Tải bản đầy đủ (.doc) (34 trang)

Sáng kiến kinh nghiệm một số phương pháp dạy môn Lịch sử lớp 5

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.12 MB, 34 trang )

PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TP THÁI NGUYÊN

TRƯỜNG TIỂU HỌC TÍCH LƯƠNG II

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP DẠY MÔN LỊCH SỬ LỚP 5

Họ và tên

: DƯƠNG THỊ MỸ TRANG

Chức vụ

: GIÁO VIÊN

Sáng kiến thuộc lĩnh vực : CHUYÊN MÔN

TP. Thái Nguyên, tháng 5 năm 2016


MỤC LỤC
PHẦN THỨ NHẤT: MỞ ĐẦU..................................................................................................1
I. Lí do chọn sáng kiến............................................................................................................1
II. Mục tiêu nghiên cứu...........................................................................................................2
III. Đối tượng, phạm vi, nhiệm vụ nghiên cứu.......................................................................2
IV. Phương pháp nghiên cứu, thời gian nghiên cứu................................................................3
V. Điểm mới của sáng kiến.....................................................................................................3
Đề ra các phương pháp tổ chức dạy học phù hợp với từng loại bài để giúp các em lĩnh hội
kiến thức lịch sử..........................................................................................................................4
PHẦN THỨ HAI: NỘI DUNG..................................................................................................5
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA SÁNG KIẾN.................................................................5


I. Cơ sở lí luận.........................................................................................................................5
Đổi mới phương pháp dạy học ở trường tiểu học là cả một vấn đề rất quan trọng, đây là
con đường giúp học sinh tiếp cận với tri thức mới. Nhằm thay đổi phương pháp học tập của
học sinh từ xưa tới nay là: “Thầy giảng - trò nghe; “Thầy đọc - trò ghi” ghi nhớ máy móc.
Theo quan niệm dạy học mới, dạy học là quá trình phát triển, là quá trình học sinh tự khám
phá, tự tìm ra chân lý..............................................................................................................5
Cũng như các môn học khác, phương pháp dạy học lịch sử cũng đổi mới theo định hướng
đó. Tuy vậy, cần xem xét những yếu tố đặc trưng của bộ môn. Mà đặc trưng nổi bật của
nhận thức lịch sử là con người không thể tri giác trực tiếp những gì thuộc về quá khứ. Mặt
khác, lịch sử là những việc đã diễn ra, là hiện thực đã tồn tại trong quá khứ, là tồn tại khách
quan không thể phán đoán, suy luận để biết lịch sử. Vì vậy, nhiệm vụ đầu tiên, tất yếu của
việc dạy lịch sử là tái tạo lịch sử, tức là cho học sinh tiếp nhận những thông tin từ sử liệu,
tiếp xúc với những chứng cứ vật chất, những dấu vết của quá khứ, tạo ra học sinh những
hình ảnh cụ thể, sinh động, chính xác về các sự kiện, hiện tượng lịch sử. Những biểu tượng
về con người và hành động ở của họ trong bối cảnh thời gian, không gian xác định, trong
những điều kiện lịch sử cụ thể. Vậy tái tạo lịch sử bằng những phương thức nào?...............5
Học sinh lớp 5 là lứa tuổi cuối bậc tiểu học, tưởng tượng tái tạo đã bắt đầu hoàn thiện, từ
những hình ảnh cũ, trẻ đã tái tạo ra những hình ảnh mới. Tưởng tượng sáng tạo tương đối
phát triển ở giai đoạn cuối tuổi tiểu học. Đặc biệt, tưởng tượng của các em trong giai đoạn
này bị chi phối mạnh mẽ bởi các xúc cảm, tình cảm, những hình ảnh, sự việc, hiện tượng
đều gắn liền với các rung động tình cảm của các em.............................................................5
II. Cơ sở thực tiễn...................................................................................................................6
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG DẠY - HỌC MÔN LỊCH SỬ LỚP 5........................................7
I. Đặc điểm tình hình chung của trường Tiểu học Tích Lương II...........................................7
II. Một số đặc điểm chung của lớp 5A....................................................................................7
III. Điều tra thực trạng dạy và học Lịch sử lớp 5....................................................................7
CHƯƠNG III: CÁC PHƯƠNG PHÁP TỔ CHỨC DẠY HỌC VÀ KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC.10
I. Các phương pháp tổ chức dạy học.....................................................................................10
1. Tích cực chuẩn bị đồ dùng, sưu tầm tư liệu, tranh ảnh.....................................................10
II. Kết quả nghiên cứu..........................................................................................................27

...................................................................................................................................................28
PHẦN THỨ BA: KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ..............................................................29
I. Kết luận chung...................................................................................................................29
II. Khuyến nghị và đề xuất....................................................................................................29
1. Về phía nhà trường............................................................................................................29

2


PHẦN THỨ NHẤT: MỞ ĐẦU

I. Lí do chọn sáng kiến

Dân tộc Việt Nam ta có một nền văn hóa, một bề dày lịch sử lâu đời. Đó là
những ngày đầu vua Hùng dựng nước cho đến những năm tháng đấu tranh giữ
nước và xây dựng Tổ quốc. Từng chặng đường, từng giai đoạn đã ghi lại những
mốc son chói lọi, là niềm tự hào của dân tộc Việt Nam. Ai đã đi qua những
chặng đường ấy luôn cảm thấy yêu quê hương và con người Việt Nam biết
chừng nào. Thế hệ trẻ hôm nay sẽ viết tiếp những trang sử vàng cho dân tộc
bằng tài năng, trí tuệ và nhiệt huyết của mình. Để làm được điều đó, trước hết
các em phải yêu thích lịch sử quê hương, bởi vì “Yêu lịch sử chính là làm cho
tâm hồn ta luôn hướng về đất nước”.
Ngay từ bậc Tiểu học, ở lớp 4, lớp 5 các em đã được học lịch sử qua một
phân môn rõ rệt mà không lồng ghép chung với bất cứ phân môn nào. Có chăng,
đó là sự bổ sung thêm kiến thức lịch sử cho các em từ các phân môn khác (ví dụ:
phân môn Kể chuyện, Đạo đức, Tập làm văn, Tập đọc…). Chương trình Lịch sử
lớp 5 phong phú về nội dung, đa dạng về thể loại, mỗi bài là một sự kiện, hiện
tượng hay nhân vật tiêu biểu của một giai đoạn nhất định, đòi hỏi các em phải
lĩnh hội kiến thức bằng nhiều phương pháp, đặc biệt phải biết tổng hợp kiến thức
và ghi nhớ sự kiện. Để tạo hứng thú học tập cho các em, người thầy phải tạo cơ

hội cho các em tiếp nhận kiến thức và cơ hội trình bày, trao đổi những hiểu biết
của các em. Từ đó mới phát huy được tính tích cực chủ động của các em ở trên
lớp trong môn học Lịch sử.
Song hiện nay, theo xu thế phát triển của thời đại, thế hệ trẻ tiếp thu một cách
máy móc, thụ động kiến thức lịch sử dân tộc. Học sinh, phụ huynh luôn coi bộ
môn Lịch sử là bộ môn học thuộc lòng, là môn phụ. Vì vậy sau mỗi tiết học,
kiến thức học sinh nắm được rất mờ nhạt, có những sự kiện giáo viên vừa dạy
xong, hỏi lại một số em không trả lời được. Xuất phát từ thực trạng trên, để giúp
học sinh có hứng thú học tập lịch sử, sau mỗi bài giảng của thầy cô giáo, học
sinh có thể hiểu rõ bản chất và giải thích được các mốc lịch sử, nhân vật lịch sử,
quy luật phát triển lịch sử dân tộc, biết liên hệ với thực tế và làm việc có ích cho
1


cuộc sống, hạn chế tiêu cực cho xã hội. Đồng thời để nâng cao chất lượng bộ
môn và thực hiện quá trình dạy học theo phương pháp mới “Lấy học sinh làm
trung tâm”, giáo viên là người hướng dẫn, giúp học sinh chủ động tìm tòi khám
phá kiến thức, tạo cơ hội cho các em thể hiện khả năng của mình trước tập thể
và tự tin hơn trong cuộc sống, tôi luôn mong muốn tìm ra cách dạy những bài
Lịch sử khô khan khó nhớ, biến chúng thành những câu chuyện hấp dẫn và thú vị
hay thành những trò chơi lí thú với các em học sinh lớp 5. Chính vì vậy, trong
khuôn khổ sáng kiến này, tôi xin được chia sẻ cùng các đồng nghiệp “Một số
phương pháp dạy môn Lịch sử lớp 5” trên cơ sở tạo hứng thú cho học sinh trong
các giờ học Lịch sử. Hy vọng sẽ đóng góp một phần nhỏ bé, khơi dậy lòng tự hào
về truyền thống đấu tranh của dân tộc Việt Nam tới học sinh thân yêu của mình.
II. Mục tiêu nghiên cứu

Đưa ra những biện pháp nhằm tạo cho học sinh sự hứng thú, chủ động học
tập bộ môn Lịch sử đạt kết quả cao, từ đó chủ động nắm bắt tri thức khoa học
lịch sử, khôi phục bức tranh quá khứ một cách chính xác, đồng thời giúp thế hệ

trẻ phát huy niềm tự hào về truyền thống dân tộc.
Giúp giáo viên trau dồi, bồi dưỡng thêm được nhiều kiến thức lịch sử quý giá
qua quá trình nghiên cứu bài dạy.
Mặt khác, việc nghiên cứu đề tài trang bị cho giáo viên nhiều phương pháp
dạy học hay, từ đó vững vàng về chuyên môn.
III. Đối tượng, phạm vi, nhiệm vụ nghiên cứu
1. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu: Học sinh lớp 5A Trường Tiểu học Tích Lương II.
Phạm vi nghiên cứu: Sáng kiến tập chung nghiên cứu thực trạng giảng dạy
phân môn Lịch sử lớp 5. Các biện pháp nhằm tạo hứng thú, phát huy tính tích
cực của học sinh khi học môn Lịch sử lớp 5.
2. Nhiệm vụ nghiên cứu

- Nghiên cứu các văn bản chỉ đạo của cấp trên để định hướng cho việc dạy và
học môn Lịch sử lớp 5.

2


- Khảo sát thực thực trạng việc dạy - học môn Lịch sử lớp 5 ở trường tiểu
học. Căn cứ vào kết quả khảo sát, tiến hành thực nghiệm, đề xuất những biện
pháp về nội dung dạy học sinh nhằm phát huy tính tích cực của học sinh khi dạy
môn lịch sử lớp 5.
IV. Phương pháp nghiên cứu, thời gian nghiên cứu
1. Phương pháp nghiên cứu

Để hoàn thành quá trình nghiên cứu của sáng kiến, tôi đã sử dụng một số
phương pháp chính sau:
1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận bao gồm các phương pháp sau:

- Phương pháp đọc sách và tài liệu
- Phương pháp xây dựng đề cương
- Phương pháp xây dựng bản thảo
2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn bao gồm các phương pháp sau:
- Phương pháp phân tích sách giáo khoa, sách giáo viên.
- Phương pháp khảo sát.
- Phương pháp thực nghiệm.
Ngoài ra tôi còn sử dụng thêm một số phương pháp khác nhắm hỗ trợ cho
việc nghiên cứu.
2. Thời gian nghiên cứu

Sáng kiến kinh nghiệm này, tôi đã thực hiện từ tháng 9 năm 2015 đến
tháng 4 năm 2016. Trong thời gian trên tôi đã thông qua Ban giám hiệu nhà
trường, các giáo viên trong trường đặc biệt là phụ huynh học sinh của lớp 5A để
thu thập số liệu và thống kê số liệu điều tra để hoàn chỉnh sáng kiến.
V. Điểm mới của sáng kiến

Lịch sử là quá trình nhận thức những điều đã diễn ra trong quá khứ của xã
hội để hiểu về hiện tại và chuẩn bị cho tương lai. Khi nghiên cứu các hiện tượng
tự nhiên, người ta có thể trực tiếp quan sát chúng ở trong thiên nhiên hoặc ở
trong phòng thí nghiệm. Nhưng khi học lịch sử xã hội, con người không thể trực
tiếp quan sát và cũng không thể khôi phục lại diễn biến của nó trong phòng thí
nghiệm được. Do vậy, con người không thể tri giác trực tiếp những gì thuộc về
3


quá khứ. Mặt khác, lịch sử là những sự việc diễn ra, là hiện thực trong quá khứ,
là tồn tại khách quan, không thể phán đoán, suy luận để biết lịch sử. Vì vậy,
nhiệm vụ của môn Lịch sử là tái tạo lại lịch sử. Đây là vấn đề khó. Trong thực
tế, nhiệm vụ này không được thực hiện đúng yêu cầu của nó. Các sự kiện, hiện

tượng lịch sử thường được trình bày một cách trừu tượng, qua loa. Nhiều giáo
viên chỉ nêu câu hỏi, học sinh nhìn vào sách và trả lời.
Xuất phát từ tình hình thực tế của lớp, của trường và những thuận lợi khó
khăn nói trên, bản thân tôi luôn suy nghĩ làm thế nào để nâng cao chất lượng
giảng dạy môn Lịch sử bằng cách học tự giác, tích cực và có niềm tin hứng thú
say mê môn học. Làm được điều đó chính là giúp các em nắm được những kiến
thức cơ bản về lịch sử, các em sẽ hiểu hơn về truyền thống hào hùng của dân tộc
ta, từ đó các em sẽ có những nhận thức đúng đắn về việc làm của mình, giúp các
em thêm yêu con người, yêu quê hương đất nước Việt Nam, biết tôn trọng và
bảo vệ các di tích lịch sử và văn hóa của dân tộc.
VI. Kế hoạch nghiên cứu

Dự giờ thăm lớp, tiếp xúc gần gũi với học sinh; khảo sát nhận thức, hiểu
biết của các em về kiến thức lịch sử.
Đề ra các phương pháp tổ chức dạy học phù hợp với từng loại bài để giúp
các em lĩnh hội kiến thức lịch sử.

4


PHẦN THỨ HAI: NỘI DUNG
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA SÁNG KIẾN

I. Cơ sở lí luận

Đổi mới phương pháp dạy học ở trường tiểu học là cả một vấn đề rất quan
trọng, đây là con đường giúp học sinh tiếp cận với tri thức mới. Nhằm thay đổi
phương pháp học tập của học sinh từ xưa tới nay là: “Thầy giảng - trò nghe;
“Thầy đọc - trò ghi” ghi nhớ máy móc. Theo quan niệm dạy học mới, dạy học là
quá trình phát triển, là quá trình học sinh tự khám phá, tự tìm ra chân lý.

Cũng như các môn học khác, phương pháp dạy học lịch sử cũng đổi mới
theo định hướng đó. Tuy vậy, cần xem xét những yếu tố đặc trưng của bộ môn.
Mà đặc trưng nổi bật của nhận thức lịch sử là con người không thể tri giác trực
tiếp những gì thuộc về quá khứ. Mặt khác, lịch sử là những việc đã diễn ra, là
hiện thực đã tồn tại trong quá khứ, là tồn tại khách quan không thể phán đoán,
suy luận để biết lịch sử. Vì vậy, nhiệm vụ đầu tiên, tất yếu của việc dạy lịch sử là
tái tạo lịch sử, tức là cho học sinh tiếp nhận những thông tin từ sử liệu, tiếp xúc
với những chứng cứ vật chất, những dấu vết của quá khứ, tạo ra học sinh những
hình ảnh cụ thể, sinh động, chính xác về các sự kiện, hiện tượng lịch sử. Những
biểu tượng về con người và hành động ở của họ trong bối cảnh thời gian, không
gian xác định, trong những điều kiện lịch sử cụ thể. Vậy tái tạo lịch sử bằng
những phương thức nào?
Học sinh lớp 5 là lứa tuổi cuối bậc tiểu học, tưởng tượng tái tạo đã bắt đầu
hoàn thiện, từ những hình ảnh cũ, trẻ đã tái tạo ra những hình ảnh mới. Tưởng
tượng sáng tạo tương đối phát triển ở giai đoạn cuối tuổi tiểu học. Đặc biệt,
tưởng tượng của các em trong giai đoạn này bị chi phối mạnh mẽ bởi các xúc
cảm, tình cảm, những hình ảnh, sự việc, hiện tượng đều gắn liền với các rung
động tình cảm của các em.
Ở giai đoạn này, trẻ dần hình thành kĩ năng tổ chức, điều chỉnh chú ý của
mình. Trong sự chú ý của trẻ đã bắt đầu xuất hiện giới hạn của yếu tố thời gian,
trẻ đã định lượng được khoảng thời gian cho phép để làm một việc nào đó và cố
gắng hoàn thành công việc trong khoảng thời gian quy định.
5


Việc ghi nhớ có chủ định ở lứa tuổi này còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố như
mức độ tích cực tập trung trí tuệ của các em, sức hấp dẫn của nội dung tài liệu,
yếu tố tâm lý tình cảm hay hứng thú của các em.
Nắm được những đặc điểm này sẽ giúp giáo viên thiết kế bài giảng Lịch sử
một cách phù hợp và hiệu quả.

II. Cơ sở thực tiễn

Trong các môn học ở bậc Tiểu học Lịch sử là môn dạy khó, nhiều giáo viên
cho là môn khô khan, nói không khéo sợ sai kiến thức. Một số giáo viên vận
dụng ứng dụng công nghệ thông tin còn hạn chế, ngại sử dụng các trang thiết bị
nghe nhìn. Do đó chất lượng các giờ dạy học lịch sử chưa đạt như mong muốn.
Mặc khác, lịch sử là quá trình nhận thức những điều đã diễn ra trong quá khứ
của xã hội để hiểu về hiện tại và chuẩn bị cho tương lai. Khi nghiên cứu các hiện
tượng tự nhiên, người ta có thể trực tiếp quan sát chúng ở trong thiên nhiên hoặc
ở trong phòng thí nghiệm. Nhưng khi học lịch sử xã hội, con người không thể
được trực tiếp quan sát và cũng không thể khôi phục lại diễn biến của nó trong
phòng thí nghiệm được. Do vậy, con người không thể tri giác trực tiếp những gì
thuộc về quá khứ. Mặt khác, lịch sử là những sự việc diễn ra, là hiện thực trong
quá khứ, là tồn tại khách quan, không thể phán đoán, suy luận để biết lịch sử. Vì
vậy, nhiệm vụ của môn lịch sử là tái tạo lại lịch sử. Đây là vấn đề khó. Trong
thực tế, nhiệm vụ này không được thực hiện đúng yêu cầu của nó. Các sự kiện,
hiện tượng lịch sử thường được trình bày một cách trừu tượng, qua loa. Nhiều
giáo viên chỉ nêu câu hỏi, học sinh nhìn vào sách và trả lời.
Xuất phát từ tình hình thực tế của lớp, của trường và những thuận lợi khó
khăn nói trên, bản thân tôi luôn suy nghĩ làm thế nào để nâng cao chất lượng
giảng dạy môn Lịch sử bằng cách học tự giác, tích cực và có niềm tin hứng thú
say mê môn học. Làm được điều đó chính là giúp các em nắm được những kiến
thức cơ bản về Lịch sử, các em sẽ hiểu hơn về truyền thống hào hùng của dân
tộc ta, từ đó các em sẽ có những nhận thức đúng đắn về việc làm của mình, giúp
các em thêm yêu con người, yêu quê hương đất nước Việt Nam, biết tôn trọng
và bảo vệ các di tích lịch sử và văn hóa của dân tộc.
6


CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG DẠY - HỌC MÔN LỊCH SỬ LỚP 5


I. Đặc điểm tình hình chung của trường Tiểu học Tích Lương II

Trường Tiểu học Tích Lương II được tách ra từ trường cấp 1,2 Tích Lương.
Phong trào dạy tốt - học tốt sôi nổi và hiệu quả. Những năm gần đây nhà trường
đã có giáo viên dạy giỏi cấp thành phố.
Năm học 2015 - 2016 trường có 115 học sinh/5 lớp. Có 14 cán bộ giáo viên
trong đó Ban giám hiệu gồm 2 đồng chí. Các đồng chí giáo viên đều đạt trình độ
chuẩn và trên chuẩn. Đa số nhiệt tình, có tinh thần trách nhiệm cao, tay nghề
vững vàng và rất quan tâm đến học sinh.
Tập thể giáo viên trong trường luôn đoàn kết giúp đỡ nhau trong mọi lĩnh
vực. Các đồng chí luôn có ý thức tu dưỡng đạo đức tự học, tự rèn luyện để hoàn
thiện mình. Các em học sinh ngoan, lễ phép và sống rất tình cảm. Tuy nhiên,
phần đa các em học sinh đều là con nông thôn nên điều kiện kinh tế còn hạn
hẹp. Việc học tập của các em chưa được gia đình quan tâm đúng mức.
II. Một số đặc điểm chung của lớp 5A

- Tổng số học sinh lớp 5A năm 2015 - 2016: 20 em; Nữ: 11 em
- Số học sinh con hộ nghèo: 2 em
- 100% số học sinh trong lớp đều là con nông thôn nên việc đầu tư cho con
em mình học tập còn hạn chế ít quan tâm vì cha mẹ các em còn mải làm kinh tế.
Mặt khác phụ huynh thường chỉ quan tâm đến môn Toán và Tiếng Việt ít
quan tâm đến phân môn Lịch sử.
III. Điều tra thực trạng dạy và học Lịch sử lớp 5
1. Đối với giáo viên

Qua dự giờ, tìm hiểu các giờ dạy Lịch sử của các bạn đồng nghiệp, tôi nhận
thấy: Hiện nay, nhiều giáo viên tiểu học khi dạy giờ Lịch sử đã cố gắng vận
dụng các hình thức trao đổi, thảo luận nhóm nhưng còn quá nặng về hình thức
và học sinh chưa tích cực trong hoạt động. Nhiều giáo viên đã sử dụng các thiết

bị dạy học Lịch sử như tranh ảnh, tư liệu để minh họa cho lời giảng của mình mà
ít chú ý đến việc cho học sinh khai thác kiến thức từ các nguồn này. Do vậy mà

7


cách dạy học tích cực hướng tập trung vào học sinh chưa thực hiện một cách
triệt để.
Một số giáo viên đã cố gắng dạy học theo hướng tích cực như tổ chức cho
học sinh thảo luận theo nhóm, làm việc trong phiếu, tổ chức trò chơi học tập
nhưng số tiết học theo kiểu này còn quá ít vì chỉ được thực hiện trong những giờ
thao giảng hoặc thi giáo viên dạy giỏi.
Có giáo viên đã vận dụng công nghệ thông tin vào bài giảng nhưng chưa
khai thác triệt để thông tin, tư liệu chủ yếu chỉ để cho học sinh xem tranh một
cách qua loa. Một số ít giáo viên dùng phương pháp thuyết trình cốt sao cho
học sinh chỉ cần nhớ tên nhân vật và sự kiện lịch sử là đủ. Có trường hợp giáo
viên dạy bài Lịch sử như dạy một bài Tập đọc (cho học sinh đọc bài ở sách
giáo khoa một lượt, thảo luận rồi trả lời câu hỏi). Nhiều giáo viên chưa vận
dụng linh hoạt các phương pháp dạy học đặc trưng của bộ môn Lịch sử, chưa
có hệ thống câu hỏi gợi mở phù hợp để học sinh phân tích, tổng hợp và tìm
hiểu bài. Ngoài sách giáo khoa, giáo viên không có nội dung bổ trợ nào khác,
nên bài giảng chưa gây hứng thú cho học sinh học tập.
2. Đối với học sinh

Đa số học sinh coi bộ môn Lịch sử là dễ học. Vì vậy, các em ít chú ý nghe
giảng (vì giáo viên cũng chỉ nói những nội dung trong sách giáo khoa). Các em
ghi chép một cách máy móc những gì giáo viên ghi trên bảng và chỉ học thuộc
lòng những gì đã được ghi trong vở không biết kết hợp với sách giáo khoa, lại
càng không biết làm nảy sinh những vấn đề lịch sử cần được giải quyết.
Các em không chịu suy nghĩ, không biết phân tích vấn đề, hay nhớ nhầm lẫn

giữa nội dung này với nội dung khác, càng không biết nêu vấn đề để bàn bạc,
thảo luận và tìm hiểu. Chính vì vậy học sinh không hình dung được một cách
sinh động về các sự kiện lịch sử đã diễn ra cách các em rất xa. Các em có thói
quen ỷ lại, thụ động trong tiếp thu, dễ quên và trì trệ trong tư duy.
Để các phương pháp đưa ra sát với thực tế và có tính khả thi, tôi đã tiến
hành điều tra thực trạng, khảo sát chất lượng một số môn học của 20 học sinh
lớp 5A Trường Tiểu học Tích Lương II để tìm hiểu nguyên nhân.
8


Kết quả khảo sát như sau:

Môn học

Thích

Tỷ lệ

Bình
thường

Tỷ lệ

Không
thích

Tỷ lệ

Toán


12

60%

5

25%

3

15%

Tiếng Việt

11

55%

5

25%

4

20%

Lịch sử

5


25%

6

30%

9

45%

Bảng số liệu đã giúp ta thấy được số học sinh yêu thích môn Lịch sử thấp
hơn hẳn hai môn Toán và Tiếng Việt, điều đó phần nào phản ánh được thực trạng
dạy và học tập môn Lịch sử ở khối lớp 5 hiện nay.
Qua giảng dạy tôi nhận thấy kết quả chưa cao là do nguyên nhân cả hai
phía; người dạy và người học. Do vậy, tôi đã đặt ra cho mình mục tiêu: Phải trau
dồi kiến thức tìm ra phương pháp đổi mới trong hướng dẫn giảng dạy để khắc
phục thực trạng trên để kết quả dạy học được nâng lên, thu hút sự chú ý của học
sinh vào hoạt động học.
IV. Sơ lược nội dung chương trình môn Lịch sử lớp 5

Nội dung chương trình môn Lịch sử lớp 5 cung cấp cho học sinh một số
kiến thức cơ bản, thiết thực về các sự kiện, hiện tượng, nhân vật lịch sử tiêu biểu
tương đối có hệ thống theo dòng thời gian của lịch sử Việt Nam từ giữa thế kỉ
XIX đến nay.
Cụ thể như sau: Phân môn Lịch sử ở lớp 5 gồm 32 tiết chính khoá và 2 tiết
Lịch sử địa phương. 32 tiết chính khoá tập trung tìm hiểu về các nhân vật lịch sử
và sự kiện chính sau:
a. Dạng bài có nội dung về tình hình chính trị - kinh tế, văn hoá, xã hội.
b. Sự kiện lịch sử.
+ Hơn 80 năm chống thực dân Pháp (1858 - 1945)

+ Chín năm kháng chiến chống Pháp (1945 - 1954).
+ Kháng chiến chống Mỹ và xây dựng đất nước (1954 - 1975)
+ Ngoài ra còn 3 bài thuộc dạng bài ôn tập: bài 11, bài 18 và bài 29
+ Trong chương trình còn có 2 tiết Lịch sử dành cho địa phương

9


Nội dung chương trình được xây dựng khá vừa sức, phù hợp với mức tiếp thu
của học sinh. Tuy nhiên, tư liệu lịch sử được cung cấp khá bao quát, các sự kiện
được đề cập chưa đủ sức hấp dẫn đối với học sinh lớp 5.
CHƯƠNG III: CÁC PHƯƠNG PHÁP TỔ CHỨC DẠY HỌC VÀ KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC

I. Các phương pháp tổ chức dạy học
1. Tích cực chuẩn bị đồ dùng, sưu tầm tư liệu, tranh ảnh
a. Đối với giáo viên:

Để có tiết dạy tốt, đạt hiệu quả cao thì người giáo viên cần tích cực tự bồi
dưỡng; thường xuyên học tập, nghiên cứu và ghi chép lại những sự kiện, câu
chuyện, hình ảnh, sự vật, sự việc, nhân chứng lịch sử có liên quan đến các bài
dạy học lịch sử.
Sưu tầm tư liệu, tài liệu hỗ trợ giảng dạy và tự làm đồ dùng dạy học lịch sử
đặc biệt chú ý đến các sơ đồ, lược đồ. Đối với các bản đồ, lược đồ lịch sử phải
đảm bảo các yêu cầu sau:
+ Các bản đồ hoặc lược đồ đưa ra phải thực sự mẫu mực đạt yêu cầu chính
xác, to, rõ để mọi đối tượng học sinh đều quan sát được.
+ Giáo viên phải nghiên cứu kĩ bản đồ hoặc lược đồ đưa ra, tập trình bày
trước ở nhà để khi trình bày trước học sinh được mạch lạc hơn, chính xác và lôi
cuốn người nghe.
+ Đối với tranh ảnh về lịch sử, giáo viên cần chọn lọc những tranh có nội

dung phù hợp, thiết thực, tránh việc quá lạm dụng tranh ảnh, làm lệch đi nội
dung tiết học.
+ Đối với những bài dạy cần cung cấp các tư liệu lịch sử, giáo viên nên soạn
bằng giáo án điện tử. Giáo viên cần chuẩn bị các đoạn phim tư liệu tiêu biểu,
vừa phải, phù hợp thời gian nội dung bài dạy và trình độ của học sinh Tiểu học.
Ví dụ: Để dạy bài 10: “Bác Hồ đọc bản Tuyên ngôn Độc lập” tôi chuẩn bị
đoạn phim tư liệu Bác Hồ đọc Tuyên ngôn Độc lập trong thời gian 4 phút. Hoặc
để dạy bài 13: “Thà hi sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước”, tôi đã
chuẩn bị đoạn phim tư liệu lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ
Chí Minh.
10


b. Đối với học sinh

Tôi yêu cầu học sinh phải trang bị cho mình những tư liệu cần thiết phục vụ
tốt cho việc học tập môn Lịch sử, bằng cách lập quyển Sổ tay kiến thức lịch sử
(ghi chép những tài liệu lịch sử, sự kiện lịch sử trên các kênh thông tin, truyền
thanh, truyền hình hay được nghe kể, sưu tầm); mượn một số sách, truyện thiếu
nhi về nhân vật lịch sử có ở thư viện như bộ sách Lịch sử Việt Nam bằng tranh,
truyện về Phan Bội Châu, truyện Anh hùng Lao động Trần Đại Nghĩa, Cù Chính
Lan, La Văn Cầu, Phan Đình Giót,…
Ví dụ: Để chuẩn bị học bài: “Cuộc phản công ở kinh thành Huế” tôi yêu cầu
các em về sưu tầm hình ảnh của Vua Hàm Nghi, Tôn Thất Thuyết và hình ảnh
các nhân vật lịch sử của phong trào Cần Vương.
Tìm hiểu các đường phố, trường học nào mang tên các nhân vật lịch sử của
phong trào Cần Vương như: Phạm Bành, Đinh Công Tráng, Nguyễn Thiện
Thuật, Phan Đình Phùng.
Đến giờ học mới tôi cũng rất ngạc nhiên khi thấy các em sưu tầm được hình
ảnh của các nhân vật lịch sử của phong trào Cần Vương như Nguyễn Thiện

Thuật, Phan Đình Phùng (các em tìm hình qua Internet). Hoặc khi học bài:
“Quyết chí ra đi tìm đường cứu nước” tôi dặn các em về nhà tìm hiểu tranh ảnh
về quê hương của Bác, tranh ảnh về Bến Nhà Rồng và hình ảnh con tàu La-tu-sơ
Tờ - rê-vin.
Sau khi các em đã có nguồn tư liệu cá nhân, tôi định hướng cho học sinh
cách học.
2. Hướng dẫn học sinh cách học bộ môn Lịch sử theo từng loại bài
Để phát huy tính tích cực của học sinh trong phân môn Lịch sử lớp 5 thì việc
lựa chọn phương pháp dạy học và hướng dẫn học sinh cách học là rất quan
trọng. Giáo viên phải lựa chọn phương pháp phù hợp với từng bài và phù hợp
với đối tượng học sinh, sao cho học sinh phải tự khám phá ra kiến thức (dưới sự
hướng dẫn của giáo viên).
a. Với dạng bài dạy về nhân vật lịch sử:

Giáo viên yêu cầu học sinh sưu tầm tranh ảnh hoặc tư liệu về cuộc sống và sự
11


nghiệp của nhân vật lịch sử đó. Học sinh phải đọc sách giáo khoa trước ở nhà để
nắm được nội dung của bài mới về cuộc sống và sự nghiệp của nhân vật lịch sử
trước khi đến lớp.
Ví dụ: Trước khi học bài 2: “Nguyễn Trường Tộ mong muốn canh tân đất
nước” tôi yêu cầu học sinh về nhà tìm hiểu trước đôi nét về Nguyễn Trường Tộ.
- Học sinh dựa vào sách giáo khoa và Sổ tay kiến thức Lịch sử nên đã chuẩn bị
được: Nguyễn Trường Tộ (sinh năm 1830, mất năm 1871), quê ở huyện Hưng
Nguyên, Nghệ An. Nhà nghèo Nguyễn Trường Tộ phải đi học muộn nhưng ông
rất thông minh, học hành chăm chỉ nên chẳng bao lâu đã nổi tiếng là “Trạng Tộ”.
b. Với dạng bài dạy về sự kiện lịch sử:

Với dạng bài này, tôi yêu cầu học sinh sưu tầm tranh ảnh, tư liệu lịch sử có

liên quan tới bài học. Việc sưu tầm tranh ảnh, tư liệu là rất quan trọng giúp các
em dễ hình dung, dễ nhớ và nhớ lâu các sự kiện đó. Chính vì vậy, học sinh phải
sưu tầm tranh ở nhà, đọc trước sách giáo khoa, kết hợp với những tư liệu sưu
tầm được để học bài mới hiệu quả hơn. Nhờ vậy mà đến giờ học các em sẽ được
trình bày những cơ sở hiểu biết đã có của mình.
Ví dụ: Để học bài 7: “Đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời” tôi yêu cầu học sinh
tìm hiểu:
- Đảng ta được thành lập vào thời gian nào?
- Ai là người đứng ra hợp nhất các tổ chức cộng sản ở Việt Nam?
- Vì sao chỉ có lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc mới có thể thống nhất các tổ chức
Cộng sản ở Việt Nam?
- Sự kiện đó có ý nghĩa như thế nào đối với Cách mạng nước ta?
Nhờ sự định hướng trước như vậy mà học sinh đã chuẩn bị được các nội
dung phục vụ tốt cho tiết học, tạo tâm thế háo hức khi vào bài và mong muốn
được cô giáo gọi tên mình để thể hiện.
c. Với dạng bài ôn tập:

Với dạng bài này, tôi yêu cầu học sinh chuẩn bị các nội dung để ôn tập được
tốt: Nêu tên các giai đoạn lịch sử, kể được các sự kiện lịch sử tiêu biểu cũng như
các nhân vật lịch sử ứng với giai đoạn lịch sử đã học.

12


Ví dụ: Khi dạy bài: Ôn tập: “Hơn tám mươi năm chống thực dân Pháp xâm
lược và đô hộ (1858 - 1945)” tôi yêu cầu các em lập bảng thống kê các sự kiện
tiêu biểu, các nhân vật lịch sử tiêu biểu từ năm 1858 đến năm 1945, nội dung cơ
bản hoặc ý nghĩa lịch sử của các sự kiện đó.
Thời gian
1 - 9 - 1858

1858 - 1864


Sự kiện tiêu biểu

Các nhân vật lịch sử
tiêu biểu

Pháp nổ súng xâm lược nước ta
Phong trào chống Pháp của

Bình Tây Đại nguyên

Trương Định.


soái Trương Định.


Nhờ có sự chuẩn bị chu đáo như vậy, giúp cho tiết ôn tập đạt hiệu quả cao.
3. Hướng dẫn học sinh khai thác kiến thức qua các kênh hình

Hệ thống kênh hình trong sách giáo khoa của môn Lịch sử là: bản đồ, lược
đồ, tranh ảnh tư liệu và ảnh chân dung các nhân vật lịch sử. Hệ thống kênh hình
này không đơn thuần chỉ để minh họa mà nó còn có vai trò cung cấp thông tin,
nên người giáo viên phải hiểu và biết cách tổ chức khai thác phục vụ việc dạy
học và giáo dục lịch sử cho học sinh đạt hiệu quả.
Kênh hình trong sách giáo khoa của phân môn Lịch sử hiện nay nhiều, phong
phú, màu sắc và trình bày đẹp. Ngoài tính minh họa, mỗi bức tranh, bức ảnh còn
hàm chứa những thông tin lịch sử với mức độ khác nhau phục vụ việc dạy và

học đạt hiệu quả.
Khai thác kiến thức từ bản đồ, lược đồ lịch sử:

Lược đồ, bản đồ chủ yếu được bố trí ở các loại bài về các cuộc khởi nghĩa,
các chiến dịch, các trận đánh cách bố trí lực lượng hai bên và diễn biến của cuộc
khởi nghĩa, chiến dịch, trận đánh.
Ví dụ: Khi dạy bài 14: Thu - Đông 1947, Việt Bắc “mồ chôn giặc Pháp” tôi
yêu cầu học sinh làm việc với lược đồ theo định hướng sau:
+ Quân địch tấn công lên Việt Bắc theo mấy đường? Nêu cụ thể từng đường
và chỉ trên lược đồ.
+ Quân ta đã tiến công chặn đánh quân địch ở đâu?
+ Sau hơn một tháng tấn công Việt Bắc, quân địch rơi vào tình thế như thế nào?
+ Sau 75 ngày đêm chiến đấu, quân ta thu được kết quả ra sao?
13


+ Xác định vị trí của đường số 4 và các địa danh Bắc Kạn, Chợ Mới, Chợ
Đồn, đèo Bông Lau, Bình Ca, Đoan Hùng, sông Lô trên lược đồ.

Giờ học Lịch sử lớp 5

Khai thác kiến thức từ tranh ảnh lịch sử:

Trong quá trình giảng dạy tôi còn hướng dẫn học sinh khai thác triệt để kênh
hình trong sách giáo khoa, qua đó để các em hiểu rõ hơn nội dung bài học.
+ Ví dụ: Khi dạy bài: “Xô viết Nghệ - Tĩnh” sau khi đã hướng dẫn các em
khai thác nội dung bài tôi cho các em mở sách giáo khoa quan sát nội dung hình
2 (Người nông dân Hà Tĩnh được cày trên thửa ruộng do chính quyền Xô viết
chia cho trong những năm 1930 - 1931) sách giáo khoa trang 18 (Lịch sử 5) và
hỏi: Hình 2 phản ánh điều gì của phong trào Xô viết Nghệ - Tĩnh?

- Dựa vào hình ảnh các em đã nêu được: Ở những nơi nhân dân giành được
chính quyền cách mạng, người dân được cày trên thửa ruộng của chính mình,
còn trước đây sống dưới ách đô hộ của thực dân Pháp, người nông dân không có
ruộng, họ phải cày thuê, cuốc mướn cho địa chủ, thực dân hay bỏ làng đi làm ăn
ở nơi khác.
14


Với cách khai thác như vậy tôi thấy học sinh hứng thú hơn và nhớ bài
tốt hơn.
4. Cải tiến cách giới thiệu bài

Cách giới thiệu bài mới của môn Lịch sử cũng rất đặc trưng, rất khác với
những môn học khác. Để cho tiết học đạt hiệu quả thì cách giới thiệu bài ở môn
Lịch sử cũng cần đổi mới, cần đa dạng hóa để lôi cuốn học sinh. So sánh với
một vài ví dụ, chúng ta sẽ thấy rất rõ điều đó.
Cách 1: Tiết trước chúng ta đã học bài: “Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời”.
Đảng ra đời đã lãnh đạo phong trào cách mạng. Hôm nay chúng ta sẽ tìm hiểu
phong trào này qua bài: “Xô viết Nghệ - Tĩnh” (cách giới thiệu này chưa gây
được sự chú ý cho học sinh).
Cách 2: GV treo tranh hình 1 lên bảng.
+ Hãy mô tả những gì em thấy trong hình trên? (Tranh vẽ hàng vạn người,
tay cầm búa, liềm, giáo, mác, cuốc, xẻng tiến về phía trước. Đi đầu là những
người cầm cờ).

15


Giáo viên: Khí thế hừng hực mà chúng ta vừa cảm nhận được trong tranh
chính là khí thế của phong trào Xô viết Nghệ - Tĩnh, phong trào cách mạng lớn

nhất vào những năm 1930 -1931 ở nước ta do Đảng lãnh đạo. Chúng ta cùng tìm
hiểu về phong trào này qua bài học hôm nay: “Xô Viết Nghệ - Tĩnh”(Cách giới
thiệu này gây được sự chú ý cho học sinh hơn, ấn tượng hơn, gây cho các em sự
háo hức vào bài hơn). Vì vậy giáo viên cần chú ý giới thiệu bài sao cho gây
được cho học sinh sự tò mò muốn tìm hiểu hoặc mang ý nghĩa dẫn dắt. Chính vì
lẽ đó tôi thường xuyên quan tâm và đổi mới cách giới thiệu bài để lôi cuốn học
sinh như sau:
a. Giới thiệu bài bằng tranh ảnh, bản đồ:

+ Ví dụ khi dạy bài: “Bác Hồ đọc Tuyên ngôn Độc lập” tôi treo ảnh chụp
(hình 1) lên bảng và hỏi: Em hãy cho biết ảnh chụp này chụp cảnh ở đâu? và gắn
với sự kiện lịch sử nào? Học sinh trả lời, sau đó giáo viên giới thiệu: Tranh chụp
cảnh ở Quảng trường Ba Đình vào ngày 2 - 9 - 1945. Chính giữa là lễ đài, xung
quanh là đội danh dự đứng trang nghiêm. Cảnh trong tranh diễn tả cảnh trang
nghiêm của một buổi lễ trọng đại của dân tộc Việt Nam, mở ra một kỉ nguyên
mới cho dân tộc Việt Nam: Kỉ nguyên độc lập. Cô sẽ cùng các em tìm hiểu sự
kiện trọng đại này qua bài: “Bác Hồ đọc Tuyên ngôn Độc lập”.
16


Quảng trường Ba Đình Hà Nội ngày 2 - 9 - 1945
b. Giới thiệu bài bằng cách nêu tình huống có vấn đề:

- Học sinh tiểu học thường là thích tự mình khám phá những thắc mắc vì vậy
các em thường hứng thú với những gì mà mình chưa biết và tìm mọi cách để tìm
hiểu vì thế để thu hút các em tôi thường hay giới thiệu bài bằng những tình
huống có vấn đề để kích thích các em trong học tập như:
+ Ví dụ khi dạy bài: “Cách mạng mùa thu” tôi cho học sinh nghe bài hát
Mười chín tháng Tám của nhạc sĩ Xuân Oanh.
GV hỏi : - Bài hát có nhắc đến một ngày lịch sử. Đó là ngày nào?

- Em biết gì về ngày 19 tháng 8?
(Giáo viên: Ngày 19 tháng 8 là ngày kỉ niệm cuộc Cách mạng tháng Tám.
Diễn biến cuộc cách mạng này ra sao, cuộc cách mạng có ý nghĩa lớn lao như
thế nào với lịch sử dân tộc Việt Nam? Để biết được điều đó, chúng ta cùng tìm
hiểu qua bài học hôm nay: “Cách mạng mùa thu”).
+ Hay khi dạy bài: “Vượt qua tình thế hiểm nghèo” tôi nêu câu hỏi: Các em
có biết thế nào là tình thế: “Nghìn cân treo sợi tóc” không? và tại sao lại nói:
Ngay sau Cách mạng tháng Tám đất nước ta ở trong thế nghìn cân treo sợi tóc?
cô sẽ cùng các em tìm hiểu qua bài hôm nay.
17


c. Giới thiệu bài mang ý nghĩa dẫn dắt:

Ví dụ khi dạy bài: “Quyết chí ra đi tìm đường cứu nước” tôi đã hướng dẫn
học sinh như sau: Mặc dù đã có rất nhiều phong trào yêu nước chống thực dân
Pháp nổ ra có lúc rất mạnh mẽ song tất cả đều bị thất bại. Vậy khi tất cả các
phong trào yêu nước bị thực dân Pháp dập tắt thì cuộc sống của nhân dân ta thế
nào, hãy xem đoạn video sau để biết rõ điều đó (tổ chức cho học sinh xem video
cuộc sống của người dân Việt Nam cuối thế kỉ 19 đầu thế kỉ 20. Em cảm nhận
được điều gì khi xem đoạn băng? Hãy so sánh cuộc sống của người dân Việt
Nam).
Giáo viên: Vậy ai là người đã tìm ra con đường đúng đắn giúp nhân dân ta
giành lại độc lập, thống nhất đất nước và có cuộc sống ấm no hạnh phúc như
ngày hôm nay. Người đó là ai? Ý chí và quyết tâm của người như thế nào? Để
trả lời câu hỏi đó chung ta cùng đi tìm hiểu bài: “Quyết chí ra đi tìm đường
cứu nước”.
5. Tổ chức dạy học Lịch sử theo hướng tích cực

Như chúng ta đã biết, với phương pháp dạy học truyền thống thì hình thức tổ

chức dạy học cả lớp là phổ biến. Còn với phương pháp dạy học tích cực đòi hỏi
học sinh phải làm việc nhiều hơn, suy nghĩ nhiều hơn thảo luận nhiều hơn thì
giáo viên cần tổ chức linh hoạt nhiều hình thức dạy học trong một tiết học như:
dạy học cá nhân, dạy học theo nhóm (nhóm đôi, nhóm 4, nhóm bàn) và dạy học
toàn lớp.
a. Hình thức tổ chức dạy học cá nhân:

Giáo viên nên tổ chức cho học sinh làm việc theo phiếu học tập, tạo điều kiện
để mỗi học sinh tự suy nghĩ, tìm tòi, thể hiện tài năng, sở trường của mình. Học
tập cá nhân còn được tiến hành qua các hoạt động độc lập khác như viết, vẽ, sưu
tầm tranh ảnh.
Ví dụ : Khi dạy bài 11: “Ôn tập: Hơn tám mươi năm chống thực dân Pháp
xâm lược và đô hộ” tôi cho học sinh làm việc cá nhân theo nội dung ở phiếu học
tập sau:

18


Thời gian

Các sự kiện

(Giáo viên đưa ra)
1 - 9 - 1858
1858 - 1864
5 - 7 - 1885
1905 - 1908
5 - 6 - 1911
3 - 2 - 1930
1930 - 1931

8 - 1945
2 - 9 - 1945

(Học sinh trả lời)

Kết quả học sinh điền được như sau:
PHIẾU HỌC TẬP

Họ và tên: …………………………………….Lớp:……..
Em hãy nêu các sự kiện lịch sử ứng với các mốc thời gian sau:
Thời gian

Các sự kiện

(Giáo viên đưa ra)

(Học sinh trả lời)

1 - 9 - 1858

- Pháp nổ súng xâm lược nước ta

1858 - 1864

- Phong trào chống Pháp của Trương Định.

5 - 7 - 1885

- Cuộc phản công ở kinh thành Huế.


1905 - 1908

- Phong trào Đông Du.

5 - 6 - 1911

- Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước

3 - 2 - 1930

- Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời

1930 - 1931

- Phong trào Xô viết Nghệ - Tĩnh.

8 - 1945

- Cách mạng tháng Tám thành công.

2 - 9 - 1945

- Bác Hồ đọc bản Tuyên ngôn Độc lập.

(Phần in nghiêng là học sinh tự điền)
b. Hình thức tổ chức dạy học cả lớp:

19



Hình thức tổ chức dạy học này thường được dùng phổ biến trong các trường
hợp như: kiểm tra, đặt vấn đề vào bài mới, hướng dẫn cách học ở lớp và ở nhà.
Hoặc giảng giải và minh họa những kiến thức mà học sinh không có khả năng tự
học; thông báo, giao và giải thích nhiệm vụ học tập cho cá nhân, nhóm, lớp.
c. Hình thức tổ chức dạy học theo nhóm:

Đây là một phương pháp động viên được nhiều học sinh tham gia ý kiến,
không chỉ rèn luyện cho học sinh ý thức trách nhiệm trước tập thể, thói quen
bạo dạn hoạt bát mà còn có điều kiện bộc lộ khả năng nhận thức của bản thân
mình. Người giáo viên cần xác định rõ ý nghĩa và tác dụng hình thức dạy học
theo nhóm.
Cách tổ chức ở lớp:

Đối với học sinh: Trên cơ sở học sinh giữ vai trò tích cực, chủ động tham gia
thảo luận và học hỏi ý kiến lẫn nhau để tìm ra kiến thức. Cho nên việc phân chia
nhóm cũng tính đến các đối tượng trong lớp. Tùy theo nội dung bài học và số
lượng đồ dùng dạy học chuẩn bị được, giáo viên quyết định số học sinh ở mỗi
nhóm. Khi phân nhóm tôi luôn luân phiên học sinh làm nhóm trưởng, thư kí để
tạo cho các em có lòng tin ở bản thân mình, đồng thời giúp các em biết xử lí tình
huống nhanh nhẹn. Mặt khác giúp các em có tính nhút nhát, có điều kiện phát
biểu ý kiến của mình và dần dần các em mạnh dạn hơn. Những trường hợp này
giáo viên cần động viên giúp đỡ và khen ngợi kịp thời.
Đối với giáo viên: Khi cho học sinh thảo luận nhóm, cần tạo cho các nhóm
sinh hoạt thảo luận sinh động, có nội dung sâu sắc, tránh việc chỉ trình bày theo
hình thức. Muốn vậy người giáo viên cần theo dõi sát sao các nhóm thảo luận để
kịp thời nhắc nhở những em thiếu tập trung vào việc thảo luận nhóm. Qua đó ta
biết được các nhóm đã hiểu như thế nào, giải quyết vấn đề ra sao để hướng dẫn
giúp đỡ một cách cụ thể. Nếu nhóm nào lơ là cần nhắc nhở các em tập trung
tránh tình trạng chỉ có một nhóm trưởng và thư kí hoạt động.
Ở lớp, khi giao việc cho các nhóm giáo viên cần chú ý đến: Nội dung phiếu

giao việc, phiếu bài tập phải rõ, gọn đảm bảo tính vừa sức và phù hợp với thời
gian thảo luận. Khi học sinh phát biểu tôi luôn luôn tôn trọng ý kiến của học
20


sinh đồng thời tôi khuyến khích và tạo điều kiện cho các em nêu câu hỏi với bạn
hoặc với cô giáo. Cả lớp phát biểu ý kiến, bàn bạc đúng sai một cách sôi nổi.
Sau đó giáo viên tổng kết các ý kiến rồi đưa ra kết luận và tôi cũng không quên
tuyên dương các ý kiến hay. Chính những điều đó giúp các em phát huy tính tích
cực của mình.
Như vậy học theo nhóm sẽ tạo bầu không khí học tập sôi nổi. Học tập có
tổ chức, có trách nhiệm giữa các thành viên trong nhóm sẽ tạo được không
khí thi đua lành mạnh bổ ích. Với cách học này, mỗi học sinh được khuyến
khích, phát huy mọi khả năng cá nhân qua quan sát, nhận xét, phát biểu ý kiến
một cách chủ động.
6. Kết hợp sử dụng công nghệ thông tin trong giảng dạy

Một tiết học mà học sinh được quan sát những hình ảnh, những đoạn phim
ngắn sinh động, phong phú kết hợp với âm thanh vui nhộn, được trực tiếp vào
mạng Internet để tìm kiếm thông tin cho bài thì học sinh của chúng ta sẽ thích
thú và bị lôi cuốn đến từng nào? Học sinh tiểu học dễ nhớ nhưng mau quên.
Những bài học có điều gì mới lạ sẽ ghi sâu vào tâm trí của các em hơn. Việc vận
dụng công nghệ thông tin, sử dụng chương trình power point vào trong giảng
dạy phân môn Lịch sử đem lại hiệu quả rất cao.
Ví dụ: Khi dạy bài “Bác Hồ đọc Tuyên ngôn Độc lập” tôi đã soạn giảng bằng
giáo án điện tử. Trong quá trình dạy tôi đã kết hợp hài hòa giữa phương pháp
dạy học truyền thống và hiện đại nhằm đem lại hiệu quả cao nhất. Đặc biệt tôi
còn sử dụng đoạn phim tư liệu Bác Hồ đọc Tuyên ngôn Độc lập để cho học sinh
nghe. Nghe lời Bác đọc, cả lớp ai cũng xúc động, nghẹ ngào. Trước mắt cô và
trò là hình ảnh vị lãnh tụ vô vàn kính yêu của dân tộc Việt Nam đang đọc rõ

từng câu, từng lời. Đọc được nửa chừng Bác dừng lại hỏi: “Tôi nói đồng bào
nghe rõ không?” thể hiện sự đầm ấm, bao dung, độ lượng và có sức lan tỏa lớn.
Như vậy rõ ràng là vận dụng công nghệ thông tin sẽ đem lại hiệu quả cao trong
công tác nâng cao chất lượng dạy học.

21


7. Kết hợp với trò chơi học tập

Cùng với học, chơi là nhu cầu không thể thiếu được của học sinh Tiểu học.
Dù không là hoạt động chủ đạo, song vui chơi vẫn giữ một vai trò rất quan trọng
trong hoạt động sống và sinh hoạt của học sinh.
Trò chơi học tập là trò chơi có nội dung gắn với hoạt động học tập của học
sinh, hướng đến sự mở rộng, chính xác hóa, hệ thống hóa các kiến thức của các
em nhằm phát triển năng lực trí tuệ, giáo dục lòng ham hiểu biết của học sinh.
Trò chơi học tập có tác dụng làm thay đổi hình thức hoạt động học tập trên lớp,
làm không khí lớp học thoải mái, dễ chịu, giúp quá trình học tập trở nên hấp
dẫn, nhẹ nhàng, tự nhiên phù hợp với đặc điểm tâm lí học sinh Tiểu học là “học
mà chơi, chơi mà học”. Chính vì vậy, việc vận dụng trò chơi học tập một cách
hợp lí sẽ góp phần nâng cao hiệu quả giảng dạy cũng như hiệu quả giáo dục.
Sau đây là một số trò chơi mà tôi đã vận dụng trong quá trình giảng dạy:
Trò chơi: Ai là thủ lĩnh? (Dùng cho bài 3: Cuộc phản công ở kinh thành Huế)

Mục đích:
- Giúp học sinh nhớ tên các nhân vật lịch sử trong phong trào Cần Vương.
- Có hứng thú trong học tập.
- Giáo viên chuẩn bị 2 bảng phụ khổ lớn có ghi tên một số nhân vật lịch sử.
Học sinh quan sát và cho biết ai là thủ lĩnh trong phong trào Cần Vương?
Trương Định


Nguyễn Thiện Thuật

Phan Đình Phùng

Trương Quyền

Tôn Thất Thuyết

Cao Thắng

Nguyễn Trung Trực

Nguyễn Trường Tộ

Đinh Công Tráng

Trịnh Hoài Đức

Trò chơi: Ô chữ lịch sử (Dùng cho bài ôn tập )

Mục đích: Củng cố các kiến thức về các sự kiện, hiện tượng nhân vật lịch sử
tiêu biểu từ 1858 đến 1945.
- Ô chữ gồm 9 từ hàng ngang và 1 từ hàng dọc. Giải đúng 1 từ hàng ngang
được 1 mặt cười. Giải đúng từ hàng dọc được 5 mặt cười.
- Chia lớp thành 2 đội. Đội nào có số mặt cười cao hơn là đội thắng cuộc.
22


1/

2/
3/
4/
5/
6/
7/
8/
9/
Câu hỏi gợi ý như sau:
1/ Đây là nơi đóng đô của Triều đình nhà Nguyễn (3 chữ cái) HUẾ
2/ Tên bến cảng nơi người thanh niên Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu
nước. (7 chữ cái) NHÀ RỒNG
3/ Tên của phong trào có các cuộc khởi nghĩa như Ba Đình, Bãi Sậy, Hương
Khê. (8 chữ cái) CẦN VƯƠNG
4/ Tên cuộc cách mạng mùa thu của dân tộc ta. (8 chữ cái) THÁNG TÁM
5/ Đây là điều mà Nguyễn Tất Thành hỏi anh Tư Lê có giữ kín được không?
(5 chữ cái) BÍ MẬT
6/ Ông vua nào gắn liền với tên tuổi Tôn Thất Thuyết. (7 chữ cái) HÀM NGHI
7/ Đây là một địa danh có bến cảng Nhà Rồng. (6 chữ cái) SÀI GÒN
8/ Tên của Bác Hồ khi làm đầu bếp trên tàu La-tu-sơ Tờ-rê-vin (5 chữ cái)
VĂN BA

9/ Đây là quê hương của Bác Hồ, của Nguyễn Trường Tộ và của Phan Bội
Châu. (6 chữ cái) NGHỆ AN
- Từ hàng dọc là HỒ CHÍ MINH.

23



×