Tải bản đầy đủ (.pdf) (16 trang)

Đánh giá hiện trạng và đề xuất phương án xử lý ô nhiễm chì trong đất tại làng nghề tái chế chì thôn Đông Mai, xã Chỉ Đạo, huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (549.74 KB, 16 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN
---------------------

TRẦN THỊ DUNG

ĐÁNH GIÁ HIỆN TRẠNG VÀ ĐỀ XUẤT PHƢƠNG ÁN XỬ LÝ Ô NHIỄM
CHÌ TRONG ĐẤT TẠI LÀNG NGHỀ TÁI CHẾ CHÌ THÔN ĐÔNG MAI,
XÃ CHỈ ĐẠO, HUYỆN VĂN LÂM, TỈNH HƢNG YÊN

Chuyên ngành: Khoa học môi trƣờng
Mã số: 60440301

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. Lưu Đức Hải

Hà Nội - 2014


LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành luận văn này, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS.TS.
Lưu Đức Hải, người đã hướng dẫn tôi tận tình, chu đáo và tạo mọi điều kiện để tôi
hoàn thành tốt luận văn.
Tôi xin gửi lời cảm ơn tới các Thầy, Cô giáo trường Đại học Khoa học Tự
nhiên – Đại học Quốc gia Hà Nội đã truyền đạt những kiến thức quý giá cho tôi
trong suốt thời gian học tập tại trường.
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới cô Dương Thị Tơ – Giám đốc Trung tâm
Môi trường và Phát triển cộng đồng, và các đồng nghiệp đã tạo điều kiện giúp đỡ


tôi trong suốt quá trình học và thực hiện luận văn này.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành tới lãnh đạo UBND xã Chỉ Đạo; lãnh
đạo và toàn thể người dân thôn Đông Mai đã giúp đỡ tôi rất nhiều trong suốt quá
trình làm việc tại địa phương.
Cuối cùng tôi xin chân thành cảm ơn người thân, bạn bè, gia đình đã động
viên và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học và thực hiện luận văn.
Hà Nội, tháng 11 năm 2014
Người thực hiện

Trần Thị Dung


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Các làng nghề truyền thống ở Việt Nam đã và đang có nhiều đóng góp cho
GDP của đất nước nói chung và đối với nền kinh tế nông thôn nói riêng. Tuy nhiên,
ở hầu hết các làng nghề hoạt động sản xuất đều phát triển theo cơ chế tự phát, quy
mô hộ gia đình, công nghệ sản xuất lạc hậu, do đó đã tạo ra vấn đề ô nhiễm môi
trường, ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe của người lao động, của cộng đồng dân cư
sinh sống trong làng nghề. Năm 2003, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định
số 64/2003/QĐ-TTg về việc phê duyệt “Kế hoạch xử lý triệt để các cơ sở gây ô
nhiễm môi trường nghiêm trọng”, trong đó có làng nghề tái chế chì Đông Mai. Theo
quyết định này, đến hết năm 2007 làng nghề phải hoàn thành việc xử lý ô nhiễm
môi trường, thực hiện di dời hoạt động tái chế chì ra khỏi khu dân cư, xây dựng hệ
thống xử lý chất thải. Nhưng cho đến nay, việc xử lý vẫn chưa được thực hiện một
cách hoàn thiện.
Đông Mai nằm ở vị trí trung tâm của huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên với
dân số khoảng 2.600 người (637 hộ gia đình). Sau khi nghề đúc đồng truyền thống
bị mất thị trường, từ những năm 1970, làng Đông Mai chuyển sang nghề tái chế chì
từ các bình ắc quy hỏng của các phương tiện xe cộ như xe motor và xe máy. Công

việc tái chế chì được thực hiện ngay tại các hộ gia đình, thay cho ở các xưởng sản
xuất tập trung. Theo số liệu thống kê, trong các năm sau năm 2000, làng nghề có
hàng trăm xưởng tái chế chì hoạt động trong khu dân cư.
Trên thực tế, sự phát triển của làng nghề Đông Mai đã góp phần quan trọng
vào việc phát triển kinh tế của địa phương; bởi ngoài việc tăng thêm thu thập cho
người dân, còn giải quyết việc làm cho hàng nghìn lao động. Cùng với sự phát triển
đó, làng nghề Đông Mai cũng đã tạo ra vấn đề ô nhiễm môi trường nước và đất khá
nghiêm trọng. Nhằm mục đích tập trung các hoạt động tái chế chì và di dời các hộ
sản xuất ra khỏi làng Đông Mai, Ủy ban nhân dân (UBND) tỉnh Hưng Yên ban
hành Quyết định số 491/QĐ-UB ngày 27/2/2010 về việc xây dựng “Cụm công
nghiệp xã Chỉ Đạo”. Thực hiện Quyết định này, phần lớn các hộ tái chế chì đã


chuyển vào Cụm công nghiệp (CCN), giảm thiểu nguồn ô nhiễm chì ở trong làng.
Tuy nhiên, vẫn còn một số cơ sở tư nhân đang thực hiện các hoạt động phá dỡ bình
và nấu luyện chì ngay trong khu vực dân cư, gây ô nhiễm môi trường và ảnh hưởng
lớn đến sức khỏe và đời sống của người dân địa phương.
Từ những lý do trên, việc nghiên cứu “Đánh giá hiện trạng và đề xuất
phương án xử lý ô nhiễm chì trong đất tại làng nghề tái chế chì thôn Đông Mai,
xã Chỉ Đạo, huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên” là rất cấp thiết, nhằm giảm thiểu
nguy cơ phơi nhiễm chì cho cộng đồng dân cư sinh sống trong làng nghề.
2. Mục tiêu
-

Có được thông tin khoa học đầy đủ về hiện trạng ô nhiễm chì tại làng nghề

Đông Mai, đặc biệt là ô nhiễm chì trong đất.
-

Có được các giải pháp kỹ thuật xử lý đất ô nhiễm chì, cũng như các giải


pháp tăng cường năng lực phòng chống và giảm thiểu tác động ô nhiễm cho người
dân địa phương, cải thiện môi trường địa phương.
3. Nhiệm vụ
-

Thu thập, xử lý và phân tích các tài liệu về các đặc điểm cơ bản về tự nhiên

cũng như kinh tế - xã hội của địa bàn nghiên cứu. Tìm hiểu cụ thể hiện trạng sản xuất của
làng nghề và xác định các yếu tố ảnh hưởng tới môi trường đất của làng nghề;
-

Tiến hành lấy mẫu đất của một số hộ gia đình trong làng Đông Mai và phân

tích hàm lượng chì có trong các mẫu đất này theo phương pháp hóa học;
-

Tiến hành khảo sát và đo hàm lượng chì trong đất tại toàn bộ các hộ gia đình

còn đất, chưa bê tông hóa hoàn toàn trong làng Đông Mai bằng máy phân tích nhanh
XRF model α-4000;
-

Phân tích, đánh giá hiện trạng ô nhiễm chì trong đất tại làng nghề Đông

Mai, từ đó đưa ra các giải pháp về công nghệ và kỹ thuật để xử lý ô nhiễm chì trong
đất, cũng như các các giải pháp quản lý nhằm giảm thiểu phơi nhiễm chì cho người
dân địa phương, cải thiện môi trường làng nghề.



4. Kết quả chính đã đạt đƣợc
-

Đánh giá được thực trạng ô nhiễm chì trong đất của các hộ gia đình trong

làng Đông Mai. Đồng thời xác định cụ thể các nguồn gây phơi nhiễm chì, ảnh
hưởng trực tiếp đến sức khỏe của cộng đồng dân cư. Đó là cơ sở quan trọng giúp
ích cho việc đề xuất các giải pháp giảm thiểu ô nhiễm chì ở làng nghề Đông Mai;
-

Đề xuất được một số giải pháp giảm thiểu ô nhiễm chì phù hợp với đặc

điểm của làng nghề bao gồm các giải pháp về công nghệ và kỹ thuật xử lý đất ô
nhiễm chì; các giải pháp về quản lý môi trường làng nghề và một số giải pháp khác
nhằm giảm thiểu phơi nhiễm chì cho người dân địa phương như chế độ ăn uống, vệ
sinh sạch sẽ,…
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
-

Các kết quả nghiên cứu của đề tài là tài liệu tham khảo có giá trị cho công

tác quản lý môi trường của làng nghề Đông Mai;
-

Việc nghiên cứu lý luận gắn với thực tiễn của vùng nhằm hướng tới những

giải pháp mang tính khả thi sẽ có những ý nghĩa đáng kể cho định hướng quy hoạch
làng nghề nhằm bảo vệ môi trường; góp phần vào việc bảo vệ sức khỏe cộng đồng.
-


Qua đề tài này, học viên sẽ tích lũy thêm được nhiều kiến thức cũng như

bài học kinh nghiệm có liên quan đến việc quản lý môi trường làng nghề, các giải
pháp công nghệ xử lý ô nhiễm chì trong đất, cũng như các phương pháp nghiên cứu
khoa học,…
6. Cấu trúc của luận văn
Nội dung chính của luận văn gồm 3 chương:
-

Chương 1: Tổng quan tài liệu

-

Chương 2: Đối tượng và phương pháp nghiên cứu

-

Chương 3: Kết quả và thảo luận


Chƣơng 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Tình hình ô nhiễm chì trên Thế giới và ở Việt Nam
1.1.1 .Tình hình ô nhiễm chì trên Thế giới
Viện Blacksmith – Hoa Kỳ, một tổ chức nghiên cứu môi trường quốc tế có trụ
sở tại New York (Mỹ), đã công bố danh sách 10 thành phố thuộc 8 nước được coi là
ô nhiễm nhất thế giới năm 2006, trong đó có thành phố Haina, ở Cộng hòa
Dominica (Châu Phi), nơi chuyên tái chế ắc quy chì. Năm 2000, Bộ trưởng Bộ Tài
nguyên và Môi trường Dominica đã xác định Haina là một điểm nóng quốc gia về ô
nhiễm chì với hàm lượng chì trong đất lớn hơn 1000 lần so với tiêu chuẩn cho phép
của Mỹ. Hơn 90% dân số của Haina có hàm lượng chì trong máu cao, nồng độ trung

bình của chì trong máu của cư dân ở đây là 60 µg/dL (tiêu chuẩn nồng độ chì cho
phép trong máu của Mỹ là 10 µg/dL). Ước tính có khoảng 300.000 người bị ảnh
hưởng trực tiếp từ khu vực bị ô nhiễm chì. Theo Liên Hợp Quốc, dân số của Haina
được coi là có mức nhiễm chì cao nhất trên thế giới [31].
Đồng thời, Viện Blacksmith và một Tổ chức phi chính phủ của Indonesia đã
tiến hành điều tra, xác định hàm lượng chì trong đất tại các khu vực của làng nghề
Cinangka, phía tây Java, Indonesia, là nơi chuyên tái chế và nấu luyện chì từ các
bình ắc quy chì axit. Kết quả cho thấy nhiều địa điểm có hàm lượng chì trong đất
lớn hơn 200.000 ppm, cao gấp 500 lần so với tiêu chuẩn cho phép của Mỹ [23].
Ở các khu vực luyện kim, vùng khai thác chì thì hàm lượng chì trong đất
khoảng 1500 µg/g, cao gấp 15 lần so với mức độ bình thường như khu vực xung
quanh nhà máy luyện kim ở Galena, Kansas (Mỹ), hàm lượng chì trong đất 7600
µg/g. Hàm lượng chì trong bùn, cống rãnh ở một số thành phố công nghiệp ở Anh
dao động từ 120 µg/g - 3000 µg/g (Berrow và Webber, 1993), trong khi tiêu chuẩn
cho phép tại đây là không quá 1000 µg/g [ 25].
Tại La Oroya - một thành phố khai thác mỏ của Peru gần như 100% trẻ em ở
đây có hàm lượng chì trong máu vượt mức cho phép của tất cả các loại tiêu chuẩn
trên thế giới. Còn ở Kabwe (Zambia) các mỏ khai thác và lò nấu chì đã ngừng hoạt
động từ lâu, nhưng nồng độ chì ở đây vẫn ở mức khủng khiếp. Tính trung bình thì


trẻ em ở Kabwe có nồng độ chì cao gấp 10 lần mức cho phép của Cơ quan bảo vệ
môi trường Mỹ và có thể gây tử vong. Khi các chuyên gia Mỹ lấy mẫu máu của trẻ
em tại Kabwe để phân tích, các thiết bị của họ trục trặc liên tục vì mọi chỉ số đều
vượt ngưỡng tối đa [4].
Tại Norilsk (Nga) các cơ sở khai thác và chế biến kim loại đã thải ra môi
trường một lượng lớn các kim loại nặng vượt giới hạn cho phép, khu vực này là nơi
có các tổ hợp luyện kim lớn nhất thế giới với hơn 4 triệu tấn Cd, Cu, Pb, Ni, As, Se
và Sn được khai thác mỗi năm [4].
Thiên Anh, Trung Quốc là một thành phố công nghiệp, Thiên Anh chiếm

khoảng hơn một nửa sản lượng chì của Trung Quốc. Thứ kim loại độc hại này ngấm
vào nước và đất trồng của Thiên Anh và ngấm vào máu trẻ em sinh ra tại đây. Đó
có thể là nguyên nhân dẫn tới việc các em nhỏ ở Thiên Anh có chỉ số IQ thấp. Qua
kiểm tra, lúa mỳ trồng ở Thiên Anh chứa hàm lượng chì cao gấp 24 lần chuẩn của
Trung Quốc [9].
Kabwe, Zambia khi các mỏ chì lớn được phát hiện gần Kabwe năm 1902,
Zambia là một thuộc địa của Anh, và có rất ít quan tâm tới ảnh hưởng của kim loại
độc hại với người dân nơi đây. Đáng buồn thay, tình trạng này tới nay hầu như
không được cải thiện. Và cho dù công việc khai thác, chế biến chì không còn hoạt
động nhưng mức ô nhiễm ở Kabwe là rất lớn. Tính trung bình, mức nhiễm chì ở trẻ
em cao hơn chuẩn cho phép của Cơ quan Bảo vệ môi trường Mỹ từ 5-10 lần, và có
thể thậm chí còn cao hơn mức gây tử vong. Song cũng có một tia hy vọng khi Ngân
hàng Thế giới gần đây đã thông báo một dự án làm sạch môi trường trị giá 40 triệu
USD cho thành phố [10].
Ở Châu Á là một trong những nơi có tình trạng ô nhiễm kim loại nặng cao trên
thế giới, trong đó đặc biệt là Trung Quốc với hơn 10% đất bị ô nhiễm chì, tại Thái
Lan theo Viện Quốc tế quản lý nước thì 154 ruộng lúa thuộc tỉnh Tak đã nhiễm chì
cao gấp 94 lần so với tiêu chuẩn cho phép. Tuy vậy, tại các nước phát triển vẫn phải
đối mặt với tình trạng ô nhiễm mà các ngành công nghiệp khác gây ra [10].


1.1.2. Tình hình ô nhiễm chì ở Việt Nam
Những năm 90 trở lại đây, quá trình công nghiệp hóa và cơ giới hóa nhanh
cùng với sự phát triển của các làng nghề, nền kinh tế của Việt Nam đã có bước nhảy
vọt đáng kể. Đi kèm với sự phát triển kinh tế đó là nguy cơ ô nhiễm môi trường, đặc
biệt tại các thành phố lớn và các làng nghề tái chế kim loại. Do đó, vấn đề nghiên
cứu về môi trường trở nên cấp thiết, đặc biệt là sự ô nhiễm kim loại nặng đang thu
hút sự quan tâm của các nhà quản lý, các nhà khoa học cũng như toàn cộng đồng
Ảnh hưởng của làng nghề tái chế kim loại đã làm tăng đáng kể hàm lượng chì
trong đất, thậm chí có nơi đã bị ô nhiễm. Theo nghiên cứu của Phạm Văn Khang và

cộng sự (2004), hàm lượng chì trong đất nông nghiệp tại khu vực tái chế chì ở thôn
Đông Mai, huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên như sau: 14,29% số mẫu nghiên cứu có
hàm lượng chì là 100 - 200 mg/kg; 9,25% số mẫu đất có hàm lượng chì từ 200 - 300
mg/kg; 18,5% số mẫu đất có hàm lượng Pb từ 300 - 400 mg/kg; 9,25% số mẫu có
hàm lượng Pb từ 400 - 500 mg/kg; 9,25% số mẫu có hàm lượng Pb từ 500 - 600
mg/kg; 18,05% số mẫu có hàm lượng Pb từ 600 - 700 mg/kg; 4,76% có hàm lượng
chì từ 900 - 1000 mg/kg và 4,76% số mẫu có hàm lượng Pb lớn hơn 1000 mg/kg
(trong tổng số 21 mẫu phân tích). Như vậy, 100% số mẫu phân tích có hàm lượng
Pb vượt quá tiêu chuẩn cho phép [10].
Cũng theo tác giả Lê Văn Khoa và cộng sự (2003), ô nhiễm môi trường đất tập
trung ở các làng nghề tái chế kim loại [11].
Nghiên cứu ở khu vực khai thác và chế biến kẽm - chì làng Hích - Tân Long Thái Nguyên, Đặng Thị An và cộng sự (2008) cho thấy: hàm lượng Pb trong bãi
thải cao nhất (5,3.103 - 9,2.103 ppm), tiếp đến là bãi liền kề (164 - 904 ppm), đất
vườn nhà dân (27,9 - 35,8 ppm), bãi thải cũ (1,1.103 - 13.103 ppm), đất ruộng lúa
cách bãi thải cũ (1271 - 3953 ppm), vườn nhà dân gần bãi thải cũ (230 - 360 ppm).
Như vậy, theo TCVN 7209:2002 (>70 ppm) thì hầu hết các điểm đã bị ô nhiễm Pb,
riêng khu vực vườn nhà dân gần bãi thải mới chưa bị ô nhiễm. Tuy nhiên cũng cần
có giải pháp xử lý kịp thời.


Cũng theo nghiên cứu của Đặng Thị An và cộng sự (2008) tại xã Chỉ Đạo thu
được kết quả về hàm lượng Pb tổng số trong đất ở các ruộng lúa là từ 964 ppm đến
7070 ppm, vượt xa hơn 100 lần so với TCVN 7209:2002 (70 ppm). Chỉ tính riêng
lượng Pb dễ tiêu trong đất thì cũng đã vượt TCVN (Pb dễ tiêu từ 103 đến 757 ppm).
Còn tại các ruộng rau muống thì hàm lượng Pb tổng số trong đất từ 700 ppm đến
3500 ppm. Do đất bị ô nhiễm Pb quá nặng nên hàm lượng Pb được cây hấp thụ
cũng rất cao. Theo tác giả thì Pb trong gạo từ 1,9 ppm đến 4,2 ppm, so với tiêu
chuẩn của Hội đồng Châu Âu (EC, 2001) đối với ngũ cốc là 0,2 ppm thì gạo thí
nghiệm đều vượt xa ngưỡng an toàn. Theo tính toán thì nếu ăn gạo thu được từ
những ruộng trên thì chỉ qua gạo thôi một người đã tiêu thụ lượng Pb cao hơn mức

an toàn 7 lần/ngày. Và nếu ăn rau muống hay dùng rau muống để nuôi lợn thì nguy
cơ bị ngộ độc Pb và các bệnh do Pb gây ra sẽ càng gia tăng [1].
Nghiên cứu của Hồ Thị Lam Trà (2005) cho thấy: hàm lượng Pb tổng số trong
đất phục vụ nông nghiệp chịu ảnh hưởng của các làng nghề đúc đồng và tái chế kẽm
tại xã Đại Đồng, huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên rất cao, dao động từ 51,2 - 313,0
mg/kg, trong đó có nhiều mẫu >200 mg/kg [20].
Theo tác giả Nguyễn Thị Lan Hương (2006) khi nghiên cứu về hàm lượng kim
loại nặng ở các khu công nghiệp ngoại thành Hà Nội với 15 mẫu đất nghiên cứu có
hàm lượng chì trong đất dao động từ 8,36 đến 93,39 mg/kg. Trong đó có 6 mẫu bị ô
nhiễm Pb với hàm lượng Pb trong đất là 75,39; 75,73; 78,03; 79,74; 88,02; 93,39,
đó là 3 mẫu đất lấy gần đường cao tốc Thăng Long - Nội Bài và đường cao tốc số 5;
2 mẫu lấy tại bãi rác Kiêu Kị - Gia Lâm và bãi rác Nam Sơn - Sóc Sơn; 1 mẫu lấy
tại Tiên Dương - Đông Anh nơi có nhà máy sản xuất pin và phân sinh học. Nguyên
nhân dẫn đến tích tụ Pb trong đất tại các điểm trên chính là do hoạt động giao thông,
do quá trình chôn lấp rác lâu dài và do trong chất thải có hàm lượng Pb lớn nên đã
dẫn đến tích đọng hàm lượng chì trong đất [8].
Kết quả nghiên cứu của Lê Đức và cộng sự (2003) về môi trường đất vùng
đồng bằng sông Hồng, ở khu vực nhà máy Pin Văn Điển hàm lượng Pb trong các
nguồn nước thải là 0,012 mg/lít, trong đất là 30,737 mg/kg so với đối chứng là


18,240 mg/kg ; khu vực Hanel, Pb trong nước thải là 0,560 mg/lít, trong đất là
23,070 mg/kg so với đối chứng là 13,650 mg/kg; khu vực nhà máy Phả Lại, Pb trong
nước thải là 0,013 mg/lít, trong đất là 2,320 mg/kg và đối chứng là 2 mg/kg. Đặc biệt
tại làng nghề thì hàm lượng chì trong nước thải và đất tăng cao và mức ô nhiễm
(TCVN, 2002): ở làng nghề Phùng Xá, Pb trong nước thải là 5,2 mg/lít, trong đất là
304,59 mg/kg còn đối chứng là 30,76 mg/kg; ở làng nghề xã Chỉ Đạo, Pb trong nước
là 3,278 mg/lít, trong đất là 273,63 mg/kg so với đối chứng là 35,11 mg/kg [6].
1.2. Ảnh hƣởng và tác hại của chì đến sức khỏe con ngƣời
1.2.1. Đường xâm nhập chì vào cơ thể

Chì xâm nhập vào cơ thể qua nhiều đường:
a. Đường hô hấp
Đây là con đường quan trọng nhất, các loại bụi chì ở dạng muối, oxit chì hoặc
hơi khói chì khi hít vào phổi được hấp thụ toàn bộ. Hấp thụ chì qua đường hô hấp
phụ thuộc vào kích thước của các hạt bụi chứa chì được hít và lượng hạt bụi đọng
lại trong phổi (chiếm khoảng 30-50% tổng số hạt bụi) và phụ thuộc vào dung tích
cũng như tốc độ thông khí của phổi. Sự tồn đọng các hạt bụi chứa chì ở trong đường
hô hấp của trẻ em cao hơn người lớn từ 1,6-2,7 lần. Trên 90% lượng chì chứa trong
hạt bụi đọng lại trong phổi được hấp thụ vào máu [17].
b. Đường tiêu hóa
Chì và các dẫn xuất chuyển thành clorua, một loại muối có khả năng hấp thụ
qua niêm mạc ruột để đi vào cơ thể. Nhiễm độc chì qua đường tiêu hóa còn do: theo
đường ăn hàng ngày, hút thuốc, ăn uống khi tay bẩn có dính chì, ăn uống ngay tại
nơi làm việc, bụi chì đọng vào thực phẩm, thiếu vệ sinh cá nhân [29].
Người lớn hấp thụ từ 10-15% lượng chì thâm nhập vào đường tiêu hóa, nhưng
trẻ em hấp thụ đến hơn 50%. Khả năng hấp thụ chì qua đường tiêu hóa phụ thuộc
vào yếu tố thức ăn và dạng hoá học của chì. Mức độ hấp thụ chì tăng lên đáng kể ở
những người có chế độ ăn thiếu canxi, sắt, phốt pho hoặc kẽm [17].
Khi thâm nhập vào đường tiêu hoá, khoảng 30% lượng chì có trong bụi, 17%
lượng chì có trong các mẩu sơn, 50% chì có trong thức ăn và nước uống được hấp thụ


vào cơ thể.
c. Đường da
Chì hữu cơ tan được trong mỡ nên có thể hấp thụ vào cơ thể khi tiếp xúc qua
da. Ngược lại, chì vô cơ hấp thụ qua da rất ít, chỉ hấp thụ qua da khi bụi chì dính
vào vùng da bị tổn thương [3].
1.2.2. Sự phân bố, tích lũy và đào thải chì
Chì được phân bố chủ yếu ở máu, mô mềm và xương. Phần lớn (99%) lượng
chì máu được kết hợp với hồng cầu, 50% lượng chì trong hồng cầu liên kết với

hemoglobin. Chu kỳ bán phân hủy sinh học của chì máu là 25 - 28 ngày, sau đó chì
máu sẽ cân bằng với các thành phần khác. Có một phần nhỏ chì trong huyết thanh,
lượng chì này cân bằng với lượng chì trong mô mềm. Lượng chì chứa trong thận tăng
lên cùng với tuổi. Một số lượng lớn chì được giữ lại trong xương, chiếm khoảng 95%
tổng lượng chì trong cơ thể người lớn, 73% tổng lượng chì trong cơ thể trẻ em [28].
Chì xuất hiện trong xương sẽ chiếm chỗ của canxi. Nó được tích luỹ ở đây
một cách tạm thời, bộ xương như là “con thuyền” bảo vệ các cơ quan khác khi sự
tích luỹ chì mãn tính diễn ra. Đồng thời nó là nguồn tái phục hồi và tiếp tục gây
nhiễm độc sau khi kết thúc phơi nhiễm với chì [17].
Mặc dù chì được đào thải ra ngoài bằng một số đường (bao gồm cả mồ hôi,
móng và tóc), nhưng chỉ có đường tiết niệu và tiêu hoá là có tầm quan trọng thực
sự. Khoảng 75% chì hấp thụ vào cơ thể được đào thải ra ngoài qua nước tiểu, 25%
đào thải qua phân. Nhìn chung chì được đào thải ra ngoài cơ thể một cách chậm
chạp, nên tích luỹ chì trong cơ thể con người diễn ra một cách dễ dàng [30].
1.2.3. Tác động của chì đến sức khỏe con người
Trong các chất ô nhiễm môi trường thì chì là một trong những kim loại nặng, có
độc tính cao và rất nguy hiểm đối với cơ thể con người. Chì và các hợp chất của nó là
loại độc chất đa tác dụng, tác động lên toàn bộ các cơ quan và hệ cơ quan, những tổn
thương đặc biệt nặng xuất hiện trong hệ thống tạo máu, hệ tim mạch và thần kinh và
hệ tiêu hoá. Bộ Y tế Nga xếp chì cùng với asen, thuỷ ngân, cadimi, kẽm, flo vào
nhóm độc chất gây ô nhiễm môi trường nguy hiểm loại 1 [3].


Hình 1: Tác động của chì đến sức khỏe con người
Khi bị nhiễm độc chì tùy thuộc vào liều lượng chì tiếp xúc, có thể gây nhiễm
độc cấp tính hoặc nhiễm độc mãn tính.
a. Nhiễm độc cấp tính:
Trẻ em có nồng độ chì trong máu vượt quá 80 µg/100ml, thường kèm đau
bụng, kích thích sau đó li bì ngủ lịm, chán ăn, nhợt nhạt (do thiếu máu) mất phối hợp
vận động, nói líu nhíu không rõ. Trẻ có thể lên cơn co giật mê man gọi hỏi không

biết gì và chết do não bị phù nề và suy thận trong những trường hợp rất nặng. Ở
người lớn, trưởng thành, triệu chứng nhiễm độc thường xuất hiện khi nồng độ chì


vượt quá 80 µg/100ml trong thời gian một tuần và biểu hiện như đau bụng, đau đầu,
cáu gắt kích thích, đau các khớp, mệt mỏi, thiếu máu, viêm dây thần kinh vận động
ngoại biên, trí nhớ kém và mất khả năng tập trung tư tưởng [3].


TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1. Đặng Thị An, Nguyễn Phương Hạnh, Nguyễn Đức Thịnh (2008), “Đất bị
ô nhiễm kim loại nặng ở một số khu vực ở Việt Nam”, Tạp chí Khoa học
đất, số 29, 2008.
2. Đặng Thị An, Trần Quang Tiến (2008), “Ô nhiễm Chì và Cadimi trong đất nông
nghiệp và một số nông sản ở Văn Lâm, Hưng Yên”, Tạp chí Khoa học đất,
số 29, 2008.
3. Nguyễn Duy Bảo (2012), “Phơi nhiễm kim loại nặng ở Việt Nam”, Viện Y học
lao động và Vệ sinh môi trường, Hà Nội.
4. Công ty TNHH Ngọc Thiên, Hưng Yên (2008), Báo cáo đánh giá tác động môi
trường dự án đầu tư “Xưởng tái chế ắc quy chì phế thải và tái chế nhựa,
kim loại màu”, Hưng Yên.
5. Lê Đức, Trần Khắc Hiệp, Nguyễn Ngọc Minh (2003), “Một số vấn đề về môi
trường đất vùng đồng bằng sông Hồng”, Tạp chí Khoa học đất, số 18,
2003.
6. Lê Đức, Trần Thiện Cường (2000), “Ảnh hưởng của nghề nấu tái chế chì thủ
công đến sức khỏe cộng đồng và môi trường tại thôn Đông Mai – xã Chỉ
Đạo – Mỹ Văn – Hưng Yên”, Tuyển tập công trình khoa học, NXB Đại
học Quốc gia Hà Nội, trang 89 – 95.
7. Nguyễn Thị Lan Hương (2006), “Hàm lượng kim loại nặng trong đất ở các khu

công nghiệp thuộc ngoại thành Hà Nội”, Tạp chí Khoa học đất, số 26,
2006.
8. Phan Quốc Hưng (2011), “Nghiên cứu xử lý đất nông nghiệp ô nhiễm chì (Pb),
đồng (Cu), kẽm (Zn) bằng biện pháp sinh học”, Luận án tiến sĩ Nông
nghiệp, Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội.
9. Phạm Văn Khang, Lê Tuấn An, Nguyễn Ngọc Minh, Nguyễn Mạnh Khải


(2004), “Một số nghiên cứu về ô nhiễm chì trên thế giới và Việt Nam”,
Tạp chí Khoa học đất, số 18, 2003.
10. Lê Văn Khoa, Trần Thiện Cường, Võ Văn Minh, Lê Thị Thùy Linh, Nguyễn
Quốc Việt (2003) , “Những vấn đề bức xúc về môi trường vùng nông thôn
đồng bằng sông Hồng”, Tạp chí Khoa học đất, số 18, 2003.
11. Phương Công Kỳ (2004), “Vấn đề tận dụng acquy chì phế thải dưới góc độ kinh
tế, kĩ thuật và bảo vệ môi trường”, Tạp chí công nghiệp hóa chất, số 12,
2004, trang 12.
12. Phạm Luận (2006), Phương pháp phân tích phổ nguyên tử, NXB Đại học Quốc
gia Hà Nội.
13. Hoàng Nhâm (2001), Hóa vô cơ, tập 3, NXB Giáo dục, Hà Nội.
14. Đặng Anh Ngọc (2008), “Nghiên cứu điều kiện vệ sinh môi trường trường học,
điều kiện học tập ở làng nghề và ảnh hưởng đến sức khỏe học sinh. Đề
xuất một số giải pháp cải thiện”, Báo cáo kết quả nghiên cứu đề tài cấp cơ
sở, Viện Y học lao động và Vệ sinh môi trường, Hà Nội.
15. Hồ Viết Quý (2007), Các phương pháp phân tích công cụ trong hóa học hiện
đại, NXB Đại học Sư phạm Hà Nội.
16. Trịnh Thị Thanh (2001), Độc học Môi trường và Sức khỏe con người, NXB Đại
học Quốc gia Hà Nội.
17. Tiêu chuẩn Việt Nam: TCVN7538-2:2005 – Chất lượng đất – Lấy mẫu Phần 2:
Hướng dẫn kỹ thuật lấy mẫu.
18. Tiêu chuẩn Việt Nam: TCVN 6647:2000 – Chất lượng đất – Xử lý sơ bộ để

phân tích lý – hóa.
19. Hồ Thị Lam Trà (2005), “Các dạng liên kết của Cu, Cd, Pb và Zn trong đất
nông nghiệp chịu ảnh hưởng của làng nghề đúc đồng và tái chế kẽm”, Tạp
chí Khoa học đất, số 21, 2005.
20. Trung tâm Môi trường và Phát triển cộng đồng (2014), Báo cáo tổng kết Dự án
“Khắc phục ô nhiễm chì tại làng nghề tái chế chì thôn Đông Mai, xã Chỉ
Đạo, huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên”.


21. Uỷ ban nhân dân xã Chỉ Đạo, huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên (2013), Báo cáo
tình hình phát triển kinh tế - xã hội năm 2013.
Tiếng Anh
22. Blacksmith Institute (2014), “Cinangka project completion report Lead
Encapsulation”, New York. />23. B. Kaul, R.S.Sandhu, C Depratt, D Reyes (1999), "Follow-up screening of leadpoisoned children near an auto battery recycling plant, Haina, Dominican
Republic", Environmental Health Perspective, 107 (11).
24. Berrow, J.L.and webber, J.L sci. Food agic.,23 (1972), 93-100.
25. EPA (1991), “Treatment of Lead-Contaminated Soils”, Office of Solid Waste
and Emergency Response, Washington, DC and Office of Research and
Development, Cincinnati, OH.
26. Handheld XRF revolutionizes environmental testing.

27. Instruction manual Innov-X systems alpha X-Ray fluorescence.

28. Kafourou,A; Touloumi,G; Makropoulos,V; Loutradi,A; Papanagiotou,A;
Hatzakis,A (1997) “Effects of lead on the somatic growth of children”,
Arch Environ Health 1997,52(5):377-83; (PMID: 9546761).
29. Jack.Efergusson(1991),“Theheavyelementschemistryenvironmentimpactandhealt
heffects”, Pergamonpress.
30. J. Caravanos, R. Fuller (2006),"Polluted Places-Initial Site Assessment"
BlacksmithInstitute. />31. SchwartzJ et al(1988) “Threshold effect in lead-induced peripheral

neuropathy”. Journal of pediatrics, (112) 12-17.
32. WHO (2005), Children’s health and the environment, 31-32, 142.



×