Tải bản đầy đủ (.pdf) (80 trang)

BÀI GIẢNG GIÁO dục HOÀ NHẬP CHO học SINH KHUYẾT tật ở TRƯỜNG TIỂU học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.26 MB, 80 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUẢNG BÌNH
KHOA KHOA HỌC XÃ HỘI

BÀI GIẢNG
(Lưu hành nội bộ)
GIÁO DỤC HOÀ NHẬP CHO HỌC SINH
KHUYẾT TẬT Ở TRƯỜNG TIỂU HỌC
(Dành cho lớp ĐH Giáo dục Tiểu học)

GV: Th.S. Trần Thị Ánh Tuyết

Quảng Bình, năm 2017


MỤC LỤC
Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TRẺ KHUYẾT TẬT ................................................2
1.1. Trẻ khuyết tật ................................................................................................................................2
1.2. Giáo dục trẻ khuyết tật .................................................................................................................4
1.3. Các phương thức giáo dục trẻ khuyết tật ..................................................................................10
1.4. Sơ lược lịch sử giáo dục trẻ khuyết tật .....................................................................................14
1.5 Giáo dục trẻ khuyết tật ở Việt Nam ...........................................................................................15
Chương 2. GIÁO DỤC HOÀ NHẬP TRẺ KHUYẾT TẬT ..........................................................18
2.1. Khái niệm về giáo dục hoà nhập .................................................................................................18
2.2. Bản chất của giáo dục hoà nhập ..................................................................................................19
2.3. Tính tất yếu của giáo dục hòa nhập ............................................................................................20
2.4. Những mặt tích cực của giáo dục hòa nhập trẻ khuyết tật .........................................................25
2.5. Bước đi cơ bản của giáo dục hòa nhập .....................................................................................27
2.6. Qui trình giáo dục hòa nhập trẻ khuyết tật .................................................................................32
Chương 3. HỖ TRỢ GIÁO DỤC HOÀ NHẬP ............................................................................43
3.1. Nhóm bạn bè ...............................................................................................................................43
3.2. Nhóm hỗ trợ cộng đồng ..............................................................................................................47


3.3. Quản lý giáo dục hoà nhập trong nhà trường .............................................................................62
Chương 4. ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ GIÁO DỤC TRONG DẠY HỌC HÒA NHẬP ..................65
4.1. Khái niệm về đánh giá ...............................................................................................................65
4.2. Quan điểm đánh giá kết quả giáo dục trẻ khuyết tật ................................................................65
4.3. Quy trình đánh giá ......................................................................................................................67
4.4. Nội dung đánh giá kết quả ...........................................................................................................69
4.5. Phương pháp đánh giá ..................................................................................................................72
CÂU HỎI ÔN TẬP.............................................................................................................................78

1


Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TRẺ KHUYẾT TẬT
1.1. Trẻ khuyết tật
1.1.1. Khái niệm trẻ khuyết tật
Người khuyết tật nói chung, trẻ em khuyết tật nói riêng là một bộ phận dân
số tồn tại khách quan trong xã hội loại người. Trong thời ngày nay, tất cả các
quốc gia trên thế giới đều quan tâm đến vấn đề người khuyết tật. Có thể nói, việc
đảm bảo cho người khuyết và trẻ em khuyết tật hòa nhập với đời sống xã hội
được xem là thước đo cho sự phát triển, sự tiến bộ xã hội của mỗi quốc gia. Việt
Nam là nước có số lượng người khuyết tật nói chung và trẻ khuyết tật nói riêng
khá lớn và đa dạng. Theo số liệu điều tra sơ bộ, Việt Nam có trên 7 triệu người
khuyết tật, chiếm 7,2% dân số, trong số đó trẻ dưới 15 tuổi bị khuyết tật chiếm
khoảng 28% số với tổng số người khuyết tật, tức là khoảng 1,2 - 1,5% so với
tổng dân số. Vậy trẻ như thế nào thì gọi là trẻ khuyết tật?
Trẻ khuyết tật là những trẻ em do những tổn thương về cơ thể hoặc rối loạn
các chức năng nhất định gây nên những khó khăn đặc thù trong các hoạt động
vui chơi, học tập, lao động.
1.1.2. Các dạng khuyết tật
Theo Luật người khuyết tật bao gồm 6 dạng khuyết tật sau:

Khuyết tật nhìn
Khuyết tật nghe, nói
Khuyết tật trí tuệ
Khuyết tật thần kinh, tâm thần
Khuyết tật vận động
Các dạng khác (đa tật)
- Khuyết tật nhìn là tình trạng giảm hoặc mất khả năng nhìn và cảm nhận ánh
sáng, màu sắc, hình ảnh, sự vật trong điều kiện ánh sáng và môi trường bình thường.
- Khuyết tật nghe, nói là tình trạng giảm hoặc mất chức năng nghe, nói hoặc cả
nghe và nói, phát âm thành tiếng và câu từ rõ ràng dẫn đến hạn chế trong giao tiếp,
trao đổi thông tin bằng lời nói.
2


- Khuyết tật trí tuệ là tình trạng giảm hoặc mất khả năng nhận thức, tư duy biểu
hiện bằng việc chậm hoặc không thể sử dụng suy nghĩ, phân tích về sự vật, hiện
tượng, giải quyết sự việc.
- Khuyết tật thần kinh, tâm thần là tình trạng rối loạn tri giác, trí nhớ, cảm xúc,
kiểm soát hành vi, suy nghĩ và có biểu hiện với những lời nói, hành động bất thường.
- Khuyết tật vận động là tình trạng giảm hoặc mất chức năng cử động đầu, cổ,
chân, tay, thân mình dẫn đến hạn chế trong vận động, di chuyển.
- Khuyết tật khác là tình trạng giảm hoặc mất những chức năng cơ thể khiến cho
hoạt động lao động, sinh hoạt, học tập gặp khó khăn mà không thuộc các trường hợp
trên
1.2.3. Nguyên nhân gây nên khuyết tật
- Nguyên nhân bẩm sinh:
+ Do di truyền;
+ Do sinh đẻ không bình thường;
+ Do lây truyền từ cha mẹ, từ trong bào thai.
- Những nguyên nhân do môi trường sống:

+ Đói nghèo, bệnh tật chưa chấm dứt;
+ Môi trường bị ô nhiễm;
+ Sử dụng thuốc chữa bệnh bừa bãi;
+ Các bệnh xã hội;
+ Chấn thương do tai nạn, rủi ro;
+ Chấn thương tinh thần;
+ Chiến tranh, bạo loạn.
- Những nguyên nhân do xã hội:
+ Xã hội không quan tâm, thờ ơ, thái độ chưa đúng mực;
+ Quan niệm, thái độ đối với trẻ;
+ Môi trường chưa tạo điều kiện cho trẻ phát triển.
3


- Các nguyên nhân khác:
1.2. Giáo dục trẻ khuyết tật
1.2.1. Mục tiêu giáo dục trẻ khuyết tật
Mục tiêu giáo dục trẻ khuyết tật là dự kiến kết quả cần đạt tới của quá trình
giáo dục sau một thời gian nhất định, đó là cái địch đến của quá trình giáo dục.
Nếu xác định đích đến kho phù hợp thì sẽ làm cho quá trình giáo dục bị
lệch hướng, không hiệu quả. Xây dựng mục tiêu giáo dục trẻ khuyết tật giúp giáo
viên, học sinh và những người liên quan biết trẻ đang ở mức độ phát triển, cần
đạt đến mức nào trong quá trình giáo dục, từ đó có định hướng và thực hiện bằng
các hoạt động với phương tiện và điều kiện vật chất… phù hợp và cần thiết. Căn
cứ vào mục tiêu, những biện pháp thực hiện, những hỗ trợ cần thiết đối với trẻ sẽ
được hoạch định cho kế hoạch cá nhân. Mục tiêu còn có ý nghĩa quan trọng là
giúp các nhà quản lý đánh giá chính xác sự phát triển của trẻ.
Mục tiêu giáo dục trẻ khuyết tật cần xây dựng cụ thể, chính xác, phù hợp
với đối tượng và có tính khả thi. Mục tiêu đồng thời mang tính định hướng
những hoạt động giáo dục trong thời gian hạn định.

Theo nghĩa rộng, mục tiêu giáo dục trẻ khuyết tật là: Đảm bảo cho trẻ
khuyết tật hưởng những quyền giáo dục cơ bản, không bị tách biệt, có điều
kiện thuận lợi để tham gia vào mọi hoạt động xã hội và có cơ hội cống hiến.
Phát triển toàn diện các mặt cho trẻ khuyết tật, bao gồm: đức, trí, thể mỹ
và khả năng lao động. Nghĩa là phát triển vốn kiến thức, rèn luyện kỹ năng văn
hóa - xã hội và trau dồi tính tích cực trong mọi hoạt động
Tạo cơ hội cho trẻ khuyết tật hòa nhập vào môi trường giáo dục bình
thường, phát triển hài hòa và tối đa những khả năng còn lại để hình thành, phát
triển nhân cách.
Mục tiêu giáo dục cho trẻ khuyết tật bao gồm:
- Kiến thức văn hóa: Đạt trình độ văn hóa tùy theo năng lực của bản thân
trong môi trường giáo dục phổ thông.
- Những kỹ năng xã hội: Trẻ khuyết tật được trang bị những kiến thức và kỹ
năng xã hội như trẻ bình thường ở cùng độ tuổi, đồng thời bổ sung những kỹ
năng xã hội thông thường tự hình thành ở trẻ bình thường.
4


- Mục tiêu sức khỏe: Cải thiện tình trạng giảm sút các chức năng do tật, phát
huy tối da những năng lực còn lại. Rèn luyện thói quen và kỹ năng tự phục vụ,
yêu thích lao động, đồng thời giáo dục định hướng nghề nghiệp tùy theo năng
lực sức khỏe của trẻ.
1.2.2. Nội dung giáo dục trẻ khuyết tật
1.2.2.1. Nội dung giáo dục cơ bản
Nội dung giáo dục cơ bản nhằm đảm bảo cho trẻ khuyết tật được hưởng
những quyền giáo dục cơ bản, quyền tự do, không bị tách biệt và được cụ thể
trong từng cấp học. Các trường học thực hiện các nội dung giáo dục học sinh
thông qua các hoạt động chính khóa, ngoại khóa và đặc biệt là hoạt động dạy
học.
Có cách tiếp cận khác nhau để định nội dung giáo dục cho trẻ khuyết tật.

- Tiếp cận cá nhân:
Theo cách tiếp cận này, khuyết tật của trẻ và những khó khăn do khuyết tật
gây nên được chú trọng đặc biệt. Trẻ khuyết tật gặp rất nhiều khó khăn, thẩm chí
không thể một chương trình giáo dục như với trẻ bình thường. Như vậy có thể
nãy sinh xu hướng giáo dục vào phục hồi và chăm sóc y tế cho trẻ. Những kiến
thức, kỹ năng văn hóa, xã hội thường bị coi nhẹ.
Với quan điểm cho rằng, nhiều chức năng bị suy giảm hoặc mất do tật
nguyền gây ra làm cho trẻ khuyết tật trở nên khó khăn khi tham gia hầu hết các
hoạt động trong cuộc sống. Do vậy, những chức năng thiếu hụt đó cần được tác
động để phục hồi. Theo quan điểm, các tác động phục hồi chức năng tập trung
vào khía cạnh y tế, đó là những đơn thuốc của bác sỹ, những phương pháp rèn
luyện để khôi phục, cải thiện hiệu quả hoạt động của những phần cơ thể dị tật.
Với cách tiếp cận này, đứa trẻ chủ yếu được chăm sóc và sử dụng các liệu
pháp tác động vào chính cơ thể của trẻ mà ít chú ý tới ảnh hưởng của quá trình
giáo dục đến năng lực nhận thức, sự nổ lực cá nhân và sự điều chỉnh hành vi phù
hợp với cuộc sống cộng đồng. Trẻ khuyết tật mặc dù được chăm sóc chu đáo
nhưng khuyết tật về thể chất sẽ không bao giờ khỏi và hơn nữa, trước cộng đồng
trẻ trở nên lạc lỏng và hoàn toàn bị tách biệt.
- Tiếp cận xã hội:
5


Sự phát triển của đứa trẻ được nhìn nhận trong tổng thể, trong mối tương
tác văn hóa, xã hội. Thực tiễn đã chứng minh rằng, trẻ khuyết tật hoàn toàn có
thể học cùng nội dung giáo dục với trẻ bình thường. Trong môi trường giáo dục
bình thường, các em sẽ dễ dàng học được không những kiến thức, kỹ năng xã
hội, khả năng thích ứng và hòa nhập trẻ khuyết tật đã đáp ứng và hòa nhập trẻ
khuyết tật đã đáp ứng được các yêu cầu về mặt kiến thức, kỹ năng, thái độ cần
hình thành cho mọi học sinh (trong đó có học sinh khuyết tật) phù hợp với yêu
cầu chung của xã hội.

Nội dung giáo dục hòa nhập cho trẻ khuyết tật được xây dựng dựa trên
quan điểm; mọi trẻ đều có thể học được, những trải nghiệm của trẻ trong quá
trình học tập sẽ giúp trẻ học hỏi những tri thức mới và có những hiểu biết, nhận
thức sát thực về cuộc sống. Xây dựng nội dung giáo dục hòa nhập cho trẻ khuyết
tật không chỉ bó hẹp ở phạm vi sách vở mà phải gắn liền với kiến thức thực tiễn.
Nội dung phải hướng trẻ vào các hoạt động thực tiễn, tiếp nhận kiến thức thông
qua thực hành và trải nghiệm sát thực. Trong môi trường dạy học cụ thể cần phải
chú ý tới việc cung cấp kiến thức, kỹ năng và hình thành thái độ cho trẻ ở các
mặt: kiến thức, kỹ năng học đường. Những nội dung giáo dục đó sẽ giúp các em
có thể tiếp tục học lên các cấp học cao hơn, có kiến thức và kỹ năng giải quyết
các vấn đề trong thực tế cuộc sống, có thái độ đúng đắn trong mối quan hệ bạn
bè, gia đình, cộng đồng. Đồng thời có thái độ và giải pháp phù hợp trước những
cơ hội hay thách thức trong những hoạt động xã hội.
Xây dựng nội dung giáo dục hòa nhập cho trẻ khuyết tật được xác định
theo những tiêu chí cơ bản sau: Nội dung, kiến thức phải đảm bảo tính vừa sức
và đảm bảo cho sự phát triển của trẻ sau này, đồng thời cần đặc biệt chú ý tới
những lĩnh vực thiết yếu của cuộc sống gắn liền cuộc sống học tập của trẻ với
sinh hoạt hòa nhập cộng đồng. Việc tham gia học tập của trẻ có hiệu quả hay
không phụ thuộc nhiều ở môi trường tác động giáo dục và sự điều chỉnh nội
dung hợp lý cho từng đứa trẻ.
Định hướng cho cách tiếp cận nội dung giáo dục cho trẻ khuyết tật là:
+ Bình đẳng về cơ hội được tham gia các nội dung giáo dục của trẻ trong
khuyết tật ở trường phổ thông.
6


+ Tính đến năng lực và nhu cầu của trẻ khuyết tật.
+ Xác định điều kiện, cơ hội học tập, nghề nghiệp sau này của trẻ.
Thông qua nội dung giáo dục, các nhóm kỹ năng cơ bản được hình thành
đáp ứng được những nội dung cần thiết trong hoạt động lao động, vui chơi, học

tập của trẻ. Các kỹ năng được rèn luyện và củng cố từng bước từ đơn giản đến
phức tạp, từ thô sơ đến hoàn thiện, từ không ổn định đến ổn định.
Yêu cầu về mức độ chính xác, phức tạp và tinh xảo của các kỹ năng ở trẻ
khuyết tật đạt được thông qua các nội dung giáo dục ở mỗi lĩnh vực khác nhau,
tùy thuộc vào cơ chế hoạt động chức năng, năng lực của trẻ. Từ đó đặt ra yêu cầu
cao, đồi hỏi sự nổ lực trong hoạt động của trẻ cộng với sự hỗ trợ khuyến khích từ
bên ngoài.
Tạo mối quan hệ liên kết gữa các kỹ năng và tình huống khác nhau, đẩy
mức độ sử dụng của trẻ theo hướng từ những tình huống quen thuộc, mới lạ
nhưng gần giống với mẫu, đến nhiều tình huống khác nhau và đòi hỏi sự phối
hợp, huy động nhiều kỹ năng phức tạp theo chuổi hoạt động để giải quyết nhiệm
vụ.
- Thái

độ

Thái độ là sự thể hiện tình cảm, sự nhận định về giá trị, ước muốn, sự nổ
lực,… của bản thân trẻ trước các vấn đề xảy ra xum quanh và có thể đánh giá
được thông qua hành vi hằng ngày của trẻ. Thái độ của trẻ khuyết tật càng được
ổn định và xác định theo thời gian và tiến trình học tập. Thái độ của trẻ được
hình thành từ chính những mỗi quan hệ tác động trong quá trình tương tác, cùng
học tập với bạn bè và những người xum quanh, từ việc giải quyết nhiệm vụ học
tập và ứng dụng trong các tình huống thực. Quá trình học tập của trẻ trong
trường hòa nhập cho trẻ càng trải nghiệm khác nhau thì việc hình thành thái độ,
niềm tin cho trẻ càng rõ rang và sâu sắc hơn.
Trong giáo dục hòa nhập trẻ khuyết tật, nội dung phục hồi chức năng định
hướng theo hướng tiếp cận giáo dục. Nội dung này được coi là một bộ phận
trong giáo dục chung nhằm giúp trẻ khuyết tật biết giữ gìn và phát triển khả năng
nổi trội của mình đồng thời biết cách phối hợp sử dụng chúng để bù đắp theo
những chức năng đã mất trong quá trình học tập và sinh hoạt.

7


Rèn luyện phát triển những chức năng bị suy giảm, bao gồm: việc sử dụng
đúng mức và phù hợp, gìn giữ và bảo vệ phần chức năng còn lại, biết sử dụng
các phương tiện, dụng cụ để hoạt động chức năng thiếu hụt. Ví dụ: để tận dụng
phần thị lực còn lại ở trẻ nhìn kém cần cho trẻ đeo kính, sử dụng máy trợ thính
đối với trẻ khiếm thính,...
Về vật chất, nội dung phục hồi chức năng là những hoạt động giáo dục cần
bù đắp, thay thế những chức năng bị mất hoặc suy giảm. Trong giáo dục hòa
nhập trẻ khuyết tật cần chú ý tối đa những chức năng bù trừ trong quá trình tiếp
nhận và xử lý thông tin của trẻ. Nếu nội dung này được thực hiện thường xuyên
và đúng phương pháp thì nó sẽ là đòn bẩy cho hoạt động học tập, nhận thức của
trẻ, từ đó tăng nhanh năng lực hòa nhập cộng đồng.
1.2.2.2. Hình thành và phát triển các kỹ năng xã hội
Hình thành và phát triển các kỹ năng xã hội là nội dung quan trọng trong
quá trình giáo dục trẻ khuyết tật. Thực tế đã cho thấy sự hình thành và phát triển
những kỹ năng xã hội ở trẻ khuyết tật thường muộn và chậm hơn so với trẻ bình
thường cùng độ tuổi. Thậm chí nếu không được can thiệp giáo dục phù hợp,
những kỹ năng xã hội ở trẻ khuyết tật có khi còn phát triển lệch lạc. Điều này
làm cho trẻ khuyết tật còn gặp nhiều khó khăn thận chí không được chấp nhận
của cộng đồng trong quá trình hòa nhập. Sự chậm trể hay lệch hướng của các kỹ
năng xã hội gây ra do hậu quả của khuyết tật và tác động của môi trường nhận
thức của trẻ. Do vậy đối với trẻ khuyết tật, vấn đề hình thành và rèn luyện kỹ
năng xã hội cần có những nội dung giáo dục thiết thực và kế hoạch dược thiết kế
phù hợp.
Sự hình thành và phát triển trí tuệ, lệch hướng các kỹ năng xã hội ở trẻ
khuyết tật còn tùy thuộc vào mức độ và các dạng tật của trẻ. Do vậy, nội dung
giáo dục để hình thành và phát triển các kỹ năng xã hội cho trẻ khuyết tật cần
được xây dựng cụ thể dựa trên những đánh giá kỹ năng hình thành xã hội của

từng cá nhân trẻ. Quyết định nội dung những kỹ năng xã hội cần dạy cho mỗi trẻ
khuyết tật cũng cần được dựa trên độ tuổi của trẻ và những chuẩn mực văn hóa
của mỗi vùng miền. Nội dung giáo dục các kỹ năng xã hội cho trẻ khuyết tật có
thể bao gồm hai phần chính là: dạy những kỹ năng xã hội phù hợp và giảm thiểu
8


hoặc loại bỏ những hành vi không phù hợp.
1.2.2.3. Giáo dục hướng nghiệp và dạy nghề
Nhà nước đã ban hành những văn bản pháp luật có liên quan tới giáo dục
hướng nghiệp và dạy nghề cho người khuyết tật, trong đó có “pháp lệnh người
tàn tật” số 06/1998/PL-UBTVQH ban hành ngày 30/7/1998. Sau đây là những
điểm chính liên quan tới giáo dục hướng nghiệp dạy nghề cho người khuyết tật
trong văn bản này.
- Các cơ quan tổ chức tạo điều kiện cho người tàn tật được chọn nghề, học
nghề làm những việc trong tổ chức hoặc làm việc tại nhà. Người khuyết tật học
nghề được giảm hoặc miễn học phí và hưởng trợ cấp xã hội.
- Cơ sở dạy nghề và cơ sở sản xuất dành riêng cho người khuyết tật được
giảm hoặc miễn phí, vay vốn với lãi suất ưu đãi, địa phương giao hoặc cho thuê
đất, chính phủ hỗ trợ ngân sách xây dựng trường lớp, mua sắm thiết bị, phương
tiện dạy học, đào tạo giáo viên.
- Người khuyết tật làm việc tại nhà được vay vốn, được chính quyền giúp
về mặt kỹ thuật và tiêu thụ sản phẩm.
- Các trung tâm dịch vụ việc làm giúp đỡ, giảm hoặc miễn phí cho người
khuyết tật.
- Các cơ quan hành chính sự nghiệp không được từ chối nhận người tần tật
vào làm việc, khi họ có đủ điều kiện để được tuyển chọn làm công việc phù hợp
mà cơ quan có nhu cầu tuyển dụng.
- Các doanh nghiệp phải tuân thủ những quy định luật của Bộ luật lao động
và những quy định riêng đối với lao động là người khuyết tật.

Giáo dục hướng nghiệp và dạy nghề là nội dung quan trọng ở phổ thông
cho những học sinh bình thường và nó trở nên càng quan trọng hơn khi đối
tượng giáo dục là trẻ khuyết tật. Việc giáo dục hướng nghiệp, dạy nghề sớm cho
trẻ khuyết tật sẽ tăng khả năng lựa chọn nghề nghiệp, khả năng lao động, hòa
nhập xã hội của trẻ. Quá trình giáo dục hướng nghiệp cần được tiến hành qua
từng bước, phù hợp với quá trình phát triển toàn diện của con người. Những
bước đó có thể là: nhận thức, tìm hiểu, chuẩn bị và thực tập.
Việc xây dựng nội dung hướng nghiệp cho trẻ khuyết tật cần được cụ thể
9


hóa cho phù hợp với từng cá nhân trẻ khuyết tật. Cơ sở xậy dựng những nội dung
giáo dục hướng nghiệp cụ thể là: đặc điểm, tính cách của mỗi trẻ, khả năng nghề
nghiệp của các em, điều kiện gia đình, nhà trường và cộng đồng,.. vì vậy những
nội dung giáo dục hướng nghiệp dưới đây chỉ đóng vai trò là đường hướng công
việc.
Nội dung giáo dục lao động tự phục vụ, hướng nghiệp cho học sinh khuyết
tật bậc Tiểu học bao gồm:
- Biết lao động tự phục vụ.
- Biết cách bảo vệ, giữ gìn những dụng cụ trợ giúp.
- Biết sắp xếp thời gian biểu tự hợp lý cho các hoạt động học tập ở trường
và những hoạt động khác.
- Tìm hiều về những nghề nghiệp khác nhau của những người xum quanh.
Tìm công việc phù hợp với trẻ.
- Học để biết những yêu cầu chung để có việc làm, đối với tất cả mọi
người.
- Bắt đầu tìm hiểu một số kỹ năng cho cộng việc nào đó.
- Tập trung những công việc phù hợp với khả năng trong gia đình, trường
học, nơi vui chơi.
- Bắt đầu nhận ra và mô tả được những nhiệm vụ khác nhau cho một công

việc nào đó.
- Bắt đầu hiểu người ta có thể học cách thi hành một nhiệm vụ như thế nào
và chỉ dẫn cho người khác như thế nào.
- Bắt đầu nhận ra rằng có những công việc quá sức, năng lực của mình.
- Nhận ra những nguồn cung cấp thông tin khác nhau về công việc như
đài, vô tuyến, thư viện,…
- Bắt đầu có kiến thức về những đòi hỏi cần có của một người khi muốn
làm việc.
1.3. Các phương thức giáo dục trẻ khuyết tật
1.3.1. Giáo dục chuyên biệt
1.3.1.1. Thế nào là giáo dục chuyên biệt
Giáo dục chuyên biệt là những phương thức giáo dục tách biệt khi trẻ em
10


có cùng dạng khuyết tật vào cơ sở giáo dục riêng.
Những trẻ khuyết tật có cùng dạng, cùng mức độ được học theo một
chương trình riêng với phương pháp riêng biệt. Đây là mô hình xuất hiện sớm
nhất trong lịch sử giáo dục trẻ khuyết khuyết tật, nó được xuất hiện từ những
năm đầu của thế kỷ XVI ở các nước Pháp, Đức, Tây Ban Nha,… Đầu tiên là một
số tu sĩ tập trung những trẻ câm điếc, mù vào các lớp học trong nhà thờ để dạy.
Dần dần nó được phát triển ở nhiều nước và trở thành hệ thống các trường
chuyên biệt dạy trẻ khuyết tật. Ở đây trẻ được học chương trình riêng, tách biệt
với các hệ thống giáo dục quốc dân.
1.3.1.2. Mục tiêu của giáo dục chuyên biệt
Theo quan điểm thời bấy giờ trẻ lành và trẻ khuyết tật được phân biệt rất
rõ ràng. Trẻ khuyết tật được coi như những bệnh nhân, những con bệnh cần phải
được chữa trị. Ví dụ: trẻ câm cần phải dạy nói, trẻ mù cần phải dạy hướng trong
không gian để trẻ có thể đi lại.
Quan điểm giáo dục chuyên biệt xem trẻ khuyết tật là đối tượng giáo dục

được huấn luyện để trở thành bình thường. Chính vì vậy, người ta nói rằng, mô
hình giáo dục chuyên biệt là “mô hình y tế”, mô hình lấy phục hồi chức năng
làm mục tiêu giáo.
Giáo dục chuyên biệt trẻ khuyết tật nhằm đạt mục tiêu chính sau đây:
- Mục tiêu nhân đạo
Trẻ khuyết tật là đối tượng trợ giúp của các tấm lòng hảo tâm, từ thiện. Họ
nhận được sự thương hại của cộng đồng xã hội.
- Mục tiêu chăm sóc giáo dục
Trẻ khuyết tật là đối tượng của quá trình phục hồi chức năng và giáo dục.
Trong quá trình phục hồi chức năng là mục tiêu cuối cùng. Chính mục tiêu đó
nên người ta chia nhỏ những trẻ khuyết tật thành những dạng, mức độ đồng nhất
để từ đó tác động vào đứa trẻ theo những nội dung và biện pháp đồng nhất như
trẻ điếc: điếc nặng, điếc nhẹ,… Phục hồi chức năng cho trẻ khuyết tật và hy vọng
đến một ngày nào đó, đứa trẻ sẽ trở thành bình thường hoặc gần với những đứa
trẻ bình thường khác.
11


1.3.1.3. Những hạn chế của giáo dục chuyên biệt
Hạn chế của giáo dục chuyên biệt là quan niệm, đánh giá không đúng về
trẻ khuyế tật: coi trẻ là những đứa trẻ thấp kém, không có khả sống và học tập
như đứa trẻ bình thường khác. Tách trẻ ra khỏi cộng đồng, áp dụng phương pháp
giáo dục đặc biệt.
Sự giáo dục chuyên biệt mang lại cho trẻ những mặc cảm, tự ty và những
cản trở không cho trẻ phát triển hết khả năng của mình.
Giáo dục chuyên biệt tạo ra môi trường bị hạn chế về nhiều mặt. Môi
trường này không mở ra cơ hội để trẻ khuyết tật phát triển hết những tiềm năng
của mình. Hiệu quả giáo dục trong trường chuyên biệt thấp. Nhiều học sinh sau
khi tốt nghiệp phải bắt đầu lại từ đầu để tái hòa nhập xã hội.
Ngoài ra mô hình giáo dục chuyên biệt biệt rất tốn kém, chi phí cao cho

xây dựng cơ sở vật chất, đào tạo đội ngũ giáo viên riêng, cách làm này sẽ không
huy động được lực lượng xã hội tham gia giáo dục. Thực hiện mô hình giáo dục
chuyên biệt sẽ làm cho phần lớn trẻ khuyết tật thất học.
Tuy nhiên mô hình giáo dục chuyên biệt đã xuất hiện từ rất sớm và tồn tại
cho đến ngày nay, nó đã giúp cho một bộ phận nhỏ trẻ khuyết tật được chăm sóc
và giáo dục. Giáo dục chuyên biệt hình thành và phát triển phù hợp với những
điều kiện xã hội, kinh tế và phù hợp với trình độ nhận thức, trình độ phát triển
khoa học kỹ thuật của nhân loại. Nó đóng vai trò tích cực trong lịch sử phát triển
giáo dục trẻ khuyết tật.
1.3.2. Giáo dục hội nhập
Trẻ khuyết tật (TKT) được học trong lớp học chuyên biệt, đặt trong trường
phổ thông bình thường. Trong quá trình giáo dục, TKT nào có “khả năng” sẽ
được học chung ở một số môn học hoặc tham gia một số hoạt động cùng trẻ bình
thường.
Ture Johson (chuyên gia Liên Hợp về phục hồi chức năng) đã đưa ra khái
niệm về các mức độ hội nhập như sau:
1. Hội nhập về thể chất: Trẻ lành và TKT được giao lưu với nhau hay
cùng chơi với nhau trong một địa điểm và trong một thời gian nhất định.
2. Hội nhập về chức năng: Trẻ lành và TKT được tham gia cùng nhau
12


trong một số hoạt động như thể thao, vẽ,...
3. Hội nhập xã hội: Trẻ cùng học với nhau trong một trường nhưng theo
các chương trình khác nhau, có giờ học chung và học riêng tuỳ theo môn học và
khả năng học của trẻ.
4. Hội nhập hoàn toàn: TKT học như trẻ lành theo một chương trình
cứng bắt buộc.
- Vấn đề: Khi nào thì hội nhập về thể chất, khi nào hội nhập về chức năng;
ai là người quyết định cho trẻ hội nhập ở các mức đó.

- Những hạn chế :
+ TKT chưa thực sự được hoà nhập với trẻ bình thường.
+ Việc học tập của TKT trong các lớp chuyên biệt theo một chương trình
riêng, không trùng lặp với các lớp khác nên trẻ không thích ứng được.
Kinh nghiệm Việt Nam cho thấy, đây là con đường bế tắc không có tính
phát triển. Một trường Tiểu học tại quận Đống Đa, Hà Nội đã mở 4 lớp chuyên
biệt cho khoảng 60 trẻ chậm phát triển trí tuệ (khó khăn trong học tập). Sau 14
năm duy trì, mô hình trên đã bộc lộ một số tồn tại sau :
- Phần lớn HS không qua được cấp tiểu học;
- Trẻ lĩnh hội được rất ít các kĩ năng xã hội, khi ra trường không hoà nhập
được vào xã hội.
- Đầu ra cho trẻ lớn tuổi rất bế tắc, trẻ không biết làm gì.
- Nhiều trẻ bị ức chế về tâm lí, không muốn học trong lớp chuyên biệt.
Trong chương trình giáo dục hội nhập do UNICEF tài trợ thực hiện ở một
số tỉnh thành từ năm 1991 đã mở một số lớp chuyên biệt trong trường phổ thông,
nhiều lớp đã tự giải tán sau một vài năm.
Chương trình giáo dục hội nhập trẻ khiếm thính cũng rơi vào tình trạng
tương tự. Nhiều trẻ được hội nhập, sau một thời gian lại trở về với trường chuyên
biệt.
1.3.3. Giáo dục hoà nhập
Giáo dục hòa nhập (GDHN) là phương thức giáo dục, trong đó TKT cùng
học với trẻ em bình thường trong trường phổ thông ngay tại nơi trẻ sinh sống.
13


GDHN xuất phát từ quan điểm xã hội về giáo dục, coi nhà trường như một xã
hội thu nhỏ và phản ánh tính chất đa dạng của xã hội, vì vậy môi trường giáo dục
phổ thông được chú ý cải thiện sao cho đáp ứng nhu cầu học tập đa dạng của mọi
HS, kể cả những HS có khó khăn đặc thù. Đây là mô hình giáo dục tiến bộ nhất
được biết đến trong lĩnh vực giáo dục TKT.

1.4. Sơ lược lịch sử giáo dục trẻ khuyết tật
Trên thế giới
Theo tổ chức y tê thế giới, có khoảng 8- 10% dân dố là người khuyết tật
khác nhau, tức là khoảng 500 triệu người, trong đó khoảng 150 triệu người là trẻ
em. Hàng năm có khoảng 3 triệu trẻ em dưới 5 tuổi bị khuyết tật nặng do mắc
bệnh mà đáng ra có thể tránh được nếu được tiêm chủng, chẳng hạn nữa triệu trẻ
em có thể mù do thiếu Vitamin A, 3 triệu trẻ em khuyết tật tinh thần do suy dinh
dưỡng, nữa triệu trẻ điếc do dùng thuốc sai.
Phần lớn trẻ khuyết tật nói riêng và người khuyết tật nói chung rơi vào tình
cảnh:
- Bị phân biệt đối xử
- Chưa được đi học
- Không có nghề nghiệp
Người khuyết tật là người nghèo khổ nhất, lệ thuộc và luôn bị đe dọa hoặc
là cất tiếng yếu ớt, chẳng nói được gì… Họ chẳng có cơ hội hưởng một quyền lợi
và quyền lực hoặc một uy thế chính trị nào cả. Có tới 98% người khuyết tật bị bỏ
mặc hoăc lãng quên.
* Giai đoạn trước thế kỷ XVI
Do quạn niệm của xã hội, do trình độ phát triển của khoa học, cho rằng
người khuyết tật không thể có suy nghĩ, tư duy bình thường vì họ bị tổn thương
các cơ quan cảm giác nên họ không thể học được. Tuy nhiên, vẫn có một số nơi
trên thế giới người ta vẫn dạy người mù, điếc (trong tu viện).
* Giai đoạn từ thế kỷ XVI – XVIII
Đây là thời kỳ mở đầu cho dạy trẻ khuyết tật, đặc biệt là trẻ điếc và trẻ mù.
Đối với trẻ điếc, người ta tìm cách dạy trẻ bằng ký hiệu xuất hiệu đầu tiên ở
14


Pháp ở Tây Ban Nha. Về sau ở Đức dạy ngôn ngữ nói.
Đối với trẻ mù, xuất hiện chữ Braille đã giúp cho việc dạy trẻ mù thuận lợi

nhiều hơn.
Trong thời gian này, thế giới đã hình thành hệ thống các lớp, các trường
dạy trẻ điếc và trẻ mù.
* Giai đoạn từ thế kỷ XVIII - XX
Do sự phát triển của giáo dục đặc biệt cũng như cũng khoa học kỹ thuật hệ
thống các trường chuyên biệt dạy trẻ điếc, trẻ mù và một số tật khác cũng phát
triển rất nhanh trên khắp thế giới. Đồng thời hỗ trợ giáo dục trẻ khuyết tật bằng
máy móc đặc thù ngày càng tăng cả về số lượng lấn chất lượng (máy trợ thình).
* Giai đoạn từ thế kỷ XX đến nay
Vấn đề người khuyết tật và trẻ khuyết tật ngày càng được xã hội quan tâm.
Quan điểm về người khuyết tật và trẻ khuyết tật ngày càng được xã hội quan
tâm. Quan điểm về người khuyết tật được thay đổi mạnh mẽ trong cộng đồng.
Bởi vậy, việc chăm sóc và giáo dục trẻ khuyết tật chuyển sang một giai đoạn
mới. Giai đoạn mà trẻ khuyết tật được chính thức thừa nhận là một thành viên
bình đẳng trong xã hội. Do việc đánh giá người khuyết tật nói riêng đúng đắn và
khoa học, nên việc chăm sóc giáo dục trẻ khuyết tật hiệu quả hơn.
Từ cuối thế kỷ XX, do việc đánh giá đúng nhu cầu và khả của trẻ khuyết
tật, một hình thức giáo dục mới xuất hiện: Giáo dục hòa nhập trẻ khuyết tật,
phương pháp giáo dục hòa nhập trẻ khuyết khuyết ngày càng phát triển và hoàn
thiện ở nhiều nước trên thế giới.
1.5 Giáo dục trẻ khuyết tật ở Việt Nam
Ở Việt Nam, có khoảng một triệu trẻ khuyết (trong số gần sáu triệu người
khuyết tật) theo số liệu thực năm 2005.
Ở Hòa Bắc (Hòa Vang – Đã Nẵng): 1,87%, một xã thuộc huyện Yên Lập
(Phú Thọ): 1,92%; huyện Triệu Phong (Quảng Trị): trên 2,09%.
Tỷ lệ khuyết tật trong độ tuổi từ khi sinh đến hết 16 tuổi trong cả nước là
3,4% so với trẻ em cùng độ tuổi.
Dạng khuyết tật trong trong số trẻ khuyết tật: Trẻ khó khăn học: khoảng
15



28,36%; khuyết tật về vận động: 19,25%: khiếm thị: 13,73%; khiếm thính:
12,43%; ngôn ngữ: 12,57%; đa tật: 12,62%.
Việc chăm sóc, giáo dục trẻ khuyết tật ở Việt Nam được tiến hành sớm và
phát triển qua các thời kỳ:
* Trước cách mạng tháng Tám
Trẻ khuyết tật chưa được xã hội quan tâm, chỉ có một số cơ sở tiếp nhận
khoảng 200 học sinh điếc tại Lái Thiêu (thành lập năm 1866) và khoảng 100 trẻ
mù (Sài Gòn) và một số cơ sở tại Hà Nội và Nam Định.
* Sau cách mạng tháng Tám
Cho thêm một số cơ sở 12 trẻ điếc tại Bệnh viên Bạch Mai - Hà Nội.
* Từ 1976 đến 1990
Hình thành một số cơ sở dạy trẻ điếc, mù và chậm phát triển trí tuệ. Hiện
nay có 72 cơ sở tập trung thu hút khoảng 4.000 trẻ khuyết tật. Một đội ngũ cán
bộ được đào tạo từ nước ngoài trở về nước hình thành nên một cơ quan chuyên
làm công tác giáo dục trẻ khuyết tật.
* Từ năm 1991 đến nay
- Nhận thức về giáo dục trẻ khuyết tật được nâng cao rõ rệt trong cộng
đồng. Trước đây việc cho trẻ khuyết tật đi học mang tính chất nhân đạo thuần
túy. Hiện nay, giáo dục trẻ khuyết tật đã trở thành một ngành khoa học đích thực.
Những tiềm năng của trẻ khuyết tật đã được xã hội công nhận. Việc đi học của
chúng ở nhiều nơi đã trở thành bình thường.
- Hệ thống quản lý nhà nước về giáo dục trẻ khuyết tật được hình thành đi
vào hoạt động có nề nếp. Tháng 11 năm 2002, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và đào tạo
đã quyết định thành lập Ban chỉ đạo giáo dục trẻ khuyết tật của Bộ. Ban chỉ đạo
giáo dục trẻ khuyết tật của Bộ đã chỉ đạo sát việc thực hiện công tác giáo dục trẻ
khuyết tật ở địa phương thông qua ban điều hành của các tình. Đây là một việc
làm cụ thể được đánh dấu một bước tiến mới trong công tác quản lý nhà nước về
giáo dục hòa nhập trẻ khuyết tật.
- Nguồn nhân lực giáo dục cho trẻ khuyết tật đang được hình thành phát

triển. Đến nay, có 04 trường Đại học và 03 trường Cao đẳng Sư phạm đã thành
16


lập khoa giáo dục đặc biệt. Hệ thống chương trình, giáo trình và tài liệu giáo dục
hòa nhập được hoàn thiện hơn. Đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục mầm non, tiểu
học của các tỉnh đều được tập huấn về giáo dục hòa nhập và can thiệp sớm.
Quy mô các trường giáo dục hòa nhập ngày càng được mở rộng, chất
lượng giáo dục hòa nhập ngày từng bước được nâng lên. Số lượng khuyết tật đi
học trong các loại hình, trường lớp được tăng lên đáng kể trong các năm gần đây.
Khoảng 100 nghìn trẻ trong các trường giáo dục hòa nhập. Cùng với sự tăng
nhanh về số lượng, chất lượng giáo dục trẻ khuyết tật học hòa nhập cũng từng
bước được nâng lên.
Mặc dù trong các năm qua, giáo dục trẻ khuyết tật đã đạt được những
thành tựu đáng ghi nhận, song những khó khăn, trở ngại không còn ít. Điều này
được thể hiện cụ thể ở các mặt:
+ Số lượng trẻ khuyết tật đi học còn rất hạn chế khoảng 100 nghìn trong
tổng số 1,2 triệu (chiếm tỷ lệ 10% so với 50% kế hoạch).
+ Chất lượng giáo dục trẻ khuyết tật đang ở mức khiêm tốn. Số lượng học
sinh đang đi học hòa nhập còn hạn chế về “hòa nhập văn hóa”. Các em đi học
chưa phát triển tiềm năng của mình.

17


Chương 2. GIÁO DỤC HOÀ NHẬP TRẺ KHUYẾT TẬT
2.1. Khái niệm về giáo dục hoà nhập
Giáo dục hoà nhập là phương thức giáo dục trong đó trẻ khuyết tật cùng
học với trẻ em bình thường trong trường phổ thông ngay tại nơi trẻ sinh sống.
Thuật ngữ giáo dục hoà nhập được xuất phát từ Canada và được hiểu là

những trẻ ngoại lệ được hoà nhập, qui thuộc vào trường hoà nhập. Giáo dục hoà
nhập là phương thức giáo dục mọi trẻ em, trong đó có trẻ khuyết tật, trong lớp
học bình thường của trường phổ thông. Giáo dục hoà nhập là "Hỗ trợ mọi học
sinh, trong đó có trẻ khuyết tật, cơ hội bình đẳng tiếp nhận dịch vụ giáo dục với
những hỗ trợ cần thiết trong lớp học phù hợp tại trường phổ thông nơi trẻ sinh
sống nhằm chuẩn bị trở thành những thành viên đầy đủ của xã hội. Hoà nhập
không có nghĩa là "xếp chỗ" cho trẻ khuyết tật trong trường lớp phổ thông và
không phải tất cả mọi trẻ đều đạt trình độ hoàn toàn như nhau trong mục tiêu giáo
dục. Giáo dục hoà nhập đòi hỏi sự hỗ trợ cần thiết để mọi học sinh phát triển hết
khả năng của mình. Sự hỗ trợ cần thiết đó được thể hiên trong việc điều chỉnh
chương trình, các đồ dùng dạy học, dụng cụ hỗ trợ đặc biệt, các kỹ năng giảng
dạy đặc thù,… Các giáo viên và nhân viên nhà trường cần thấm nhuần tư tưởng
hoà nhập để trẻ khuyết tật được phụ thuộc lẫn nhau, được chấp nhận, được có giá
trị, được hỗ trợ của bạn bè… Trường hoà nhập là "Tổ chức giải quyết vấn đề đa
dạng nhằm chú trọng đến việc học của mọi trẻ. Mọi giáo viên, cán bộ và nhân
viên nhà trường cam kết làm việc cùng nhau tạo ra và duy trì môi trường đầm ấm
có hiệu quả cho việc học tập. Trách nhiệm cho mọi trẻ được chia sẻ".
Giáo dục hoà nhập dựa trên quan điểm xã hội trong việc nhìn nhận đánh
giá đúng trẻ khuyết tật. Nguyên nhân gây ra khuyết tật không phải chỉ do khiếm
khuyết của bản thân cá thể mà còn là môi trường xã hội. Môi trường xã hội đóng
vai trò quan trọng trong sự phát triển của trẻ khuyết tật. Trẻ khuyết tật về vận
động (như liệt) sẽ là mất khả năng nếu không có các phương tiện đi lại, không
được tham gia vào hoạt động xã hội và sẽ trở thành tàn phế nếu không ai chăm
sóc giúp đỡ. Nhưng cũng trẻ đó, nếu được hỗ trợ, có phương tiện đi lại và xã hội
có những cơ sở vật chất thích ứng không tạo ra các khó khăn (như có các đường
18


lên xuống dễ dàng cho xe đẩy) và cùng được tham gia vào các hoạt động, trẻ sẽ
được bình đẳng và phát triển như mọi trẻ khác.

Giáo dục hoà nhập dựa trên quan điểm tích cực về trẻ khuyết tật. Mọi trẻ
khuyết tật đều có những năng lực nhất định, chính từ sự đánh giá đó mà trẻ khuyết
tật được coi là chủ thể chứ không phải là đối tượng thụ động trong quá trình tiếp
nhận các tác động giáo dục. Từ đó người ta tập trung quan tâm, tìm kiếm những
cái mà trẻ khuyết tật có thể làm được. Các em sẽ làm tốt những việc phù hợp với
nhu cầu và năng lực của mình. Trong giáo dục, gia đình, cộng đồng, xã hội cần
tạo ra sự hợp tác và hoà nhập với các em trong mọi hoạt động. Vì thế các em
phải được học ngay ở trường học gần nhất, nơi các em sinh ra và lớn lên. Các em
luôn luôn được gần gũi gia đình, luôn được sưởi ấm bằng tình yêu của cha, mẹ,
anh, chị mình và được cả cộng đồng đùm bọc, giúp đỡ. Trẻ khuyết tật sẽ được
học cùng một chương trình, cùng lớp, cùng trường với các bạn học sinh bình
thường. Cũng như mọi học sinh khác, học sinh khuyết tật là trung tâm của quá
trình giáo dục. Các em được tham gia đầy đủ, và bình đẳng mọi công việc trong
nhà trường và cộng đồng để thực hiện lý tưởng "trường học cho mọi trẻ em, trong
một xã hội cho mọi người". Chính lý tưởng đó tạo cho trẻ khuyết tật niềm tin,
lòng tự trọng, ý chí vươn lên để đạt đến mức cao nhất mà năng lực của mình cho
phép. Đó là giáo dục hoà nhập.
2.2. Bản chất của giáo dục hoà nhập
Mọi trẻ em đều được học trong môi trường giáo dục, mà trong đó trẻ có điều
kiện và có cơ hội để lĩnh hội những tri thức mới theo nhu cầu và khả năng của
mình. Để có một môi trường học tập như vậy cho mọi trẻ em, giáo dục hoà nhập
cần đề cập đến những nội dung cơ bản sau đây trong dạy và học:
- Trẻ được học theo một chương trình phổ thông.
- Tuỳ theo năng lực và nhu cầu của từng trẻ mà giáo viên có trách nhiệm
điều chỉnh nội dung cho phù hợp.
- Đổi mới phương pháp dạy và học, đặc biệt giáo viên cần biết cách điều
chỉnh và lựa chọn những hoạt động học tập sao cho mọi trẻ đều có đủ những điều
kiện thuận lợi và cơ hội để lĩnh hội kiến thức mới.
- Môi trường giáo dục phù hợp cho mọi đối tượng.
19



- Porter (1995) đã đề xuất các yếu tố của giáo dục hoà nhập như sau:
+ Học sinh khuyết tật được học ở trường thuộc khu vực sinh sống.
+ Học sinh khuyết tật, với tỷ lệ hợp lí, được bố trí vào lớp học phù hợp lứa
tuổi.
+ Cung cấp các dịch vụ và giúp đỡ HS ngay trong trường hoà nhập.
+ Mọi học sinh đều là thành viên của tập thể. Bạn bè cùng lứa giúp đỡ lẫn
nhau.
+ Đánh giá cao tính đa dạng của học sinh.
+ Điều chỉnh chương trình phổ thông cho phù hợp với năng lực nhận thức
của học sinh. Phương pháp dạy học đa dạng dựa vào điểm mạnh của học sinh.
Học sinh với những khả năng khác nhau được học theo nhóm.
+ Giáo viên phổ thông và chuyên biệt cùng chia sẻ trách nhiệm giáo dục
mọi đối tượng học sinh.
+ Chú trọng cả lĩnh hội tri thức và kĩ năng xã hội.
2.3. Tính tất yếu của giáo dục hòa nhập
Giáo dục hoà nhập là một xu thế, là một sự tất yếu của thời đại. Tại Hội
nghị về giáo dục cho trẻ khuyết tật tại Agra, ấn độ (3/1998) do UNESCO tổ chức
đã khẳng định xu hướng: Giáo dục hoà nhập cho mọi trẻ em. Những nội dung sau
đây sẽ lý giải tại sao phải tiến hành giáo dục hoà nhập cho mọi trẻ em, trong đó
có trẻ khuyết tật.
2.3.1. Đáp ứng mục tiêu giáo dục
UNESCO đã đề ra 4 mục tiêu đào tạo con người như sau: Học để làm
người; Học để biết; Học để làm; Học để cùng chung sống.
Về thực chất, các mục tiêu trên có nhiều điểm trùng với mục tiêu giáo dục
các thành viên trong cộng đồng của người da đỏ đã đưa ra cách đây hàng nghìn
năm. Theo quan điểm của họ, mỗi người muốn tồn tại được trong cộng đồng cần
phải phấn đấu đạt được đồng đều 4 phẩm chất sau đây:


20


Qu¶ng ®¹i

Qui thuéc,
Đéc lËp

®ưîc chÊp nhËn

* Tính quy thuộc
Có bạn bè và giữ mối quan hệ tốt với bạn. Được chung sống và cùng làm
việc với người khác trong cộng đồng. Được là thành viên của gia đình, cộng
đồng. Các em được chào đón và đều được tôn trọng như nhau. Mọi người phải
biết sống hoà nhập, hợp tác với nhau trong một tập thể và có ảnh hưởng đến nhau
một cách tích.
* Thông đạt kiến thức, kỹ năng
Thành đạt và có khả năng tốt trong một hoặc một vài lĩnh vực. Được phát
triển toàn diện. Có tư duy linh hoạt và năng lực giải quyết các vấn đề. Có động
cơ đúng đắn. Có tri thức văn hoá và có khả năng làm chủ kỹ thuật. Được tiếp
tục học tập và có khả năng cao trong lĩnh vực quan tâm.
Trẻ phải được tiếp thu những tri thức, kỹ năng cơ bản, cần thiết phù hợp
với nhu cầu và năng lực của mỗi em. Mỗi đứa trẻ có những khả năng khác nhau
trong các lĩnh vực khác nhau. Khi đã có kiến thức và kỹ năng, các em phải có
thái độ đúng, ứng xử một cách linh hoạt trước mọi vấn đề đặt ra.
* Tính độc lập
Mọi em đều có cơ hội chọn nghề và tin, yêu công việc đã chọn. Có trách
nhiệm cá nhân cao, chịu trách nhiệm về hành động và quyết định của mình.
Được độc lập trong mọi lĩnh vực.
Làm thế nào để trẻ đạt được mục tiêu? Luôn luôn dạy trẻ có lòng tự

trọng, tự tin, tự học hỏi, biết chấp nhận, tiếp nhận thông tin để phát triển. Có
độc lập tự chủ mới có sáng tạo. Những điều này rất cần cho cuộc sống lao
21


động, hội nhập cộng đồng trong tương lai khi trẻ đã trưởng thành .
* Tính quảng đại
Được đóng góp cho gia đình và xã hội. Có lòng nhiệt tình.Yêu thương,
chăm sóc, giúp đỡ người khác.
Trẻ được học tập, được sự giúp đỡ của mọi người trong quá trình tiếp
nhận thông tin, lĩnh hội tri thức rèn luyện kỹ năng và tiến đến trình độ làm việc
độc lập, sáng tạo. Lúc này trẻ phải thể hiện giá trị của mình bằng sự cống hiến
cho xã hội. Đây là mục tiêu rất quan trọng. Mục tiêu này định hướng giá trị của
mỗi người trước những vấn đề của cuộc sống, thực tiễn đặt ra. Trong cuộc
sống, sự giúp đỡ lẫn nhau là tất yếu. Mỗi người nhận được sự giúp đỡ lúc này
và phải giúp đỡ người khác khi cần.
Thay đổi quan điểm giáo dục
Chúng ta biết rằng giáo dục trong nhà trường là đào tạo ra những con
người, có kỹ năng, thái độ và thiên hướng cần cho xã hội.
Trước đây người ta đã quyết định rằng cần phải phân loại trẻ em càng tỉ
mỉ càng tốt. Bằng thang đo trí lực cho biết chỉ số trí tuệ IQ, trẻ em đã được
chẩn đoán để có thể phát hiện ra các tài năng sớm. Những trẻ em sau khi đã
được phân loại cần được dạy theo một chương trình riêng, theo một phương
pháp riêng. Người ta cho rằng cách đào tạo này sẽ có hiệu quả hơn. Thực tế đã
chỉ ra rằng trẻ em được học kiểu này đã không phát triển hết các khả năng của
mình, thậm chí có thể phát triển lệch lạc.
Xu thế giáo dục đa trình độ, đa phương pháp và phát huy tính độc lập
học tập hay sự tham gia tích cực của học sinh đã trở nên phổ biến. Hiện nay
Việt nam đang thực hiện chương trình tiểu học mới, trong đó chú trọng đổi mới
phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh.

Phương pháp dạy học tập trung vào hoạt động của người học trở nên
ngày càng phổ biến và mang lại hiệu quả cho nhiều trẻ em.
2.3.2. Tính hiệu quả
Được giáo dục trong môi trường hoà nhập, trẻ có những dạng khó khăn
khác nhau đều có thể tiến bộ hơn, các tiềm năng của trẻ được khơi dậy và phát
22


triển tốt hơn so với cách giáo dục trong môi trường khác. Thực tế hơn 10 năm
tiến hành giáo dục hoà nhập ở Việt Nam và kinh nghiệm giáo dục trên thế giới
cho thấy tính hiệu quả đối với các đối tượng trẻ khuyết tật khác nhau như sau:
Trẻ chậm phát triển trí tuệ: Thông qua giao lưu với bạn bè, trẻ xoá bỏ
mặc cảm, tự ti, kĩ năng giao tiếp của trẻ phát triển nhanh, phát triển tính độc lập
trong sinh hoạt và trẻ học được nhiều hơn.
Trẻ khiếm thị: Do được học gần nhà nên trẻ khiếm thị bớt khó khăn trong
việc đi lại, trẻ có nhiều bạn bè, hội nhập dễ dàng, có cơ hội tìm việc làm sau khi
tốt nghiệp.
Trẻ khiếm thính: Thông qua quan hệ với bạn bè trẻ học cách giao tiếp, có
nhiều cơ hội để phát triển khả năng của mình, tư duy của trẻ được phát triển tốt
hơn qua học tập và sinh hoạt.
Trẻ khó khăn vận động: Được học tập để có thể phát triển tài năng, được
bạn bè giúp đỡ, xoá bỏ dần sự lệ thuộc vào người khác.
2.3.3. Cơ sở pháp lý
Vấn đề bình đẳng trong cơ hội học tập và nhiều quyền khác đã được nêu
trong Công ước Quốc tế về quyền trẻ em (điều 18, 23), trong Công ước về giáo
dục cho mọi người và gần đây nhất, trong Tuyên ngôn về giáo dục đặc biệt
Salamanca (Tây Ban Nha, 1994): “Giáo dục là quyền của con người và những
người khuyết tật cũng có quyền được học trong các trường phổ thông và các
trường đó phải được thay đổi để tất cả trẻ em đều được học”.
Tuyên ngôn về quyền con người của Liên hợp quốc được bổ sung bởi

tuyên ngôn về quyền của những người tàn tật trong đó đã nêu: "Những người
tàn tật phải có quyền được tôn trọng phẩm giá. Những người tàn tật dù họ có
nguồn gốc gì, bản chất ra sao và sự bất lợi do bệnh tật gây ra như thế nào cũng
đều có quyền bình đẳng như mọi người khác". Khái niệm bình đẳng được làm
sáng rõ. Những nguyên tắc về quyền bình đẳng đối với người tàn tật (không có
sự ám chỉ đến tật nguyền cụ thể) là những nhu cầu của mỗi người và của mọi cá
nhân trong xã hội đều có tầm quan trọng như nhau. "Những nhu cầu đó cần
được tôn trọng và đáp ứng nhằm đảm bảo cho mọi cá nhân đều có cơ hội phát
23


triển để tham gia một cách bình đẳng vào công việc trong xã hội ".
Năm 1983, 120 Quốc gia thành viên của Liên hợp quốc đã chấp nhận
những nguyên tắc cơ bản về quyền của người tàn tật. Đặc biệt là quyền được giáo
dục. Vấn đề giáo dục trẻ khuyết tật được thực hiện trong hệ thống nhà trường
chung. Những luật pháp liên quan đến nền giáo dục bắt buộc sẽ bao gồm tất cả
mọi trẻ em thuộc mọi dạng khuyết tật, kể cả những em bị khuyết tật nặng.
Vấn đề đã được mở rộng trong tuyên ngôn thế giới về giáo dục cho mọi
người (1990). Tuyên ngôn đã khuyến nghị các quốc gia phải quan tâm đến nhu
cầu giáo dục đặc biệt của trẻ em khuyết tật và tạo điều kiện bình đẳng trong giáo
dục cho mọi trẻ khuyết tật như là một bộ phận thiết yếu của hệ thống giáo dục
quốc dân.
Công ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ em một lần nữa nhấn mạnh đến
các quyền cơ bản của trẻ khuyết tật. Khái niệm về quyền trẻ em được làm sáng
tỏ trên nguyên tắc cơ bản của các quyền trẻ em là xã hội có trách nhiệm đáp
những nhu cầu cơ bản của trẻ em và cung cấp các dịch vụ, sự giúp đỡ cần thiết
cho sự phát triển của mỗi các nhân về mọi mặt, nhân cách, năng lực, tài năng ...
2.3.4. Tính kinh tế
Mô hình giáo dục hòa nhập trẻ khuyết tật là mô hình có hiệu quả kinh tế
nhất:

Chi phí đỡ tốn kém.
Nhiều trẻ khuyết tật được đi học.
Như ta biết, kinh phí giáo dục cho một trẻ khuyết tật bao gồm các chi phí
cho học sinh, đào tạo giáo viên, cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy và học,... Theo
số liệu tổng hợp từ các cơ sở, chi phí cho một trẻ khiếm thính trong một năm
nội trú - khoảng 5 triệu, trường bán trú - khoảng 2,5 triệu trong đó chưa tính
đào tạo giáo viên và máy trợ thính. Chi phí cho cơ sở vật chất ban đầu cũng là
điều cần đề cập; Xây dựng cơ sở vật chất của cho các trường, trung tâm cũng rất
cao.
Tuy nhiên, giáo dục hoà nhập không chỉ để giải quyết vấn đề ngân sách,
mà vấn đề cơ bản là làm thế nào để trẻ được hưởng lợi nhiều nhất.
24


×