Tải bản đầy đủ (.pdf) (94 trang)

Hoạt động phòng, chống rửa tiền trong hệ thống NHTM Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.09 MB, 94 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN VĂN CHÍNH

HOẠT ĐỘNG PHÒNG, CHỐNG RỬA TIỀN
TRONG HỆ THỐNG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ TÀI CHÍNH - NGÂN HÀNG

Hà Nội, 2017


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÒNG, CHỐNG RỬA
TIỀN TRONG HỆ THỐNG NGÂN HÀNG ...................................................... 9
1.1. Một số vấn đề cơ vản về hoạt động rửa tiền ................................................... 9
1.2. Hoạt động phòng, chống rửa tiền trong hệ thống ngân hàng ........................20
1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả phòng, chống rửa tiền thông qua hệ
thống ngân hàng thương mại ................................................................................28
1.4. Kinh nghiệm phòng, chống rửa tiền qua hệ thống ngân hàng một số nước
trên thế giới và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam ............................................30
Chương 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG PHÒNG, CHỐNG RỬA TIỀN
TRONG HỆ THỐNG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM .............34
2.1. Tổng quan về hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam và hoạt động
phòng, chống rửa tiền trong hệ thống ngân hàng thương mại tại Việt Nam .....34
2.2. Phân tích thực trạng hoạt động phòng, chống rửa tiền trong hệ thống ngân
hàng thương mại Việt Nam ..................................................................................45


2.3. Đánh giá chung về hoạt động phòng, chống rửa tiền trong hệ thống ngân
hàng thương mại Việt Nam ..................................................................................59
Chương 3: ĐỊNH HƯỚNG VÀ MỘT SỐ ĐỀ XUẤT TĂNG CƯỜNG HIỆU
QUẢ HOẠT ĐỘNG PHÒNG, CHỐNG RỬA TIỀN TRONG HỆ THỐNG
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM ...................................................62
3.1. Định hướng hoạt động phòng, chống rửa tiền trong hệ thống ngân hàng
thương mại Việt Nam ...........................................................................................62
3.2. Một số giải pháp tăng cường hiệu quả hoạt động phòng, chống rửa tiền trong
hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam ..........................................................65
3.3. Kiến nghị .......................................................................................................76
KẾT LUẬN .........................................................................................................80
TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................81
PHỤ LỤC ............................................................................................................87


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

TT
1

Viết tắt
AML

Nghĩa tiếng Việt

Từ viết tắt
Anti Money Laundering

Chính sách phòng, chống rửa
tiền


2

FATF

3

KYC

4

NCCT

Financial Action Task

Lực lượng đặc nhiệm tài chính

Force

quốc tế

Know - Your-Client

Hiểu biết về khách hàng
Các nước và vùng lãnh thổ bất
hợp tác

5

NHTM


Ngân hàng thương mại

6

NHNN

Ngân hàng nhà nước


DANH MỤC BẢNG BIỂU
Trang
Bảng 2.1. Số lượng báo cáo giao dịch đáng ngờ thu thập từ Cục phòng, chống
rửa tiền............................................................................................................. 42
Bảng 2.2. Kết quả khảo sát về sự cần thiết của hệ thống văn bản pháp luật và
chính sách phòng chống rửa tiền trong hệ thống NHTM Việt Nam............... 46
Bảng 2.3. Kết quả khảo sát về hệ thống văn bản pháp luật phòng, chống rửa
tiền trong hệ thống NHTM Việt Nam ............................................................. 49
Bảng 2.4. Kết quả khảo sát về mức độ thực hiện nhiệm vụ của các tổ chức
liên quan đến hoạt động phòng, chống rửa tiền thông qua hệ thống NHTM . 53
Bảng 2.5. Kết quả khảo sát nhận thức về rủi ro do hoạt động rửa tiền .......... 54
Bảng 2.6. Kết quả khảo sát về nhận biết các giao dịch đáng ngờ .................. 55
Bảng 2.7. Kết quả khảo sát về hoạt động đào tạo nhân lực thực hiện phòng
chống rửa tiền .................................................................................................. 57


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trước xu thế hội nhập kinh tế thế giới, hoạt động ngân hàng không
những chịu các áp lực về kinh tế mà còn chịu áp lực ngày càng gia tăng của

các tội phạm liên quan đến hoạt động ngân hàng, trong đó có tội phạm rửa
tiền. Ngoài việc phải đối phó với các khoản tiền bất hợp pháp được tẩy rửa
trong nước, hiện nay hệ thống ngân hàng Việt Nam đang phải đối phó với
nguy cơ từ các tổ chức tội phạm quốc tế sử dụng Việt Nam như nơi rửa tiền
của các hoạt động bất hợp pháp. Hoạt động rửa tiền có ảnh hưởng tiêu cực
bao trùm lên nhiều lĩnh vực của đời sống kinh tế, xã hội, chính trị, an ninh,
quốc phòng của tất cả các quốc gia và đặc biệt nghiêm trọng đối với những
quốc gia đang phát triển vì các quốc gia này thường là những nền kinh tế nhỏ,
có sức đề kháng yếu, dễ bị tổn thương trước. Hoạt động rửa tiền không những
làm tăng tội phạm và tham nhũng, gây hậu quả xấu đối với hoạt động thương
mại quốc tế và thu hút vốn đầu tư nước ngoài, mà còn làm suy yếu hệ thống
tài chính và làm nền kinh tế và khu vực tư nhân bị tổn thương. Tuy nhiên,
hoạt động phòng chống rửa tiền vẫn còn khá mới ở Việt Nam và những kết
quả đạt được vẫn còn khá khiêm tốn. Theo kết quả đánh giá của các tổ chức
quốc tế như Tổ chức Châu Á - Thái Bình Dương về rửa tiền và lực lượng đặc
nhiệm tài chính (FATF- Financial Action Task Force) thì cơ chế phòng,
chống rửa tiền của Việt Nam đã triển khai nhưng vẫn còn nhiều vấn đề cần bổ
sung, chỉnh sửa. Việt Nam và ngành ngân hàng hiện đang nỗ lực tiếp tục triển
khai Kế hoạch hành động về chống rửa tiền và chống tài trợ khủng bố do
FATF đưa ra. Luật phòng, chống rửa tiền đã được Quốc hội thông qua ngày
18/6/2012 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2013. Điều này thể hiện
quyết tâm phòng, chống rửa tiền của Việt Nam trong bối cảnh hệ thống thanh

1


tra, giám sát ngân hàng còn yếu, tình trạng tham nhũng diễn ra tinh vi, mức
độ sử dụng tiền mặt cao và các luồng chuyển tiền không chính thức khá lớn.
Hơn nữa, Việt Nam đã triển khai các biện pháp về chống rửa tiền trong
hệ thống các tổ chức tài chính. Mỗi tổ chức tài chính đều có một ban chỉ đạo

chống rửa tiền và các quy định riêng về chống rửa tiền. Nhằm trang bị kiến
thức cơ bản về AML/CFT, công tác tuyên truyền và nâng cao hiểu biết cho
dân chúng về AML/CFT cũng được chú ý. Ngân hàng Nhà nước đã tổ chức
nhiều hoạt động tuyên truyền phổ biến thông qua báo chí, họp báo và trang tin
điện tử của Ngân hàng Nhà nước.
Tuy nhiên, với những phức tạp của hoạt động rửa tiền, đã làm hoạt
động phòng, chống rửa tiền cùng những thách thức cho ngành ngân hàng Việt
Nam trước thềm hội nhập đòi hỏi Chính Phủ và hệ thống NHTM phải nhanh
chóng có giải pháp để đương đầu với vấn nạn rửa tiền và thực hiện phòng,
chống rửa tiền có hiệu quả cao nhất. Để công tác Phòng, chống rửa tiền,chống
tài trợ khủng bố đạt hiệu quả cao, cùng với hành động từ phía Ngân hàng Nhà
nước cần có sự vào cuộc của tất cả các cơ quan hữu quan, trong đó vai trò của
các ngân hàng thương mại là hết sức quan trọng.
Với những lý do trên tôi lựa chọn tề tài: “Hoạt động phòng, chống rửa
tiền trong hệ thống NHTM Việt Nam” xoay quanh chủ yếu ba vấn đề chính
đó là: Hoàn thiện khung pháp lý phòng, chống rửa tiền, tạo lập môi trường
kinh tế thích hợp và chuẩn bị cơ sở vật chất đầy đủ cho hoạt động phòng,
chống rửa tiền trong hệ thống NHTM Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong quá trình nghiên cứu thực hiện đề tài luận văn, tác giả đã tìm đọc
một số luận án, luận văn, đề tài nghiên cứu khoa học về hoạt động rửa tiền và
hoạt động phòng, chống rửa tiền như:

2


Nguyễn Hải Giang (2015), Phòng, chống rửa tiền qua hệ thống ngân
hàng tại Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ Tài chính - Ngân hàng, Trường Đại học
Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội. Nghiên cứu của tác giả đã góp phần hệ
thống hóa và luận giải một số vấn đề lý thuyết về rửa tiền; công tác phòng,

chống rửa tiền trong hoạt động ngân hàng quốc tế. Tác giả đã khái quát thực
trạng, nhận thức và khuôn khổ pháp lý của Việt Nam trong xây dựng và triển
khai các biện pháp phòng, chống rửa tiền. Trên cơ sở đó, đề xuất các giải
pháp chủ yếu nhằm tăng cường năng lực phòng, chống rửa tiền qua ngân
hàng, bảo vệ uy tín, lợi ích, cũng như đảm bảo sự phát triển lành mạnh của
ngân hàng nói riêng, hệ thống tài chính quốc gia nói chung [8].
Trương Phạm Liên Châu (2013), Giải pháp phòng, chống rửa tiền qua
hệ thống NHTM Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ Tài chính - Ngân hàng, Trường
Đại học Kinh tế TP.HCM. Tác giả luận văn đã nghiên cứu các lý luận liên
quan đến hệ thống NHTM, hoạt động rửa tiền và hoạt động phòng, chống rửa
tiền qua hệ thống NHTM. Trên cơ sở đó, nghiên cứu thực trạng và các công
cụ phòng, chống rửa tiền của các NHTM Việt Nam [3].
Nguyễn Văn Ngọc (2014), Kế hoạch hành động quốc gia về phòng,
chống rửa tiền và tài trợ khủng bố giai đoạn 2015-2020, Tạp chí ngân hàng,
số 24, trang 02-05. Tác giả bài báo đã nghiên cứu những ảnh hưởng của hoạt
động rửa tiền, hoạt động tài trợ khủng bố giai giai đoạn 2015 - 2020. Trên cơ
sở đó, tác giả đã có những gợi ý xây dựng kế hoạch hành động quốc gia về
phòng, chống rửa tiền [19].
Phạm Huy Hùng (2010), Giải pháp phòng chống rửa tiền tại các
NHTM Việt Nam. Bài nghiên cứu đã nêu ra những hậu quả nghiêm trọng do
hoạt động rửa tiền gây ra, đồng thời khái quát những quy định pháp luật quốc
tế, kinh nghiệm tại một số ngân hàng nước ngoài. Phân tích trực trạng tại Việt
Nam, những kết quả đạt được cũng như hạn chế. Qua quá trình phân tích tác

3


giả cũng đã đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả phòng chống rửa
tiền tại các NHTM Việt Nam, các kiến nghị với cơ quan lập pháp và các Bộ,
Ban, ngành liên quan [14].

Nguyễn Minh Phương, Đặng Thế Hùng (2011), Kiều hối và phòng
chống rửa tiền thông qua kiều hối. Bài nghiên cứu đã nêu ra các phương thức
phòng chống rửa tiền thông qua kiều hối, các vấn đề Việt Nam đã làm được
cũng như các vấn đề còn hạn chế. Theo tác giả Việt Nam đang trở thành mục
tiêu cao trong rửa tiền vì hệ thống thanh tra, giám sát, hệ thống kế toán và tìm
hiểu khách hàng của các ngân hàng còn kém phát triển; mức độ sử dụng tiền
mặt và các luồng chuyển tiền không chính thức khá khiến cho việc kiểm soát
các giao dịch thanh toán trở nên khó khăn. Từ các phân tích tình hình thực tế
tác giả đã đưa ra các giải pháp đối với NHNN, NHTM góp phần phòng chống
rửa tiền [32].
Bên cạnh đó, tác giả cũng tìm đọc và nghiên cứu các đề tài, bài báo
như: Nguyễn Hải Bình (2005), Phòng, chống rửa tiền trên thế giới và một số
lưu ý khi áp dụng tại Việt Nam, Tạp chí ngân hàng, số 11, trang 10-13.
Nguyễn Minh Hiền (2011), Phòng ngừa tội phạm rửa tiền ở Việt Nam, Tiến sĩ
Luật học, Học viện Cảnh sát nhân dân. Trần Quang Hiệp (2009), Công tác
đấu tranh phòng chống rửa tiền ở Việt Nam, Tạp chí Công An nhân dân, số07
[12,tr15-19]. Nguyễn Đắc Hoan (2007), Hoạt động rửa tiền ở Việt Nam - Giải
pháp phòng ngừa, Đề tài cấp bộ. Nguyễn Văn Ngọc (2014), Tiến triển trong
công tác phòng, chống rửa tiền của Việt Nam, Tạp chí ngân hàng, số 1+2.
Trên đây là những tài liệu mà tác giả đã hệ thống, nghiên cứu nhằm
định hướng lý luận cho luận văn tốt nghiệp thạc sĩ của mình. Những đề tài
trên đã tập trung nghiên cứu về hoạt động rửa tiền và phòng, chống rửa tiền
trong hệ thống NHTM Việt Nam. Tuy nhiên, đề tài về hoạt động phòng,

4


chống rửa tiền trong hệ thống NHTM Việt Nam giai đoạn 2012 - 2016 thì
chưa được nhiều tác giả nghiên cứu sâu.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu lý luận và thực trạng hoạt động phòng, chống rửa tiền trong
hệ thống NHTM Việt Nam thời gian qua. Trên cơ sở đó, đề xuất một số giải
pháp nhằm hoàn thiện hoạt động phòng, chống rửa tiền trong hệ thống NHTM
Việt Nam thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ những lý luận cơ bản về hoạt động rửa tiền, hoạt động phòng,
chống rửa tiền trong hệ thống ngân hàng.
- Đánh giá thực trạng hoạt động phòng, chống rửa tiền trong hệ thống
NHTM Việt Nam. Đánh giá được những thành công, tồn tại và nguyên nhân
tồn tại chủ yếu của hoạt động này.
- Đề xuất giải pháp hoàn thiện hoạt động phòng, chống rửa tiền trong
hệ thống NHTM Việt Nam trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu: Hoạt động phòng, chống rửa tiền trong hệ
thống NHTM Việt Nam
4.2. Phạm vi nghiên cứu:
Về nội dung: Đề tài nghiên cứu hoạt động phòng, chống rửa tiền thông
qua hệ thống NHTM dưới góc độ pháp lý nhằm đánh giá mực độ hoàn thiện
các văn bản, tổ chức triển khai và kết quả triển khai các văn bản này.
Về không gian, địa bàn: Nghiên cứu hoạt động phòng, chống rửa tiền
trong hệ thống NHTM tại Việt Nam. Tổ chức khảo sát, phỏng vấn cán bộ
quản lý tại một số NHTM trên địa bàn Thành phố Hà Nội (Đại diện cho các

5


đầu cầu kinh tế lớn của cả nước) và Tỉnh Bắc Ninh (Đại diện cho các tỉnh có
sựu phát triển công nghiệp mạnh mẽ thu hút nhiều vốn và ngoại tệ).
Về thời gian: Phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động phòng, chống

rửa tiền trong hệ thống NHTM giai đoạn 2012-2016, đề xuất kiến nghị, giải
pháp cho giai đoạn đến năm 2025.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Với góc độ nghiên cứu của đề tài là thực trạng hoạt động phòng, chống
rửa tiền trong hệ thống NHTM Việt Nam dựa trên tiếp cận của chuyên ngành
Tài chính - Ngân hàng, đề tài sử dụng phương pháp duy vật biện chứng để
nhìn nhận và phân tích các sự việc hiện tượng trong quá trình vận động tất
yếu của hoạt động phòng, chống rửa tiền trong hệ thống NHTM Việt Nam.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
5.2.1. Phương pháp thu thập dữ liệu thứ cấp
Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu này nhằm mục đích tổng
hợp, phân tích tài liệu và văn bản có liên quan đến hoạt động rửa tiền và hoạt
động phòng, chống rửa tiền trong hệ thống NHTM. Tác giả tìm đọc và tổng
hợp các tài liệu, văn bản liên quan đến hoạt động rửa tiền và hoạt động phòng,
chống rửa tiền trong hệ thống NHTM và các yếu tố ảnh hưởng tới hoạt động
phòng, chống rửa tiền trong hệ thống NHTM. Từ đó phân tích, tổng hợp, khái
quát hoá vấn đề để xây dựng cơ sở lý luận nghiên cứu đề tài luận văn này.
5.2.2. Phương pháp thu thập dữ liệu sơ cấp
Mục đích nghiên cứu
Đề tài thực hiện khảo sát với mục tiêu đánh giá mức độ hiệu lực của
hoạt động phòng chống rửa tiền tại ngân hàng và khảo sát giải pháp góp phần
nâng cao hiệu lực phòng chống rửa tiền từ góc độ của cán bộ, nhân viên tại
ngân hàng thực tế tại Việt Nam.

6


Mẫu nghiên cứu
Ngoài phần giới thiệu, Bảng câu hỏi khảo sát được thiết kế dựa trên 3

phần, phần 1 là thông tin của đối tượng khảo sát, Phần 2 là các nội dung khảo
sát, Phần 3 –câu hỏi mở về các giải pháp và kiến nghi nhằm hoàn thiện hoạt
động phòng, chống rửa tiền trong hệ thống NHTM. Bảng khảo sát được thiết
kế vừa có những câu hỏi đóng và kết hợp câu hỏi đóng và mở (Phụ lục 1)
Cách thức thực hiện
Đề tài đã sử dụng phương pháp điều tra bằng bảng hỏi và phỏng vấn
trực tiếp nhằm tìm hiểu các thông tin về hoạt động rửa tiền và hoạt động
phòng, chống rửa tiền tại hệ thống các NHTM. Cuộc khảo sát được thực hiện
trong khoảng thời gian từ 01/4/2017 đến 30/06/2017. Tác giả sử dụng phương
pháp chọn mẫu ngẫu nhiên có điều kiện. Để phục vụ cho mục đích đánh giá
thực hiện công tác phòng chống rửa tiền thông qua hệ thống ngân hàng, tác
giả đã tiến hành khảo sát với 130 cán bộ nhân viên ngân hàng đang công tác
tại các bộ phận giao dịch khách hàng thông qua trực tiếp hoặc gửi email: 43%
giao dịch viên, 14% nhân viên ngân quỹ, 22% nhân viên tín dụng, 16% nhân
viên phát triển kinh doanh và 5% là kiểm soát giao dịch và nhân viên tư vấn.
Đây là các đối tượng trực tiếp thực hiện giao dịch với khách hàng là những
người có khả năng tiếp xúc với tội phạm rửa tiền. Tác giả phỏng vấn lãnh đạo
và các nhân viên đến từ nhiều ngân hàng khác nhau từ nhiều phòng giao dịch,
chi nhánh. Việc điều tra phỏng vấn trực tiếp giúp tác giả có nguồn dữ liệu
chính xác. Số phiếu thu về là 116 phiếu, cụ thể là 9 phiếu từ NHNN (chiếm
7,76%), 107 phiếu từ NHTM (chiếm 92,24%), trong đó 15% số phiếu trả lời
từ lãnh đạo các ngân hàng, 85% số phiếu từ nhóm nhân viên, chuyên viên các
ngân hàng.
5.2.3. Phương pháp xử lý dữ liệu

7


Các kết quả nghiên cứu thu được từ phương pháp nghiên cứu nêu trên
được chúng tôi xử lý như sau: Xử lý các số liệu thu được từ phương pháp điều

tra bằng bảng hỏi bằng phương pháp thống kê toán học. Trong đó, các phép
toán thống kê được sử dụng gồm: Tỷ lệ phần trăm; điểm trung bình.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn sẽ làm sáng tỏ một số khái niệm về hoạt động rửa tiền, phòng
chống rửa tiền. Luận văn đã hệ thống các nội dung liên quan đến hoạt động
phòng, chống rửa tiền trong hệ thống NHTM Việt Nam, những yếu tố ảnh
hưởng đến hoạt động này.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Phản ánh được thực trạng hoạt động phòng, chống rửa tiền trong hệ
thống NHTM Việt Nam. Đề xuất một số giải pháp tăng cường hoạt động
phòng, chống rửa tiền trong hệ thống NHTM Việt Nam trong thời gian sắp
tới. Giúp cho cán bộ quản lý ngân hàng hiểu hơn về công việc của mình.
7. Cơ cấu của luận văn
Luận văn ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục,
nội dung chính được chia thành 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về phòng, chống rửa tiền trong hệ
thống NHTM
Chương 2: Thực trạng hoạt động phòng, chống rửa tiền trong hệ thống
NHTM Việt Nam
Chương 3: Định hướng và một số đề xuất tăng cường hoạt động phòng,
chống rửa tiền trong hệ thống NHTM Việt Nam

8


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÒNG, CHỐNG RỬA TIỀN
TRONG HỆ THỐNG NGÂN HÀNG
1.1. Một số vấn đề cơ vản về hoạt động rửa tiền

1.1.1. Hoạt động rửa tiền
1.1.1.1. Khái niệm
Những năm 80 của thế kỷ XX, cộng đồng quốc tế bắt đầu quan tâm
nhiều hơn và lần đầu tiên khái niệm rửa tiền được đưa ra trong một văn bản
mang tính chất pháp lý quốc tế, Công ước Viên năm 1988. Theo đó rửa tiền là
“hành vi chuyển đổi hoặc chuyển giao tài sản khi biết rằng tài sản đó có được
từ buôn bán ma tuý hoặc từ việc tham gia vào hoạt động phạm tội, với mục
đích che dấu nguồn gốc tài sản hoặc giúp người nào đó liên quan đến tội
phạm hoặc hành vi phạm tội để né tránh trách nhiệm pháp lý từ các hành vi
của mình; hành vi che dấu hoặc ngụy trang hình thái tự nhiên, nguồn gốc, địa
điểm, việc định đoạt, chuyển nhượng quyền sở hữu tài sản hoặc các quyền
liên quan đến tài sản mà biết rõ là tài sản do phạm tội buôn bán ma tuý mà có;
hành vi mua, tang trữ hoặc sử dụng tài sản khi biết rõ tài sản do phạm tội
buôn bán ma túy mà có” [54, tr3]
Dựa trên những văn bản pháp lý chung trên thế giới mỗi quốc ra lại
đưa ra một khái niệm về rửa tiền riêng. Tại Việt Nam thuật ngữ rửa tiền tại
quy định tại Điều 251 BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) như
sau: “Nguời nào thực hiện một trong các hành vi sau đây, thì bị phạt tù từ
một năm đến năm năm:
a) Tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào giao dịch tài chính, ngân hàng
hoặc giao dịch liên quan đến tiền, tài sản biết rõ là do phạm tội mà có nhằm
che giấu nguồn gốc bất hợp của tiền, tài sản đó;

9


b) Sử dụng tiền, tài sản biết rõ là do phạm tội mà có vào việc tiến
hành các hoạt động kinh doanh hoặc hoạt động khác;
c) Che giấu thông tin về nguồn gốc, bản chất thật sự, vị trí, quá trình
di chuyển hoặc quyền sở hữu đối với tiền, tài sản biết rõ là do phạm tội mà

có hoặc cản trở việc xác minh các thông tin đó;
d) Thực hiện một trong các hành vi quy định tại các điểm a, b và c
khoản này đối với tiền, tài sản biết rõ là có được từ việc chuyển dịch, chuyển
nhượng, chuyển đổi tiền, tài sản do phạm tội mà có” [33].
Điều 3 Nghị định số 74/2005/NĐ-CP ngày 07 tháng 6 năm 2005 của
Chính phủ về phòng, chống rửa tiền có quy định: “Rửa tiền là hành vi của cá
nhân, tổ chức tìm cách hợp pháp hoá tiền, tài sản do phạm tội mà có thông
qua các hoạt động cụ thể sau đây:
a) Tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào một giao dịch liên quan đến
tiền, tài sản do phạm tội mà có;
b) Thu nhận, chiếm giữ, chuyển dịch, chuyển đổi, chuyển nhượng, vận
chuyển, sử dụng, vận chuyển qua biên giới tiền, tài sản do phạm tội mà có;
c) Đầu tư vào một dự án, một công trình, góp vốn vào một doanh
nghiệp hoặc tìm cách khác che đậy, ngụy trang hoặc cản trở việc xác minh
nguồn gốc, bản chất thật sự hoặc vị trí, quá trình di chuyển hoặc quyền sở hữu
đối với tiền, tài sản do phạm tội mà có.” [4]
Đến năm 2012 nhằm đáp ứng nhu cầu hội nhập quốc tế, Quốc hội đã
thông qua Luật phòng chống rửa tiền. Theo khoản 1 điều 4 có nêu: “Rửa tiền
là hành vi của tổ chức, cá nhân nhằm hợp pháp hóa nguồn gốc của tài sản do
phạm tội mà có, bao gồm:
a) Hành vi được quy định trong Bộ luật hình sự;

10


b) Trợ giúp cho tổ chức, cá nhân có liên quan đến tội phạm nhằm trốn
tránh trách nhiệm pháp lý bằng việc hợp pháp hóa nguồn gốc tài sản do phạm
tội mà có;
c) Chiếm hữu tài sản nếu tại thời điểm nhận tài sản đã biết rõ tài sản đó
do phạm tội mà có, nhằm hợp pháp hóa nguồn gốc tài sản” [35].

Theo Điều 324 Bộ luật hình sự 2015 quy định về tội rửa tiền, như sau:
“1. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây, thì bị phạt tù từ
01 năm đến 05 năm;
a) Tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào giao dịch tài chính, ngân hàng
hoặc giao dịch khác nhằm che giấu nguồn gốc bất hợp pháp của tiền, tài sản
do mình phạm tội mà có hoặc biết hay có cơ sở để biết là do người khác phạm
tội mà có;
b) Sử dụng tiền, tài sản do mình phạm tội mà có hoặc biết hay có cơ sở
để biết là do người khác thực hiện hành vi phạm tội mà có vào việc tiến hành
các hoạt động kinh doanh hoặc hoạt động khác;
c) Che giấu thông tin về nguồn gốc, bản chất thực sự, vị trí, quá trình di
chuyển hoặc quyền sở hữu đối với tiền, tài sản do mình phạm tội mà có hoặc
biết hay có cơ sở để biết là do người khác phạm tội mà có hoặc cản trở việc
xác minh các thông tin đó;
d) Thực hiện một trong các hành vi quy định tại các điểm a, b và c
khoản này đối với tiền, tài sản biết là có được từ việc chuyển dịch, chuyển
nhượng, chuyển đổi tiền, tài sản do người khác thực hiện hành vi phạm tội mà
có” [37].
Nhìn chung có rất nhiều khái niệm về phòng chống rửa tiền được đưa
ra và có thể khái quát chung như sau: Rửa tiền là hoạt động của các cá nhân
hoặc tổ chức thông qua quá trình xử lý nhằm che dấu đi nguồn gốc bất hợp
pháp của các khoản thu nhập.

11


Nhìn chung có rất nhiều cách tiếp cận, dưới các góc nhìn, khía cạnh
khác nhau nhưng khái niệm về rửa tiền có những dấu hiệu có thể khái quát
chung như sau:
- Chủ thể của hoạt động rửa tiền bao gồm những cá nhân và pháp nhân.

Chủ thể của hoạt động rửa tiền có thể là chủ thể tội phạm gốc nhưng cũng có
thể là người khác chỉ tham gia vào quá trình rửa tiền. Tại một số nước chủ thể
tiến hành hoạt động rửa tiền không chỉ là cá nhân, pháp nhân có hành vi rửa
tiền một cách trực tiếp, mà cả những người khác (nhân viên các tổ chức tài
chính...) vô tình hay cố ý tiếp tay cho hành vi rửa tiền cũng phải chịu trách
nhiệm trước pháp luật.
- Mục đích của hoạt động rửa tiền là làm cho đồng tiền “bẩn” trở nên
sạch hơn hay nói cách khác là tạo ra một khoảng “an toàn” nhất giữa tài sản
bất hợp pháp và chủ sở hữu những tài sản đó. Hình thức biểu hiện ban đầu
thông thường là “tiền”, nhưng sau các giai đoạn “rửa” đã có các hình thức
biểu hiện khác như: ngân phiếu, thẻ tín dụng, bất động sản ...
- Nguồn gốc của tiền “bẩn” thường có được từ những hành vi vi phạm
pháp luật, phổ biến là các hành vi: buôn lậu, buôn bán ma túy và vũ khí, mại
dâm và các loại hàng hoá bị cấm mua bán, trao đổi; Tiền của các tổ chức tội
phạm có được do làm tiền giả, tống tiền, tổ chức đánh bạc; tiền tham nhũng;
trốn thuế... Trên thực tế, hệ thống luật pháp phòng chống rửa tiền ở những
nước khác nhau có những quy định khác nhau về loại tội phạm này. Nguồn
tiền bẩn thường gồm 3 nhóm: Nguồn tiền từ lao động bất hợp pháp, nguồn
tiền từ tham nhũng, nguồn tiền trốn thuế.
1.1.1.2. Điều kiện phát sinh hoạt động rửa tiền
(1) Hệ thống pháp luật về phòng, chống rửa tiền chưa đầy đủ
Rửa tiền là một vấn đề mang tính toàn cầu. Tội phạm thường lợi dụng
những sơ hở trong các quy định về giám sát của ngân hàng để thực hiện hành

12


vi rửa tiền. Do đó, điều đầu tiên phải kể đến đó là hệ thống tài chính tiền tệ
đang trong giai đoạn phát triển với những quy định lỏng lẻo trong cơ chế
giám sát từ phía các tổ chức tài chính là một trong những nguyên nhân tạo cơ

hội thực hiện rửa tiền qua hệ thống ngân hàng.
(2) Bộ máy tổ chức về phòng, chống rửa tiền còn hạn chế
Về công tác quản lý: Ngân hàng trung ương thiếu một cơ quan đầu mối
về phòng, chống rửa tiền. Cơ quan này có nhiệm vụ tiếp nhận thông tin về các
giao dịch đáng ngờ từ các NHTM trong nước, cũng như tập hợp danh sách
các giao dịch đáng ngờ từ các nước trên thế giới.
Về phía các NHTM: thiếu cán bộ, hệ thống công nghệ thông tin còn
tương đối lạc hậu và chưa có quy trình về phòng, chống rửa tiền. Hoạt động
kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ, ngân hàng thường phải đối mặt với nhiều
rủi ro. Do đó, các ngân hàng phải xây dựng các quy trình giám sát, kiểm toán
nội bộ thực sự chặt chẽ. Tuy nhiên, trong hầu hết các ngân hàng, việc xây
dựng các quy trình giám sát về phòng, chống rửa tiền còn thiếu hoặc chưa
được quan tâm đúng mức. Các ngân hàng không áp dụng các quy định trong
việc nhận dạng và thực hiện nguyên tắc hiểu biết khách hàng.
(3) Một số quy định về thanh toán tạo thuận lợi cho hoạt động rửa tiền.
Tín dụng chứng từ (L/C) là một trong những công cụ được tội phạm
rửa tiền ưa thích sử dụng nhất, là vì các giao dịch “ma” thanh toán bằng
phương thức này ít bị nghi ngờ và có thể qua mặt ngân hàng và cơ quan pháp
luật. Một trong những yếu tố hấp dẫn của L/C là “các ngân hàng giao dịch
trên cơ sở các chứng từ chứ không phải bằng hàng hóa, dịch vụ hoặc các thực
hiện khác có liên quan đến chứng từ” [48].
Bên cạnh rửa tiền thông qua các giao dịch “ma”, tội phạm còn thực
hiện rửa tiền thông qua những giao dịch có thật, nhưng thủ thuật tinh vi hơn,

13


đó là hạ giá hoặc nâng giá hàng hóa. Khoản chênh lệch giữa giá thực tế và giá
nhập khẩu chính là khoản tiền phi pháp mà bọn tội phạm muốn tẩy rửa.
1.1.2. Hậu quả kinh tế - xã hội của hoạt động rửa tiền

Thứ nhất, rửa tiền gây ra sự mất ổn định về kinh tế. Tội phạm rửa tiền
không quan tâm đến lợi ích kinh tế của việc đầu tư từ nguồn lợi nhuận bất hợp
pháp họ kiếm được. Chính vì vậy họ cũng không quan tâm tới lợi ích quốc gia
mà họ đầu tư cũng như hậu quả của việc đầu tư đó. Mục đích của hoạt động
đầu tư chỉ nhằm hợp thức hóa các khoản tiền bất hợp pháp. Chính vì vậy nó
gây ra sự mất ổn định về kinh tế, ảnh hưởng đến sự phân bổ nguồn lực giữa các
khu vực dẫn đến hiệu quả kinh tế kém tại các khu vực trọng yếu, sai lệch về
danh mục đầu tư, tạo ra sự phát triển không cân xứng giữa ngành nghề và quy
mô cũng như nhu cầu của nền kinh tế. Rửa tiền còn làm bóp méo hoạt động
ngoại thương bởi nó có liên hệ mật thiết tới việc làm biến tướng các hoạt
động xuất nhập khẩu của một quốc gia. Hoạt động rửa tiền thường đi kèm với
hành vi trốn thuế làm thất thu ngân sách nhà nước, đồng thời chính phủ phải
bỏ ra một khoản chi phí không nhỏ để khắc phục hậu quả từ những hoạt động
bất hợp pháp như buôn bán ma túy, mại dâm… gây ra (chi phí thực thi pháp
luật, chi phí về y tế, sức khỏe cộng đồng…). Chính vì vậy, rửa tiền gây tổn
hại rất lớn tới ngân sách quốc gia, làm giảm khả năng thực thi các chính sách
kinh tế vì không đủ nguồn lực. Bên cạnh đó nếu nguồn tiền bất hợp pháp
trong nền kinh tế nhiều gây nhũng nhiễu nền kinh tế, làm mất quyền kiểm
soát của chính phủ.
Thứ hai, rửa tiền làm suy yếu khu vực kinh tế tư nhân. Nguồn tiền bất
hợp pháp được tội phạm trộn lẫn với nguồn tiền hợp pháp bởi những công ty
ngụy trang để hỗ trợ giá làm cho giá thành phẩm và dịch vụ thấp hơn nhiều so
với giá thị trường, gây khó khăn cho các công ty nhỏ, làm cho các công ty

14


kinh doanh hợp pháp khó cạnh tranh lại, suy yếu dần và có nhiều khả năng
dẫn tới phá sản.
Thứ ba, rửa tiền làm suy yếu toàn bộ thị trường tài chính. Đầu tiên hoạt

động rửa tiền có ảnh hưởng rất lớn đến tính thanh khoản: Hoạt động rửa tiền có
lúc mang lại cho các tổ chức tài chính một nguồn vốn huy động rất lớn nhưng
đồng thời các tổ chức này lại phải đối mặt với sự mất tích đột ngột của của
chính nguồn vốn đó. Rửa tiền còn làm giảm uy tín của các tổ chức, định chế tài
chính trong khi các tổ chức này hoạt động chủ yếu dựa trên uy tín. Khi bị phát
hiện có liên quan tới hoạt động rửa tiền, lượng khách hàng sẽ giảm sút đáng kể,
cũng như khó có thể thu hút được nguồn vốn đầu tư.
Thứ tư, rửa tiền làm cản trở việc hội nhập quốc tế. Trong bối cảnh hội
nhập toàn cầu, các quốc gia đều mong muốn một sự ổn định, phát triển biền
vững theo kịp với sự phát triển chung của toàn thế giới. Tuy nhiên rửa tiền
không chỉ làm ảnh hưởng đến nền kinh tế mà còn ảnh hưởng đến toàn bộ thị
trường tài chính, hơn thế nữa còn làm ảnh hưởng đến uy tín, danh tiếng của
chính quốc gia đó bởi lẽ hoạt động rửa tiền thường đi kèm với hàng loạt các
loại tội phạm khác như: tham ô, tham nhũng, ma túy, mại dâm…
Thứ năm, những ảnh hưởng khác. Rửa tiền còn gây ra sự tha hóa đạo
đức, rửa tiền khuyến khích các hoạt động tội phạm gia tăng bởi hoạt động này
giúp bọn tội phạm có thể che dấu được nguồn gốc thu nhập bất hợp pháp tạo
vỏ bọc an toàn cho chúng.
1.1.3. Hình thức và thủ đoạn rửa tiền
1.1.3.1. Rửa tiền thông qua đầu tư nước ngoài
Trong bối cảnh hội nhập toàn cầu, pháp luật đầu tư các nước được xây
dựng và bổ sung, sửa đổi theo hướng ngày càng thông thoáng, thuận lợi cho
nhà đầu tư. Thậm chí độ thông thoáng đến mức người ta không cần quan tâm
đến nguồn gốc vốn đầu tư có nguồn gốc hợp pháp hay không. Đây là mảnh

15


đất màu mỡ để rửa tiền. Tội phạm lại không quan tâm nhiều hiệu quả đầu tư
và chúng cũng không quan tâm tới kết quả đầu tư mà chỉ xem đây như là một

công cụ rửa tiền. Chúng đưa tiền vào các nước đang phát triển để mua bất
động sản, mua lại nhà máy, công ty phá sản, thành lập các doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài mới… lợi nhuận sau đầu tư được chuyển đến các địa
chỉ mong muốn đã có bề ngoài hợp pháp. Với thủ đoạn rửa tiền thông qua đầu
tư nước ngoài, các tổ chức tội phạm đã hoàn tất 3 công đoạn của quá trình rửa
tiền. Duy trì các kết quả đầu tư càng lâu dài thì nguồn gốc bất hợp pháp càng
trở nên mờ nhạt.
1.1.3.2. Rửa tiền thông qua các công ty bảo hiểm
Tội phạm dùng tiền có nguồn gốc bất hợp pháp mua bảo hiểm nhân thọ
của các công ty bảo hiểm. Khoản tiền này được nằm trong tài khoản của công
ty bảo hiểm một thời gian nhất định. Tiền có nguồn gốc bất hợp pháp không
được sử dụng trong thời gian dài cũng đã tạo ra cho nó một điều kiện an toàn
nhất định. Sau đó bọn tội phạm sẽ viện một lý do nào đó để yêu cầu rút tiền
trước thời hạn hoặc dùng giá trị của hợp đồng bảo hiểm để đảm bảo chi trả
cho một nhu cầu giao dịch nào đó như mua bất động sản.
1.1.3.3. Rửa tiền bằng cách sử dụng hóa đơn, chứng từ giả
Theo quy định pháp luật của nhiều nước, việc thành lập và hoạt động
của các doanh nghiệp hầu như không chịu sự kiểm soát nào từ phía nhà nước.
Muốn thành lập doanh nghiệp chỉ cần đăng ký qua mạng, qua điện thoại, qua
luật sư đại diện hoặc điều kiện thành lập doanh nghiệp quá đơn giản. Ngay
sau khi thành lập, doanh nghiệp có thể mua hóa đơn từ chi cục thuế để hoạt
động. Những công ty “bình phong” có thể được lập ra, bằng cách thuê người
khác đứng tên để được thành lập, thuê địa chỉ làm trụ sở hoặc khai gian địa
chỉ rồi biến mất, những doanh nghiệp này. Hoạt động của chúng không chỉ
gắn với rửa tiền mà còn có thể lừa đảo, trốn thuế, buôn lậu, tham nhũng…

16


1.1.3.4. Rửa tiền thông qua các sòng bạc

Tại các sòng bạc hầu như không có bất cứ hành động nào nhằm kiểm
soát nguồn gốc tiền của khách mang đến chơi bạc. Do vậy, sòng bạc được
xem là thiên đường để bọn tội phạm thực hiện tẩy rửa tiền bằng cách bỏ tiền
có nguồn gốc bất hợp pháp để mua vé, mua thẻ chơi bạc. Nếu thắng, chúng sẽ
được trả bằng séc để đưa tiền thắng bạc vào tài khoản của mình. Như vậy, bọn
tội phạm sẽ có séc của sòng bạc để hợp pháp hóa những đồng tiền bất hợp
pháp. Ở khía cạnh khác, nhiều khi việc đánh bạc chỉ là hình thức bên ngoài,
thực chất bọn tội phạm đang thỏa thuận với chủ sòng bạc để có được xác nhận
các khoản tiền thắng bạc với một tỷ lệ chi phí nhất định.
1.1.3.5. Rửa tiền thông qua xổ số và cá cược hợp pháp
Việc hợp thức hóa tiền có nguồn gốc phạm tội đôi khi được thực hiện
thông qua mua lại những giải thưởng xổ số với giá lớn hơn giá trị thực mà
người trúng thưởng có thể được hưởng. Khoản chi phí lớn hơn đó là khoản
chi phí đảm bảo cho tính hợp pháp của đồng tiền bất hợp pháp. Sau khi sở
hữu vé xổ số trúng thưởng, bọn tội phạm vào Công ty phát hành xổ số là có
thể nhận tiền hợp pháp. Trong điều kiện của cơ chế thị trường, nhiều trò chơi
cá cược được thừa nhận là nhu cầu giải trí như: đua ngựa, đua chó, trọi gà,
trọi trâu… hoạt động cá cược này sử dụng tiền mặt với số lượng lớn. Đây
cũng là mảnh đất tốt cho việc rửa tiền.
1.1.3.6. Rửa tiền thông qua đầu tư chứng khoán
Thị trường chứng khoán cũng là nơi bọn tội phạm chú ý lợi dụng để rửa
tiền, nhất là thị trường chứng khoán ở những nước chưa có quy định chặt chẽ
về kiểm soát nguồn gốc tài chính và pháp luật về rửa tiền. Tội phạm sử dụng
các khoản tiền bất hợp pháp để đầu tư cổ phiếu được niêm yết tại các trung
tâm giao dịch chứng khoán. Sau một thời gian đầu tư, các cổ phiếu trên sẽ
được bán ra với giá có thể thấp hơn giá đầu tư ban đầu, nhưng dấu vết tội

17



phạm của đồng tiền bất hợp pháp đã dần phai mờ. Do những đồng tiền này
được nhận qua hệ thống tài chính, nên nó có được bề ngoài hợp pháp.
1.1.3.7. Rửa tiền qua hệ thống ngân hàng
Rửa tiền qua hệ thống ngân hàng đã và đang trở thành một trong những
mô hình rửa tiền mà bọn tội phạm ưa thích sử dụng. Rửa tiền qua hệ thống
ngân hàng là việc lợi dụng những kẻ hở trong các quy định giao dịch, cho vay
của ngân hàng để thực hiện tẩy rửa tiền. Một trong những ưu điểm nổi bật của
phương thức này là nếu thực hiện trót lọt, dấu vết của đồng tiền bẩn gần như
được xóa bỏ hoàn toàn. Đồng tiền đội lốt hợp pháp được bổ sung vào dòng
chảy vốn của nền kinh tế một cách tự nhiên. Hơn nữa, trên thế giới hầu như
nước nào cũng có hệ thống ngân hàng. Càng ở những nước có quy định về
phòng, chống rửa tiền sơ khai, việc lợi dụng hệ thống ngân hàng để rửa tiền
càng thuận lợi hơn.
1.1.4. Các yếu tố thúc đẩy hoạt động rửa tiền thông qua hệ thống ngân
hàng thương mại
Một số yếu tố thúc đẩu hoạt động rửa tiền thông qua hệ thống ngân
hàng:
Thứ nhất, hội nhập thị trường tài chính của hệ thống ngân hàng: Theo
cảnh báo của các chuyên gia tài chính, với các quốc gia đang phát triển với hệ
thống ngân hàng và tài chính chưa thực sự phát triển và tỷ trọng sử dụng tiền
mặt cao như Việt Nam, các đối tượng tội phạm thường nhắm đến để tìm cách
rửa các khoản tiền bẩn của mình.
Thứ hai, nhận thức và năng lực yếu kém của đội ngũ nhân viên ngân
hàng về hoạt động rửa tiền cũng là một yếu tố mà tội phạm đang hướng để lợi
dụng rửa tiền thông qua hệ thống ngân hàng thương mại. Điều đáng nói, tình
trạng móc nối giữa nhân viên ngân hàng với các cơ quan khác như Phòng

18



Công chứng để thực hiện các hành vi phạm tội của mình, khiến cơ quan chức
năng khó phát hiện và xử lý các vụ việc liên qua đến hoạt động rửa tiền.
Thứ ba, tội phạm công nghệ cao cũng gia tăng nhanh chóng do lỗ hổng
bảo mật trong công nghệ quản lý ngân hàng còn hạn chế như thẻ thanh toán,
ATM, e-banking… Với sự gia tăng của tội phạm trong lĩnh vực ngân hàng
như vậy, không ít ý kiến cho rằng, dù chưa con số thống kê chính thức, song
cũng không loại trừ, các vụ án này cũng liên quan đến vấn nạn rửa tiền.
Thứ tư, thiếu kiểm soát nguồn gốc tiền chuyển khoản và giao dịch.
Một trong những ưu điểm lớn của hoạt động chuyển tiền giữa các ngân
hàng thương mại đó là chỉ trong thời gian ngắn có thể tạo ra hàng trăm giao
dịch chuyển tiền khiến bọn tội phạm rất thích rửa tiền thông qua hình thức
này. Thông qua việc mở tài khoản tiền gửi tại các ngân hàng thương mại để
phục vụ việc giao dịch chứng khoán. Tuy nhiên, nguồn gốc thu nhập để mua
cổ phiếu chưa được ngân hàng quan tâm đúng mức. Nguồn tiền ban đầu đưa
vào tài khoản để kinh doanh chứng khoán có thể là tiền bất hợp pháp, nhưng
sau một thời gian kinh doanh chứng khoán, tiền được rút ra từ ngân hàng đã
được “ngụy trang” là tiền hợp pháp. Đây được xem là hành vi rửa tiền khá
đơn giản trong bối cảnh hệ thống kiểm soát rửa tiền qua hệ thống ngân hàng
của chúng ta còn khá sơ khai.
1.1.5. Sự cần thiết phải hợp tác giữa các lĩnh vực với hệ thống ngân hàng
thương mại liên quan đến hoạt động rửa tiền
Qua nghiên cứu cho thấy, hoạt động rửa tiền qua ngân hàng thương mại
của bọn tội phạm rất đa dạng, phức tạp và được triển khai thực hiện qua nhiều
công đoạn. Vì vậy, vấn đề phòng chống rửa tiền không chỉ là hoạt động riêng
của bất kỳ ngân hàng nào mà là sự phối hợp chặt chẽ của nhiều ngành, giữa
ngân hàng Trung ương và các ngân hàng thương mại và giữa các phòng ban

19



trong nội bộ ngân hàng thương mại. Giữa các lĩnh vực liên quan như bảo
hiểm, chứng khoán, giao dịch xuất nhập khẩu, công nghệ thông tin…
Để phòng chống rửa tiền có hiệu quả, các quốc gia đã hình thành trung
tâm thông tin phòng chống rửa tiền trực thuộc Chính phủ quản lý. Nếu có
những giao dịch đáng ngờ, thông tin sẽ được báo về trung tâm này, các cơ
quan chức năng sẽ phối hợp với nhau để xử lý.
Chính vì vậy, để công tác phòng chống rửa tiền qua hoạt động ngân
hàng thương mại một cách hiệu quả cần phối hợp chặt chẽ với các cơ quan
chức năng như Tổ chức Cảnh sát Hình sự Quốc tế (Interpol), an ninh kinh tế
trong việc thực hiện các biện pháp phòng chống rửa tiền theo quy định của
pháp luật; tổ chức tiếp nhận, tổng hợp, phân tích, xử lý, lưu giữ, cung cấp
thông tin, tài liệu liên quan đến rửa tiền đồng thời chuyển cho cơ quan có
thẩm quyền để thanh tra, điều tra, xử lý các đối tượng có hành vi liên quan
đến hoạt động rửa tiền qua ngân hàng.
1.2. Hoạt động phòng, chống rửa tiền trong hệ thống ngân hàng
1.2.1. Sự cần thiết của hoạt động phòng, chống rửa tiền trong hệ thống
ngân hàng
Sự thật đương nhiên là những kẻ rửa tiền và những kẻ tài trợ cho khủng
bố phải có khả năng tiếp cận với các tổ chức tài chính. Những tổ chức này
cung cấp phương tiện cho các cá nhân đó chuyển các khoản tiền giữa các tổ
chức tài chính khác cả trong nước và quốc tế. Những tổ chức này cũng cung
cấp các phương tiện để chuyển đổi các đồng tiền và trả tiền cho các tài sản
được sử dụng trong quá trình rửa tiền và tài trợ cho khủng bố. Tiền không thể
được rửa, khủng bố không thể được tài trợ nếu không có sự dính líu của các tổ
chức tài chính, một số doanh nghiệp hoặc cá nhân. Khi bọn tội phạm kiểm
soát được các tổ chức tài chính hay nắm được các vị trí quản lý cấp cao trong
các tổ chức tài chính, các nước sẽ cảm thấy để ngăn chặn và khám phá việc

20



rửa tiền khó khăn vô cùng. Tiền “bẩn” có xu hướng được đưa vào các quốc
gia nơi hệ thống pháp luật dành ít sự quan tâm hơn cho việc kiểm soát nó. Sự
xuất hiện của nhiều hơn một nền tài phán khiến cho việc phát hiện nguồn gốc
phi pháp của tiền cũng như vấn đề xử lý là tương đối khó khăn và phức tạp.
Những phân tích trên đã chỉ ra rằng, pháp luật Việt Nam cần thiết phải
đáp ứng được những yêu cầu của tiêu chuẩn quốc tế về phòng chống rửa tiền,
không chỉ để phù hợp với vai trò là thành viên của FATF mà còn để ngăn
ngừa và phòng chống tội phạm rửa tiền có hiệu quả. Phân tích cũng cho thấy
tổ chức tài chính là một trong những mục tiêu hàng đầu của tội phạm rửa tiền.
Trong nền kinh tế hiện đại, hệ thống pháp luật của các quốc gia có xu hướng
đòi hỏi kiểm soát dòng lưu chuyển tiền tệ thông qua hệ thống các tổ chức tài
chính, hầu hết các giao dịch lớn đều được yêu cầu phải thực hiện trực tiếp
hoặc gián tiếp thông qua chúng. Ở Việt Nam, hệ thống tổ chức tài chính được
quản lý bởi nhiều cơ quan và được điều chỉnh bởi những bộ phận pháp luật
khác nhau. Trong đó, các giao dịch được tập trung thực hiện qua hệ thống các
tổ chức tín dụng, mà chủ yếu là các ngân hàng. Do đó, phòng chống rửa tiền
trong hoạt động của các tổ chức tín dụng cũng vì thế được đặc biệt quan tâm
trong những năm qua và trong thời gian sắp tới.
1.2.2. Thiết chế phòng, chống rửa tiền
1.2.2.1. Ban hành các văn bản phòng, chống rửa tiền
Hiện nay, tại hầu hết các nước phát triển đã ban hành Luật phòng,
chống rửa tiền. Thời gian ban hành Luật ở mỗi nước có khác nhau, tùy thuộc
vào quy mô, mức độ tác hại của rửa tiền đối với quốc gia đó. Tuy nhiên, Luật
phòng, chống rửa tiền ở các nước có một số đặc điểm chung: Luôn hướng đến
việc tuân thủ các khuyến nghị của FATF; Liệt kê tất cả các tội danh liên quan
đến rửa tiền; Yêu cầu các tổ chức tín dụng phải thực hiện quy tắc nhận biết
khách hàng; Quy định mức giao dịch phải báo cáo; Các dấu hiệu của giao

21



×