Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

Chiến lược rào đón và nghĩa liên nhân của hành động rào đón trong giao tiếp của người Nghệ Tĩnh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (149.43 KB, 27 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

NGUYỄN THỊ KHÁNH CHI

CHIẾN LƯỢC RÀO ĐÓN
VÀ NGHĨA LIÊN NHÂN CỦA HÀNH ĐỘNG RÀO ĐÓN
TRONG GIAO TIẾP CỦA NGƯỜI NGHỆ TĨNH

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN

NGHỆ AN - 2017


2
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Trong giao tiếp hằng ngày, nhiều lúc ta nhận thấy những điều không có
trong nội dung trao đổi cụ thể, nghĩa là không cần đến sự hồi đáp của người nghe,
nhưng lại có vai trò rất quan trọng. Nó định hướng cho người nghe hiểu đúng lời
người nói, ngăn ngừa những hiểu lầm hoặc những phản ứng không hay có thể xẩy ra,
đảm bảo duy trì được mối quan hệ liên nhân giữa các vai giao tiếp, nhờ đó, việc trao
đổi thông tin cũng diễn ra thuận lợi hơn. Phần ấy trong phát ngôn được gọi là lời rào
đón (hedges).
Người Việt Nam nói chung, người Nghệ Tĩnh nói riêng, trong giao tiếp nghi
thức và phi nghi thức, thường nói những lời rào đón trước khi đưa ra nội dung thông
báo chính. Sự xuất hiện của các câu đưa đẩy, các hành động rào đón khiến cho lời nói
có vẻ vòng vo, nhưng bù lại, nhờ chúng mà hoạt động giao tiếp trở nên dễ dàng hơn.
Tuy lời rào đón có vai trò quan trọng như vậy, nhưng các nhà Việt ngữ học vẫn chưa
dành cho nó sự quan tâm đúng mức. Đặc biệt, những công trình nghiên cứu chuyên
sâu về lời rào đón trong một phương ngữ cụ thể hiện vẫn còn vắng bóng.


1.2. Trong giao tiếp, giữa hành động rào đón và hành động chủ hướng luôn có
mối quan hệ chặt chẽ. Những lời rào đón không hẳn chỉ là dấu hiệu cho thấy người
nói vi phạm các nguyên tắc cộng tác hội thoại như ý kiến của một số nhà ngôn ngữ
mà trong phần lớn các tình huống, sự xuất hiện lời rào đón bao giờ cũng phụ thuộc
vào nhu cầu của hành động chủ hướng, cụ thể là phụ thuộc vào mức độ đe dọa thể
diện mà các hành động chủ hướng đó biểu hiện. Do đó, rào đón trở thành một trong
những công cụ hữu ích cho việc duy trì và củng cố quan hệ liên nhân trong giao tiếp,
đặc biệt là giao tiếp đối mặt. Vì vậy, việc đi sâu nghiên cứu quan hệ giữa hành động
rào đón và hành động chủ hướng là rất cần thiết.
1.3. Trong các biểu thức rào đón, nghĩa liên nhân (interpersonal meaning) một dạng biểu hiện của nghĩa, liên quan đến các tình huống xã hội (giữa người với
người), thể hiện nhân cách, vai xã hội của người nói, thái độ của người nói đối với
người tham gia hội thoại hoặc nội dung của các phát ngôn được thể hiện rất rõ.
Nghiên cứu lời rào đón, không thể bỏ qua những khía cạnh chính yếu này.
1.4. Rào đón không phải là “đặc sản” của bất cứ phương ngữ nào ở nước ta.
Trong hoạt động giao tiếp, hành động ngôn ngữ này bị chi phối bởi nhiều yếu tố,
trong đó có yếu tố văn hóa. Ở chiều ngược lại, qua cách nói rào đón, ta cũng có thể
phát hiện một số khía cạnh trong văn hóa ứng xử của con người một vùng đất. Theo


3
thông lệ chung ấy, lời rào đón trong tiếng Nghệ Tĩnh cũng chứa đựng những thông tin
đáng tin cậy về đặc điểm văn hóa của người Nghệ.
Từ những lý do trên, chúng tôi chọn đề tài: Chiến lược rào đón và nghĩa liên
nhân của hành động rào đón trong giao tiếp của người Nghệ Tĩnh để nghiên cứu.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Đề tài hướng đến mục đích: Hiểu sâu về chiến lược rào đón và ý nghĩa liên
nhân biểu hiện qua hành động rào đón trong giao tiếp của người Nghệ Tĩnh, từ đó
nhìn nhận một số nét riêng về văn hóa – ngôn ngữ của người Nghệ Tĩnh.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

- Giới thuyết một số vấn đề lý thuyết ngôn ngữ học thuộc phạm vi nghiên cứu
của đề tài.
- Thống kê, phân loại tư liệu điều tra điền dã, ghi âm các cặp thoại của vai giao
tiếp có sử dụng hành động rào đón trong giao tiếp của người Nghệ Tĩnh.
- Nhận diện hành động rào đón trong giao tiếp của người Nghệ Tĩnh.
- Xác định, phân tích các tiểu nhóm thể hiện cách thức rào đón trong giao tiếp
của người Nghệ Tĩnh.
- Phân tích, làm rõ nghĩa liên nhân của hành động rào đón trong giao tiếp của
người Nghệ Tĩnh.
- Nhận diện một vài đặc điểm văn hóa của người Nghệ Tĩnh thể hiện qua hành
động rào đón.
3. Đối tượng nghiên cứu và nguồn ngữ liệu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là hành động rào đón trong giao tiếp của
người Nghệ Tĩnh. Đối tượng này được quan sát từ góc nhìn đồng đại, nghĩa là hoạt
động ngôn ngữ đang diễn ra trong đời sống hiện nay. Trên tư liệu hơn 2000 phiếu
điều tra điền dã, ghi âm, chúng tôi đã tách các tham thoại có xuất hiện hành động rào
đón để phân tích, mô tả. Các phát ngôn đó đều do các cá nhân nam/nữ thuộc nhiều
đối tượng, nhưng chủ yếu tập trung ở các nhóm đối tượng điển hình: cha mẹ/ông bà
trong tương tác với con cháu; giáo viên với học sinh; bác sĩ với bệnh nhân; người bán
với người mua và bạn bè, đồng nghiệp với nhau. Về độ tuổi của đối tượng khảo sát,
chúng tôi cũng có giới hạn trong phạm vi từ 17, 18 tuổi trở lên.
3.2. Nguồn ngữ liệu
Nguồn ngữ liệu được sử dụng trong luận án là ngôn ngữ giao tiếp hàng ngày
của nghiệm viên thuộc hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh. Tuy nhiên, chúng tôi chỉ tiến


4
hành khảo sát tư liệu ở ba vùng: thành phố, nông thôn và miền biển. Cụ thể, ở Nghệ
An, chúng tôi khảo sát gồm 13 huyện: Hưng Nguyên, Nam Đàn, Thanh Chương, Đô

Lương, Yên Thành, Tân Kì, Quỳ Hợp, Nghĩa Đàn, Nghi Lộc, Cửa Lò, Diễn Châu,
Quỳnh Lưu và thành phố Vinh; ở Hà Tĩnh gồm 7 huyện Nghi Xuân, Đức Thọ, Can
Lộc, Hương Sơn, Hương Khê, Thạch Hà, Cẩm Xuyên và thành phố Hà Tĩnh, thị xã
Hồng Lĩnh.
4. Phương pháp, thủ pháp nghiên cứu
Thực hiện đề tài này, chúng tôi chủ yếu sử dụng các phương pháp và thủ pháp
sau: Phương pháp điều tra, điền dã; Phương pháp phân tích diễn ngôn; Phương pháp
phân tích ngôn cảnh; Thủ pháp thống kê, phân loại; Thủ pháp so sánh; Thủ pháp hệ
thống hóa, mô hình hóa thành các biểu đồ.
5. Đóng góp của luận án
Đây là đề tài đầu tiên tiến hành nghiên cứu về hành động rào đón trong giao
tiếp của người dân ở một địa phương cụ thể - Nghệ Tĩnh. Do đó, những kết quả của
luận án sẽ phần nào phản ánh những đặc trưng chiến lược rào đón, nghĩa liên nhân
của hành động rào đón trong giao tiếp và văn hóa ứng xử của người Nghệ Tĩnh, cách
người Nghệ Tĩnh nhìn nhận vấn đề và xác lập quan hệ với người đối thoại.
6. Cấu trúc của luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, luận án gồm
4 chương:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu và cơ sở lí thuyết của đề tài
Chương 2: Nhận diện hành động rào đón trong giao tiếp của người Nghệ Tĩnh
Chương 3: Chiến lược rào đón trong giao tiếp của người Nghệ Tĩnh
Chương 4: Nghĩa liên nhân của hành động rào đón trong giao tiếp của người
Nghệ Tĩnh


5
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
VÀ CƠ SỞ LÝ THUYẾT CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu

1.1.1. Nghiên cứu của các tác giả nước ngoài
Cho đến nay, việc nghiên cứu về rào đón được đề cập qua nhiều bài báo, công
trình khác nhau nhưng có thể quy về hai hướng chính sau đây: a) Hướng nghiên cứu
hành động rào đón trong mối tương quan với các nguyên tắc hội thoại, cụ thể là
nguyên tắc cộng tác và nguyên tắc lịch sự. Hướng này gồm các tác giả tiêu biểu như
G. Lakoff, G. Yule, Peter Grundy, Brown & Levinson, Green...; và b) Hướng tiếp cận
rào đón với tư cách là công cụ hiện thực hóa chiến lược giao tiếp. Đại diện cho hướng
nghiên cứu này là M.Collins (1987).
1.1.2. Nghiên cứu của các tác giả trong nước
Dưới ánh sáng của lý thuyết ngữ dụng học, hiện tượng rào đón cũng đã và
đang được các nhà nghiên cứu như Đỗ Hữu Châu, Nguyễn Thiện Giáp, Diệp Quang
Ban, Vũ Thị Nga, Phạm Thị Thanh Thùy, Trần Thị Phương Thu... tiếp cận theo những
cách nhìn khác nhau.
Từ khi trở thành đối tượng nghiên cứu của ngôn ngữ học đến nay, rào đón đã
được định danh bằng những tên gọi khác nhau như: lời rào đón, thành phần rào đón,
yếu tố rào đón, hành vi rào đón... Mỗi tên gọi phản ánh một quan niệm khác nhau về
vai trò và vị trí của rào đón: 1/ Là chức năng của một nhóm ngôn từ; 2/ Là một bộ
phận của hành động ngôn ngữ; 3/ Là một hành động ngôn ngữ. Chúng tôi sử dụng
cách gọi tên giống quan điểm thứ ba – hành động ngôn ngữ rào đón (gọi tắt là hành
động rào đón).
Qua việc điểm lại lịch sử nghiên cứu về rào đón, chúng tôi thấy việc nghiên
cứu hành động rào đón ở trong và ngoài nước mới dừng lại ở phương diện lí thuyết.
Còn việc nghiên cứu về rào đón trong giao tiếp bằng lời giữa các nhân vật ở một địa
phương nhất định thì chưa có đề tài nào.
1.2. Cơ sở lý thuyết
1.2.1. Lý thuyết hội thoại
1.2.1.1. Khái niệm hội thoại
Dù hiểu theo nghĩa thông thường hay nghĩa thuật ngữ, hội thoại cũng là khái
niệm để chỉ một hình thức giao tiếp của con người nói chung, đồng thời cũng là hoạt
động giao tiếp căn bản, thường xuyên, phổ biến của sự hành chức ngôn ngữ.



6
1.2.1.2. Cấu trúc hội thoại
a. Cuộc thoại (cuộc tương tác - conversation, interaction): Là đơn vị hội thoại
bao trùm, lớn nhất, tính từ khi các nhân vật bắt đầu hội thoại cho đến khi kết thúc.
b. Đoạn thoại (sequence): Là một mảng diễn ngôn do một số cặp trao đáp liên
kết chặt chẽ với nhau về ngữ nghĩa hoặc về ngữ dụng, có tính hoàn chỉnh bộ phận để
có thể cùng với các đoạn thoại khác làm thành cuộc thoại.
c. Cặp thoại (cặp trao đáp - exchange): Là đơn vị lưỡng thoại nhỏ nhất.
d. Tham thoại (participants): Là phần đóng góp của từng nhân vật hội thoại
vào một cặp thoại nhất định.
e. Hành động ngôn từ (còn gọi là hành vi ngôn ngữ - speech act): Là đơn vị
tối thiểu tạo nên tham thoại. Một tham thoại có thể chỉ có một hành động nhưng cũng
có thể lớn hơn một hành động. Các ứng xử bằng lời (và bằng các yếu tố kèm ngôn
ngữ) đều căn cứ vào các hành động ngôn từ đi trước.
1.2.1.3. Tương tác hội thoại
Tương tác hội thoại được hiểu là các nhân vật giao tiếp ảnh hưởng lẫn nhau,
tác động qua lại với nhau làm biến đổi lẫn nhau.
1.2.1.4. Quy tắc hội thoại
a. Quy tắc điều hành nội dung của hội thoại: Quy tắc cộng tác (cooperative
principle)
Quy tắc cộng tác gắn với bốn phương châm hội thoại của Grice được xem như
một căn cứ để định giá mức độ cộng tác của nhân vật tham gia giao tiếp, đánh giá độ
liên kết trong cuộc thoại hoặc căn cứ để kết luận cuộc thoại đó thành công hay thất
bại, chuẩn mực hay không chuẩn mực.
b. Quy tắc chi phối quan hệ liên cá nhân: Phép lịch sự (politeness, politesse)
Phép lịch sự chính là tổng thể những cách thức mà người tham gia hội thoại
dùng để giữ thể diện cho nhau. Đó là một sự đòi hỏi những người trong cuộc thoại
phải tránh xa những hành động gây tổn hại đến thể diện người đối thoại với mình

cũng như cố gắng giữ thể diện cho mình.
1.2.2. Lý thuyết hành động ngôn từ
1.2.2.1. Khái quát chung về hành động ngôn từ
Lý thuyết hành động ngôn ngữ đã được các nhà nghiên cứu nước ngoài cũng
như trong nước quan tâm nghiên cứu từ lâu và hành động ngôn từ là một thuật ngữ
nằm trong hệ thống lý thuyết này, trong cái ý cho rằng: nói cũng là một thứ hành
động (chứ không chỉ riêng sự vận động vật chất mới là hành động). Ta có thể dùng
thuật ngữ hành động ngôn từ (hành động nói, hành động ngôn ngữ) để chỉ những
hành động bộ phận bằng ngôn ngữ của con người.


7
1.2.2.2. Điều kiện thực hiện hành động ở lời
Hành động ở lời cũng như mọi hành động vật lí, sinh lý khác, không phải được
thực hiện một các tùy tiện mà cần phải có điều kiện nhất định, đó là điều kiện phải
đáp ứng để hành động ở lời này có thể diễn ra thích hợp với ngữ cảnh của sự phát
ngôn ra nó.
1.2.2.3. Phân loại các hành động ngôn ngữ
Có nhiều cách phân loại các hành động ngôn ngữ khác nhau thể hiện ở các tác
giả: J. L. Austin, J.R. Searle, A. Wierzbicka, K. Allan, D. Wunderlich, F. Recanati, K.
Bach, M. Harnish... Trong đó, cách phân loại của J.L. Austin và J.R. Searle được biết
đến rộng rãi hơn cả.
1.2.2.4. Hành động ở lời trực tiếp và hành động ở lời gián tiếp
a. Hành động ở lời trực tiếp: Là những hành động được thực hiện đúng với
đích ở lời, đúng với điều kiện sử dụng chúng.
b. Hành động ở lời gián tiếp: Là hành động mà người giao tiếp sử dụng trên bề
mặt hành động ở lời này nhưng lại nhằm hiệu quả của một hành động ở lời khác.
Trong thực tế giao tiếp, một phát ngôn thường không phải chỉ có một đích ở lời mà
đại bộ phận các phát ngôn được xem như là thực hiện đồng thời một số hành động.
1.2.2.5. Biểu thức ngữ vi

a. Khái niệm
Phát ngôn ngữ vi là phát ngôn gây hiệu lực ở lời nhất định. Phát ngôn ngữ vi
mang một hiệu lực ở lời nào thì chúng có cấu trúc hình thức ấy, hay còn gọi là cấu
trúc đặc trưng. Chúng ta gọi một kiểu cấu trúc đặc trưng ứng với một phát ngôn ngữ
vi là biểu thức ngữ vi.
b. Biểu thức ngữ vi tường minh và Biểu thức ngữ vi nguyên cấp
Một hành động nói được thực hiện bằng động từ ngữ vi được gọi là biểu thức
ngữ vi tường minh (còn gọi là ngôn hành tường minh). Những biểu thức tuy vẫn có
hiệu lực ở lời nhưng không có động từ ngữ vi xuất hiện được gọi là biểu thức ngữ vi
nguyên cấp.
1.2.3. Hành động rào đón trong hội thoại
Hành động rào đón được người nói Sp1 sử dụng là do trước khi thực hiện một
hành động ngôn từ nào đó, người nói dự đoán rằng người nghe có thể sẽ có những
hiểu lầm (hiểu lầm về thái độ, tình cảm, mục đích, ý đồ của người nói; hiểu lầm về
nội dung vấn đề được nói ra, hiểu lầm về bản chất hành động ngôn từ mà người nói
thực hiện...) hoặc phản ứng không hay (chẳng hạn không hồi đáp hoặc hồi đáp không
đúng như mong đợi của người nói; có những thái độ hành vi đe dọa đến thể diện của


8
hai bên,...). Thực hiện hành động rào đón chính là người nói đang cố gắng ngăn ngừa
những nguy cơ hiểu lầm hay phản ứng không hay đó.
1.3. Một số đặc trưng của tiểu vùng phương ngữ Nghệ Tĩnh
1.3.1. Về ngữ âm
Về mặt ngữ âm, phương ngữ Nghệ Tĩnh có nhiều nét lạ như trầm, âm vực thấp,
đằm và phần đoạn tính có nhiều biến đổi, đối ứng cực kì phức tạp.
1.3.2. Về hệ thống từ vựng
Từ vựng trong phương ngữ Nghệ Tĩnh chứa đựng nhiều nét độc đáo xét cả về
hình thức cấu tạo và nội dung ngữ nghĩa.
1.3.3. Về cách nói năng

Các công trình nghiên cứu của các tác giả đi trước đã chỉ ra rất nhiều những nét
khác biệt trong cách biểu đạt của người Nghệ Tĩnh so với tiếng Việt toàn dân.
1.4. Tiểu kết chương 1
Trên đây là những tổng quan tình hình nghiên cứu và những vấn đề lí thuyết
liên quan trực tiếp đến đề tài của luận án. Chúng tôi vận dụng các cơ sở lí thuyết này
trong việc khảo sát, thống kê, phân tích và lí giải các chiến lược rào đón và nghĩa liên
nhân của hành động rào đón trong giao tiếp của người Nghệ Tĩnh.


9
Chương 2
NHẬN DIỆN HÀNH ĐỘNG RÀO ĐÓN TRONG GIAO TIẾP
CỦA NGƯỜI NGHỆ TĨNH
2.1. Những tiêu chí nhận diện hành động rào đón trong giao tiếp của người
Nghệ Tĩnh
2.1.1. Vị trí xuất hiện hành động rào đón trong tham thoại
Mặc dù các hành động rào đón có thể xuất hiện ở nhiều vị trí khác nhau trong
tham thoại, song vị trí ưa dùng nhất của nó vẫn là đứng trước hành động chủ hướng.
Theo thống kê, tham thoại chứa hành động rào đón ở vị trí này chiếm tỉ lệ cao nhất
(86,83%). Vị trí này phản ánh đích ngữ dụng của hành vi ngôn ngữ đang thực hiện, phản
ánh mong muốn thể hiện sự tôn trọng các nguyên tắc hội thoại (bao gồm cả nguyên tắc
cộng tác và nguyên tắc lịch sự) của người nói trước khi đưa ra thông điệp chính thức.
Trong hội thoại hàng ngày của người Nghệ Tĩnh, sự chia tách dòng thời gian
của hành động rào đón và hành động chủ hướng được đánh dấu bằng: Điểm ngừng
tạm thời của người nói trong một lượt lời (tương ứng với các dấu ngắt câu trong văn
bản); Các tiểu từ tình thái cuối câu: chơ (chứ), a chơ, nha (nhé), nì (này), mô nả, mô
nha, nả, hây...; Ngữ điệu nhấn mạnh và lên giọng của người nói, đặc biệt đối với
HĐRĐ thể hiện sự cam kết.
2.1.2. Ngữ cảnh
Để nhận diện hành động rào đón trong giao tiếp của người Nghệ Tĩnh cần phải

dựa vào ngữ cảnh, tức là vào bối cảnh không gian, thời gian diễn ra câu nói ấy và
cùng với những yếu tố ngôn ngữ xuất hiện trước và sau nó cũng như mối quan hệ liên
cá nhân giữa các nhân vật hội thoại để hiểu đúng thông tin được truyền tải.
2.1.3. Hành động chủ hướng
Hành động chủ hướng là hành động giúp nhận diện đích ở lời thông qua nội
dung mệnh đề đang được nói đến, tức là những hành động thỏa mãn các phương
châm về lượng, về chất, về quan hệ, cách thức dựa theo nguyên tắc cộng tác của
Grice. Hành động chủ hướng có chức năng trụ cột, quyết định hướng của tham thoại
và quyết định hành động hồi đáp thích hợp của người đối thoại. Nhận diện hành động
chủ hướng cũng là một trong những căn cứ quan trọng để nhận diện các hành động
khác trong cùng một tham thoại, trong đó có rào đón.
2.1.4. Biểu thức chứa hành động rào đón
2.2.4.1. Điều kiện xem xét biểu thức rào đón
a) Người nói
Người nói Sp1 tức là người thực hiện hành động rào đón, sự có mặt của nó


10
là tất yếu. Sự có mặt đó được thể hiện hai hình thức: a) Ở từ xưng hô ngôi thứ nhất
và b) Ở tình cảm, thái độ, sự hiểu biết, quan điểm của Sp1 trong nội dung của lời
rào đón.
b) Người nghe
Trong một cuộc trao đáp, nhân tố người nghe thường tồn tại bên cạnh người
nói với tư cách là người tiếp nhận thông tin và phản hồi thông tin. Với hành động rào
đón cũng vậy, người nói bao giờ cũng hướng đến người nghe để rào đón cho lượt lời
của mình.
c) Nội dung mệnh đề
Nội dung mệnh đề rào đón là bất cứ mệnh đề nào, nhưng tựu trung lại có thể
chia thành ba tiểu nhóm: 1/ Những chỉ dẫn về phạm vi, cách lĩnh hội phát ngôn; 2/
Những nội dung mang tính bù đắp nhằm giảm bớt nguy cơ đe dọa thể diện; 3/ Những

mong muốn, đề nghị người nghe không được có những hiểu lầm, phản ứng không
hay đối với những điều sắp được nói ra,...
2.2.4.2. Kết cấu nhận diện hành động rào đón
a) Kết cấu Nói X
Người Nghệ Tĩnh thường rào đón bằng kết cấu Nói X (trong đó X là yếu tố chỉ
đặc điểm của cách nói, kiểu nói, mục đích, ý định nói mà người nói sử dụng để tạo ra
phát ngôn chính trong lượt lời đó). Kết cấu này trong giao tiếp của người Nghệ Tĩnh
còn có nhiều biến thể khác. Kết cấu Nói X và các biến thể của nó chiếm 950/2050
tham thoại khảo sát. Kết cấu Nói X được sử dụng trong ngôn ngữ toàn dân, tuy nhiên,
trong giao tiếp của người Nghệ Tĩnh, kết cấu này vẫn mang những nét rất đặc trưng,
biểu hiện: 1/ Trong ngôn ngữ toàn dân, nói X thường có các kiểu: nói thật, nói thật
nhé, nói đùa, nói nghiêm túc nhé, nói có trời đất, nói chém mồm chém miệng... Cũng
với kết cấu Nói X, nhưng người Nghệ Tĩnh đã sử dụng một số từ ngữ địa phương đặc
thù, để tạo ra màu sắc riêng biệt, không hề lẫn vào cách nói của bất cứ một phương
ngữ nào khác; 2/ Một số biến thể của kết cấu Nói X phản ánh những kiểu diễn đạt chỉ
có trong phương ngữ Nghệ Tĩnh. Chẳng hạn như cách nói lặp từ vựng để gây chú ý
cho người đối thoại: Nói thì nói đùa, nói thì nói hay; nói thì nói hậu; Nói thì đâm
ra/thành ra nói hậu/nói lồi... Hoặc cách nói phiếm chỉ rất đặc trưng: Nói như ai nói,
nói như ngài mô nói chơ...
b) Kết cấu A nói... (nhưng) B đừng x
Trong đó A là người đưa ra phát ngôn (người nói), ở ngôi thứ nhất, số ít, B là
người nghe (người tiếp nhận), ở ngôi thứ hai số ít. Động từ: nói, có thể được thay thế
bằng các động từ khác thuộc cùng trường nghĩa như: hỏi, nghĩ, đoán, kể, bảo, nhắc


11
lại, nhận xét, mách... Phụ từ tình thái đừng đứng trước vị từ do B làm chủ, có thể được
thay thế bằng không được. x là nội dung rào đón. Nội dung rào đón là điều mà người
nói hình dung trước về những hiểu nhầm hay phản ứng không hay của người nghe đối
với những điều người nói sắp trình bày, và sự xuất hiện của phụ từ tình thái đừng

(không được) chính là để ngăn ngừa những hiểu lầm hay phản ứng không hay đó.
Ngoài ra còn có những kiểu kết cấu khác như: Kết cấu bắt đầu bằng Đây là...
và kết thúc bằng các tiểu từ tình thái khẳng định: nha, thôi nha, thôi hây, tê nả...
thường để giải thích về nguồn gốc nội dung thông tin trong mệnh đề chủ hướng. Các
kết cấu A coi B như... nên A mới nói, A không định nói vì sợ B buồn/lo lắng chơ mà
(nhưng, nhưng mà); A không có ý định làm B buồn/lo lắng mô chơ mà (nhưng mà), A
có việc...muốn nói/bàn/hỏi ý kiến B, Có chuyện ni A không thể không nói, A nói
không phải là vì...mà vì..., A muốn tốt cho B A mới nói,... thường dùng để giải thích lý
do nói năng. Kết cấu A nói đây không phải khoe chơ, A nói không phải phân biệt, A
nói không phải đùa, A nói không phải duy tâm, A nói không phải dọa, A nói không
phải mê tín,... thường để giải thích ý đồ người nói.
c) Các từ ngữ chuyên dụng
Những từ ngữ này dùng để tổ chức các kết cấu và là các dấu hiệu nhờ chúng,
chúng ta biết được hành vi nào đang được thực hiện. Các từ ngữ chuyên dụng trong
biểu thức chứa hành động rào đón của người Nghệ Tĩnh gồm: Từ, cụm từ miêu tả về
đặc điểm, tính chất của hoạt động nói năng đi kèm với các động từ nói, hỏi, nghĩ,
kể... như: đùa, phét, láp, điêu, ngoa, thách, hộn (hỗn), dại, trạng, tóm lại, ngắn gọn,
khoe, nạnh (nịnh), sách (thách),...; Các động từ nói năng: xin lỗi, nói, hỏi, nghĩ, đoán,
báo, kể, nhắc lại, cho rằng, nghe nói...; Các động từ tình thái: mong, muốn, định, hi
vọng,..; Tiểu từ tình thái kết thúc hành động rào đón: chơ, đo, hây, nả, nì, nha, mô
nha, mô nả, mô hây,...
2.1.5. Đích tác động
Đích tác động của hành động rào đón trong hội thoại là:
+ Tác động vào tâm lý, tình cảm của người nghe để từ đó tạo bầu không khí
giao tiếp thuận lợi hoặc nhiều khi chỉ đơn giản là để nói ra được vấn đề chính một
cách hợp lí, dễ dàng.
+ Tác động đến nhận thức của người nghe bằng cách đưa ra những chỉ dẫn cần
thiết, giúp người nghe hiểu đúng nội dung phát ngôn và ý đồ giao tiếp.
+ Tác động đến hành động của người nghe bằng cách ngăn ngừa những hiểu
lầm, những phản ứng không hay của người nghe đối với những điều sắp được nói nói

ra hoặc mới nói ra.


12
Đích tác động là một trong những tiêu chí quan trọng giúp nhận diện hành
động rào đón trong số hàng trăm, hàng ngàn hành động ngôn từ khác, đồng thời đó
cũng là cơ sở cho việc nghiên cứu các chiến lược rào đón trong giao tiếp của người
Nghệ Tĩnh.
2.2. Vai trò của hành động rào đón trong giao tiếp của người Nghệ Tĩnh
2.2.1. Tạo ngôn cảnh thuận lợi để đạt đích giao tiếp
Sự xuất hiện của các câu đưa đẩy, các hành động rào đón khiến cho lời người
nói trở nên vòng vo, nhưng bù lại cả người nói và người nghe đều cảm thấy nhờ
chúng mà hoạt động giao tiếp trở nên dễ dàng hơn.
2.2.2. Tham gia cấu tạo lập luận
2.2.2.1. Hành động rào đón là luận cứ cho hành động chủ hướng
Nếu một tham thoại chứa hành động rào đón có cấu tạo của lập luận thì hành
động rào đón đứng trước, thuộc bộ phận luận cứ và hành động chủ hướng chính là
kết luận.
2.2.2.2. Hành động rào đón cùng với hành động chủ hướng làm thành luận cứ
Ngoài đóng vai trò luận cứ cho kết luận nằm ở hành động chủ hướng thì trong
trường hợp này, cả hành động rào đón và hành động chủ hướng đều đóng vai trò là
luận cứ cho kết luận ngầm ẩn.
2.3. Ngữ nghĩa của hành động rào đón trong giao tiếp của người Nghệ Tĩnh
2.3.1. Khái niệm nghĩa trong ngôn ngữ
Nghĩa là mặt thứ hai quan trọng của lời nói. Bằng lời nói, người nói bao giờ
cũng muốn chuyển tải đến người nghe một điều gì đó và ngược lại, người nghe luôn
muốn nắm bắt chính xác điều mà người nói muốn truyền đạt trong lời.
2.3.2. Các nhóm ngữ nghĩa của hành động rào đón trong giao tiếp của
người Nghệ Tĩnh
2.3.2.1. Rào đón thể hiện nhận thức của người nói về hành động chủ hướng

Nhận thức ở đây bao gồm toàn bộ sự hiểu biết cũng như ý thức của người nói
về hành động nói năng của mình hướng tới người nghe. Cụ thể là những hiểu biết về
các quy tắc hội thoại, hiểu biết về tính chất của những điều mình sắp nói ra, cũng tức
là người nói hoàn toàn ý thức được mình đang nói gì, mức độ chân thật của nó là bao
nhiêu, tính chất tốt xấu của nó thế nào. Đó cũng có thể là sự hiểu biết về hoàn cảnh,
trạng thái tâm sinh lý của người nghe lúc diễn ra cuộc giao tiếp. Đó cũng có thể là sự
hiểu biết về những phản ứng tâm lý có thể xảy ra ở người nghe sau khi tiếp nhận nội
dung thông báo. Thuộc nhóm nội dung ngữ nghĩa này có thể chia ra hai tiểu nhóm: a)
Rào đón thể hiện nhận thức của người nói về tính chân ngụy đối với sự tình được


13
phản ánh và b) Rào đón bộc lộ nhận thức của người nói về hành động chủ hướng có
nguy cơ đe dọa thể diện người nghe.
2.3.2.2. Rào đón thể hiện tình cảm, thái độ của người nói khi thực hiện các
hành động chủ hướng
Nhóm ngữ nghĩa này chiếm một phần không nhỏ trong giao tiếp hàng ngày của
người Nghệ Tĩnh. Có thể chia thành hai tiểu nhóm: a) Rào đón thể hiện tình cảm, thái
độ của người nói đối với người nghe và b) Rào đón tự bộc lộ trạng thái tâm lí của
người nói.
2.4. Tiểu kết chương 2
Ở chương 2, chúng tôi đã trình bày về tiêu chí giúp nhận diện hành động rào
đón, về vai trò của hành động rào đón cũng như miêu tả các nhóm ngữ nghĩa của
hành động rào đón trong giao tiếp của người Nghệ Tĩnh.


14
Chương 3
CHIẾN LƯỢC RÀO ĐÓN TRONG GIAO TIẾP
CỦA NGƯỜI NGHỆ TĨNH

3.1. Những nhân tố chi phối chiến lược rào đón
3.1.1. Khái niệm chiến lược rào đón
Chiến lược rào đón là phương châm và cách thức mà các nhân vật giao tiếp
vận dụng để thực hiện hành động rào đón sao cho đạt hiệu quả giao tiếp nhất định,
đồng thời góp phần tạo lập hình ảnh bản thân trong con mắt những người xung quanh
cũng như tạo lập, duy trì các mối quan hệ xã hội.
3.1.2. Những nhân tố chi phối chiến lược rào đón trong giao tiếp của người
Nghệ Tĩnh
3.1.2.1. Tính cách của người Nghệ Tĩnh
a) Trọng danh dự
Từ xưa đến nay, người Nghệ Tĩnh vẫn hết sức coi trọng phẩm hạnh, danh dự
của bản thân. Danh dự là sự coi trọng của dư luận xã hội đối với một con người dựa
trên giá trị tinh thần, đạo đức tốt đẹp của người đó. Danh dự cũng được gắn với năng
lực giao tiếp.
b) Cẩn thận trong giao tiếp với người mới tiếp xúc
Người Nghệ Tĩnh thường tỏ ra cẩn thận trong giao tiếp, nhất là với người mới
tiếp xúc, vì lẽ đó, họ thường mượn đến những lời rào đón để đảm bảo sự an toàn cho
lời nói của mình.
c) Trọng sự hòa thuận, lấy tình cảm làm nguyên tắc ứng xử
Người Nghệ luôn coi trọng sự hòa thuận, luôn lấy tình cảm làm nguyên tắc ứng
xử, cả trong ứng xử ngôn ngữ, luôn cố gắng để làm vừa lòng nhau.
3.1.2.2. Đặc điểm của hành động chủ hướng
Đóng vai trò là cơ sở tồn tại cho cách hành động rào đón, mỗi loại hành động
ngôn từ trong hành động chủ hướng đều có những ảnh hưởng nhất định đến sự lựa
chọn các chiến lược rào đón.
3.2. Biểu hiện chiến lược rào đón trong giao tiếp của người Nghệ Tĩnh
3.2.1. Chiến lược rào đón lịch sự
Trong hội thoại, các đối tác đều thể hiện mong muốn được giữ thể diện. Mong
muốn được giữ thể diện có nghĩa là xử sự làm sao cho hình ảnh - về - ta công cộng
của mình được tôn trọng, và một khi cá nhân cảm thấy mình được thừa nhận, được

tôn trọng, họ sẽ có thêm động lực thúc đẩy nhận thức, hành động. Đó cũng là cơ sở


15
để xây dựng nên chiến lược lịch sự trong hành động rào đón của người Nghệ Tĩnh.
Chiến lược rào đón lịch sự, theo đó, được hiểu là người nói thực hiện hành động rào
đón như thế nào để hướng đến các nhu cầu thể diện của người nghe: hoặc “điều
hòa” giữ gìn, hoặc “gia tăng giá trị” của nó. Mục tiêu của chiến lược này là củng cố
thể diện của người nghe, tạo đà thuận lời để thực hiện hành động chủ hướng, đồng
thời tạo tiền đề tâm lí cho người nghe dễ dàng tiếp nhận điều được nói.
3.2.1.1. Dùng các hành vi xin lỗi, cầu xin
Trong giao tiếp, xin lỗi là một chiến lược lịch sự khá phổ biến. Hành động rào
đón bằng hành vi xin lỗi không phải được thực hiện sau khi Sp1 nói/làm việc gì đó có
lỗi với Sp2, mà nó được thực hiện trước khi người nói nói/làm điều gì đó như hỏi,
cầu khiến, nhờ vả... Hành động xin lỗi cũng được sử dụng trước những hành động
nhận xét (mang sắc thái chê bai)... hoặc trong phát ngôn của người nói có xuất hiện
các từ ngữ thô tục, các hành động khiếm nhã.
3.2.1.2. Tôn vinh thể diện Sp2
Tất cả các cá nhân trong xã hội chẳng những mong muốn lãnh địa cá nhân của
mình được người khác tôn trọng mà còn muốn cái tôi của mình được ưa thích, tán
thưởng, ủng hộ và đánh giá cao. Rào đón bằng cách nói tôn vinh thể diện người nghe
tức là tìm cách chỉ ra những ưu điểm của người nghe như là một sự thừa nhận, đánh
giá cao của người nói đối với người nghe.
3.2.1.3. Gia tăng sự quan tâm đối với Sp2
Bên cạnh việc chỉ ra những ưu thế vượt trội của Sp1 về một phương diện nào
đó nhằm gia tăng giá trị thể diện của Sp2 thì việc chỉ ra những khó khăn, vướng mắc,
những băn khoăn trăn trở của Sp2 cũng được xem là một biểu hiện của sự quan tâm
chia sẻ, bù đắp thể diện cho Sp2.
3.2.1.4. Nhấn mạnh vào quan hệ thân hữu
Người nói Sp1 dùng các yếu tố ngôn ngữ nhằm xác lập mối quan hệ cùng nhóm

xã hội giữa hai bên như: A coi B như người ruột thịt (như con, như cháu chắt trong
nhà, như anh/chị/em, như cô/chú; như cha mẹ mình...) A mới nói; Chỗ chị em với
nhau...; A có thương B/có lo lắng cho B/có quan tâm B... thì A mới nói; A có quý B/có
tôn trọng B... A mới nói...; A là bạn thân của B thì B mới nói, A nói với tư cách là bạn
thân của B... Thông qua các BTRĐ này, người nói đã chủ động rút ngắn khoảng cách
giữa người nói với người nghe, khiến cho người nghe cảm thấy mình được yêu quý,
được quan tâm, được tôn trọng, được tin tưởng và những gì người nói nói ra trong
mệnh đề chủ hướng dù tốt hay xấu, đúng hay sai, tích cực hay tiêu cực... thì cũng đều
xuất phát từ sự quan tâm của người nói mong muốn những điều tốt đẹp cho mình.


16
3.2.1.5. Tuyên bố trao cho Sp2 quyền lựa chọn
Trong giao tiếp nói chung, để đạt được đích tích cực và thể hiện tính văn hóa,
các đối ngôn thường có những giải pháp làm giảm thiểu chỉ số mức độ của R bằng
cách né tránh, làm dịu bớt, hoặc xin phép, xin lỗi khi buộc người đối thoại phải làm
điều mà anh ta không muốn làm, tránh cả những hành động khiến anh ta sao lãng
điều anh ta đang làm hay đang nghĩ tới, hoặc bằng cách rào đón tuyên bố dành cho
anh ta quyền lựa chọn: tin hay không tin, đồng tình hay phản đối, thực hiện hay từ
chối thực hiện yêu cầu của đối ngôn.
3.2.2. Chiến lược kín đáo gợi ý cho người nghe
Vai trò của những lời rào đón trong giao tiếp trước hết là để tạo ngôn cảnh
thuận lợi cho người nói tiếp tục đưa ra nội dung giao tiếp chính thức. Bên cạnh đó,
những lời rào đón cũng được thực hiện nhằm mục đích đưa ra những chỉ dẫn cần
thiết, giúp người nghe tiếp nhận và lý giải một cách đầy đầy đủ nhất, đúng đắn nhất
hành động chủ hướng của người nói, tức là hiểu đúng về điều được nói. Đó cũng
chính là mục tiêu của chiến lược rào đón thứ hai này.
3.2.2.1. Giới thiệu hành động chủ hướng
Để nhận biết hành động ở lời, người ta căn cứ vào các dấu hiệu hình thức và ngữ
cảnh. Thông thường, trong những tình huống giao tiếp cụ thể, ngữ cảnh sẽ cho ta biết

rõ lực ngôn trung của phát ngôn đó là gì (hành động đó là hành động gì) mà không
nhất thiết phải dùng đến các phương tiện chỉ chức năng thích hợp (tức là các dấu hiệu
hình thức). Nhưng việc nhận diện đó chưa hẳn đã trùng khít với đích ngôn trung của
người nói. Vì vậy, việc sử dụng hành động rào đón để chỉ rõ hành động chủ hướng sẽ
thực hiện là rất cần thiết để người nghe hiểu đúng đích ngôn trung của hành động đó.
3.2.2.2. Giải thích về lượng tin sẽ được nói ra
Mỗi lượt lời được nói ta đều phải chứa đựng một lượng tin nhất định. Và để
hội thoại thành công, Sp1 phải tính đến khả năng của Sp2 trong việc lí giải và hiểu
lượng tin của mình. Việc tạo ra những lời rào đón giải thích về lượng tin sẽ được nói
ra nhằm cung cấp cho Sp2 “công cụ” chỉ dẫn về phạm vi và cách thức lĩnh hội chúng.
3.2.3. Chiến lược chủ động giải tỏa nguy cơ bất đồng
Trong giao tiếp, không chỉ thể diện người nghe mà cả thể diện của người nói
cũng bị đe dọa. Bất cứ một hành động ngôn từ nào cũng đều mang trong mình nó một
một “quả bom” đe dọa đến thể diện của các bên giao tiếp, tạo ra những bất đồng
ngoài ý muốn. Chiến lược rào đón chủ động giải tỏa nguy cơ bất đồng nhằm ngăn
chặn tối đa những bất đồng trong giao tiếp cũng như làm hạn chế đến mức cao nhất
những ảnh hưởng xấu của nó đến các bên tham gia hội thoại.


17
2.2.3.1. Tuyên bố nói thật
Nói thật tức là nói đúng sự thực, đúng ý nghĩ của mình. Với biểu thức rào đón
Nói thật, A nói thật, Nói thật với B, A nói thật với B, Sp1 tuyên bố rằng tôi hoàn toàn
nghiêm túc, trung thực, những điều tôi sắp nói ra đây đúng như những gì tôi thấy
hoặc tôi nghĩ, nhờ đó góp phần tạo dựng niềm tin cho người nghe Sp2, tránh được
những phản ứng tiêu cực.
2.2.3.2. Giải thích về mục đích nói năng
Giao tiếp có các mục đích cơ bản là tác động tình cảm, nhận thức và hành động
đến các nhân vật giao tiếp, nhưng đôi khi trong hội thoại, người nghe rất khó để nhận
ra mục đích của người nói, dẫn đến việc hiểu sai về hành động nói đó. Trong thực tế

giao tiếp, có những khi, người nói thực sự mong muốn và cảm thấy thoải mái thích
thú khi được nói ra một điều gì đó hoặc được thực hiện một hành động nào đó, nhưng
cũng không ít khi, người nói buộc phải nói ra những điều mà người mình không
muốn nói, buộc phải thực hiện những hành động mà mình không muốn thực hiện và
đoán rằng có thể/có lẽ người nghe cũng không muốn nghe, không muốn tiếp nhận
điều mình nói. Cho nên, rào đón bằng cách giải thích về mục đích nói năng là biện
pháp mềm mỏng nhất mà người nói thực hiện để ngăn ngừa nguy cơ bị người nghe
hiểu nhầm hiểu sai về người nói.
2.2.3.3. Thừa nhận khuyết điểm của mình
Thông thường, việc tiếp nhận và đánh giá thái độ, hành vi của người nói là do
người nghe thực hiện. Quyền phán xét về nó cũng thuộc về người nghe. Nhưng trong
giao tiếp, việc người nói chủ động thừa nhận khuyết điểm trong nói năng của mình lại
được xem là một biện pháp “tháo ngg̣i nổ” hiệu quả.
3.2.3.4. Đoán trước phản ứng của Sp2
Nội dung lời rào đón chính là hiệu quả lượt lời mà người nói đang tự hình dung
ra, cũng tức là những điều mà người nói đoán rằng người nghe sẽ có những phản ứng
như thế.
3.2.3.5. Trao đổi quyền lợi trong hội thoại
Người nói Sp1 có thể lựa chọn chiến lược rào đón tự tháo ngòi nổ cho mình
bằng cách chủ động trao đổi quyền lợi trong giao tiếp, nghĩa là, trước khi tôi nói, tôi
(Sp1) đảm bảo với anh rằng rằng anh có quyền được biết, được nghe tôi nói, nhưng
đổi lại, anh phải thực hiện theo một vài yêu cầu của tôi nhằm đảm bảo lợi ích cho tôi
và cho cả anh.
3.2.4. Chiến lược mượn lời
Mục đích của chiến lược này là tạo ra những căn cứ vững chắc, tăng thêm sức


18
thuyết phục cho những điều người nói sắp trình bày, người nghe sẽ bị thuyết phục bởi
những điều đã được thừa nhận.

3.2.4.1. So sánh đồng nhất “nói như...”
Trước khi nói ra một điều gì đó, người Nghệ Tĩnh thường rào đón bằng cách tự
so sánh đồng nhất cách nói của mình với những đối tượng khác: Nói như ai nói, Nói
như cha ông ta nói, Nói như các cụ nhà ta hay nói, Nói như các cố, Nói như anh
A/chị B/cô C nói; Nói như sơ đời cha mi/mẹ mi/thầy mi đang sống,...
3.2.4.2. Sử dụng thành ngữ, tục ngữ
Thành ngữ, tục ngữ là những đơn vị có sẵn, thường được dùng trong trong giao
tiếp để tăng giá trị thuyết phục cho lời nói và làm cho lời người nói thêm phần sinh
động giàu hình ảnh. Thành ngữ, tục ngữ cũng được người Nghệ Tĩnh mượn để rào
đón trong hội thoại, theo đó, người nói sẽ tìm ra những điểm liên quan, hoặc tương
đồng hoặc khác biệt giữa nội dung, ý nghĩa của các câu thành ngữ, tục ngữ đó với nội
dung cần trao đổi.
3.3. Tiểu kết chương 3
Về chiến lược rào đón trong giao tiếp của người Nghệ Tĩnh, luận án đã đi sâu
phân tích bốn chiến lược điển hình, đó là: chiến lược lịch sự, chiến lược kín đáo gợi ý
cho người nghe, chiến lược chủ động giải tỏa những nguy cơ bất đồng, chiến lược
mượn lời. Các chiến lược đó được chúng tôi tìm hiểu ở các bước: cơ sở hình thành,
mục tiêu và các biện pháp thực hiện. Các bước vừa nêu được nhận thức trên cơ sở
phân tích ngôn ngữ, song thực tế, chúng gắn kết, phối ứng với nhau để cùng hướng
tới đích giao tiếp trong từng ngữ cảnh cụ thể. Luận án cũng chỉ ra mỗi chiến lược rào
đón đều có những ưu thế nhất định, được người Nghệ Tĩnh vận dụng rộng rãi và linh
hoạt trong giao tiếp hàng ngày. Chúng làm nên đặc thù riêng trong cách thể hiện hành
động rào đón của người Nghệ Tĩnh.


19
Chương 4
NGHĨA LIÊN NHÂN CỦA HÀNH ĐỘNG RÀO ĐÓN
TRONG GIAO TIẾP CỦA NGƯỜI NGHỆ TĨNH
4.1. Quan niệm nghĩa liên nhân

4.1.1. Quan niệm của các tác giả đi trước
Ngôn ngữ trong diễn ngôn có hai chức năng cơ bản: chức năng liên giao
(transactional function) và chức năng liên nhân (interpersonal function). Chức năng
liên giao được hiểu là chức năng của ngôn ngữ được sử dụng trong việc diễn đạt nội
dung sự việc, diễn đạt các mệnh đề. Chức năng liên nhân được hiểu là ngôn ngữ được
dùng để tạo lập và duy trì các quan hệ xã hội, tác động lẫn nhau về tình cảm, trí tuệ,
sự hoạt động giữa người với người. G.
4.1.2. Khái niệm nghĩa liên nhân
Nghĩa liên nhân xuất hiện trong quá trình tương tác hội thoại, trong hoạt động
trao - đáp giữa các nhân vật tham gia, nó phản ánh vai giao tiếp và vai xã hội giữa
người nói trong tương quan với người nghe, phản ánh thái độ, tình cảm của người nói
đối với người nghe và với hiện thực được nói đến.
4.2. Biểu hiện nghĩa liên nhân của hành động rào đón trong giao tiếp của
người Nghệ Tĩnh
4.2.1. Nghĩa liên nhân biểu thị qua các vai giao tiếp
4.2.1.1. Khái niệm vai giao tiếp
Trong một cuộc giao tiếp cũng có sự phân vai: vai phát ra diễn ngôn tức là vai
nói (viết) và vai tiếp nhận diễn ngôn, tức nghe (đọc). Trong cuộc giao tiếp mặt đối
mặt, theo nguyên tắc thông thường, sẽ có sự thay đổi luân phiên: vai nói trở thành
vai nghe và ngược lại. Ngoài quan hệ vai giao tiếp (vai trao - vai đáp), giữa những
người tham gia giao tiếp còn có quan hệ liên cá nhân. Quan hệ liên cá nhân là quan
hệ xét trong tương quan xã hội, hiểu biết, tình cảm giữa các nhân vật giao tiếp với
nhau và chủ yếu được xét trên hai trục: trục ngang - trục thân cận và trục dọc - trục
vị thế xã hội
4.2.1.2. Các vai giao tiếp sử dụng hành động rào đón xét theo cặp tương tác
a. Theo giới tính
Qua số liệu khảo sát, chúng tôi nhận thấy trong giao tiếp, nữ giới thường sử
dụng hành động rào đón hơn nam giới, số lời của người nữ chiếm ưu thế gần như
tuyệt đối (1800/2050, chiếm 87,80%), gồm lời vợ nói với chồng; con gái, cháu gái
nói với cha mẹ, ông bà; em gái nói với anh chị; các bạn nữ nói với nhau; cô giáo



20
nói với học sinh; nữ bác sĩ nói với bệnh nhân; người bán (đa phần là nữ) nói với
người mua...
b) Tuổi tác
- Trong phạm vi gia đình
Qua ngữ liệu, chúng tôi nhận thấy, con cái, cháu chắt thường rào đón
nhiều hơn (435 lời thoại) so với ông bà, cha mẹ (250 lời thoại); vợ rào đón nhiều
hơn chồng.
- Ngoài xã hội, xét theo tuổi tác bao gồm các trường hợp sau:
+ Các đối tượng giao tiếp ngang hàng được chia làm ba lớp: thanh niên, trung
niên và lão niên. Trong đó, hành động rào đón chủ yếu được sử dụng là ở đối tượng
thanh niên và trung niên. Ở đối tượng lão niên, tức là các ông bà nói chuyện với nhau
thường hành động rào đón theo lịch sự chuẩn mực thay vì lịch sự chiến lược,
+ Hai trường hợp còn lại là người nhiều tuổi nói với người ít tuổi và người ít
tuổi nói với người nhiều tuổi thì việc sử dụng hành động rào đón phụ thuộc vào rất
nhiều yếu tố khác ngoài tuổi tác, chẳng hạn như vị thế xã hội hoặc vị thế trong các
tình huống giao tiếp.
c. Vị thế xã hội
Tong các cuộc tương tác giữa người có vị thế thấp và người có vị thế cao thì
người ở vị thế thấp thường có ý thức dùng lời rào đón hơn người ở vị thế cao.
d. Vị thế trong giao tiếp
Trong giao tiếp hàng ngày của người Nghệ Tĩnh, những người có vị thế giao
tiếp thấp, tức là người gây tổn thất thường rào đón nhiều hơn những người có vị thế
giao tiếp cao, tức là người đang phải chịu những tổn thất (vật chất, tinh thần) do
người khác gây ra.
Kết quả thống kê cho thấy, những người ở vị thế thấp trong khi giao tiếp với
người có vị thế cao thường sử dụng lời rào đón nhiều hơn so với trường hợp ngược
lại (43,28% so với 25,12%) và nhìn chung không có sự chênh lệch quá lớn về nhu

cầu sử dụng lời rào đón ở các nhóm đối tượng khác nhau trong giao tiếp của người
Nghệ Tĩnh. Bởi trong thực tế giao tiếp, bất kể già hay trẻ, lớn tuổi hay nhiều tuổi, nếu
thực sự quan tâm đến hiệu quả giao tiếp cũng như mong muốn giữ gìn thể diện cho
bản thân và cho đối tác thì đều có thể sử dụng đến lời rào đón.
4.2.1.3. Vai giao tiếp và cách sử dụng từ ngữ xưng hô trong hành động rào đón
Trong các hành động rào đón, người Nghệ Tĩnh có thể xưng hô hoặc không
xưng hô. Với trường hợp có xưng hô, người nói chủ yếu danh từ và dùng đại từ nhân
xưng để thực hiện chức năng xưng - gọi.


21
a. Xưng hô theo chuẩn mực thông thường
Để phù hợp với đích giao tiếp của hành động rào đón là hướng tới việc thiết lập
và duy trì quan hệ giữa các nhân vật giao tiếp, đồng thời cũng là công cụ để hiện thực
hóa chiến lược lịch sự trong giao tiếp, từ xưng hô được lựa chọn trong rào đón của
người Nghệ Tĩnh thường đảm bảo được sắc thái hoặc trung hòa, hoặc tôn trọng lẫn
nhau, hoặc tỏ ra thân mật và không có trường hợp dùng từ xưng hô để thể hiện thái
độ miệt thị, xúc phạm đến người khác.
b. Xưng hô có chiến lược để thể hiện thái độ
Xưng hô theo theo chiến lược trong các biểu thức rào đón của người Nghệ
Tĩnh bao gồm: Xưng hô lệch chuẩn; Lặp lại từ xưng; Không xưng hô.
4.2.2. Nghĩa liên nhân biểu thị qua phương tiện tình thái
4.2.2.1. Khái niệm tình thái
Tình thái là một trong những loại hình nghĩa cơ bản của ngôn ngữ với tư cách
là một công cụ giao tiếp. Vấn đề tình thái đã được các nhà ngôn ngữ học quan tâm từ
rất sớm và cho đến nay vẫn chưa có được một tiếng nói thống nhất, nhưng việc xác
định rằng nó là một cái gì đó phản ánh “thái độ” hay “ý kiến” của người nói dường
như được tán đồng hơn cả.
4.2.2.2. Các phương tiện tình thái thể hiện nghĩa liên nhân qua hành động rào
đón của người Nghệ Tĩnh

a. Tiểu từ tình thái
a1. Khái niệm tiểu từ tình thái
Tiểu từ tình thái (modal parcticle) chỉ một từ không mang nghĩa từ vựng và
được dùng để diễn đạt thái độ của người nói đối với điều được nói ra hoặc đối với
người nghe.
a2. Tiểu từ tình thái cuối hành động rào đón trong giao tiếp của người
Nghệ Tĩnh
- Về số lượng: có 21 tiểu từ tình thái thường được dùng để kết thúc hành động
rào đón trong giao tiếp của người Nghệ Tĩnh, trong đó đó chỉ có 03 TTTT trùng với
tiếng Việt toàn dân: đâu, này, thôi. Các từ còn lại thuộc phương ngữ Nghệ Tĩnh (a
chơ, chơ, chư, đo, hây, mô, mô nả, mô nì, mô nha, nả, nầy, nì, nha, nghe chưa, thôi
đo, thôi hây, thôi nì, thôi nha), thể hiện tính địa phương rất rõ.
- Về cấu tạo, các tiểu từ tình thái kết thúc hành động rào đón được chia thành
hai nhóm: Nhóm có cấu tạo một tiếng gồm: chơ, chư, đo, đâu, hây, mô, nả, này, nầy,
nì, nha, thôi; Nhóm có cấu tạo hai tiếng gồm: a chơ, mô nả, mô nì, mô nha, nghe
chưa, thôi đo, thôi hây, thôi nì, thôi nha


22
b. Tổ hợp mang nghĩa tình thái
Bên cạnh các tiểu từ tình thái, ta còn bắt gặp những tổ hợp mang nghĩa tình
thái thể hiện những cảm xúc khác nhau của người nói. Phương tiện tình thái này
thường do một số từ kết hợp với nhau khá chặt chẽ thành thói quen cố định, gần với
quán ngữ.
4.3. Dấu ấn văn hóa – ngôn ngữ của người Nghệ Tĩnh qua hành động
rào đón
4.3.2. Lời rào đón thể hiện cách ứng xử vị tình của người Nghệ Tĩnh
Khi nói năng, người Nghệ Tĩnh thường rào trước đón sau để khỏi gây ra
những hiểu lầm hoặc để duy trì hòa khí. Qua khảo sát, chúng tôi thấy các chiến lược
rào đón hướng tới việc điều hòa các mối quan hệ một cách trực tiếp là chiến lược

rào đón lịch sự và chiến lược chủ động tháo gỡ nguy cơ bất đồng chiếm tỉ lệ cao
(25,6% và 42,9%).
4.3.2. Người Nghệ Tĩnh rào đón để giữ gìn thể diện của mình và tôn trọng
thể diện người khác
Trong đời sống thường nhật, người ta giữ thể diện bằng nhiều cách. Có thể là
nỗ lực phấn đấu để bằng bầu bằng bạn, không thua chị kém em. Có thể là giữ mình,
không sa đà, quá trớn trong các mối quan hệ khiến người khác coi thường. Và ở nhiều
trường hợp, lời rào đón là một phương cách giữa thể diện trong giao tiếp.
4.3.3. Lời rào đón thể hiện sự dung hòa các đối cực trong tính cách người
Nghệ Tĩnh
Lời rào đón không chỉ là sản phẩm ngôn ngữ thuần túy, mà còn liên quan mật
thiết đến yếu tố tâm lí của con người trong giao tiếp. Chính nó là một thứ “dung
môi”, nhờ đó, những hành động chủ hướng được thực hiện thuận lợi. Với số lượng
ngữ liệu đã khảo sát, và phân tích, chúng tôi nhận thấy lời rào đón có tác dụng rõ rệt
trong việc dung hòa các mặt đối lập trong tính cách của người Nghệ Tĩnh. Và đó cũng
là một biểu hiện của đặc trưng văn hóa – ngôn ngữ.
4.4. Tiểu kết chương 4
Qua những nội dung đã phân tích, chúng tôi nhận thấy nghĩa liên nhân của
hành động rào đón biểu hiện rõ nhất ở vai giao tiếp và các yếu tố tình thái. Hành động
rào đón cũng phần nào nói lên được những nét đặc trưng văn hóa – ngôn ngữ của
người Nghệ Tĩnh.


23
KẾT LUẬN
1. Người Việt Nam nói chung, người Nghệ Tĩnh nói riêng, trong giao tiếp quy
thức và phi quy thức, thường nói những lời rào đón trước khi đưa ra nội dung thông
báo chính thức. Đây là hành động ngôn ngữ được sử dụng có vai trò nhất định. Sự
xuất hiện của các câu đưa đẩy, các hành động rào đón khiến cho lời người nói có vẻ
vòng vo, nhưng bù lại, nhờ chúng mà hoạt động giao tiếp trở nên thông suốt.

Để nhận diện hành động rào đón trong giao tiếp của người Nghệ Tĩnh, chúng
tôi chủ yếu dựa vào 5 tiêu chí: 1/ Vị trí xuất hiện hành động rào đón trong tham thoại;
2/ Ngữ cảnh; 3/ Hành động chủ hướng; 4/ Biểu thức chứa hành động rào đón và 5/
Đích tác động.
Với 5 tiêu chí trên, luận án đã làm rõ vị trí đứng trước, sau của hành động rào
đón so với hành động chủ hướng; vai trò của ngữ cảnh đối với việc nhận diện hành
động rào đón đó là nhờ ngữ cảnh mà người nghe hiểu được cốt lõi của nội dung
thông báo qua những lời nói vòng vo. Đồng thời, hành động rào đón bao giờ cũng
xuất hiện kèm theo một hành động chủ hướng. Vì vậy, xét về đích giao tiếp, người
nghe thường hướng đến hồi đáp cho hành động chủ hướng. Về cấu tạo, biểu thức
chứa hành động rào đón được xác định thông qua các phương tiện chỉ dẫn gồm các
cấu trúc đặc thù và các từ ngữ chuyên dụng. Cuối cùng, đích tác động cũng là một
trong những tiêu chí quan trọng giúp nhận diện hành động rào đón giữa rất nhiều
hành động ngôn từ khác đồng thời xuất hiện trong một cuộc thoại. Tất cả những tiêu
chí và vai trò của chúng đều được luận án phân tích kĩ, trên cơ sở các ngữ liệu được
thu thập, nhằm làm nổi bật tính đặc thù của hành động rào đón trong giao tiếp của
người Nghệ Tĩnh.
2. Chiến lược rào đón trong giao tiếp của người Nghệ Tĩnh là một trong những
nội dung được luận án đề cập ở chương 3. Chúng tôi đã khảo sát và chỉ ra bốn chiến
lược rào đón, bao gồm: chiến lược lịch sự, chiến lược kín đáo gợi ý cho người nghe,
chiến lược chủ động giải tỏa những nguy cơ bất đồng, chiến lược mượn lời. Nếu như
mục tiêu của chiến lược lịch sự là củng cố thể diện của người nghe, tạo đà thuận lời
để thực hiện hành động chủ hướng, đồng thời tạo tiền đề tâm lí cho người nghe dễ
dàng tiếp nhận điều được nói; mục tiêu của chiến lược kín đáo gợi ý cho người nghe
là đưa ra những chỉ dẫn cần thiết làm cơ sở cho người nghe lí giải điều được nói đó,
thì mục tiêu của chiến lược chủ động giải tỏa những nguy cơ bất đồng lại nhằm ngăn
chặn tối đa khả năng bùng nổ của “quả bom đe dọa thể diện” - điều thường xảy ra
mỗi khi có những bất đồng trong giao tiếp. Chiến lược mượn lời là sản phẩm của con



24
người tập thể trong nền văn hóa gốc nông nghiệp. Trong hành động rào đón của
người Nghệ Tĩnh, điều này được biểu hiện qua việc người nói mượn lời người khác
và mượn thành ngữ tục ngữ để làm cơ sở cho lời nói của mình. Ngoài mục đích tăng
thêm sức mạnh vô hình cho lời nói chiến lược này cũng là một cách hiệu quả để che
chắn, tạo nên sự vô can cho người nói. Mỗi chiến lược rào đón đều có những ưu thế
nhất định, được vận dụng rộng rãi và linh hoạt trong giao tiếp hàng ngày của người
Nghệ Tĩnh.
3. Một khi hành động rào đón được sử dụng trong giao tiếp của người Nghệ
Tĩnh, chức năng liên nhân của nó thể hiện rõ nét hơn chức năng liên giao. Nghĩa
liên nhân của hành động rào đón trong giao tiếp người Nghệ Tĩnh được biểu hiện
qua các vai giao tiếp, các yếu tố tình thái. Vai giao tiếp trong các hành động rào đón
đã được chúng tôi xác lập thành từng cặp tương ứng dựa theo các tiêu chí: giới tính,
tuổi tác, vị thế xã hội và vị thế trong giao tiếp. Theo giới tính, hành động rào đón
xuất hiện trong cặp vai nữ - nữ, nữ - nam nhiều hơn so với cặp vai nam - nữ, nam nam, chứng tỏ nữ giới thường rào đón nhiều hơn nam giới. Theo tuổi tác, vị thế xã
hội và vị thế trong giao tiếp, có thể phân thành các cặp vai: trên - dưới, ngang hàng
và dưới - trên.
Kết quả thống kê cho thấy những người ở vị thế thấp trong khi giao tiếp với
người ở vị thế cao thường sử dụng hành động rào đón nhiều hơn so với trường hợp
ngược lại. Mặt khác, không có sự chênh lệch quá lớn về nhu cầu sử dụng lời rào
đón ở các nhóm đối tượng khác nhau trong giao tiếp của người Nghệ Tĩnh. Ý
nghĩa liên nhân qua các vai giao tiếp thể hiện rõ nhất ở việc dùng từ xưng hô.
Xưng hô trong hành động rào đón của người Nghệ Tĩnh thể hiện ở việc người nói
sử dụng đại từ nhân xưng, danh từ để xưng hô và cũng có thể không xưng hô (tức
là nói trống không). Điều đáng nói ở đây là dù xưng hô theo chuẩn mực hay xưng
hô lệch chuẩn thì các cặp xưng hô xuất hiện trong các hành động rào đón của
người Nghệ Tĩnh cũng hướng tới thể hiện mối quan hệ hài hòa, phù hợp với đích
giao tiếp của hành động rào đón. Tiểu từ tính thái cũng được sử dụng rất phổ biến
để thể hiện nghĩa liên nhân trong rào đón của người Nghệ Tĩnh. Số lượng từ tình
thái thuộc phương ngữ Nghệ Tĩnh dùng trong hành động rào đón khá nhiều, sắc

thái nghĩa rất phong phú. Thông qua các tiểu từ tình thái, các tổ hợp tình thái, vai
xã hội cũng như tình cảm, thái độ của người nói đối với người nghe được xác lập
một cách rõ nét.
4. Qua khảo sát chiến lược rào đón và nghĩa liên nhân của hành động rào đón
trong giao tiếp của người Nghệ Tĩnh cũng như qua đối sánh ít nhiều với những tiểu


25
vùng phương ngữ khác, luận án đã bước đầu nêu lên một số nét riêng trong tính
cách, trong thói quen ngôn ngữ, trong văn hóa ứng xử của người Nghệ Tĩnh. Người
Nghệ thường được biết tới với những tính cách: thô mộc, quyết liệt, cực đoan, ít
màu mè khách sáo. Tuy nhiên, với cách sử dụng hành động rào đón thể hiện qua
những biểu thức ngôn từ đậm tính khẩu ngữ, tính địa phương, ta còn thấy một phía
khác con người ở vùng đất này: khéo léo, tế nhị, biết người biết ta, có lí có tình
trong đối nhân xử thế.


×