Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

Văn học - Tin tức máy 3. bệnh ái kỷ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (811.28 KB, 9 trang )

Đề đọc hiểu & Nghị luận xã hội: bệnh ái kỷ( tự
yêu bản thân) của giới trẻ hiện nay
Đề thi thử kì thi THPT Quốc gia 2017
Phần đọc hiểu tích hợp Nghị luận xã hội
PHẦN ĐỌC- HIỂU
Đọc đoạn văn bản dưới đây và trả lới các câu hỏi:
1) Nhiều người cho rằng trẻ em ngày nay quá ám ảnh về bản thân là do sự xuất
hiện của mạng xã hội cùng các công cụ chụp và đăng ảnh “tự sướng”. Tuy
nhiên, thực tế, căn bệnh “ái kỷ” này có thể nảy sinh từ rất sớm. Một giả thuyết
được đưa ra, cho rằng sự thiếu vắng tình thương yêu của bố mẹ có thể khiến
cho trẻ tự an ủi bản thân bằng cách huyễn hoặc rằng mình hơn người và đòi hỏi
nhận được đối xử đặc biệt. Một giả thuyết khác lại cho rằng các bậc phụ huynh
đơn giản là thường đánh giá quá cao con mình, khiến đứa trẻ nảy sinh lòng tự
kiêu.
(2) Một nghiên cứu đã được thực hiện nhằm mục đích so sánh tính xác thực
của hai giả thuyết nêu trên. Các chuyên viên đã tiến hành theo dõi 565 đứa trẻ
ở độ tuổi từ 7 đến 12 và 705 vị phụ huynh ở Mỹ và Hà Lan trong vòng 18
tháng. Kết quả cho thấy, việc cha mẹ đánh giá quá cao con cái vẫn có tác động
tiêu cực nhiều hơn.
( 3) Những đứa trẻ tự yêu bản thân thường có xu hướng phản ứng lại một cách
mạnh mẽ hoặc thậm chí là sử dụng bạo lực khi có ai đó đụng chạm đến cái tôi
của chúng. Chúng cũng dễ căng thẳng và rơi vào tình trạng trầm cảm hơn các
bạn cùng lứa. Tự yêu bản thân thực chất là một chứng bệnh tâm lý khá
nghiêm trọng…
( Trẻ mắc bệnh “ Tự yêu bản thân” do cha mẹ ngợi khen quá nhiềuBáo điện tử Dân Trí, 13/12/2015)
Câu 1 (0,5 điểm) : Đoạn văn bản được viết theo phong cách ngôn ngữ nào?
Câu 2 (1,0 điểm ): Dựa vào văn bản, anh/ chị hãy nêu ngắn gọn hậu quả của
bệnh ái kỷ.
Câu 3 (0,5 điểm): Nội dung chính của đoạn văn bản trên là gì?
Câu 4 1,0 điểm): Theo anh/ chị bệnh ái kỷ còn gây ra những hậu quả nghiêm
trọng nào khác?




PHẦN LÀM VĂN
Câu 1(2 điểm): Hãy viết đoạn văn ( khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ
của anh/ chị về chứng ái kỷ của con người trong xã hội hiện đại


ĐÁP ÁN
Phần I. Đọc – hiểu:
– Câu 1: Phong cách ngôn ngữ báo chí/ báo chí
– Câu 2: + Phản ứng lại một cách mạnh mẽ hoặc thậm chí là sử dụng bạo lực
khi có ai đó đụng chạm đến cái tôi
+ Dễ căng thẳng và rơi vào tình trạng trầm cảm hơn các bạn cùng lứa
– Câu 3: Trẻ mắc bệnh “Tự yêu bản thân” do cha mẹ ngợi khen quá nhiều
– Câu 4: Những hậu quả nghiêm trọng khác của bệnh tự yêu bản thân:
+ Tự cho rằng suy nghĩ và hành động của mình là đúng đắn
+ Thiếu trách nhiệm, vô cảm với cuộc sống xung quanh
+ Sống thu mình vào thế giới ảo, không có niềm tin vào người khác
+ Có những hành động dại dột như tự tử…..
Phần II. Làm văn
Câu 1:
 Học sinh viết được một đoạn văn ( khoảng 200 chữ) theo một trong
các mô hình cấu tạo như: Diễn dịch; Quy nạp; Song hành; Móc xích;
Tổng- Phân- Hợp.

 Về hình thức: Chữ đầu tiên của đoạn viết hoa, lùi đầu dòng. Các câu
trong đoạn đảm bảo có sự gắn kết chặt chẽ; được trình bày liên tục,
không ngắt xuống dòng khi chưa hết đoạn. Đoạn văn thường gồm:
câu mở đoạn, các câu thân đoạn, câu kết đoạn.


– Về nội dung: Các câu trong đoạn văn cần thể hiện tập trung những suy nghĩ
người viết về: Chứng ái kỷ của con người trong xã hội hiện đại
Một số định hướng:
Chứng ái kỷ( bệnh tự yêu bản thân mình): một dạng rối loạn nhân
cách khi một người có biểu hiện tự cao, ảo tưởng, thiếu đồng cảm
với người khác. Tâm lý tự yêu bản thân, ảo tưởng về bản thân là một
căn bệnh nguy hiểm với con người

– Biểu biện của chứng ái kỷ: sống thu mình vào thế giới ảo tự cho rằng suy
nghĩ và hành động của mình là đúng đắn; thiếu trách nhiệm, vô cảm với cuộc
sống xung quanh; có những hành động dại dột như tự tử…..





Chứng ái kỷ có thể xuất phát từ tâm lý thích hưởng thụ, tự phụ
vào bản thân…







Hậu quả: Nó là chứng bệnh đe dọa, thủ tiêu những giá trị tốt đẹp trong
cuộc sống của con người như : lòng nhân ái, tinh thần vị tha…
Cần đẩy mạnh tuyên truyền về lối sống tốt đẹp. Quan tâm hơn đến
vấn đề giáo dục kĩ năng sống; giúp đỡ những người ái kỷ hòa
nhập với cộng đồng.



MỞ RỘNG VỀ BỆNH ÁI KỶ
Các chuyên gia đang cảnh báo về sự bùng phát “đại dịch ái kỷ”
trên mạng xã hội trong thời buổi công nghệ thông tin phát triển nóng
như hiện nay.
Sự phát triển của công nghệ thông tin và mạng xã hội đang làm lo ngại
về sự bùng phát “đại dịch ái kỷ”, mà việc tự chụp ảnh (selfie) và đếm
like cho những thông tin của mình trên mạng xã hội chỉ là một biểu
hiện.
Các chuyên gia đang cảnh báo gì?
Chứng ái kỷ, hay còn gọi là bệnh tự yêu được xem là một dạng rối loạn
nhân cách khi một người có biểu hiện tự cao, ảo tưởng, thiếu đồng cảm
với người khác.
Từ “ái kỷ sơ khai”...
Trong một bài báo của tờ Time, Jeffrey Kluger kể lại một tình huống
của chính ông trong quá khứ.
“Đó là ngày tôi có ý định đập một con tàu đồ chơi vào đầu một người
đàn ông. Tôi không biết ông ta là ai, nhưng điều tôi ghi nhận ngay lập
tức là ông ta có một cái đầu hói. Tôi nghiên cứu cái đầu hói ấy một
cách say mê, và tôi nghĩ nếu mà tóc giúp bảo vệ phần đầu khỏi những
chấn thương thì không có tóc hẳn phải làm phần đầu ấy nhạy cảm với
thương tổn hơn nhiều:.
"Cái ý nghĩ ấy làm tôi thích thú. Tôi nhìn quanh và nhận ra dụng cụ hỗ
trợ cũng nằm ngay đó - một con tàu đồ chơi...”.
Tình huống đó, như Kluger ghi nhận, vừa không thể chấp nhận được
đối với xã hội ngày nay, vừa có thể được thông cảm, vì khi ấy ông chỉ
mới 4 tuổi. Kluger cho rằng trẻ em thường tham lam, đòi hỏi, bạo lực,
ích kỷ, nông nổi và thường thì không biết ăn năn hối lỗi là gì.
Chúng đòi người khác phải chiều chuộng mình nhưng không quan tâm

tới người khác, chúng chỉ muốn được thưởng nhưng đến khi bị phạt thì
la làng.


Tất cả những điều này là biểu hiện của chứng ái kỷ, mà theo tâm lý học
là điều cần có ở trẻ nhỏ.
Nhà tâm lý học Mark Barnett của Đại học bang Kansas cho biết: “Trẻ
sơ sinh cần phải tự yêu mình và ích kỷ khi mới sinh ra, đây là một cơ
chế tiến hóa, giúp cho những nhu cầu cơ bản của chúng được đáp ứng,
giúp chúng tồn tại”.
Điều này không phải mới đối với tâm lý học. Năm 1914, trong một bài
viết mang tựa “Ông hoàng sơ sinh”, tâm lý gia Sigmund Freud viết về
giai đoạn đầu tiên của đời sống một đứa trẻ sơ sinh mà ông gọi là “ái
kỷ sơ khai”.
Như vậy, xu hướng ái kỷ là điều mà mọi chúng ta đều đã trải qua khi
còn là trẻ nhỏ, nhằm giúp chúng ta sinh tồn và phát triển.
Theo Kluger, buộc tội cơ chế sinh học này là ái kỷ thực thụ thì quả là
ngớ ngẩn. Với phần lớn trẻ nhỏ, “ái kỷ sơ khai” là một giai đoạn sẽ đi
qua. Đến khi trẻ bắt đầu đi mẫu giáo, chúng sẽ hiểu ra thế giới chỉ
chiều chuộng chúng trong một phạm vi nhất định.
Nếu trong quá trình trưởng thành, cơ chế này không được định hình và
uốn nắn thì nó có thể dẫn tới chứng rối loạn nhân cách ở người trưởng
thành.
3 đặc điểm cơ bản của chứng ái kỷ
Jeffrey Kluger nêu ra ba đặc điểm, mà ông gọi là “hạt giống của chứng
ái kỷ” có thể phát triển thành chứng rối loạn nhân cách ở người trưởng
thành. Đó là: thiếu đồng cảm, thiếu khả năng kiểm soát ham muốn và
thiếu sự ăn năn hối lỗi.
Thiếu đồng cảm có thể coi là đặc điểm quan trọng nhất ở đứa trẻ mà
sau này có thể dễ dàng chuyển hóa thành hội chứng ái kỷ.

Đây cũng được coi là đặc tính khó vượt qua nhất. Với trí óc của trẻ sơ
sinh thì sự hiện diện của người khác chỉ tồn tại khi nằm trong phạm vi
chúng có thể nhìn hoặc nghe thấy được. Một khi đã ra khỏi tầm mắt
của chúng thì người khác xem như không tồn tại.
Chỉ đến khoảng 6 tháng tuổi, trẻ mới bắt đầu ý thức về sự tồn tại mang
tính lâu dài của những người khác và có thể nhận thấy việc người khác
gặp chuyện buồn. Sự đồng cảm thể hiện ở việc đứa trẻ có ý muốn làm
người khác vui lên, kể cả khi hành động đó vẫn lấy cá nhân mình ra
làm trung tâm.


Một ví dụ điển hình là đứa trẻ sẽ an ủi người khác bằng chính cái cách
nó muốn được an ủi, như đưa cho người khác một món đồ chơi hay
một con gấu bông.
Thiếu kiểm soát ham muốn là đặc tính cơ bản của trẻ lẫn những người
tự yêu mình. Khả năng này đòi hỏi con người phải biết kiên nhẫn và
kiềm chế ham muốn nhất thời để gặt hái được mục đích cao hơn.
Vào đầu những năm 1960, nhà tâm lý học Walter Mischel (Đại học
Stanford) thực hiện “Thử nghiệm kẹo dẻo marshmallow”. Ông cho một
nhóm trẻ 4 tuổi được lựa chọn: một là chúng có thể ăn một viên kẹo
dẻo marshmallow ngay lập tức, hai là chúng có thể chờ 15 phút và
được hai viên.
Sau đó ông ra khỏi phòng, để lại một viên kẹo dẻo trong tầm với của
đứa nhỏ. Hai phần ba số trẻ tham gia kiên nhẫn chờ đợi, tự làm phân
tâm bản thân để sau cùng có được hai viên kẹo.
Những đứa trẻ này, trong một cuộc khảo sát nối tiếp 14 năm sau đó,
cho thấy chúng đạt điểm cao hơn trong những bài kiểm tra về ứng xử
xã hội cũng như khả năng đối diện với sự ức chế và có kết quả thi SAT
cao hơn khoảng 210 điểm so với những đứa bé chộp lấy cục kẹo
marshmallow ngay từ đầu.

Thiếu sự ăn năn là đặc tính cuối cùng, không thể tách khỏi hội chứng ái
kỷ. Khó có thể tiếp tục làm tổn thương người khác nếu điều đó khiến
bạn cảm thấy hối lỗi.
Năm 2009, nhà tâm lý học Grazyna Kochanska của Đại học bang Iowa
đã làm một nghiên cứu về cách những đứa trẻ mới tập đi thể hiện sự
hối lỗi. Bà tập trung một nhóm 57 đứa trẻ khoảng 2 tuổi và giao cho
chúng một món đồ chơi, nói với chúng đây là một món đồ kỷ niệm rất
đặc biệt của người chủ món đồ.
Tuy nhiên khi đứa bé chạm vào thì món đồ này tự động vỡ ra!
Phản ứng của những đứa trẻ trước tình huống này chia làm hai kiểu:
một nhóm hoàn toàn không bận tâm tới sự cố trên, nhóm còn lại hết
sức căng thẳng, chúng lấy tay bịt mắt mình, ôm lấy mình, hoặc quay
mặt đi chỗ khác.
Khảo sát nối tiếp sau đó cho thấy những đứa trẻ thể hiện sự căng thẳng
trước tình huống trên gặp ít vấn đề trong học tập và cách cư xử trong
cuộc sống hơn so với những đứa trẻ không bận tâm đến món đồ chơi bị
vỡ.


“Đại dịch ái kỷ” và thời đại công nghệ thông tin
Vào năm 2009, giáo sư Jean Twenge của Đại học San Diego hợp tác
với tiến sĩ W. Keith Campbell, một chuyên gia về hội chứng ái kỷ.
Cả hai nghiên cứu về việc liệu những người sinh ra ở thế hệ sau có
điểm trung bình cao hơn so với các thế hệ trước trong “Bài kiểm tra
tính cách tự yêu mình”, được thiết kế bởi Robert Raskin và Howard
Terry vào năm 1988.
Phân tích số liệu có từ trước năm 2006 của 15.000 sinh viên đại học ở
Mỹ, họ nhận thấy có mối quan hệ mật thiết giữa năm sinh của những
người tham gia và điểm của họ.
Cụ thể là sinh viên của những năm 2000 có điểm tự yêu mình cao hơn

hẳn so với sinh viên thời những năm 1980 và 1990.
Giáo sư Jean Twenge cho rằng những người trẻ ở độ tuổi 18 và 19
thường chú tâm tới bản thân hơn so với những lứa tuổi khác và đây là
sự phát triển thông thường.
Tuy nhiên nghiên cứu của bà cũng cho thấy hiện nay có nhiều người
trẻ tự yêu mình hơn so với trước, và nam giới có xu hướng tự yêu mình
cao hơn nữ giới!
Bà chỉ ra một số yếu tố góp phần lý giải số lượng tăng cao những
người trẻ tự yêu mình ngày nay. Theo đó, trong một xã hội phù phiếm
với số lượng phẫu thuật thẩm mỹ đang tăng vọt từ cuối những năm
1990 thì nhu cầu trở thành người đặc biệt, là người độc nhất cũng tăng
cao.
Chứng ái kỷ gắn liền với lối sống xa hoa, chú trọng hình ảnh, danh
tiếng. Một trong những biểu hiện của lối sống “tôi là trung tâm” có thể
kể là trào lưu tự chụp ảnh mình (selfie).
Các nhà tâm lý học mới đây đã cảnh báo việc selfie có thể gây ảnh
hưởng không tốt, thậm chí có thể gây nghiện và làm tăng sự ái kỷ của
cá nhân đó.
Danny Bowman, 19 tuổi, sống ở Anh, bị nghiện chụp ảnh selfie và có
hôm cậu dành đến 10 tiếng trong ngày để chụp được 200 tấm ảnh của
mình trên iPhone.
Cậu luôn giữ điện thoại trong tay để có thể chụp ảnh mình bất cứ lúc
nào và đăng lên Facebook, mong muốn nhận được lời khen từ bạn bè.


Tuy nhiên, dù đã thử ở mọi góc cạnh, Danny nhận ra mình vẫn không
có được gương mặt hoàn hảo cho tấm ảnh hoàn hảo. Thậm chí một số
phản hồi còn chê bai cậu.
Trong một phút tuyệt vọng, Danny đã tự tử, nhưng may mắn được mẹ
cứu kịp.

Tiến sĩ David Veal, một nhà tâm thần học phụ trách chữa trị cho
Danny, cho biết trường hợp của Danny khiến ta không thể phủ nhận
tính nghiêm trọng của vấn đề.
“Đây không đơn thuần là sự phù phiếm nữa. Nó là một căn bệnh tâm lý
dẫn tới tỉ lệ tự tử rất cao”.
Việc gắn liền đời sống mình với mạng xã hội không còn xa lạ với giới
trẻ Việt ngày nay. Điều này liệu có góp phần tạo nên một thế hệ trẻ tự
yêu mình, ít hòa nhập với xã hội, mà những biểu hiện tương tự của giới
trẻ phương Tây đang khiến các chuyên gia cảnh báo về một “đại dịch
ái kỷ” trong thời đại công nghệ thông tin?
Bạn có phải là người tự yêu mình?
(Trích từ “Bài kiểm tra tính cách tự yêu mình” của Robert Raskin và
Howard Terry)
Chọn câu trả lời trong mỗi cặp phù hợp nhất với bạn. Đừng để trống
câu nào.
A

B

1

Tôi có khả năng tác động
đến người khác

Tôi không giỏi tác động
đến người khác

2

Khi được khen, thỉnh thoảng

tôi cảm thấy ngượng

Tôi biết tôi giỏi vì ai
cũng nói thế

3

Tôi không giỏi, cũng không
tệ hơn hầu hết mọi người

Tôi nghĩ tôi là một người
đặc biệt

4

Tôi sẽ thành công

Tôi không quá bận tâm
về thành công


5

Ý nghĩ thống trị thế giới làm
tôi thấy hoảng sợ

Nếu được tôi cai trị, thế
giới sẽ tốt đẹp hơn

6


Tôi cố không tỏ ra khoe
khoang

Khi có cơ hội, tôi thường
khoe khoang

7

Thỉnh thoảng tôi kể được
vài chuyện hay

Ai cũng thích những câu
chuyện của tôi

8

Tôi kỳ vọng rất nhiều ở
những người khác

Tôi thích giúp đỡ người
khác

9

Tôi sẽ không bao giờ hài
lòng cho đến khi đạt được
những gì xứng đáng với
mình


Tôi đón nhận sự hài lòng
khi nó đến

10

Tôi ước một ngày có ai đó
viết tiểu sử về tôi

Tôi không thích người
khác tò mò về đời tư của
mình vì bất cứ lý do nào

Cách tính điểm:
Cộng 1 điểm mỗi khi bạn chọn A ở các câu 1, 4, 8, 9 và 10, và chọn B
ở các câu 2, 3, 5, 6 và 7.
Điểm trung bình cho bài kiểm tra này là 4. Nếu điểm bạn càng cao hơn
4 thì bạn càng có dấu hiệu là người tự yêu mình.



×