải biên theo
hướng hợp với đạo đức hơn.
- Quan niệm coi hạnh phúc và đạo đức là những yếu tố khác nhau
nhưng có quan hệ khăng khít với nhau.
Đêmôcrit (Democritus, 460 - 370 TCN), nhà triết học duy vật chất phác,
đại biểu cho chủ nghĩa duy vật với học thuyết nguyên tử nổi tiếng, là người
rất quan tâm đến vấn đề đạo đức con người trong xã hội. Số phận mỗi con
người, quan hệ giữa con người với con người, con người với xã hội là đối
tượng nghiên cứu của đạo đức học. Ông là người bảo vệ chế độ dân chủ chủ
nô, đề cao tự do cho con người. Người sống có tự do tất yếu sẽ có đạo đức.
Hạnh phúc là sự thanh thản của lương tâm con người. Ông cho rằng: “Hạnh
phúc là trạng thái khi con người không có những đau khổ dằn vặt, mà phải
được yên tĩnh và thanh thản trong tâm hồn” [14, tr 183]. Sự lành mạnh trong
đời sống tinh thần, sống ôn hòa, đúng mực, không gây hại cho người khác
chính là người có đạo đức. Nghèo đói mà tự do sẽ hạnh phúc hơn giàu có mà
sống trong nô lệ.
Không chỉ đề cao tự do, Đêmôcrit còn khẳng định vai trò của trí tuệ đối
với đời sống và hạnh phúc. Ông cho rằng: “Con người cần phải có trí tuệ, vì
trí tuệ là cần thiết cho hạnh phúc. Trí tuệ có khả năng chế ngự được những nỗi

25

×