Tải bản đầy đủ (.doc) (58 trang)

Nâng cao hiệu quả quản lý ngân sách nhà nước tại huyện Như Xuân, tỉnh Thanh Hóa giai đoạn 20152020

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (762.61 KB, 58 trang )

MỤC LỤC
MỤC LỤC.................................................................................................................................
A. MỞ ĐẦU...............................................................................................................................
C. KIẾN NGHỊ VÀ KẾT LUẬN..........................................................................................
51
TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................................................................


A. MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề án

Ngân sách nhà nước là khâu tài chính quan trọng nhất, là kế hoạch tài
chính cơ bản trong hệ thống tài chính quốc gia. Nó giữ vai trò chủ đạo trong
hệ thống tài chính, quyết định sự phát triển của nền kinh tế quốc dân. Mọi
hoạt động quản lý của nhà nước đều bị chi phối bởi khả năng và hoạt động có
hiệu quả của ngân sách. Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, ngân sách nhà nước được sử dụng như một công cụ điều tiết vĩ mô
quan trọng để đảm bảo hiệu quả, công bằng và ổn định nền kinh tế và định
hướng phát triển các lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân.
Trong bối cảnh hiện nay, nguồn thu ngân sách nhà nước đang còn hạn
hẹp, nhu cầu chi cho mọi lĩnh vực ngày càng tăng thì việc quản lý tăng thu
ngân sách nhà nước và quản lý sử dụng các khoản chi như thế nào để đạt hiệu
quả cao nhất là vấn đề rất quan trọng.
Thời gian qua, quản lý NSNN đã từng bước được cải tiến, hoàn thiện:
Luật NSNN được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá
XI, kỳ họp thứ hai thông qua ngày 16/12/2002 có hiệu lực thi hành từ năm
2004 (thay thế Luật NSNN năm 1996 và Luật sửa đổi bổ sung một số điều
của Luật NSNN năm 1998). Sự ra đời và hoàn thiện Luật NSNN đã đánh dấu
một bước ngoặt quan trọng trong lĩnh vực quản lý NSNN ở nước ta: nền tài
chính được quản lý thống nhất trên toàn quốc, nâng cao tính chủ động và
trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân trong việc sử dụng NSNN, củng cố kỷ


luật tài chính…Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được vẫn còn bộc lộ
những hạn chế, yếu kém, đó là: chưa bao quát được hết nguồn thu, còn thất
thu và bỏ sót nguồn thu, số thu chưa tập trung kịp thời vào NSNN qua hệ
thống Kho bạc Nhà nước (KBNN); tình trạng phân bổ ngân sách, điều hành
ngân sách đôi khi vẫn còn tuỳ tiện; việc sử dụng NSNN, tài sản công còn lãng

1


phí. Chính vì vậy, việc nghiên cứu và đề xuất giải pháp hoàn thiện công tác
quản lý NSNN, làm cho NSNN thực sự là khâu chủ đạo trong hệ thống tài
chính là việc làm rất cần thiết và cấp bách trong giai đoạn hiện nay.
Trong hệ thống ngân sách nhà nước, ngân sách cấp huyện có vai trò
cung cấp phương tiện vật chất cho sự tồn tại và hoạt động của chính quyền
huyện và cấp chính quyền cơ sở trực thuộc, đồng thời là công cụ để chính
quyền cấp huyện thực hiện quản lý toàn diện các hoạt động kinh tế - xã hội
trên địa bàn. Tuy nhiên do ngân sách cấp huyện là một cấp ngân sách trung
gian ở giữa ngân sách cấp tỉnh và ngân sách cấp xã nên vẫn còn tình trạng
ngân sách cấp huyện chưa thể hiện được đầy đủ vai trò của mình đối với phát
triển kinh tế - xã hội địa phương.
Do vậy để chính quyền cấp huyện thực thi có hiệu quả những nhiệm vụ
chính trị được giao, thực hiện tốt chiến lược phát triển kinh tế - xã hội trên địa
bàn thì cần có một ngân sách cấp huyện đủ mạnh và phù hợp là một đòi hỏi
thiết thực, là một mục tiêu phấn đấu đối với cấp huyện. Vì thế khía cạnh nâng
cao hiệu quả quản lý thu, chi ngân sách cấp huyện luôn là một nhiệm vụ
được quan tâm.
Trong những năm qua công tác quản lý chi NSNN tại huyện Như Xuân
đã có nhiều đổi mới, đạt được tiến bộ đáng kể, góp phần phát triển kinh tế,
văn hoá, xã hội trên địa bàn huyện, đời sống vật chất và tinh thần của nhân
dân được cải thiện, an ninh quốc phòng được giữ vững và ngày càng đáp ứng

tốt hơn yêu cầu của công cuộc đổi mới hiện nay.
Tuy nhiên công tác quản lý chi NSNN của Huyện những năm vừa qua
còn nhiều bất cập: Công tác quản lý chi NSNN đạt hiệu quả chưa cao; chi đầu
tư xây dựng cơ bản (XDCB) còn dàn trải, thiếu tập trung; chi thường xuyên
cho các đơn vị sử dụng ngân sách lại phải chấp hành những quy định mang
nặng tính thủ tục hành chính, gò bó bởi chính sách chế độ, tiêu chuẩn; tính

2


năng động và tích cực của đơn vị sử dụng ngân sách chưa được phát huy, tâm
lý ỷ lại còn phổ biến; năng lực của đội ngũ cán bộ làm công tác chuyên môn
chưa cao, chưa đáp ứng được yêu cầu công việc….. cần được được khắc phục,
sửa đổi để vừa phù hợp với tình hình phát triển địa phương, vừa phù hợp với
qui định của Nhà nước trong bối cảnh mới. Vì vậy, hoàn thiện công tác
quản lý chi NSNN trên địa bàn Huyện là một nhiệm vụ luôn được quan
tâm cả về thực tiễn và lý luận, là yêu cầu cần thiết và khách quan trong giai
đoạn hiện nay nhằm quản lý chi NSNN được tốt hơn, công khai, minh bạch và
đạt hiệu quả. Xuất phát từ những nội dung đã nêu trên, tôi lựa chọn đề tài: “Nâng
cao hiệu quả quản lý ngân sách nhà nước tại huyện Như Xuân, tỉnh Thanh
Hóa giai đoạn 2015-2020” làm đề án tốt nghiệp Cao cấp lý luận Chính trị.
2. Mục tiêu của đề án

2.1. Mục tiêu chung
Đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện công tác quản lý chi NSNN tại
huyện Như Xuân trong giai đoạn 2015- 2020.
2.2. Mục tiêu cụ thể

- Góp phần nghiên cứu những nội dung cơ bản về quản lý chi NSNN.
- Phân tích và đánh giá đúng thực trạng công tác quản lý chi NSNN tại

huyện Như Xuân, tỉnh Thanh Hóa các năm 2012- 2014, qua đó, rút ra những
bất cập, hạn chế của công tác quản lý chi NSNN trên địa bàn Huyện để
nghiên cứu các giải pháp khắc phục.
- Tập huấn, đào tạo đội ngũ làm công tác kế toán trên địa bàn huyện có
trình độ nghiệp vụ vững vàng, chuyên nghiệp đáp ứng được nhu cầu công tác.
- Đề xuất các giải pháp hoàn thiện công tác lập, phân bổ dự toán
NSNN; hoàn thiện công tác chấp hành chi NSNN và hoàn thiện công tác
quyết toán NSNN tại huyện Như Xuân giai đoạn 2015-2020, từ đó giúp cho

3


việc sử dụng ngân sách của các đơn vị được tiết kiệm, hiệu quả, công khai,
công bằng và minh bạch.
3. Giới hạn của đề án

- Đề án tập trung nghiên cứu những nội dung liên quan đến công tác
quản lý chi NSNN tại Huyện Như Xuân Tỉnh Thanh Hóa
- Thời gian thực hiện Đề án từ năm 2015 đến năm 2020.
B. NỘI DUNG CỦA ĐỀ ÁN
1. Cơ sở xây dựng đề án

1.1. Cơ sở khoa học
1.1.1. Những vấn đề chung về NSNN
1.1.1.1 Khái niệm NSNN
Theo Luật NSNN năm 2002, NSNN là toàn bộ các khoản thu chi của
Nhà nước đã được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quyết định và được thực
hiện trong một năm để đảm bảo thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà
nước.
NSNN là một phạm trù kinh tế nằm trong lĩnh vực phân phối, trong quá

trình tham gia phân phối lại tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân, tạo
nên quỹ tiền tệ tập trung để sử dụng. Như vậy, bản chất NSNN gắn chặt với
bản chất Nhà nước, Nhà nước mang tính giai cấp nào thì NSNN cũng mang
tính giai cấp đó.
Trong thực tiễn, hoạt động NSNN là hoạt động thu (tạo lập) và chi tiêu
(sử dụng) quỹ tiền tệ của Nhà nước làm cho nguồn tài chính vận động giữa
một bên là nhà nước với một bên là các chủ thể xã hội (các cá nhân, đơn vị, tổ
chức chính trị xã hội,… thụ hưởng NSNN) trong quá trình phân phối tổng sản
phẩm quốc dân dưới hình thái giá trị, đằng sau các hoạt động thu, chi đó chứa
đựng các mối quan hệ kinh tế giữa Nhà nước với các chủ thể trong xã hội.
Nói cách khác, NSNN phản ánh mối quan hệ kinh tế giữa Nhà nước với các

4


chủ thể xã hội trong phân phối tổng sản phẩm xã hội, thông qua việc tạo lập,
sử dụng quỹ tiền tệ tập trung của nhà nước, chuyển dịch một bộ phận thu
nhập bằng tiền của các chủ thể đó thành thu nhập của Nhà nước và Nhà nước
chuyển thu nhập đó đến các chủ thể được hưởng nhằm thực hiện các chức
năng và nhiệm vụ của Nhà nước.
Hoạt động thu, chi NSNN là sự thể hiện các mặt hoạt động kinh tế của
Nhà nước ở tầm vĩ mô. Trong hệ thống tài chính nói chung, cũng như trong
khu vực tài chính nhà nước nói riêng, NSNN luôn giữ vị trí trọng yếu trong
việc bảo đảm nguồn tài chính cho sự tồn tại và hoạt động của Nhà nước.
Mặt khác, NSNN là khâu chủ đạo trong hệ thống tài chính, các nguồn
tài chính được tập trung vào NSNN nhờ việc Nhà nước tham gia vào quá trình
phân phối và phân phối lại các nguồn tài chính quốc gia. Toàn bộ các nguồn
tài chính trong ngân sách của chính quyền các cấp là nguồn tài chính mà Nhà
nước nắm giữ, chi phối. Nó là nguồn tài chính cơ bản để Nhà nước thực hiện
các chức năng, nhiệm vụ của mình. Nguồn tài chính này giữ vị trí chủ đạo

trong tổng nguồn tài chính của xã hội và là công cụ để Nhà nước thực hiện
điều tiết vĩ mô nền kinh tế.
Từ khái niệm về NSNN cho thấy những đặc điểm chung về NSNN như
sau:
Thứ nhất, việc tạo lập và sử dụng quỹ NSNN gắn với quyền lực của
Nhà nước và việc thực hiện các chức năng của Nhà nước, được Nhà nước tiến
hành trên cơ sở những luật lệ nhất định;
Thứ hai, NSNN luôn gắn chặt với sở hữu Nhà nước, luôn chứa đựng lợi
ích chung, lợi ích công cộng. Lợi ích của Nhà nước (lợi ích của quốc gia) thể
hiện trong phân phối của các doanh nghiệp, của dân cư, của phân phối GDP,
GNP và cả trong phân bổ các nguồn lực tài chính cho các mục tiêu kinh tế- xã
hội (KT- XH), an ninh- quốc phòng của quốc gia;

5


Thứ ba, Quỹ NSNN luôn được phân chia thành các quĩ tiền tệ nhỏ hơn
trước khi đưa vào sử dụng. Quá trình phân chia quỹ NSNN chính là quá trình
cấp phát kinh phí từ NSNN để hình thành các loại quỹ nhằm thỏa mãn các
nhu cầu chi tiêu của các lĩnh vực, các ngành theo yêu cầu quản lý của Nhà
nước;
Thứ tư, hoạt động thu- chi NSNN được thực hiện theo nguyên tắc
không hoàn trả trực tiếp là chủ yếu.
1.1.1.2. Hệ thống NSNN và vai trò của NSNN
Theo Luật NSNN Việt Nam thì hệ thống NSNN gồm: Ngân sách trung
ương (NSTW) và ngân sách địa phương (NSĐP). Trong đó, NSĐP được chia
thành ngân sách cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, ngân sách cấp
Huyện và ngân sách cấp Xã. NSNN ở Việt Nam được quản lý thống nhất theo
nguyên tắc tập trung dân chủ, công khai, minh bạch, có phân công, phân cấp
quản lý, gắn quyền hạn với trách nhiệm. Quốc hội Việt Nam quyết định dự

toán NSNN, phân bổ NSNN Trung ương, phê chuẩn quyết toán ngân sách.
NSTW giữ vai trò chủ đạo, đảm bảo thực hiện các nhiệm vụ chiến lược, quan
trọng của Quốc gia và hỗ trợ những địa phương chưa cân đối được thu, chi
ngân sách.
NSĐP là toàn bộ các khoản thu, chi của bộ máy hành chính Nhà nước
cấp địa phương được cơ quan (ngân sách cấp trên) cấp trên có thẩm quyền
phân bổ hoặc quy định được thực hiện trong vòng năm ngân sách nhằm đảm
bảo hoàn thành các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước ở trên địa bàn. NSĐP
cũng phản ánh mối quan hệ kinh tế giữa một bên là Nhà nước địa phương với
một bên là các chủ thể khác trong xã hội.
Mỗi cấp ngân sách đều được phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi cụ thể
để phù hợp với phân cấp quản lý KT- XH, an ninh - quốc phòng và trình độ
quản lý của mỗi cấp trên địa bàn, để đảm bảo chủ động thực hiện các nhiệm

6


vụ phát triển KT- XH, an ninh - quốc phòng của các cấp chính quyền. Trong
NSĐP thì HĐND cấp tỉnh quyết định việc phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi
giữa các cấp chính quyền địa phương.
Trong thời kỳ ổn định ngân sách, các địa phương được sử dụng nguồn
tăng thu hàng năm mà NSĐP được hưởng để phát triển KT- XH trên địa bàn.
Sau mỗi kỳ ổn định ngân sách, địa phương phải tăng khả năng tự cân đối, phát
triển NSĐP, giảm dần số bổ sung, trợ cấp từ ngân sách cấp trên. Về nguyên
tắc, NSĐP được cân đối với tổng số chi không vượt quá tổng số thu.
- Vai trò của NSNN
NSNN có vai trò to lớn đối với sự phát triển KT- XH, đặc biệt trong
thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế, thể hiện ở những nội dung cụ thể như sau:
+ Vai trò kích thích tăng trưởng kinh tế: Được thực hiện thông qua các
chính sách thuế, chính sách chi tiêu của ngân sách Chính phủ và các công cụ

điều tiết vĩ mô để vừa kích thích, vừa gây ra sức ép với các doanh nghiệp
nhằm kích thích sự tăng trưởng kinh tế. Bằng nguồn cấp phát từ ngân sách,
các quỹ dự trữ nhà nước về hàng hóa và tài chính được hình thành, từ đó vừa
bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng và kích thích sản xuất phát triển, vừa kích
thích tăng trưởng kinh tế.
+ NSNN góp phần quan trọng trong việc giải quyết các vấn đề xã hội
như tiến bộ xã hội, công bằng xã hội và trong việc thực hiện các nhiệm vụ có
tính chất chung toàn xã hội. Bằng nguồn thu NSNN, Nhà nước tích cực đầu tư
vào những nơi, những vùng khó khăn để duy trì phát triển cân đối các lĩnh
vực của đời sống xã hội như giáo dục đào tạo, y tế, văn hóa, phúc lợi công
cộng…những khoản đầu tư này về mặt hình thức là những khoản chi cho tiêu
dùng, nhưng xét về lâu dài là chi cho đầu tư phát triển, bởi vì những khoản
chi này nhằm mục đích phục vụ cho con người, đào tạo con người có sức
khỏe, có kiến thức khoa học, có phẩm chất đạo đức, đây chính là yếu tố quyết

7


định cho sự phát triển ổn định của đất nước. Thông qua việc thu thuế, Nhà
nước đã thực hiện chức năng điều tiết của mình, và do đó góp phần thực hiện
công bằng xã hội, giảm khoảng cách giữa người giàu và người nghèo.
+ NSNN góp phần ổn định giá cả thị trường, chống lạm phát và khủng
hoảng kinh tế. Để ổn định giá cả thị trường, Chính phủ có thể tác động vào
cung hoặc cầu hàng hóa thị trường. Sự tác động này không chỉ được thực hiện
thông qua công cụ thuế mà còn được thực hiện thông qua chính sách chi tiêu
của NSNN. Chính phủ cũng có thể dùng NSNN nhằm khống chế và đẩy lùi
lạm phát một cách hiệu quả thông qua việc thực hiện chính sách thắt chặt
ngân sách tức cắt giảm các khoản chi tiêu ngân sách, chống tình trạng lãng
phí trong chi tiêu đồng thời có thể tăng thuế tiêu dùng để hạn chế cầu, có thể
giảm thuế với đầu tư, kích thích sản xuất phát triển. Trong những trường hợp

thị trường có biến động, giá cả lên quá cao, hoặc quá thấp nhờ việc dự trữ
hàng hóa và tiền, Nhà nước có thể điều hòa quan hệ cung - cầu hàng hóa, vật
tư để bình ổn giá trên thị trường. Ngoài ra, Chính phủ cũng có thể phát hành
công cụ nợ để vay dân bù đắp thiếu hụt của NSNN nhằm góp phần giảm lạm
phát trong nền kinh tế.
- Vai trò của Ngân sách huyện
Cũng có các vai trò của NSNN nói chung, ngoài ra Ngân sách Nhà
nước cấp huyện còn có đặc thù riêng.
Ngân sách huyện là một cấp ngân sách quan trọng, đóng vai trò là cầu
nối giữa các đơn vị cơ sở với các cơ quan quản lý cấp trên. Mọi chủ trương,
chính sách của Nhà nước, hiệu lực quản lý Nhà nước đều có sự tham gia của
cấp ngân sách này, giúp cho công tác quản lý điều hành đạt hiệu quả tốt hơn.
Đồng thời cũng phản ánh kết quả của chủ trương chính sách, chế độ đó khi
triển khai thực hiện tại cơ sở.

8


Là một cấp chính quyền cơ sở độc lập, có bộ máy quản lý với hệ thống
các cơ quan hành chính, đoàn thể nhằm tổ chức thực hiện các chức năng quản
lý Nhà nước trên địa bàn. Điều này cũng đồng nghĩa với việc để đảm bảo cho
các cơ quan, đoàn thể, tổ chức đó hoạt động có hiệu quả thì cần phải có một
quỹ tài chính tập trung, đó chính là Ngân sách huyện. Mặc dù không thực
hiện các nhiệm vụ quan trọng và các mục tiêu chiến lược như ngân sách
Trung ương nhưng Ngân sách huyện cũng tạo cho mình một vị trí nhất định,
nhằm chủ động trong việc đảm bảo, phục vụ các điều kiện vật chất thực hiện
chức năng quản lý Nhà nước ở địa phương, tuỳ theo vùng miền, vị trí hành
chính, đặc thù kinh tế -xã hội của từng huyện mà vai trò đảm bảo này sẽ khác
nhau.
1.1.2. Quản lý NSNN

1.1.2.1. Khái niệm quản lý NSNN
Quản lý NSNN là quản lý sự vận động của các nguồn tài chính gắn liền
với quá trình tạo lập, sử dụng quỹ tiền tệ tập trung của Nhà nước nhằm thực
hiện các chức năng của nhà nước.
Quản lý NSNN là quá trình tác động của chủ thể ngân sách lên các đối
tượng quản lý là tiền tệ, các công cụ và nguồn lực tài chính, các đơn vị sử
dụng ngân sách để đạt được kết quả về thu, chi NSNN và hoàn thành các mục
tiêu phát triển KT- XH đã được đặt ra trong một khoảng thời gian xác định
(năm ngân sách hoặc giai đoạn phát triển KT- XH của địa phương).
Quản lý NSĐP là quá trình quản lý hệ thống các quan hệ kinh tế phát
sinh trong quá trình tạo lập, phân phối và sử dụng quỹ tiền tệ của chính quyền
nhà nước địa phương, đã được dự toán bởi UBND các cấp và được thực hiện
trong một năm ngân sách để đảm bảo thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của
cấp trên giao và địa phương đề ra.
1.1.2.2. Mục tiêu và nguyên tắc quản lý NSNN

9


- Mục tiêu
+ Tăng qui mô NSNN một cách hợp lý nhằm đảm bảo cho Nhà nước
thực hiện tất cả các chức năng của mình.
+ NSNN phải động viên mức cao nhất các nguồn lực của nền KT- XH
và các nguồn lực từ bên ngoài một cách hợp lý để phục vụ chiến lược phát
triển KT- XH. Thực hiện việc giải quyết tốt mối quan hệ giữa việc động viên
nguồn lực cho NSNN với việc đảm bảo tích tụ vốn cho doanh nghiệp, dân cư
trong phát triển SXKD.
+ Phân phối NSNN phải đảm bảo yêu cầu tiết kiệm trong sản xuất kinh
doanh, trong chi tiêu dùng và tập trung vốn cho đầu tư phát triển. Do vậy, cần
phải cơ cấu lại NSNN theo hướng khoản nào cần phải chi thì chi cho đủ,

khoản nào về bản chất không thuộc nhiệm vụ chi thì kiên quyết cắt bỏ.
+ Quản lý NSNN phải đảm bảo việc cân đối vững chắc, tích cực cho
NSNN trên cơ sở đảm bảo cân đối giữa nhu cầu và khả năng, giữa tích luỹ và
tiêu dùng, giữa tích tụ và tập trung, giữa vốn trong nước và vốn ngoài nước.
Đồng thời, phải đảm bảo việc dự trữ, dự phòng NSNN ở mức cần thiết để chủ
động thực hiện các nhiệm vụ cấp thiết, đột xuất của Nhà nước.
- Nguyên tắc cơ bản trong quản lý NSNN
- Tính trách nhiệm: Trách nhiệm giải trình về các hoạt động ngân sách,
lường trước được các tác động có thể xảy ra khi đưa ra các quyết định về ngân
sách. Tính trách nhiệm được xem xét trên 2 khía cạnh cơ bản, đó là trách
nhiệm đối với cơ quan quản lý cấp trên và trách nhiệm đối với công chúng,
đối với xã hội. Do vậy, cần phải có sự phân định rõ ràng trong quyền hạn và
trách nhiệm của từng cơ quan trong bộ máy Nhà nước đối với NSNN.
- Tính minh bạch: Mọi thông tin về tài chính và ngân sách đều phải
được công khai hoá, đảm bảo cho mọi tầng lớp dân cư có thể tham gia theo

10


dõi và giám sát các hoạt động ngân sách. Đồng thời, thông tin về ngân sách
phải được công bố kịp thời, dễ hiểu và đáng tin cậy.
- Tính tiên niệu: Mọi đạo luật hay quy định về ngân sách phải rõ ràng,
có báo trước và được thực thi một cách thống nhất, có hiệu lực tạo cơ sở định
hướng chiến lược cho các cơ quan công quyền, khu vực tư nhân…trong việc
giải quyết các hoạt động của mình một cách hiệu quả.
- Quản lý NSNN phải đảm bảo có sự tham gia của xã hội: Sự tham gia
của người dân được thực hiện trong suốt chu trình ngân sách, thể hiện nguyên
tắc dân chủ trong quản lý ngân sách, tạo điều kiện để ngân sách minh bạch
hơn, các thông tin ngân sách trung thực, chính xác hơn. Đồng thời, việc tăng
cường sự tham gia của người dân sẽ tạo điều kiện thực hiện giám sát của

người dân, của xã hội đối với các hoạt động của Nhà nước.
1.1.2.3. Nội dung quản lý chi NSNN
Về mặt pháp lý, chi NSNN là những khoản chi tiêu do Chính phủ hay
các pháp nhân hành chính thực hiện để đạt được các mục tiêu công ích. Về
bản chất, chi NSNN là hệ thống những quan hệ phân phối lại các khoản thu
nhập phát sinh trong quá trình sử dụng có kế hoạch quỹ tiền tệ tập trung của
Nhà nước nhằm thực hiện tăng trưởng kinh tế, từng bước mở mang các sự
nghiệp văn hóa - xã hội, duy trì hoạt động của bộ máy quản lý nhà nước và
đảm bảo an ninh, quốc phòng.
Quá trình chi NSNN ở địa phương gắn liền với các nhiệm vụ chính trị,
xã hội mà mỗi cấp trong chính quyền địa phương được phân cấp quản lý
nhằm duy trì được bộ máy nhà nước ở địa phương đồng thời thực hiện các
nhiệm vụ KT- XH của các cấp địa phương.
Để đạt được hiệu quả trong quản lý chi NSNN cấp địa phương, trong
quá trình chi phải đảm bảo được các yêu cầu sau:

11


Thứ nhất, chi NSĐP của mỗi cấp có hiệu quả phù hợp với trình độ quản
lý, đặc điểm KT- XH của mỗi cấp chính quyền địa phương của mỗi nhiệm vụ
được phân cấp thực hiện, phải xây dựng được các chỉ tiêu, chỉ số cả định tính
và định lượng để xây dựng được các định mức chi cụ thể cho từng cấp ngân
sách, các ngành, các lĩnh vực khác nhau.
Thứ hai, thực hiện chi NSĐP phải đảm bảo đúng dự toán, đúng nội
dung, định mức và đúng đối tượng, đồng thời phải tuyệt đối thực hành tiết
kiệm có hiệu quả.
Theo điều 33- Luật NSNN, các nhiệm vụ chi của NSĐP gồm:
* Chi thường xuyên với các khoản chi sau:
- Các hoạt động sự nghiệp giáo dục, đào tạo, dạy nghề, y tế, xã hội, văn

hóa thông tin, văn học nghệ thuật, thể dục thể thao, khoa học và công nghệ,
môi trường, các sự nghiệp do địa phương quản lý.
- Các hoạt động sự nghiệp kinh tế do địa phương quản lý: sự nghiệp
giao thông, duy tu, bảo dưỡng và sửa chữa cầu đường, các công trình giao
thông trên các tuyến đường; sự nghiệp nông nghiệp, thủy lợi, ngư nghiệp,
diêm nghiệp và lâm nghiệp: duy tu, bảo dưỡng các tuyến đê, các công trình
thủy lợi, các trạm trại nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp; công tác khuyến
lâm, khuyến nông, khuyến ngư; chi khoanh nuôi, bảo vệ, phòng chống rừng,
bảo vệ nguồn lợi thủy sản.
- Sự nghiệp thị chính: duy tu, bảo dưỡng hệ thống đèn chiếu sáng, hệ
thống cấp thoát nước, giao thông nội thị, công viên và các sự nghiệp thị chính
khác.
- Đo đạc, lập bản đồ và lưu trữ hồ sơ địa chính và các hoạt động sự
nghiệp địa chính khác; điều tra cơ bản; các hoạt động sự nghiệp về môi
trường; các sự nghiệp kinh tế khác.

12


- Các nhiệm vụ về quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội do NSĐP
thực hiện theo quy định của Chính phủ.
- Hoạt động của các cơ quan Nhà nước, cơ quan Đảng Cộng sản Việt
Nam ở địa phương; hoạt động của các cơ quan đoàn thể chính trị- xã hội địa
phương của Ủy ban Mặt trận tổ quốc Việt Nam, Hội cựu chiến binh Việt Nam,
Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Hội nông dân Việt Nam, Đoàn Thanh niên
Cộng sản Hồ Chí Minh.
- Hỗ trợ cho các tổ chức chính trị xã hội- nghề nghiệp, tổ chức xã hội,
tổ chức xã hội - nghề nghiệp ở địa phương theo quy định của pháp luật.
- Thực hiện các chính sách xã hội đối với các đối tượng do địa phương
quản lý.

- Phần chi thường xuyên trong các chương trình quốc gia do các cơ
quan địa phương thực hiện.
- Trợ giá theo chính sách của Nhà nước.
- Các khoản chi thường xuyên khác theo quy định của pháp luật.
* Chi đầu tư phát triển với các khoản chi sau:
- Đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng KT- XH không có khả
năng thu hồi vốn do địa phương quản lý.
- Đầu tư và hỗ trợ cho các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế, các tổ
chức tài chính của Nhà nước theo quy định của pháp luật.
- Phần chi đầu tư phát triển trong các chương trình quốc gia do các địa
phương thực hiện.
- Các khoản chi đầu tư phát triển khác theo quy định của pháp luật.
* Chi trả nợ tiền huy động cho đầu tư phát triển theo luật định;
* Chi bổ sung quỹ dự trữ tài chính của cấp tỉnh;
* Chi bổ sung cho ngân sách cấp dưới;
* Chi chuyển nguồn NSĐP năm trước sang NSĐP năm sau.

13


Các nhiệm vụ chi đầu tư và hỗ trợ cho các doanh nghiệp, các tổ chức
kinh tế, các tổ chức tài chính của Nhà nước theo quy định của pháp luật; chi
trả nợ tiền huy động cho đầu tư phát triển; chi bổ sung quỹ dự trữ tài chính
của cấp tỉnh, chỉ quy định cho ngân sách cấp tỉnh, không áp dụng cho ngân
sách cấp huyện và ngân sách cấp xã;
HĐND cấp tỉnh quyết định phân cấp nhiệm vụ chi cho ngân sách các
cấp chính quyền địa phương theo các nguyên tắc phân cấp quản lý NSNN,
đồng thời phải đảm bảo các yêu cầu sau:
- Phù hợp với phân cấp quản lý KT- XH, quốc phòng, an ninh đối với
từng lĩnh vực và đặc điểm kinh tế, địa lý, dân cư từng vùng và trình độ, năng

lực của đội ngũ cán bộ, bảo đảm hiệu quả và tiết kiệm;
- Phải phân cấp nhiệm vụ chi đầu tư xây dựng các trường phổ thông
thuộc hệ thống giáo dục - đào tạo quốc dân các cấp, điện chiếu sáng, cấp thoát
nước, giao thông đô thị, vệ sinh đô thị và các công trình phúc lợi công cộng
khác cho thị xã, thành phố thuộc tỉnh;
- Đối với chi đầu tư phát triển, việc lập dự toán phải căn cứ vào quy
hoạch, chương trình dự án đầu tư đã có quyết định của cấp có thẩm quyền, ưu
tiên bố trí đủ vốn phù hợp với tiến độ triển khai thực hiện các chương trình,
dự án;
- Đối với chi thường xuyên, việc lập dự toán phải căn cứ vào nguồn thu
từ thuế, phí và lệ phí, phải căn cứ vào hệ thống chi tiêu, định mức đã được
quy định; đối với chi trả nợ thì phải căn cứ vào nghĩa vụ trả nợ của năm dự
toán.
1.1.2.4. Quy trình quản lý chi NSNN
(1) Lập dự toán ngân sách

14


- Phải bám sát các Luật, pháp lệnh, chế độ thu, chế độ, tiêu chuẩn, định
mức do cấp có thẩm quyền quyết định, các chế độ, chính sách hiện hành làm
cơ sở lập dự toán chi ngân sách;
- Dựa trên cơ sở những quy định về phân cấp quản lý KT- XH, phân
cấp quản lý ngân sách;
- Đối với chi đầu tư phát triển: Việc lập dự toán phải căn cứ vào dự án
phù hợp với quy hoạch được duyệt, những dự án có đủ điều kiện bố trí vốn
theo quy định của quy chế quản lý vốn đầu tư xây dựng và phù hợp với khả
năng bố trí ngân sách hàng năm, đồng thời ưu tiên bố trí đủ vốn phù hợp với
tiến độ triển khai các chương trình, dự án đã được cấp có thẩm quyền phê
duyệt.

- Đối với chi thường xuyên, với việc lập dự toán phải tuân theo các
chính sách, chế độ, tiêu chuẩn, định mức do các cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền quy định.
Sau khi UBND huyện nhận được quyết định về việc phân bổ dự toán
thu, chi NSNN của UBND Tỉnh, phòng Tài chính- Kế hoạch Huyện có nhiệm
vụ tham mưu cho UBND huyện trình HĐND huyện ra Nghị quyết phê chuẩn
dự toán thu, chi ngân sách. Căn cứ Nghị quyết của HĐND huyện, UBND
huyện ra quyết định về việc giao dự toán thu, chi NS cho từng cơ quan, đơn vị
thụ hưởng NSĐP và dự toán thu, chi ngân sách cho từng xã, thị trấn.
(2) Chấp hành ngân sách:
Sau khi được UBND huyện ra quyết định giao dự toán NS cho các đơn
vị sử dụng NS trực thuộc. Phòng Tài chính - Kế hoạch căn cứ quyết định của
UBND huyện thông báo phân bổ dự toán NS gửi cho các đơn vị trực thuộc,
đồng thời gửi KBNN huyện. Khi nhận được quyết định của UBND huyện,
thông báo của phòng Tài chính - Kế hoạch huyện, các cơ quan, đơn vị, các xã,
thị trấn tổ chức triển khai công tác thu, chi NSNN thuộc nhiệm vụ được giao.

15


Về thực hiện chi ngân sách: Thủ trưởng đơn vị sử dụng ngân sách thực
hiện rút kinh phí chi tiêu cho hoạt động của đơn vị mình và phải chịu trách
nhiệm về việc quản lý, sử dụng tài sản và NSNN theo đúng chính sách, chế
độ, tiêu chuẩn, định mức dự toán được giao.
(3) Kế toán, quyết toán ngân sách:
Các tổ chức, cá nhân có nhiệm vụ thu, chi NSNN phải tổ chức hạch
toán, kế toán, báo cáo và quyết toán theo đúng chế độ kế toán của Nhà nước.
Cơ quan KBNN tổ chức thực hiện hạch toán kế toán NSNN; định kỳ
báo cáo việc thực hiện tiến độ dự toán thu, chi cho cơ quan Tài chính và cơ
quan liên quan.

Hết kỳ kế toán (tháng, quý, năm) các đơn vị dự toán và ngân sách cấp
huyện phải thực hiện công tác khoá sổ kế toán.
Cuối năm ngân sách, căn cứ vào hướng dẫn của Bộ Tài chính, Sở Tài
chính và các quy định của pháp luật, thủ trưởng các đơn vị có nhiệm vụ thu,
chi ngân sách lập quyết toán ngân sách của đơn vị mình gửi cơ quan quản lý
cấp trên.
Số liệu trên báo cáo quyết toán NS phải chính xác, trung thực; nội dung
trong báo cáo quyết toán phải theo đúng các nội dung ghi trong dự toán được
duyệt và phải báo cáo quyết toán chi tiết theo Mục lục NSNN và đúng các
biểu mẫu Bộ Tài chính ban hành.
1.2. Cơ sở chính trị, pháp lý:
Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến việc quản lý, điều hành NSNN
để đảm bảo cho việc sử dụng kinh phí NSNN tiết kiệm, chặt chẽ và hiệu quả,
góp phần hoàn thành nhiệm vụ phát triển KT-XH và NSNN bằng việc quy
định rõ trong Hiến pháp, Luật, Chỉ thị, Nghị quyết, Nghị định, Thông tư
hướng dẫn. Điều 55, Hiến pháp năm 2013 đã khẳng định: “NSNN, dự trữ
quốc gia, quỹ tài chính nhà nước và các nguồn tài chính công khác do Nhà

16


nước thống nhất quản lý và phải được sử dụng hiệu quả, công bằng, công
khai, minh bạch, đúng pháp luật; NSNN gồm NSTW và NSĐP trong đó
NSTW giữ vai trò chủ đạo, bảo đảm nhiệm vụ chi của quốc gia Các khoản
thu, chi NSNN phải được dự toán và do luật định”.
Tại Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quôc lần thứ X, Đảng ta đã khẳng
định: “Đổi mới chính sách phân phối tài chính và cơ chế kết hợp nguồn lực
Nhà nước với các nguồn lực khác nhằm thúc đẩy tăng trưởng và chuyển dịch
cơ cấu kinh tế theo hướng xóa bao cấp bất hợp lý từ NSNN; tăng tỷ trọng
ngân sách đầu tư cho phát triển nguồn nhân lực và cho các lĩnh vực văn hóa,

xã hội;……Đổi mới cơ chế quản lý ngân sách theo kết quả thực hiện các công
việc được ngân sách cấp kinh phí; Xây dựng kế hoạch tài chính trung hạn để
tạo cơ sở nâng cao chất lượng dự toán ngân sách. Tăng cường phân cấp
quản lý ngân sách, bảo đảm tính thống nhất về thể chế của NSNN và vai trò
chủ đạo của NSTW;…Nâng cao tính minh bạch, dân chủ và công khai trong
quản lý NSNN” [2].
Tại Đại hội Đảng lần thứ XI, Đảng ta nhấn mạnh: “Thực hiện cân đối
ngân sách tích cực, bảo đảm tỉ lệ tích lũy hợp lý cho đầu tư phát triển; phấn
đấu giảm dần bội chi ngân sách” [3].
Công tác quản lý chi ngân sách cũng được quy định rõ ràng, cụ thể tại
Luật NSNN 2002. Luật này quy định về lập, chấp hành, kiểm tra, thanh tra,
kiểm toán, quyết toán NSNN và về nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan nhà
nước các cấp trong lĩnh vực NSNN. Để góp phần thực hiện tốt các quy định
của Luật NSNN, Chính phủ đã ban hành Nghị định số: 60/2013/NĐ-CP ngày
6/3/2003 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật NSNN.
Để thực hiện mục tiêu kiềm chế lạm phát ổn định kinh tế vĩ mô, bảo
đảm an sinh xã hội, Chính phủ đã ban hành các Nghị quyết để quản lý, điều
hành chi ngân sách theo từng thời kỳ, từng niên độ ngân sách như Nghị quyết

17


11/NQ-CP ngày 24/2/2011, Nghị quyết 01/NQ-CP ngày 07/01/2013 về những
giải pháp chủ yếu chỉ đạo điều hành thực hiện kế hoạch phát triển KT-XH và
dự toán NSNN năm 2013; Nghị quyết 01/NQ-CP ngày 02/01/2014 về những
nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu chủ đạo điều hành thực hiện kế hoạch phát triển
KT-XH và dự toán NSNN năm 2014.
Chỉ thị 1792/CT-TTg ngày 15/10/2011 về tăng cường quản lý đầu tư từ
vốn ngân sách nhà nước và vốn trái phiếu Chính Phủ, nhằm khắc phục tình
trạng phê duyệt quá nhiều dự án vượt khả năng cân đối vốn NSNN và vốn trái

phiếu Chính phủ, thời gian thi công kéo dài, kế hoạch đầu tư bị cắt khúc ra
từng năm, hiệu quả đầu tư kém, gây phân tán và lãng phí nguồn lực của Nhà
nước dẫn đến nợ đọng XDCB ngày một tăng.
1.3. Cơ sở thực tiễn:
Trong những năm vừa qua, công tác quản lý chi NSNN trên địa bàn
huyện Như Xuân đã dần đi vào nề nếp, từng bước nâng cao hiệu quả quản lý,
hiệu quả sử dụng ngân sách, tạo điều kiện hoàn thành được các mục tiêu về
phát triển KT- XH của địa phương. Tuy nhiên, công tác quản lý chi NSNN tại
huyện Như Xuân những năm qua vẫn còn những hạn chế, bất cập nhất định:
Còn có đơn vị sử dụng ngân sách còn thiếu trách nhiệm, buông lỏng quản lý,
chi không đúng dự toán, không đúng chế độ định mức, tiêu chuẩn của nhà
nước. Công tác quản lý chi ngân sách chưa đạt hiệu quả như mong muốn. Chi
đầu tư XDCB còn dàn trải, thiếu tập trung. Tính năng động và tích cực của đơn
vị sử dụng ngân sách chưa được phát huy, tâm lý ỷ lại trông chờ vào NSNN
còn phổ biến. Năng lực của đội ngũ cán bộ làm công tác chuyên môn chưa cao,
chưa đáp ứng được yêu cầu công việc. Điều đó đã ảnh hưởng không tốt đến
việc huy động và khai thác các nguồn lực cho đầu tư để phục vụ các mục tiêu
phát triển và giải quyết được các vấn đề xã hội. Do vậy để nâng cao hiệu
quả, đảm bảo tính công khai, minh bạch trong sử dụng NSNN theo quy

18


định của Luật NSNN và hoàn thành các mục tiêu phát triển KT- XH của
địa phương, trong thời gian tới cần nghiên cứu đưa ra các giải pháp hoàn
thiện quản lý chi ngân sách trên địa bàn, trên cơ sở đó giải quyết được
những vấn đề còn hạn chế, bất cập trong các khâu của quá trình quản lý
NSNN, gồm quá trình lập, phân bổ; chấp hành; và quyết toán chi NSNN.
2. Nội dung thực hiện của đề án
2.1. Bối cảnh thực hiện đề án:

Như Xuân là huyện miền núi của tỉnh Thanh Hóa có diện tích tự nhiên
gần 72.000 ha ( 719,9493 km2 ), chiếm 6,0% diện tích tự nhiên toàn tỉnh, bằng
30,65 % so với diện tích đất tự nhiên vùng kinh tế Tây Nam và chiếm 9%
diện tích tự nhiên các huyện miền núi của tỉnh. Phía Bắc giáp với huyện
Thường Xuân, phía Nam giáp với tỉnh Nghệ An, phía Đông giáp với huyện
Như Thanh, phía Tây giáp với tỉnh Nghệ An
Huyện Như Xuân có 17 xã và 1 thị trấn; Dân số năm 2014 là 68.515
nhân khẩu, gồm 4 dân tộc anh em sinh sống đó là Thái, Thổ, Mường, Kinh.
Là huyện miền núi nhưng có điều kiện thuận lợi về giao thông vận tải,
bởi có đường Hồ Chí Minh, đường ngang nối Cảng Nghi Sơn với đường Hồ
Chí Minh, đường quốc lộ 15a , 15b đi qua.
Cơ cấu kinh tế: Trong những năm gần đây có bước chuyển dịch tích
cực theo hướng tăng nhanh tỷ trọng các ngành công nghiệp và dịch vụ. Tính
đến tháng 1 năm 2015, cơ cấu kinh tế các ngành là: Nông nghiệp - thủy sản
(38,2%), Công nghiệp xây dựng (32,2%), dịch vụ (29,6%).
Trong thời gian qua đất nước ta nói chung tỉnh Thanh Hóa và huyện
Như Xuân nói riêng đã và đang đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa công tác quản lý chi ngân sách tại huyện gặp thuận lợi và khó khăn:
+ Điều kiện thuận lợi: Được sự quan tâm, tạo điều kiện của ngân sách
cấp tỉnh, Huyện Ủy, HĐND và UBND huyện trong công tác lãnh đạo chỉ đạo

19


điều hành và quản lý chi ngân sách. Hàng năm, dự toán ngân sách cấp huyện
đều phân bổ nguồn kinh phí cho công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình
độ năng lực cho đội ngũ cán bộ và tăng cường cơ sở vật chất nhất là hệ thống
thiết bị tin học để dần đáp ứng được yêu cầu ứng dụng công nghệ thông tin
trong quản lý ngân sách.
Từ những năm 2011, Bộ Tài chính đang thực hiện dự án cải cách quản

lý tài chính công từng bước hiện đại hoá công tác quản lý NSNN từ khâu
lập kế hoạch, chấp hành ngân sách và quyết toán ngân sách bằng việc áp
dụng hệ thống thông tin quản lý ngân sách và kho bạc (được gọi tắt là hệ
thống Tabmis) vào quá trình quản lý (hiện nay mới được áp dụng trong ngành
Tài chính, KBNN từ Trung ương đến ngân sách cấp huyện và một số bộ
ngành thực hiện thí điểm, còn ngân sách cấp xã, các đơn vị sử dụng ngân sách
chưa được tham gia vào hệ thống này) do vậy các đơn vị sử dụng ngân sách
hàng năm cũng sẽ được cấp kinh phí để nâng cấp, hiện đại hóa hệ thống tin
học từ dự án này.
+ Những khó khăn: Trong điều kiện nền kinh tế đất nước nói chung,
nền kinh tế trong tỉnh nói riêng còn gặp nhiều khó khăn trong khi nguồn tăng
thu của ngân sách cấp huyện hàng năm thấp nên kinh phí thực hiện dự án
không được thực hiện dứt điểm trong một năm mà phải kéo dài đến năm 2017
mới hoàn thành.
2.2. Thực trạng công tác quản lý chi NSNN trên địa bàn huyện Như
Xuân 2012- 2014:
Thực hiện Nghị Quyết Đại hội tỉnh Đảng bộ lần thứ XVI và Nghị quyết
Đại hội huyện Đảng bộ lần thứ XX, cùng với triển khai thực hiện đồng bộ
nhiều cơ chế chính sách của Đảng, Nhà nước ưu tiên phát triển kinh tế - xã
hội miền núi, Đảng bộ và nhân dân các dân tộc huyện Như Xuân đã vượt
qua mọi khó khăn thử thách, phát huy truyền thống cách mạng, đoàn kết nỗ

20


lực phấn đấu hoàn thành thắng lợi các mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội, cơ
cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng, kinh tế có bước tăng trưởng khá; gúp
phần xóa đói giảm nghèo, đảm bảo an sinh xã hội, từng bước nâng cao đời
sống của nhân dân, quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội được giữ vững.
Kinh tế tiếp tục tăng trưởng khá, cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng

hướng: Tăng trưởng kinh tế năm 2014 đạt 17,90%, tăng 0,18% so với năm
2013; tổng giá trị sản xuất đạt 1.017,76 tỷ đồng, đạt 100,0% KH, tăng 154,54
tỷ đồng so với năm 2013. Cơ cấu kinh tế: Nông lâm, nghiệp, thuỷ sản chiếm
38,2%, giảm 0,7%; Công nghiệp - TTCN - Xây dựng chiếm 32,2%, tăng
0,3%; dịch vụ - thương mại chiếm 29,60%, tăng 0,40% so với năm 2013. Thu
nhập bình quân đầu người đạt 13,72 triệu đồng/người/năm, đạt 100,88% kế
hoạch.
Dưới sự lãnh đạo của Thường trực Huyện ủy, UBND huyện công tác
quản lý chi ngân sách nhà nước tại huyện Như Xuân tỉnh Thanh Hóa, trong
những năm qua đạt kết quả sau:
* Công tác lập, phân bổ dự toán:
Hàng năm vào tháng 12, căn cứ vào quyết định giao dự toán chi NSNN
của UBND tỉnh Thanh Hóa, nhiệm vụ cụ thể của năm kế hoạch, những chỉ
tiêu dân số, biên chế, định mức phân bổ ngân sách đối với chi đầu tư XDCB,
chi thường xuyên, chủ trương của Ban Thường vụ Huyện Ủy làm cơ sở lập dự
toán chi ngân sách năm sau trình HĐND huyện phê chuẩn. Sau khi được
HĐND huyện phê chuẩn dự toán chi NSNN, UBND huyện thực hiện giao dự
toán chi đầu tư XDCB chi tiết đến từng dự án, từng công trình cho các chủ
đầu tư; giao kinh phí chi thường xuyên đến từng đơn vị sử dụng ngân sách và
quyết định giao dự toán chi cho ngân sách cấp xã. Sau khi cấp xã nhận được
quyết định giao dự toán chi NSNN của huyện, UBND xã lập dự toán chi tiết
trình HĐND xã phê chuẩn.

21


Phòng Tài chính - kế hoạch chủ trì phối hợp với phòng Công thương,
phòng Nông nghiệp và phát triển nông thôn trong việc lập dự toán vốn đầu tư
XDCB; Lập dự toán chi thường xuyên đối với các nhiệm vụ chi, lập dự toán
chi ngân sách xã để UBND huyện trình HĐND huyện phê chuẩn.

Kết quả phân bổ dự toán được thể hiện ở bảng 2.1 như sau:
Bảng 2.1. Kết quả phân bổ dự toán chi NSNN qua các năm tại Như
Xuân
Đơn vị: Triệu đồng
Nội dung
Tổng số chi
1. Chi đầu tư phát

2012
218.119
25.000

2013
314.483
34.000

2014
341.827
21.000

2. Chi thường xuyên
3. Chi dự phòng
4. Chi từ nguồn thu

147.348
5.382

219.254
5.382


245.934
5.059

để lại quản lý qua NSNN

416

416

1.098

39.973

55.431

68.736

triển

tại ĐP
5. Chi bổ sung ngân
sách xã
Nguồn: Phòng Tài chính - Kế hoạch huyện Như Xuân2012-2014.
Qua bảng số liệu 2.1 cho thấy nhiệm vụ chi ngân sách huyện đều tăng
qua các năm, phù hợp với tình hình phát triển KT- XH của huyện. Nhìn chung
công tác lập dự toán chi trên địa bàn huyện cơ bản đã thực hiện đúng quy
định, đảm bảo thời gian quy định của Luật NSNN. Tuy nhiên chất lượng chưa
cao thể hiện: Còn mất cân đối về cơ cấu chi, chi đầu tư phát triển năm 2014
giảm so với năm 2013 là 40%, chi thường xuyên tăng (Năm 2014 tăng
12,17% so với năm 2013); việc bố trí vốn còn dàn trải, một số nhiệm vụ chi

chưa theo đúng định mức quy định của tỉnh...những tồn tại này kéo dài, chậm
được khắc phục; việc trích dự phòng ngân sách chưa thật sự đúng theo quy

22


định của Luật là từ 2% - 5% tổng số chi, nhất là các năm về sau của giai đoạn
ổn định ngân sách, nguyên nhân do tỉnh phê duyệt và tính ổn định số dự
phòng theo năm đầu của thời kỳ ngân sách.
- Đối với dự toán chi đầu tư XDCB
Ngân sách cấp huyện căn cứ vào nguồn vốn XDCB tập trung được
UBND tỉnh giao, nguồn đấu giá giá trị quyền sử dụng đất được điều tiết lại
theo tỷ lệ % cho ngân sách, nguồn thu đóng góp xây dựng, nguồn vốn hợp
pháp khác. Căn cứ khối lượng XDCB hoàn thành, khối lượng dự kiến sẽ
hoàn thành, lượng vốn đã thanh toán, những dự án mang tính chất cấp bách để
phục vụ phòng chống lụt bão, phát triển sản xuất, UBND huyện lập dự toán
chi tiết tới từng dự án, từng công trình và phân bổ theo quan điểm: ưu tiên
nguồn vốn để chi trả nợ đối với những công trình XDCB hoàn thành bàn giao
đưa vào sử dụng đã được phê duyệt quyết toán, những công trình XDCB đã
hoàn thành bàn giao đưa vào sử dụng và bố trí vốn cho các công trình chuyển
tiếp và khởi công mới. Đối với dự toán chi đầu tư XDCB cấp xã UBND
huyện ban hành quyết định giao tổng dự toán chi đầu tư XDCB, UBND các
xã, thị trấn trình HĐND xã phân bổ chi tiết cho từng công trình.
Bên cạnh những mặt ưu điểm, trong công tác lập, phân bổ dự toán chi
đầu tư XDCB còn biểu hiện những bất cập như: Chất lượng lập dự toán của
các chủ đầu tư chưa đạt yêu cầu, khối lượng dự kiến thực hiện đến thời điểm
lập dự toán chưa sát với thực tế nên trong năm còn phải bổ sung, điều chỉnh
dự toán, bổ sung danh mục công trình dẫn đến chưa chủ động được trong quá
trình điều hành chi đầu tư XDCB. Cơ cấu chi đầu tư giữa các ngành, các lĩnh
vực chưa hợp lý, mới ưu tiên chủ yếu phân bổ vốn cho 2 lĩnh vực là giao

thông và thuỷ lợi, các lĩnh vực khác như đầu tư cho các công trình về phát
triển văn hoá, thể thao, nghiên cứu khoa học, kiến thiết thị chính, quản lý nhà
nước, đầu tư xây dựng nhà máy chế biến nông sản, thực phẩm… chưa đáp

23


ứng được với yêu cầu đặt ra.Việc phân bổ dự toán vốn đầu tư XDCB cho các
công trình còn dàn trải, chưa mang tính trọng tâm trọng điểm. Vẫn còn một số
xã lập dự toán chi đầu tư XDCB chưa nghiêm, chưa phân bổ hết nguồn vốn
đầu tư cho các công trình mà sử dụng nguồn đầu tư để phân bổ cho chi
thường xuyên. Cơ cấu đầu tư trong một số ngành, lĩnh vực còn bất cập, chưa
bám sát với nhu cầu thực tế. Nhìn chung việc phân bổ nguồn vốn đầu tư
XDCB từ NSNN của huyện Như Xuân chưa thật sự bám sát mục tiêu công
nghiệp hoá - hiện đại hoá, phát triển các ngành công nghiệp, dịch vụ, xoá đói
giảm nghèo, đôi khi việc phân bổ vốn còn mang tính chất mang mún, cục bộ.
- Đối với lập, phân bổ dự toán chi thường xuyên
Căn cứ nhiệm vụ chi thường xuyên được HĐND tỉnh phân cấp, nguồn
kinh phí được ngân sách tỉnh giao, mục tiêu phát triển KT- XH và định mức
phân bổ chi ngân sách theo Quyết định số 4455/2010/QĐ-UBND ngày
13/12/2010 của UBND tỉnh Thanh Hoá về việc định mức phân bổ chi thường
xuyên ngân sách địa phương năm 2011 và ổn định đến năm 2015. Với nguyên
tắc phân bổ là ổn định trong thời gian dài 05 năm, lấy định mức năm đầu thời
kỳ ổn định làm cơ sở cho các năm sau và cộng thêm các chế độ chính sách cải
cách tiền lương tăng thêm để xác định cho các năm tiếp theo, quy định định
mức phân bổ dự toán chi thường xuyên cho từng cấp ngân sách trong đó có
quy định mức phân bổ dự toán chi thường xuyên cho ngân sách cấp huyện và
ngân sách cấp xã theo từng nhiệm vụ chi.
Trong định mức phân bổ có tính đến các đơn vị có dân số thấp, đơn vị
miền núi để đảm bảo cho các đơn vị hoàn thành nhiệm vụ được giao, phòng

Tài chính - Kế hoạch huyện theo chức năng nhiệm vụ được quy định tại Luật
NSNN thực hiện lập dự toán chi ngân sách cấp huyện, cấp xã để UBND
huyện trình HĐND huyện phê chuẩn và thực hiện chức năng quản lý NSNN
đối với cấp xã là kiểm tra dự toán ngân sách xã khi đã được HĐND xã phê

24


×