Tải bản đầy đủ (.doc) (113 trang)

luan van giáo dục ý thức pháp luật cho đồng bào dân tộc khmer

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (445.84 KB, 113 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Xuất phát từ yêu cầu của công cuộc đổi mới đất nước, Đảng và Nhà
nước ta chủ trương xây dựng một “Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam” thực sự của dân, do dân, vì dân, với mục tiêu “dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Không ngừng xây dựng và hoàn
thiện hệ thống pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, nâng cao dân
trí và trình độ hiểu biết pháp luật cho mọi thành viên trong xã hội.
Cùng với việc chú trọng xây dựng một hệ thống pháp luật thống nhất,
đồng bộ, Nhà nước đã tiến hành nhiều biện pháp nhằm đưa pháp luật đi vào
cuộc sống, bảo đảm cho pháp luật được thi hành một cách nghiêm minh,
thống nhất và công bằng. Một trong những biện pháp có tầm quan trọng đặc
biệt đó là tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật. Đây là một biện pháp
không thể thiếu được trong quá trình xây dựng và thực hiện pháp luật, nhằm
hình thành một cách bền vững ý thức tôn trọng pháp luật, thực hiện “sống và
làm việc theo Hiến pháp và pháp luật” của người dân.
Xác định đúng tầm quan trọng của công tác tuyên truyền, phổ biến,
giáo dục nâng cao ý thức pháp luật cho nhân dân nên trong Văn kiện Đại hội
Đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Đảng ta nhấn mạnh phải “phát huy dân chủ đi
đôi với giữ vững kỷ luật, kỷ cương, tăng cường pháp chế, quản lý xã hội bằng
pháp luật, tuyên truyền, giáo dục toàn dân nâng cao ý thức chấp hành pháp
luật” [20,tr.135]. Đây chính là điều kiện đảm bảo cho công cuộc đổi mới và
hội nhập quốc tế thành công, khẳng định vị thế ngày càng cao của Việt Nam
trên trường quốc tế.
Tuy nhiên, thực tế công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật
cho nhân dân trong những năm qua còn nhiều hạn chế, chưa được đặt ngang
tầm với yêu cầu quản lý xã hội bằng pháp luật. Kiểm điểm 3 năm thực hiện
Chỉ thị số: 32-CT/TW, ngày 09/12/2003 của Ban Bí thư Trung ương Đảng
(khoá IX) về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác phổ biến,



2
giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ, nhân
dân”, Ban Bí thư Trung ương Đảng (khoá X) kết luận:
Một số cấp uỷ, tổ chức Đảng nhận thức chưa đầy đủ về công
tác này,…Giáo dục pháp luật trong nhà trường, ngoài xã hội chậm
đổi mới, còn nặng về lý thuyết, ít gắn với thực tiễn cuộc sống, nội
dung phổ biến, giáo dục pháp luật chưa sâu, thiếu trọng tâm, trọng
điểm, nhất là với các đối tượng đặc thù. Việc ban hành văn bản quy
phạm pháp luật còn chậm, giới thiệu, học tập, nghiên cứu pháp luật
chưa được nhiều, đối tượng tiếp cận còn trong phạm vi hẹp [3, tr.2].
Vì thế vấn đề tăng cường tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật để
nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của nhân dân là rất cấp thiết, có ý nghĩa
lý luận và thực tiễn ở nước ta hiện nay. Nó trở thành yếu tố khách quan của
quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân,
vì dân trong thời kỳ mới.
Kiên Giang là tỉnh tận cùng phía Tây Nam của Tổ quốc, có cộng đồng
người Khmer khá lớn với gần 24 vạn người (chiếm 14% dân số toàn tỉnh).
Đồng bào dân tộc Khmer Kiên Giang sống bằng nghề nông và cư trú ở vùng
sâu, vùng xa, vùng biên giới, hải đảo. Những năm gần đây thực hiện chính
sách ưu tiên đối với đồng bào dân tộc Khmer như Chỉ thị số 68-CT/TW của
Ban Bí thư (khoá VII), Chương trình 135/CP của Chính phủ làm cho đời sống
vật chất và trình độ văn hoá của đồng bào dân tộc Khmer có nâng lên, nhưng
do đồng bào dân tộc Khmer sinh sống ở vùng sâu, vùng xa, phương tiện đi lại
khó khăn, các điều kiện để tiếp nhận thông tin, nhất là thông tin pháp lý, văn
bản pháp luật rất hạn chế cho nên ý thức pháp luật không cao, nhiều vụ vi
phạm Luật hình sự, luật dân sự, luật hôn nhân và gia đình, luật giao thông
đường bộ và đường thuỷ…thường xuyên xảy ra với mức độ ngày càng nghiêm
trọng. Đặc biệt, hiện nay một số phần tử xấu lợi dụng chính sách dân tộc, tôn
giáo của Đảng và Nhà nước để kích động đồng bào Khmer vượt biên trái phép,

khiếu kiện đông người…làm ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự trên địa
bàn Tỉnh.


3
Vấn đề đặt ra hiện nay là phải tăng cường tuyên truyền giáo dục đưa
pháp luật vào cuộc sống của đồng bào dân tộc Khmer, để họ hiểu và làm theo
pháp luật, giảm bớt những hủ tục lạc hậu, những vụ vi phạm pháp luật qua đó
nâng cao đời sống vật chất và văn hoá tinh thần, góp phần ổn định tình hình
an ninh trật tự ở địa phương. Với những lý do trên tác giả chọn vấn đề: "Giáo
dục ý thức pháp luật cho đồng bào dân tộc Khmer tỉnh Kiên Giang hiện
nay" làm đề tài luận văn Thạc sĩ của mình, bởi đây là vấn đề cấp thiết cả về
lý luận và thực tiễn ở Kiên Giang hiện nay.
2. Lịch sử nghiên cứu của đề tài
Do yêu cầu đòi hỏi ngày càng cao của công tác tư tưởng, công tác
tuyên truyền, đặc biệt là tuyên truyền pháp luật, cho nên Đảng và Nhà nước
ta đã có những văn bản cụ thể về công tác tuyên truyền pháp luật. Chẳng hạn:
Chỉ thị số: 315/CT ngày 07/12/1982 của Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng giao
cho Uỷ ban nhân dân các cấp chỉ đạo công tác tuyên truyền pháp luật; Chỉ thị
số 02/1998 CT-TTg ngày 07/01/1998 của Thủ tướng chính phủ “Về tăng
cường công tác phổ biến pháp luật” và Quyết định số: 03/1998 ngày
19/6/1998 của Bộ tư pháp hướng dẫn các ngành, chính quyền địa phương các
cấp về “Tăng cường công tác tuyên truyền giáo dục pháp luật cho nhân dân”;
Chỉ thị số 32-CT/TW, ngày 9/12/2003 của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khoá
IX) về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác phổ biến, giáo dục
pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ, nhân dân”;
Thông báo số 74-TB/TW, ngày 11/5/2007 của Ban Bí thư Trung ương Đảng
(khoá X) về “Tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 32-CT/TW của Ban Bí thư Trung
ương Đảng (khoá IX) về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác
phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cán

bộ, nhân dân”.
Ngoài ra còn nhiều tác giả nghiên cứu xung quanh vấn đề về giáo dục
pháp luật, giáo dục ý thức pháp luật như: “Nâng cao ý thức pháp luật của đội
ngũ cán bộ quản lý hành chính”, Luận án Phó Tiến sĩ của Lê Đình Khiêm,


4
1993; “Giáo dục pháp luật thông qua hoạt động tư pháp ở Việt Nam”, Luận
án Phó tiến sĩ của Dương Thị Thanh Mai, 1996; “Giáo dục pháp luật trong
các trường Trung học chuyên nghiệp và dạy nghề ở nước ta hiện nay”, Luận
án Phó tiến sĩ của Đinh Xuân Thảo, 1996;“Ý thức pháp luật và giáo dục pháp
luật ở Việt Nam”, Luận án Phó Tiến sĩ của Nguyễn Đình Lộc, 1997; “Giáo
dục ý thức pháp luật với việc tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa”, Luận
án Phó Tiến sĩ của Trần Ngọc Đường, 1998; “Sự phát triển ý thức pháp luật
của nhân dân đồng bằng sông Cửu Long trong điều kiện đổi mới ở Việt
Nam”, Luận án Tiến sĩ luật học của Hồ Việt Hiệp, 2004; “Giáo dục pháp luật
cho nhân dân các dân tộc ít người ở tỉnh Đắk Lắk - Thực trạng và giải pháp”,
Luận văn Thạc sĩ luật học của Phạm Hàn Lâm, 2001; “Giáo dục pháp luật
cho cán bộ chính quyền cấp xã ở tỉnh Đăk Lắk hiện nay”, Luận văn Thạc sĩ
luật học của Đỗ Văn Dương, 2002; “Giáo dục pháp luật cho nông dân tỉnh
Thái Bình trong giai đoạn hiện nay”, Luận văn Thạc sĩ luật học của Hoàng
Trung Thành, 2004.
Đối với đồng bào dân tộc Khmer ở Nam bộ nói chung và Kiên Giang
nói riêng cũng có nhiều đề tài nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau như:
“Phát triển đời sống tinh thần của đồng bào dân tộc Khmer nam bộ trong
công cuộc đổi mới hiện nay”, Luận án Tiến sĩ của Trần Thanh Nam, 2001;
“Quá trình thực hiện chính sách dân tộc của Đảng Cộng sản Việt Nam đối
với đồng bào Khmer ở đồng bằng sông Cửu Long”, Luận án Tiến sĩ của
Nguyễn Thanh Thuỷ, 2001; “Nâng cao truyền thống văn hóa dân tộc nhằm
phát huy nhân tố con người của đồng bào Khmer đồng bằng sông Cửu

Long”, Luận văn Thạc sĩ Triết học của Huỳnh Thanh Quang, 1993; “ Nâng
cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các đảng bộ xã vùng đồng bào
Khmer tập trung ở tỉnh Kiên Giang hiện nay”, Luận văn Thạc sĩ chuyên
ngành Xây dựng Đảng của Nguyễn Việt Dũng, 2000; “Đổi mới việc thực
hiện chính sách dân tộc đối với đồng bào các dân tộc thiểu số tỉnh Kiên
Giang hiện nay”, Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Chủ nghĩa cộng sản khoa
học của Ngô Kim Y, 2001; “Nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác tư


5
tưởng của Đảng ở vùng có đông người Khmer trong giai đoạn hiện nay”,
Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Xây dựng Đảng của Nguyễn Sỹ Đệ, 2005;
"Chất lượng công tác tư tưởng của các đảng bộ xã vùng có đông đồng bào
Khmer tỉnh Kiên Giang giai đoạn hiện nay", Luận văn Thạc sĩ chuyên
ngành Xây dựng Đảng của Thái Thị Duy Quyên, 2005; Phân viện thành phố
Hồ Chí Minh, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh (2003): Một số
giải pháp nâng cao đời sống cho đồng bào dân tộc Khmer ở miền Tây Nam
bộ trong giai đoạn hiện nay, Kỷ yếu đề tài khoa học cấp Bộ, thành phố Hồ
Chí Minh; Trung tâm Khoa học về tín ngưỡng tôn giáo, Học viện Chính trị
Quốc gia Hồ Chí Minh (2003): Vấn đề tôn giáo ở khu vực đồng bào Khmer
Tây Nam bộ hiện nay, Kỷ yếu đề tài khoa học cấp Bộ, Hà Nội.
Nhìn chung các công trình trên đây của các tác giả đã nghiên cứu một
cách sâu sắc có hệ thống về lý luận giáo dục pháp luật và giáo dục ý thức
pháp luật trên phạm vi cả nước. Đặc biệt có rất nhiều tác giả đi sâu nghiên
cứu đời sống, văn hoá, tư tưởng của đồng bào dân tộc Khmer dưới nhiều gốc
độ như: Triết học, Xây dựng Đảng, Chủ nghĩa xã hội khoa học, Luật
học...Tuy nhiên có thể nói rằng, cho đến nay chưa có một công trình, luận án,
luận văn nào nghiên cứu vần đề “Giáo dục ý thức pháp luật cho đồng bào
dân tộc Khmer tỉnh Kiên Giang hiện nay” từ góc độ công tác tuyên truyền.
Do vậy, tác giả lựa chọn vấn đề này làm Luận văn tốt nghiệp Cao học ngành

Chính trị học, chuyên ngành công tác tư tưởng.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
3.1. Mục đích: làm sáng tỏ cơ sở lý luận của công tác giáo dục ý thức
pháp luật cho đồng bào dân tộc Khmer, từ đó khảo sát thực trạng và đề xuất
một số giải pháp nâng cao hiệu quả công tác giáo dục ý thức pháp luật cho
đồng bào dân tộc Khmer ở tỉnh Kiên Giang trong giai đoạn hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ:
- Trình bày và phân tích một số vấn đề lý luận chung về ý thức pháp
luật, giáo dục ý thức pháp luật và tầm quan trọng của việc giáo dục ý thức
pháp luật trong cộng đồng người dân tộc Khmer.


6
- Nghiên cứu thực trạng công tác giáo dục pháp luật và ý thức pháp luật
của đồng bào dân tộc Khmer ở Kiên Giang hiện nay.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác giáo dục ý
thức pháp luật cho đồng bào dân tộc Khmer tỉnh Kiên Giang trong giai đoạn
hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
- Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu về vấn đề giáo dục ý thức pháp luật
cho đồng bào dân tộc Khmer trên địa bàn Tỉnh Kiên Giang từ góc độ công tác
tuyên truyền, một hoạt động quan trọng trong công tác tư tưởng của Đảng.
- Luận văn giới hạn thời gian nghiên cứu từ Đại hội Đại biểu toàn quốc
lần thứ IX (năm 2001) của Đảng đến nay.
5. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được tiến hành dựa trên cơ sở phương pháp luận của Chủ
nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chính sách của Đảng;
đồng thời sử dụng các phương pháp nghiên cứu như: phân tích, tổng hợp, thu
thập tài liệu, nghiên cứu và xử lý tài liệu, khảo sát thực tế, điều tra xã hội học,
thống kê, quan sát, so sánh.

6. Cái mới của đề tài
- Luận văn góp phần vào việc nhận thức rõ tính đặc thù và thực trạng
giáo dục pháp luật và ý thức pháp luật của đồng bào dân tộc Khmer ở tỉnh
Kiên Giang hiện nay, từ đó nâng cao nhận thức trách nhiệm chỉ đạo, tổ chức
hoạt động thực tiễn của các cấp uỷ Đảng, chính quyền trong việc giáo dục ý
thức pháp luật đối với đồng bào dân tộc Khmer ở Kiên Giang.
- Các giải pháp đề ra trong Luận văn có thể được áp dụng trong việc xây
dựng chương trình giáo dục pháp luật cho đồng bào Khmer ở tỉnh Kiên Giang.
- Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho quá trình nghiên cứu,
giảng dạy và học tập ngành chính trị học - chuyên ngành công tác tư tưởng.
7. Kết cấu của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn
được kết cấu thành 3 chương, 10 tiết.


7
Chương 1
GIÁO DỤC Ý THỨC PHÁP LUẬT VÀ TẦM QUAN TRỌNG
CỦA NÓ ĐỐI VỚI CỘNG ĐỒNG NGƯỜI KHMER
1.1. Ý THỨC PHÁP LUẬT VÀ GIÁO DỤC Ý THỨC PHÁP LUẬT

1.1.1. Ý thức pháp luật
1.1.1.1. Khái niệm
Ý thức pháp luật là một hình thái ý thức xã hội có những quy luật và
đặc điểm chung của ý thức xã hội. Song, ý thức pháp luật lại có tính độc lập
tương đối so với tồn tại xã hội và các hình thái ý thức xã hội khác, với những
đặc điểm riêng của mình. Điều này được thể hiện ở những điểm chủ yếu sau:
Thứ nhất, cũng như bất kỳ hình thái ý thức xã hội nào, ý thức pháp luật
của một thời đại bao giờ cũng phản ánh tồn tại xã hội của thời đại đó. Nó chịu
sự tác động của các điều kiện vật chất của xã hội. Sự chuyển biến của nền

kinh tế - xã hội sẽ dẫn đến sự biến đổi trong ý thức pháp luật và tất yếu sẽ
dẫn đến sự biến động trong pháp luật. Tuy nhiên, các hình thái ý thức xã hội
khác không chỉ phản ánh trạng thái của các quan hệ xã hội mà cả khuynh
hướng phát triển của chúng. Trong khi đó, ý thức pháp luật lại lạc hậu hơn,
chậm biến đổi hơn so với tồn tại xã hội - tồn tại xã hội cũ mất đi, nhưng ý
thức pháp luật vẫn còn được duy trì trong một thời gian dài, đặc biệt là tâm lý
pháp luật.
Mặt khác, trong những điều kiện nhất định, ý thức pháp luật, đặc biệt là
tư tưởng pháp luật khoa học, lại có thể vượt trước so với sự phát triển của tồn
tại xã hội, vạch đường cho sự phát triển của pháp luật.
Thứ hai, ý thức pháp luật mang tính kế thừa sâu sắc. Mặc dù, ý thức
pháp luật phản ánh tồn tại xã hội của một thời đại nhất định, nhưng nó cũng
kế thừa những yếu tố của ý thức pháp luật trong các thời đại trước đó. Chính
vì vậy, mà từ thế hệ này, đến thế hệ khác, các tư tưởng, quan điểm pháp luật
được kế thừa và phát triển. Đặc biệt, những tư tưởng, quan điểm pháp luật
tiến bộ, có giá trị nhân bản không những được truyền lại qua các thời đại mà


8
ngay trong một thời đại cũng có sự tiếp nhận, trao đổi giữa các nước có chế
độ chính trị khác nhau về một số yếu tố nhất định.
Thứ ba, ý thức pháp luật có khả năng tác động trở lại đối với tồn tại xã
hội. Sự tác động ấy, ngày càng trực tiếp hơn, do ý thức pháp luật có khả năng
phản ánh đúng tồn tại xã hội và cải tạo xã hội. Ngược lại, nếu ý thức pháp
luật đã trở nên lạc hậu, không theo kịp sự biến đổi của tồn tại xã hội hay phản
ánh không đúng tồn tại xã hội thì sẽ kìm hãm sự phát triển của xã hội.
Thứ tư, ý thức pháp luật có mối quan hệ tác động qua lại với các hình
thái ý thức xã hội khác, nhất là đối với ý thức chính trị và ý thức đạo đức.
Nếu ý thức chính trị phản ánh những mối quan hệ giữa các tập đoàn
người trong xã hội đối với quyền lực nhà nước, thì ý thức pháp luật phản

ánh mối quan hệ của con người đối với những quy tắc được chấp nhận
trong xã hội nhất định, với tính cách là một yếu tố áp đặt từ bên ngoài. Yếu
tố này, được phục tùng vô điều kiện, nhưng đồng thời cũng nhận sự đánh
giá nhất định. Khác với ý thức đạo đức phản ánh mối quan hệ giữa các cá
nhân theo những quan điểm riêng mà con người đánh giá chính “cái tôi”
của mình, nghĩa vụ và công bằng theo ý thức đạo đức mang tính nội tâm và
tự nguyện, ý thức pháp luật là thể hiện sự tuân thủ, công nhận nghĩa vụ và
công bằng do Nhà nước quy định, nên nó mang tính áp đặt và cưỡng chế.
Giữa ý thức pháp luật, ý thức chính trị, ý thức đạo đức có mối quan hệ
tác động lẫn nhau, vì chúng cùng phản ánh và chịu sự quy định của tồn tại xã
hội, nhất là sự quy định của chế độ kinh tế. Quan hệ giữa ý thức pháp luật, ý
thức chính trị, ý thức đạo đức là mối quan hệ hữu cơ, làm tiền đề cho nhau.
Nếu ý thức chính trị tác động chi phối ý thức pháp luật, nhất là thông qua hệ
tư tưởng chính trị thì ngược lại ý thức pháp luật phản ánh những yêu cầu
chính trị dưới góc độ pháp luật. Chính mối quan hệ chặt chẽ này làm cho một
số người lầm tưởng ý thức pháp luật là một bộ phận của ý thức chính trị. Ý
thức pháp luật và ý thức đạo đức đều cùng hướng vào việc điều chỉnh hành vi
con người nên chúng chịu ảnh hưởng và hỗ trợ nhau rất lớn.


9
Trong lịch sử loài người đã từng có những thời kỳ mà luật lệ được coi
là truyền thống đạo đức. Cùng với sự phân chia xã hội thành giai cấp và sự
hình thành Nhà nước, ý thức pháp luật ra đời và phát triển song song cùng với
ý thức đạo đức. Đây là sự phát triển có tính chất “cộng hưởng” rất cao; bởi lẽ,
một ý thức pháp luật mạnh chỉ nảy sinh và tồn tại trên nền tảng của những giá
trị đạo đức tốt và ngược lại.
Ý thức pháp luật là một hiện tượng mang tính giai cấp, nó phản ánh đời
sống pháp luật. Đời sống pháp luật trước hết là nhu cầu điều chỉnh hành vi xử
sự của con người bằng các quy tắc, nhằm tạo lập một trật tự xã hội nhất định.

Nhu cầu này trong xã hội có giai cấp, được các giai cấp thống trị nhận thức và
hình thành ý thức pháp luật của giai cấp mình.
Nhu cầu điều chỉnh hành vi của con người trong đời sống cộng đồng vốn
là một phạm trù khách quan. Tuy nhiên, các giai cấp khác nhau nhìn nhận nhu
cầu đó từ nhiều góc độ khác nhau, hình thành ý thức pháp luật khác nhau.
Ý thức pháp luật của giai cấp thống trị giữ địa vị thống trị trong xã hội.
Các giai cấp bị trị chịu sự chi phối, tác động bởi ý thức pháp luật của giai cấp
thống trị.
Trên cơ sở phân tích bản chất của ý thức pháp luật, chúng ta nhận thấy
rằng ý thức pháp luật là một hiện tượng tinh thần xã hội hết sức phức tạp. Do
đó, dưới nhiều góc độ nghiên cứu khác nhau thì có nhiều quan niệm khác
nhau về khái niệm ý thức pháp luật.
Có quan niệm cho rằng: ý thức pháp luật là một hình thái ý thức xã hội
biểu thị mối quan hệ của con người đối với pháp luật. Đây là quan niệm mang
tính khái quát cao, nhưng lại quá chung, chưa phản ánh kết cấu, nội dung và
nguồn gốc ý thức pháp luật.
Một số quan niệm thường chỉ đề cập và nhấn mạnh mặt này hay mặt
khác của ý thức pháp luật. Chẳng hạn có tác giả chỉ nhấn mạnh cơ cấu của ý
thức pháp luật, như cho rằng: “Ý thức pháp luật là tổng hợp những tư tưởng,
quan điểm pháp luật và tâm lý pháp luật. Hay nói cụ thể hơn, là tổng hợp
những nhận thức, những hiểu biết quan điểm pháp lý, những tình cảm pháp


10
luật, cùng với sự tôn trọng và thói quen chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật”
[40, tr.235]. Về mặt bản chất giai cấp có tác giả cho rằng: ý thức pháp luật xã
hội chủ nghĩa là tổng hoà những quan điểm, quan niệm, tình cảm về mặt pháp
luật thể hiện thái độ của giai cấp công nhân và của nhân dân lao động do giai
cấp công nhân lãnh đạo, đối với pháp luật, đối với những yêu cầu khác của
pháp luật, đối với các quyền và nghĩa vụ của công dân. Một số ý kiến khác lại

thu hẹp cơ cấu của ý thức pháp luật, chỉ nhấn mạnh một mặt của tri thức pháp
luật mà không đề cập đến tâm lý pháp luật như:
Ý thức pháp luật là tổng thể những học thuyết, tư tưởng, quan
điểm và quan niệm thịnh hành trong xã hội, thể hiện mối quan hệ
thông qua sự hiểu biết của con người đối với pháp luật hiện hành,
pháp luật đã qua và pháp luật cần phải có, thể hiện sự đánh giá về
tính hợp pháp hay không hợp pháp trong hành vi xử sự của con
người cũng như trong hoạt động của các cơ quan nhà nước và tổ
chức xã hội [14, tr.229].
Có quan niệm đề cập tới ý thức pháp luật một cách đầy đủ hơn, khi nêu
lên được cả tính chất, cơ cấu và nội dung của ý thức pháp luật:
Ý thức pháp luật - một hình thái ý thức xã hội, là tổng thể
những quan điểm, khái niệm, học thuyết pháp lý, tình cảm của con
người (cá nhân, giai cấp, tầng lớp) thể hiện thái độ của họ đối với
pháp luật hiện hành, trật tự pháp luật, sự đánh giá về tính công bằng
hay không công bằng, đúng đắn hay không đúng đắn của pháp luật
hiện hành, pháp luật đã qua và pháp luật trong tương lai, về hành vi
hợp pháp, hành vi không hợp pháp của cá nhân, các cơ quan nhà
nước, tổ chức [31, tr.290].
Trên cơ sở kế thừa các yếu tố hợp lý của các quan niệm nêu trên, có
thể rút ra định nghĩa ý thức pháp luật như sau: ý thức pháp luật là một hình
thái ý thức xã hội phản ánh trực tiếp đời sống pháp luật thông qua những
quan điểm, tư tưởng, tình cảm của con người (cá nhân, giai cấp, tầng lớp)


11
đối với pháp luật, thể hiện sự hiểu biết, thái độ và sự đánh giá về pháp
luật, về quyền lợi và nghĩa vụ của con người trong xã hội, về hành vi hợp
pháp hay không hợp pháp của cá nhân, các cơ quan nhà nước, các tổ chức
trong xã hội.

Định nghĩa trên chỉ rõ bản chất của ý thức pháp luật: một hình thái ý
thức xã hội có nguồn gốc trực tiếp là đời sống pháp luật, một lĩnh vực độc lập
tương đối trong đời sống xã hội, đồng thời cũng nêu lên cơ cấu và nội dung
của ý thức pháp luật. Điều đó có ý nghĩa thực tiễn quan trọng, một mặt nó
phê phán quan điểm cho rằng ý thức pháp luật là một bộ phận của ý thức
chính trị, phụ thuộc vào ý thức chính trị, và mặt khác qua đó thấy được bản
chất, vai trò to lớn của ý thức pháp luật trong đời sống xã hội, để có thái độ
xử sự đúng đắn như nó đang tồn tại.
1.1.1.2. Cấu trúc
Ý thức pháp luật là hiện tượng chính trị - pháp lý có cơ cấu phức tạp.
Theo giáo trình trường Đại học luật Hà Nội, trường Đại học Tổng hợp Hà
Nội, Học viện hành chính quốc gia thì căn cứ vào những tiêu chí khác nhau
có thể chia ý thức pháp luật thành những bộ phận cấu thành khác nhau:
Một là, căn cứ vào mức độ phản ánh và trình độ nhận thức, có thể chia
ý thức pháp luật thành ý thức pháp luật thông thường, ý thức pháp luật khoa
học. Ý thức pháp luật thông thường nảy sinh một cách trực tiếp, tự phát từ
hoạt động giao tiếp thường ngày với các sự kiện và hiện tượng pháp luật. Nó
mang tính cảm xúc tâm lý và kinh nghiệm tình cảm, nên thiếu sâu sắc và
không ổn định. Nhưng do phản ánh trực tiếp, nên nó phản ánh đầy đủ hơn đặc
điểm của hoàn cảnh với tất cả các chi tiết và sắc thái của nó.
Ý thức pháp luật khoa học được thể hiện dưới dạng lý luận, quan điểm
về bản chất pháp luật, về sự tác động qua lại giữa chính sách pháp luật với
các hiện tượng xã hội khác, về vai trò và giá trị xã hội của pháp luật…


12
Khác với ý thức pháp luật thông thường, ý thức pháp luật khoa học
phản ánh một cách sâu sắc, ổn định và có hệ thống các hiện tượng pháp luật
thông qua nghiên cứu và tổng hợp kiến thức pháp luật.
Hai là, căn cứ vào chủ thể phản ánh ý thức pháp luật, có thể chia ý

thức pháp luật thành: ý thức pháp luật cá nhân, ý thức pháp luật nhóm và ý
thức pháp luật xã hội. Ý thức pháp luật cá nhân là những tư tưởng và tâm lý
pháp luật của một con người cụ thể. Do sự khác biệt về điều kiện sống, hoàn
cảnh gia đình, môi trường giáo dục, trình độ học vấn, sự từng trải của mỗi
người nên ý thức pháp luật của mỗi cá nhân cũng khác nhau, đa dạng và
phong phú.
Ý thức pháp luật của nhóm phản ánh những đặc điểm của từng nhóm
xã hội tương ứng. Trong xã hội thường có nhiều nhóm khác nhau, do điều
kiện sống, nhu cầu lợi ích riêng của mỗi nhóm mà những thành viên trong
nhóm có những nhận thức, suy nghĩ, tình cảm, thái độ tương đối giống nhau
đối với pháp luật.
Ý thức pháp luật xã hội là tổng thể những tư tưởng và tâm lý pháp luật
phản ánh đời sống pháp luật của một xã hội. Ý thức pháp luật xã hội xuất
phát từ ý thức pháp luật cá nhân, nhưng không phải là tổng số giản đơn hay
trung bình cộng sự phản ánh của các cá nhân mà là một “nguyên thể” mới về
chất những ý thức pháp luật cá nhân, là một hệ thống hoàn chỉnh hình thành
từ sự tác động lẫn nhau giữa ý thức pháp luật cá nhân với cá nhân, cá nhân
với tập thể… và chịu sự qui định bởi ý thức pháp luật của bộ phận tiên tiến
đại diện cho xã hội (giai cấp thống trị).
Ba là, căn cứ vào nội dung và tính chất của sự hình thành ý thức pháp
luật, thì có thể chia ý thức pháp luật thành: tri thức pháp luật và thái độ pháp
luật. Tri thức pháp luật là bao gồm những tư tưởng, quan điểm của con người
về đời sống pháp luật hợp thành hệ thống thống nhất. Tri thức pháp luật là kết
quả của sự phản ánh tri giác, có mục đích, có tổ chức của hoạt động tư duy;
cho nên sự phản ánh này rất sâu sắc, là cơ sở hình thành lý luận, học thuyết
về Nhà nước và pháp luật của một giai cấp nhất định.


13
Thái độ pháp luật là một bộ phận của ý thức pháp luật phản ánh trực

tiếp các hiện tượng pháp luật và sự kiện pháp luật đơn lẻ. Đây là bộ phận
phản ánh thái độ của con người đối với đời sống pháp luật dưới dạng tình
cảm, tâm trạng, thói quen, niềm tin, truyền thống.
Thái độ pháp luật là trình độ nhận thức trực giác, cảm tính mang nhiều
yếu tố chủ quan, tự phát. Những hiện tượng pháp luật xảy ra trong đời sống
xã hội thường tác động đến tâm lý từng cá nhân, từng thành viên tập thể,
trong cộng đồng… Vì vậy, thái độ pháp luật là một bộ phận của tâm lý xã hội
và chịu sự tác động của các quy luật tâm lý xã hội nói chung.
So với tri thức pháp luật, thái độ pháp luật là một bộ phận có tính chất
bền vững hơn và bảo thủ hơn, vì gắn với truyền thống, tập quán, thói quen
của con người. Nó hình thành dần dần và ít biến đổi. Chính vì vậy, quá trình
xoá bỏ ý thức pháp luật lạc hậu, xây dựng ý thức pháp luật mới theo hướng
xã hội chủ nghĩa là quá trình lâu dài, phức tạp, đòi hỏi sự nổ lực toàn diện và
phải kiên trì.
Giữa thái độ pháp luật và tri thức pháp luật có mối quan hệ gắn bó hữu
cơ với nhau. Nhưng không phải lúc nào giữa chúng cũng có sự phù hợp. Để
khắc phục tình trạng không phù hợp giữa tri thức pháp luật và thái độ pháp
luật, phải coi trọng xã hội học pháp luật trong nghiên cứu dư luận xã hội một
cách công khai hoá và dân chủ hoá đời sống xã hội.
Quá trình hình thành và phát triển ý thức pháp luật của con người cũng
chính là quá trình tìm kiếm, tích luỹ kiến thức về pháp luật trong đời sống xã
hội. Hiểu biết về pháp luật càng nhiều thì ý thức của con người về pháp luật
càng sâu sắc. Có tri thức, có hiểu biết sâu sắc về pháp luật sẽ là tiền đề, điều
kiện để mỗi người hình thành thái độ, động cơ đối với việc thực thi pháp luật.
Bởi lẽ, quá trình hình thành tri thức về pháp luật ở con người chịu sự tác động
của những nhu cầu và lợi ích khác nhau, theo đuổi mục đích và trải qua những
xúc cảm khác nhau. Nói cách khác, tri thức với những mức độ khác nhau phải
được kết hợp với nhân tố tình cảm thì mới phát huy tác dụng. “Không có cảm
xúc của con người thì không bao giờ có thể tìm tòi chân lý” [74, tr.131] . Điều



14
đó cho thấy, nếu tri thức pháp luật không chuyển thành tình cảm đối với pháp
luật, nghĩa là có thái độ tôn trọng, tin tưởng vào luật pháp để từ đó hình thành
động cơ đúng đắn trong việc chấp hành pháp luật, thì không thể có những hành
vi đúng đắn trong hành động thực tiễn của con người. Chính vì vậy, tri thức,
thái độ, tình cảm pháp luật là những yếu tố cơ bản cấu thành ý thức pháp luật
của con người.
Việc tìm hiểu cơ cấu của ý thức pháp luật, tức là nghiên cứu mối quan
hệ bên trong của các yếu tố cấu thành ý thức pháp luật, giúp chúng ta tìm hiểu
con đường hình thành ý thức pháp luật, sự đánh giá về ý thức pháp luật, cũng
như phương thức tác động giáo dục để hình thành và nâng cao ý thức pháp
luật cho nhân dân.
1.1.2. Giáo dục ý thức pháp luật
1.1.2.1. Khái niệm
Qua nghiên cứu các công trình khoa học đã được công bố, các giáo
trình lý luận chung về Nhà nước và Pháp luật của các cơ sở đào tạo đại học
và sau đại học trên phạm vi cả nước cho thấy cho đến nay chưa có những
quan niệm thật sự rõ ràng về giáo dục ý thức pháp luật.
Vậy làm thế nào để có quan niệm đúng đắn về giáo dục ý thức pháp
luật? Để hiểu đúng đắn, khoa học khái niệm giáo dục ý thức pháp luật thì
trước hết chúng ta cần hiểu thế nào là giáo dục.
Theo nghĩa hẹp: giáo dục là quá trình tác động định hướng của chủ
quan lên khách thể giáo dục, nhằm truyền bá những kinh nghiệm đấu tranh và
sản xuất, những tri thức về tự nhiên, xã hội và tư duy, để họ có đầy đủ khả
năng tham gia vào lao động và đời sống xã hội. Giáo dục theo nghĩa hẹp
không bao hàm trong đó những ảnh hưởng của các nhân tố khách quan, nghĩa là
không tính đến những điều kiện ảnh hưởng bên ngoài lên đối tượng giáo dục.
Theo nghĩa rộng: giáo dục đó là quá trình ảnh hưởng của những điều
kiện khách quan như chế độ chính trị xã hội, trình độ phát triển kinh tế, tư

tưởng, môi trường sống xung quanh, phong tục, tập quán và tác động của


15
những nhân tố chủ quan như ý thức, tự giác, sự tác động có mục đích có định
hướng của con người.
Trên cơ sở của khái niệm giáo dục theo nghĩa rộng chúng ta thấy rằng
khái niệm giáo dục được đặt trong mối quan hệ biện chứng giữa yếu tố chủ
quan và yếu tố khách quan. Vì vậy, giáo dục ý thức pháp luật cũng phải đặt
trong mối quan hệ này, điều đó được hiểu ở một số điểm sau:
Một là, sự hình thành và phát triển ý thức cá nhân của con người là sản
phẩm của một quá trình tác động, đan xen, thống nhất giữa nhân tố chủ quan
và các điều kiện khách quan. Những điều kiện khách quan có ảnh hưởng đến
giáo dục bao gồm các điều kiện về kinh tế, chính trị, tư tưởng, văn hoá…
Điều kiện khách quan là yếu tố hết sức quan trọng đối với việc hình thành ý
thức của con người. Cùng với việc thừa nhận ảnh hưởng của các điều kiện
khách quan, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin đều rất chú trọng
đến tác động của yếu tố chủ quan. Tức là nhấn mạnh đến các hoạt động mang
tính tự giác có tổ chức và định hướng do con người thực hiện trong quá trình
hoàn thiện chính mình.
Như vậy, sự hình thành và phát triển ý thức của con người, là sản phẩm
của một quá trình đan xen phức tạp, trong đó các điều kiện khách quan là
những nhân tố ảnh hưởng có thể tự phát theo chiều này hay chiều khác, còn
nhân tố chủ quan là nhân tố tích cực mang tính tác động, nhân tố tác động
bao giờ cũng là tự giác có ý thức, có mục đích, định hướng rõ ràng cụ thể.
Khi nhân tố khách quan ảnh hưởng cùng chiều với nhân tố tác động thì hiệu
quả giáo dục sẽ đảm bảo, nếu ngược lại thì hiệu quả giáo dục sẽ không tránh
khỏi những hạn chế. Vì vậy, khi các chủ thể giáo dục tác động lên các yếu tố
khách quan nếu có ảnh hưởng bất lợi phải kịp thời có những điều chỉnh cả về
nội dung, hình thức và phương pháp giáo dục để sao cho phù hợp với định

hướng của chủ thể giáo dục
Hai là, từ mối quan hệ biện chứng giữa các nhân tố khách quan với
những tác động của nhân tố chủ quan trong giáo dục hình thành ý thức của
con người cho phép nghiên cứu sâu sắc những vấn đề về giáo dục pháp luật


16
trong quá trình đi tới mục tiêu hình thành ý thức pháp luật của đối tượng
được giáo dục.
Sự hình thành ý thức pháp luật là sản phẩm của điều kiện khách quan
và chủ quan tác động vào ý thức con người. Trong đó giáo dục ý thức pháp
luật chỉ là một yếu tố của quá trình hình thành ý thức pháp luật, đó là sự tác
động có mục đích, có định hướng của nhân tố chủ quan. Sự phân biệt trên đây
có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc phân định rõ ràng về nội dung, hình
thức, phương pháp giáo dục.
Thực tiễn nước ta trong những năm qua đã chỉ ra rằng, sự tác động của
những điều kiện mang tính tiêu cực của nền kinh tế thị trường đang tác động
mạnh mẽ đến nhận thức, lối sống, tình cảm, lòng tin của con người đối với
pháp luật, đó là những biểu hiện của sự tha hoá đạo đức, tham nhũng, hối lộ,
rửa tiền…đã tác động rất lớn đến ý thức pháp luật của mỗi người. Việc tiến
hành các hoạt động giáo dục ý thức pháp luật thiếu những nội dung, hình
thức, phương pháp giáo dục phù hợp thì sẽ không hạn chế được những mặt
tiêu cực của nhân tố khách quan đem lại, từ đó rất khó hình thành và phát
triển ý thức pháp luật tiến bộ ở con người.
Ba là, khái niệm giáo dục ý thức pháp luật xuất phát từ khái niệm giáo
dục trong khoa học sư phạm sẽ cho phép chúng ta thấy được mối quan hệ
giữa cái chung và cái riêng, giáo dục ý thức pháp luật là cái riêng, trong cái
đặc thù, trong mối quan hệ với giáo dục là cái chung, cái phổ biến. Do vậy, sẽ
thấy được việc sử dụng những hình thức, phương pháp và xác định mục tiêu
riêng của giáo dục ý thức pháp luật, đồng thời giáo dục ý thức pháp luật cũng

có những nét riêng phong phú và đa dạng hơn chủ thể giáo dục trong môi
trường sư phạm.
Sự hình thành và phát triển ý thức pháp luật ở mỗi con người là sự kết
hợp quá trình tuyên truyền, giáo dục pháp luật của chủ thể với các yếu tố
khách quan. Vì vậy, giữa giáo dục ý thức pháp luật và giáo dục pháp luật có
sự thống nhất, đồng nhất với nhau về nội hàm khái niệm. Cả giáo dục ý thức


17
pháp luật và giáo dục pháp luật đều nhằm mục đích hình thành tri thức pháp
luật, thái độ, tình cảm pháp luật cho đối tượng giáo dục.
Từ sự phân tích trên có thể nêu khái niệm giáo dục ý thức pháp luật
như sau:
Giáo dục ý thức pháp luật là hoạt động có định hướng, có tổ chức, có
chủ định của chủ thể giáo dục, tác động lên đối tượng giáo dục nhằm mục
đích hình thành ở họ sự hiểu biết, thái độ và sự đánh giá về pháp luật, về quyền
lợi và nghĩa vụ của con người trong xã hội, về hành vi hợp pháp hay không hợp
pháp của cá nhân, các cơ quan nhà nước, các tổ chức trong xã hội.
1.1.2.2. Mục đích của giáo dục ý thức pháp luật
Khi tiến hành bất cứ một hoạt động nào đó thì chúng ta phải xác định
mục đích để làm gì? cần đạt được mục đích ấy bằng con đường nào? tức là
phải lựa chọn hình thức và phương pháp nhất định. Xác định mục đích đúng
đắn của giáo dục ý thức pháp luật chẳng những là căn cứ, tiêu chí để đánh giá
hiệu quả mà còn là căn cứ để xây dựng nội dung giáo dục ý thức pháp luật
cho phù hợp với đối tượng được giáo dục. Mục đích của giáo dục ý thức pháp
luật khác với mục đích của các dạng giáo dục khác.
Mục đích của giáo dục ý thức pháp luật trong điều kiện hiện nay cần
xác định ở những điểm sau đây:
- Một là, từng bước nâng cao nhận thức về pháp luật cho công dân.
Nâng cao nhận thức, mở rộng sự hiểu biết của con người trên các lĩnh

vực là một yêu cầu khách quan của công tác giáo dục nói chung. Trong giáo
dục ý thức pháp luật thì mục đích được đặt ra là không ngừng nâng cao nhận
thức pháp lý cho đối tượng được giáo dục ý thức pháp luật để họ có kiến thức
vững vàng, nắm bắt được những tri thức về Nhà nước, về pháp luật. Trong
điều kiện ở nước ta hiện nay, thực tế cho thấy rằng Đảng và Nhà nước ta đặc
biệt quan tâm đến việc nâng cao dân trí nhất là dân trí pháp lý. Tuy nhiên, do
đặc điểm và điều kiện ở một số vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo nên
nhân dân các dân tộc ít người có hạn chế về hiểu biết pháp luật. Vì thế việc
xác định đúng đắn mục đích giáo dục ý thức pháp luật có ý nghĩa thực tiễn


18
đặc biệt quan trọng. Chỉ có thể giáo dục ý thức pháp luật nâng cao nhận thức
pháp lý làm cho mọi người hiểu một cách đầy đủ và đúng đắn về giá trị xã
hội và vai trò điều chỉnh của pháp luật từ đó hình thành tâm lý, tình cảm và
thái độ tôn trọng pháp luật, tin tưởng vào pháp luật và điều chỉnh hành vi xử
sự của mình theo pháp luật. Khi mà mọi thành viên trong xã hội đã đạt đến
một ý thức “Sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật” thì đó là mục
đích cao nhất và là hệ quả của quá trình giáo dục ý thức pháp luật.
- Hai là, hình thành tình cảm pháp lý và niềm tin nội tâm đối với pháp
luật. Việc nâng cao trình độ kiến thức pháp lý là mục đích đầu tiên vô cùng quan
trọng nhưng bản thân nó chưa phải là sự quyết định hành vi xử sự hợp pháp.
Nếu đã có kiến thức pháp luật, nhưng trong mỗi con người cần phải có tình cảm
pháp lý, nghĩa là có thái độ tôn trọng pháp luật và tin tưởng vào sự công bằng
của pháp luật từ đó mới tạo ra khả năng điều chỉnh hành vi hợp pháp của mình.
Thiếu tình cảm và niềm tin vào pháp luật thì mọi hành động dễ bị chệch hướng
khỏi chuẩn mực pháp lý vì những mục đích, động cơ cá nhân. Thực tế cho thấy
nếu một người có sự hiểu biết pháp luật, có tình cảm và lòng tin vào pháp luật
thì họ sẽ tin theo những quy định của pháp luật. Tuy nhiên, để có được tình cảm
và lòng tin vào pháp luật thì cần phải giáo dục tình cảm, lòng tin và sự công

bằng, trách nhiệm, nghĩa vụ của công dân, thái độ không khoan nhượng với kẻ
thù. Tất cả những vần đề đó sẽ là cơ sở hình thành động cơ của hành vi hợp
pháp.
- Ba là, giáo dục ý thức pháp luật nhằm hình thành động cơ, hành vi,
thói quen xử sự hợp pháp, tính tích cực xã hội.
Hành vi xử sự theo pháp luật của con người là kết quả của một quá
trình nhận thức pháp luật. Trong quá trình nhận thức có nhiều yếu tố tác động
(chủ quan và khách quan) để hình thành nên hành vi và thói quen xử sự theo
pháp luật nhưng hoạt động giáo dục ý thức pháp luật sẽ là yếu tố cơ bản. Bởi
lẽ thông qua giáo dục ý thức pháp luật sẽ cung cấp tri thức pháp luật, lòng tin
sâu sắc tự nguyện thực hiện những quy định của pháp luật. Để đạt được mục
đích này trong quá trình giáo dục ý thức pháp luật phải lựa chọn nhiều hình


19
thức, phương pháp và tiến hành thường xuyên, liên tục để mọi công dân hiểu
được sự cần thiết, tính hợp lý của pháp luật là vì lợi ích chung của xã hội.
Thực tiễn hiện nay ở nước ta, mục đích này có quan hệ vô cùng to lớn khi mà
đa số nhân dân lao động vẫn còn tình trạng chưa có thói quen xử sự theo pháp
luật, việc sử dụng quyền và thực hiện nghĩa vụ theo quy định của hiến pháp
và pháp luật còn hạn chế, thậm chí còn hành vi vi phạm nghiêm trọng.
Giáo dục ý thức pháp luật nhằm đạt được ba mục đích nêu trên, ngoài
ra mục đích của nó còn là tiêu chí giúp cho việc xác định hiệu quả của quá
trình giáo dục ý thức pháp luật. Không dựa vào mục đích của giáo dục ý thức
pháp luật thì không thể đánh giá được hiệu quả và các chỉ số xác định hiệu
quả của quá trình giáo dục ý thức pháp luật.
1.1.2.3. Chủ thể và đối tượng của giáo dục ý thức pháp luật
Chủ thể của giáo dục ý thức pháp luật:
Chủ thể của giáo dục nói chung hết sức rộng lớn, “là đối tượng gây ra
hành động mang tính tác động trong quan hệ đối lập với đối tượng bị chi phối

của hành động gọi là chủ thể” [71, tr.132].
Chủ thể giáo dục ý thức pháp luật trong công tác tuyên truyền giáo dục
ý thức pháp luật được hiểu là tất cả những người, tổ chức theo chức năng,
nhiệm vụ hay trách nhiệm xã hội tham gia vào việc giáo dục ý thức pháp luật
nhằm thực hiện các mục đích giáo dục ý thức pháp luật.
Căn cứ vào mức độ liên quan giữa mục đích giáo dục ý thức pháp luật
với chức năng, nhiệm vụ hay trách nhiệm pháp lý các chủ thể giáo dục ý thức
pháp luật, chúng ta có thể chia chủ thể giáo dục ý thức pháp luật thành hai
loại đó là chủ thể chuyên nghiệp và không chuyên nghiệp.
- Chủ thể chuyên nghiệp bao gồm: những người có chức năng, nhiệm
vụ chủ yếu, trực tiếp thực hiện mục đích, nội dung giáo dục ý thức pháp luật,
như các báo cáo viên, tuyên truyền viên pháp luật ở các hệ thống cơ quan của
Đảng, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội…Đây là những chủ thể quan trọng
và chủ yếu của giáo dục ý thức pháp luật.


20
- Chủ thể không chuyên nghiệp: là những người hay tổ chức tuy chức
năng chính không phải là giáo dục ý thức pháp luật, nhưng thông qua các hoạt
động chuyên môn, nghiệp vụ của mình đã tham gia tích cực vào việc thực
hiện tốt các mục tiêu, nội dung giáo dục ý thức pháp luật. Những người này
gồm các đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân, các cán bộ thuộc các
cơ quan hành pháp, tư pháp, các luật sư, các luật gia, các cán bộ nhân viên
của các đoàn thể, tổ chức xã hội.
Chủ thể giáo dục ý thức pháp luật còn là các công dân, bằng sự tự giáo
dục, bằng ý thức trách nhiệm và gương mẫu thực hiện pháp luật mà có tác
dụng ảnh hưởng giáo dục tích cực đến công dân khác.
Đối tượng của giáo dục ý thức pháp luật:
Đối tượng giáo dục ý thức pháp luật là các cá nhân công dân hay nhóm
cộng đồng dân cư tiếp nhận trực tiếp hay gián tiếp tác động của các hoạt động

giáo dục pháp luật do các chủ thể giáo dục pháp luật tiến hành nhằm đạt mục
đích đặt ra.
Từ quan niệm về đối tượng giáo dục ý thức pháp luật như trên, dựa vào
các yếu tố như điều kiện đời sống vật chất, tinh thần, các yếu tố dân tộc, địa
lý, giới tính, lứa tuổi, học vấn, địa vị xã hội của mỗi công dân; dựa vào yêu
cầu thực tế tình hình kinh tế, chính trị, xã hội và nhất là chủ trương của Đảng,
Nhà nước thực hiện giáo dục ý thức pháp luật sâu rộng trong cán bộ, công
chức, các tầng lớp nhân dân lao động, đồng bào dân tộc ít người… mà chia
đối tượng giáo dục ý thức pháp luật thành những loại sau:
- Đối tượng giáo dục ý thức pháp luật là cán bộ, công chức Nhà nước,
loại đối tượng này có đặc điểm là theo chức năng, nhiệm vụ của mình họ vừa
là đối tượng cần được giáo dục ý thức pháp luật tức là cần được trang bị những
tri thức cơ bản về hệ thống pháp luật chung và pháp luật chuyên ngành, về
nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước… Đồng thời họ vừa là
chủ thể giáo dục ý thức pháp luật trong quan hệ với nhân dân, bằng việc thông
qua các hoạt động hàng ngày ở công sở họ giải thích, áp dụng các quy phạm
pháp luật để giải quyết các công việc cụ thể trên tất cả các lĩnh vực của đời


21
sống xã hội, từ đó tác động đến tình cảm, lòng tin và cách ứng xử của đông
đảo quần chúng nhân dân lao động nơi họ sinh sống và làm việc.
- Đối tượng giáo dục ý thức pháp luật là các chủ doanh nghiệp, người
quản lý, cán bộ công đoàn ở các doanh nghiệp.
Hệ thống pháp luật về kinh doanh, thương mại, dân sự đã và đang từng
bước được hoàn thiện, nhằm tạo ra những “khung pháp lý” phù hợp, đảm bảo
môi trường kinh doanh thuận lợi cho các doanh nghiệp kể cả các doanh
nghiệp vừa và nhỏ. Những năm qua các thành phần kinh tế đã chứng minh sự
đóng góp to lớn của mình cho nền kinh tế quốc dân đem lại những biến đổi
lớn lao cho đất nước. Tuy nhiên, nhìn nhận dưới gốc độ quản lý mọi hoạt

động kinh doanh của các doanh nghiệp còn mang tính tự phát, thiếu trật tự kỷ
cương, nhiều mặt trái của nền kinh tế thị trường không ngừng phát sinh, gây
nhiều hậu quả, làm ảnh hưởng xấu đến nền kinh tế.
Để khắc phục tình trạng trên, đòi hỏi Nhà nước phải tích cực xây dựng
mới, bổ sung và hoàn thiện hệ thống pháp luật về hoạt động kinh doanh đồng
thời phải thường xuyên tiến hành giáo dục ý thức pháp luật cho các doanh
nghiệp nhằm giúp cho họ có những kiến thức cơ bản về pháp luật và không
ngừng nâng cao ý thức pháp luật, hình thành ở họ thói quen kinh doanh trong
khuôn khổ của pháp luật.
- Đối tượng giáo dục ý thức pháp luật là học sinh, sinh viên; đây là
những công dân trẻ, là lực lượng tương lai của đất nước. Tuy nhiên, trong
điều kiện hiện nay, khi đất nước ta đang đẩy mạnh công nghiệp hoá - hiện đại
hoá đất nước thì đối tượng này vẫn còn thiếu nhiều hiểu biết về pháp luật,
dẫn đến những hành vi phạm tội, vi phạm pháp luật, tệ nạn xã hội vẫn còn
phổ biến, thậm chí có chiều hướng ngày càng gia tăng, đặc biệt là lĩnh vực
hình sự.
Với đối tượng này đòi hỏi Đảng, Nhà nước, các cấp, các ngành đoàn
thể và gia đình cần phải có những biện pháp phối kết hợp để nâng cao hiệu
quả công tác giáo dục ý thức pháp luật. Khi giáo dục ý thức pháp luật cho đối
tượng này cần phải chú ý xác định rõ từng đối tượng học sinh, sinh viên và


22
dựa theo lứa tuổi, giới tính, ngành nghề đào tạo để xây dựng các nội dung
giáo dục phù hợp. Cần giáo dục ý thức pháp luật bằng nhiều hình thức, trong
đó quan trọng và có hiệu quả nhất là đưa vào giảng dạy pháp luật ở các
trường học. Thông qua đó hình thành một cách bền vững ý thức công dân,
lòng tin, tình cảm vào pháp luật, pháp chế xã hội chủ nghĩa.
- Đối tượng giáo dục ý thức pháp luật là các tầng lớp nhân dân, đây là
đối tượng đông đảo nhất trong xã hội bao gồm thanh niên, phụ nữ, nông dân,

những người lao động trong các doanh nghiệp. Giáo dục ý thức pháp luật các
đối tượng này cần dựa vào đặc điểm lứa tuổi, giới tính, nghề nghiệp, địa bàn
sinh sống, nhu cầu hiểu biết. Đặc biệt nhân dân các dân tộc ít người sống
vùng núi, vùng sâu, vùng xa ý thức pháp luật rất thấp. Chính vì vậy, cần phải
giáo dục pháp luật để họ nhận thức được trách nhiệm, nghĩa vụ, quyền lợi của
công dân đối với Nhà nước và xã hội.
Đối với đồng bào dân tộc Khmer là đối tượng đặc thù dân tộc, chủ yếu
sinh sống tại các xã nghèo, điều kiện kinh tế khó khăn, trình độ học vấn thấp,
ý thức pháp luật không cao, là đối tượng rất dễ bị các thế lực thù địch lôi kéo,
kích động, khiếu kiện đông người. Vì vậy, trong công tác tuyên truyền, phổ
biến giáo dục pháp luật cho đồng bào dân tộc Khmer cần chú ý đến các hình
thức, phương tiện giáo dục phù hợp với đặc điểm đối tượng đặc thù này. Cần
chú trọng vai trò của các vị trụ trì ở các Chùa Khmer, các vị A-cha (người có
uy tín nhất trong cộng đồng người Khmer), các cán bộ công chức người
Khmer đã nghỉ hưu với tư cách vừa là chủ thể giáo dục pháp luật vừa là đối
tượng giáo dục pháp luật. Các vị trụ trì, các vị A-cha, các cán bộ công chức
người Khmer là những chủ thể tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật có
hiệu quả cao, ngoài ra họ còn là người làm tốt công tác hoà giải ở cơ sở khi
những người Khmer có mâu thuẫn với nhau.
1.1.2.4. Nội dung, hình thức, phương pháp, phương tiện giáo dục ý
thức pháp luật
- Nội dung giáo dục ý thức pháp luật:


23
Một trong những yếu tố quan trọng của quá trình giáo dục ý thức pháp
luật đó chính là nội dung của giáo dục ý thức pháp luật. Nội dung giáo dục ý
thức pháp luật được xác định trên cơ sở mục đích, nhiệm vụ, đối tượng của
giáo dục ý thức pháp luật. Việc xác định đúng nội dung giáo dục ý thức pháp
luật sẽ đảm bảo cho chất lượng của giáo dục ý thức pháp luật có được hiệu

quả thiết thực và cụ thể. Nội dung giáo dục ý thức pháp luật là sự cụ thể hoá
mục đích của giáo dục ý thức pháp luật.
Tất cả những nội dung giáo dục ý thức pháp luật là những tri thức cần
thiết cho đối tượng giáo dục sử dụng để phân tích, đánh giá một cách khoa
học những vấn đề thực tế mà họ hay gặp, từ đó định hướng hành vi chấp hành
pháp luật của mình trong hoạt động thực tiễn.
Những nội dung của giáo dục pháp luật để hình thành ý thức pháp luật
được xác định theo những cấp độ, đối tượng khác nhau phù hợp với từng nhu
cầu, đặc điểm của từng loại đối tượng. Xuất phát từ nhu cầu, đặc điểm đối
tượng giáo dục ý thức pháp luật, chúng ta có thể chia nội dung giáo dục ý
thức pháp luật thành các cấp độ sau:
Giáo dục pháp luật phổ cập cho mọi công dân, bao gồm những kiến
thức pháp luật tối thiểu, phổ thông sao cho phù hợp với mọi đối tượng là nhân
dân lao động, nhằm giúp họ có hiểu biết và hình thành thói quen giản đơn
trong việc chấp hành pháp luật, biết vận dụng pháp luật để bảo vệ những
quyền lợi hợp pháp của mình khi bị những hành vi bất hợp pháp xâm hại. Cụ
thể là phổ biến, giáo dục các luật như: Luật đất đai, Luật thuế, Luật hôn nhân
và gia đình, Luật giao thông đường bộ, đường thuỷ…
Giáo dục pháp luật có tính chuyên luật, đây là cấp độ cao nhất của giáo
dục ý thức pháp luật, bao gồm những tri thức pháp luật mang tính chuyên sâu
về các ngành luật trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Nội dung giáo dục ý
thức pháp luật ở cấp độ này thường áp dụng cho việc đào tạo các đối tượng
để trở thành các chuyên gia luật phục vụ cho các tổ chức nghề nghiệp.
- Hình thức giáo dục ý thức pháp luật:


24
Để đạt được mục đích và nội dung của giáo dục ý thức pháp luật cần phải
xác định, sử dụng tổng hợp các hình thức giáo dục ý thức pháp luật; có xác định
đúng, đầy đủ các hình thức giáo dục ý thức pháp luật thì hoạt động giáo dục ý

thức pháp luật mới đạt được hiệu quả. Theo từ điển tiếng việt thì “hình thức là
bên ngoài, cái chứa đựng nội dung, là cách thức tiến hành” [71, tr.25]. Trong
giáo dục học, khái niệm hình thức cũng được xem xét chủ yếu ở gốc độ tổ chức
quá trình giáo dục. Vì vậy, giáo dục học sử dụng thuật ngữ hình thức tổ chức
giáo dục. Theo đó, hình thức tổ chức giáo dục là cách thức tiến hành tổ chức
công tác giáo dục tư tưởng, đạo đức theo chế độ và trật tự nhất định để hình
thành ở người học những phẩm chất đạo đức, những nhận thức, thái độ, hành
vi phù hợp với các chuẩn mực xã hội, luật pháp nhà nước.
Trên cơ sở quan niệm này, hình thức giáo dục ý thức pháp luật thường
được hiểu là cách thức tổ chức phối hợp hoạt động giữa chủ thể và đối tượng,
là cách bố trí sắp xếp các yếu tố đảm bảo và các bước tiến hành theo một trật
tự nhất định nhằm hình thành ở đối tượng tri thức pháp luật, tình cảm pháp
luật và thái độ xử sự đối với pháp luật. Như vậy, hình thức giáo dục ý thức
pháp luật chính là hình thức tổ chức hoạt động phối hợp giữa chủ thể giáo dục
với đối tượng giáo dục ý thức pháp luật, được quy định bởi nội dung và mục
đích giáo dục ý thức pháp luật.
Hình thức giáo dục ý thức pháp luật rất đa dạng và phong phú, nó luôn
được hoàn thiện và phát triển. Căn cứ vào tính đa dạng, đặc thù của chủ thể,
đối tượng giáo dục ý thức pháp luật, chúng ta có thể chia hình thức giáo dục ý
thức pháp luật thành hai loại cơ bản sau:
Một là, các hình thức giáo dục ý thức pháp luật mang tính phổ biến
truyền thống, được sử dụng trong nhiều loại hình giáo dục như: nói chuyện
pháp luật tại các cơ quan Nhà nước, địa bàn dân cư, mở các lớp tập huấn, các
hội nghị, hội thảo pháp luật, các câu lạc bộ pháp luật, các cuộc thi tìm hiểu
pháp luật, tuyên truyền, giải thích, hướng dẫn pháp luật thông qua báo chí,
các phương tiện thông tin đại chúng.


25
Hai là, các hình thức giáo dục ý thức pháp luật có tính chất đặc thù,

đây là các hoạt động định hướng giáo dục ý thức pháp luật thông qua các hoạt
động lập pháp, hành pháp, tư pháp của các cơ quan Nhà nước như Quốc hội,
Chính phủ, Toà án, Viện kiểm sát. Hình thức giáo dục ý thức pháp luật qua
các hoạt động của các tổ chức chính trị -xã hội, tổ chức quần chúng, tổ chức
nghề nghiệp, tổ hoà giải, trợ lý pháp lý.
Từ quan niệm và phân loại hình thức giáo dục ý thức pháp luật dẫn đến
yêu cầu chỉ đạo quá trình giáo dục ý thức pháp luật sao cho các chủ thể phải
xác định rõ định hướng, yêu cầu, nội dung giáo dục ý thức pháp luật ngay
trong khi xây dựng các chương trình công tác nghiệp vụ chuyên môn từng
thời kỳ hoặc từng sự việc, trên cơ sở đó chuẩn bị các điều kiện vật chất, cán
bộ, tổ chức các hình thức giáo dục ý thức pháp luật thật phù hợp với từng loại
đối tượng. Để truyền tải các nội dung của pháp luật đến đối tượng cụ thể, cần
phải kết hợp các hình thức giáo dục tuyên truyền khác nhau nhằm phát huy
sức mạnh tổng hợp của từng hình thức, bổ sung, hỗ trợ, bù đắp cho những hạn
chế của từng loại hình thức.
- Phương pháp giáo dục ý thức pháp luật:
Theo lý luận giáo dục học, khái niệm về phương pháp giáo dục nói
chung được hiểu là cách thức, biện pháp sử dụng để truyền đạt và lĩnh hội của
chủ thể giáo dục và đối tượng giáo dục nhằm đạt tới mục đích giáo dục.
Dựa vào cơ sở quan niệm trên, phương pháp giáo dục ý thức pháp luật
được hiểu là tổng thể, cách thức, biện pháp mà chủ thể và đối tượng giáo dục
ý thức pháp luật sử dụng để nhằm thoả mãn mục đích truyền đạt và lĩnh hội
nội dung giáo dục ý thức pháp luật. Thực tiễn về giáo dục ý thức pháp luật
trong điều kiện đổi mới đất nước cho ta thấy có hai nhóm phương pháp giáo
dục ý thức pháp luật.
Một là, nhóm các phương pháp áp dụng cho các hoạt động giáo dục ý
thức pháp luật, cụ thể như: phương pháp thuyết phục, giải thích, phương pháp
thực hành trực quan, phương pháp kiểm tra, đánh giá, phương pháp tạo tình
huống, phương pháp nêu gương, phương pháp kết hợp lý luận và thực tiễn.



×