Tải bản đầy đủ (.doc) (63 trang)

Bộ đề thi và đáp án môn Triết học Mac - Lenin

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (289.9 KB, 63 trang )

Nhóm Sinh viên khoa Triết học, trường ĐHSP Hà Nội

ĐỀ THI - ĐÁP ÁN TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN

Câu 1: Trình bày định nghiã vật chất của LN,
Đặt vấn đề: Khẳng định phạm trù v/c là cơ bản, xuất phát điểm của triết
học. Việc trả lời vật chất là gì cũng như việc thừa nhận hay bác bỏ nó có liên
quan đến việc giải quyết vấn đề triết học.
+ Xung quanh vấn đề này luôn luôn thể hiện những quan điểm khác nhau,
giữa duy vật và duy tâm, giữa CNDV cũ và CNDV biện chứng.
Nội dung- Chủ nhĩa duy tâm bao gồm CNDT chủ quan và CNDT khách
quan cả hai đều bác bỏ đặc tính tồn tại khách quan của vật chất. Theo họ, vật chất
là một hình tức khác của ý niệm tuyệt đối, hoặc là sản phẩm của cảm giác chủ
quan của con người. Các quan điểm trên đây đã bị sự phát triển của khoa học và
thực tiễn bác bỏ
- Chủ nghĩa duy vật trước Mác luôn khẳng định sự tồn tại khách quan của
thế giới vật chất họ lý luận từ giới tự nhiên để giải thích giới tự nhiên. Vì vậy họ
đã có vai tò rất to lớn trong cuộc đấu tranh chống lại CNDT trong quan niệm vật
chất. Tuy thế nhưng CNDV trước Mác lại thường đồng nhất v/c với vật thể, coi
vật chất được cáu tạo từ các vật thể cụ thể như: Nước, lửa, không khí, nguyên
tử…đó là những quan niệm mang tính chất siêu hình về v/c. Chính vì vật, trước
sự phát triển của KHTN, họ trở nên lúng túng và đã rơi dần vào quan điểm duy
tâm.
- Chỉ có triết học MLN mới đưa ra được một quan điểm đúng đắn mang
tính cách mạng và khoa học về vật chất. Lê Nin, trên cơ sở kế thừa tư tưởng duy
vật, kế thừa những tư tưởng thiên tài của Mác - ăng ghen bằng sự tổng kết xuất
sắc những thành tựu của KHTN cuối thế kỉ 19 đầu thế kỉ 20 đã đưa ra được một
đ/n kinh điển về v/c
“V/c là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại KQ, được đem lại
cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại
và phản ánh và tồn tại không lệ thuộc và cảm giác”




Như vậy:Theo Lê Nin v/c trước hết là một phạm trù triết học, nghĩa là v/c
là phạm trù rộng nhất, khái quát về đặc tính cơ bản nhất, mà mọi SVHT của thế
giới đều có.
Thứ nhất, với tư cách là một phạm trù triết học, Lê Nin yêu cầu không được
đồng nhất v/c với vật thể cụ thể, bởi vì v/c tồn tại vĩnh viễn vô cùng, vô tận còn
các vật thể cụ thể chỉ tồn tại trong không gian và thời gian nhất định; v/c nói
chung tức là v/c với tính cách là một phạm trù, thì không có sự tồn tại cảm tính,
nghĩa là người ta không thể cảm biết được một cách trực tiếp bởi các giác quan.
Còn các vật thể cụ thể lại tồn tại một cách cảm tính.
Với tính cách là một phạm trù triết học, thì một đ/nghĩa duy nhất đúng về
phạm trù v/c, là phải đ/nghĩa nó, phải thông qua phạm trù đối lập với nó, đó là ý
thức. Theo đó chúng ta phải chỉ ra được một thuộc tính nào đó, mà mọi dạng v/c
đều có và đặc tính này lại có tác dụng phân biệt được sự khác nhau giữa v/c nói
chung với vật thể cụ thể
Thứ hai:Vật chất dùng để chỉ hiện thực khách quan. Hiện thực khách quan
là một thuộc tính của thế giới V/c. đó là thuộc tính tự thân tồn tại, tồn tại một cách
độc lập và có trước ý thức của tất cả các sự vật hiện tượng V/c
Thứ ba Phạm trù V/c dùng để chỉ tất cả các sự vật hiện tượng mà con
người có thể nhận thức được một cách trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua các
giác quan. Nói một cách khác, không có cái gì là không thể biết chỉ có sự khác
giữa cái đã biết và cái chưa biết do hạn chế của những giác quan của con người
trong mỗi thời điểm lịch sử nhất định. Như vậy về nguyên tắc con người có thể
nhận thức được toàn bộ thế giới v/c
Ý nghĩa định nghĩa vật chất của LN thực sụ mang tính cách mạng khoa
học. Lần đầu tiên trong một định nghĩa LN giải quyết đuợc trọn vẹn được cả hai
mặt của vấn đề cơ bản của triết học, vừa khẳng định V/c là cái có trước, là cái
quyết định; ý thức là cái có sau, cái bị quyết định; vừa khẳng định khả năng nhậ
thức thế giới của con người, do đó vừa chống được quan điểm duy tâm, vừa

khắc phục được hạn chế của CNDV trước Mác, vừa chống được thuyết “Bất khả
tri” đồng thời lại có tác dụng cho KHTN phát triển.
2


Phương pháp luận
Trong nhận thức thực tiễn, chúng ta phải phản ánh và tác động vào thế giới
đúng như nó có, đúng với bản chất của quy luật vận động của sự vật hiện tượng.
Chống tô hồng, bóp méo sự thật, chống chủ quan duy ý chí áp đặt
Trong NQ đại hội IX của đảng đặc biệt qua tâm dến việc xuất phát từ thực
tiễn cuộc sống và CM Việt Nam để đề ra đường lói, xác định chủ trương giải
pháp.
Trong QSự, phải phản ánh đúng bản chất quy luật vận động của chiến
tranh và đấu tranh vũ trang của quá trình xây dựng QĐ, để có đường lối xây
dựng QĐ phù hợp

Câu 2: Trình bày những hình thức tồn tại cơ bản của v/c
Đặt vấn đề: Sự khác nhau về N/tắc giữa qđiểm của triết học MLN với các
học thuyết triết học khác không phải là ở chỗ trả lời câu hỏi v/c là gì mà còn là
và chủ yếu là luận giải phương thức Ttại của v/c. Trả lời xem v/c tồn tại bằng
cách nào và tồn tại ở đâu?
Các nhà kinh điển của triết học Mác đều khẳng định rằng v/c tồn tại bằng
cách vận động thì không thể vận động ở đâu khác ngoài không gian và thời gian.
Như vậy: Theo quan điểm của triết học Mác vận động là một phương thức
tồn tại của v/c. Nói đến vận động là người ta nói đến mọi sự biến đôỉ nói chung,
một dạng v/c cụ thể nào đó có thể không có thuộc tính này hay thuộc tính khác.
Nhưng không thể không có thuộc tính vận động. Đây là thuộc tính chung cố
hữu của mọi dạng vật.
+ Chính vì vậy vân động là đặc tính cố hữu của v/c nên nó trở thành
phương thức tồn tại của v/c. Nói như thế có nghĩa là v/c tồn tại bằng cách vận

động và chỉ có thông qua vận động thì v/c mới biểu hiện sự tồn tại thực sự của
mình. Ăng ghen khẳng định: một dạng v/c mà không vận động thì không có gì
để nói cả.

3


+ Chính vì vận động là phương thức tồn tại của v/c nên nó mang tính v/c,
nghĩa là vận động thì luôn mang tính K/quan, mang tính phong phú muôn vẻ về
phạm vi tính chất, đồng thời lại mang tính vĩnh viễn vô cùng và vô tận nó được
bảo toàn cả về mặt số lượng (tổng số vận động không thay đổi và về mặt chất
lượng các hình thức vận động cơ bản của thế giới v/c chuyển hóa sang hình thức
vận động khác trong những điều kiện xác định).
+ Ăng ghen vào thời đại của mình đã phân chia các hình thức muôn vẻ
của sự vận động của thế giới v/c thành 5 hình thức khác nhau về đặc trưng cho 5
trình độ kết cấu khác nhau từ thấp tới cao là vận động cơ học, vạn đọng vật lí,
vận động hóa học, vận động sinh vật và vận động xã hội
Ơ đây cần lưu ý rằng: không được quy hình thức vận động cao về hình
thức vân động thấp và không được đồng nhất các hình thức vạn động với nhau,
bởi vì nó sẽ dẫn đến những sai lầm tệ hại trong thục tiễn của con người (Phê
phán thuyết Đác Uyn xã hội và thuyết Man Tuýt)
+ Trong khi khẳng định sự vận động của thế giới v/c là tuyệt đối, vĩnh
viễn; Mác- Ăng ghen cũng thừc nhận sự đứng in tương đối của thế giới v/c, vì
nó là điều kiện để tồn tại là cơ sở để chuyển hóa, biến đổi.
*Ý nghĩa
- Quán triẹt quan điẻm vận động trong xen xét đánh giá sự vật hiện tượng,
phê phán quan điểm bảo thủ, trì trệ, định kiến trong xem xét đánh giá sự vật hiện
tượng.
- Quán triệt quan điểm này trong xem xét con người và tổ chức QS, chống áp
đặt, chống định kiến khiêm cưỡng.

* Triết học mác khẳng định v/c vận dộng trong không gian, thời gian
+ Nói đến không gian là người ta nói đến phạm trù dùng để chỉ hình thức
tồn tại của v/c xét trên phương diện quảng tính, kết cáu độ dài, ngắn, cao thấp,
rộng hẹp của SVHT . Còn nói đến thời gian là nói đén phạm trù dùng để chỉ 1
hình thức tồn tại của v/c về mặt diễn biến, kế tiếp nhau của các quá trình.

4


+ Như vậy: Không gian và thời gian là hai phạm trù phản ánh hai khía
cạnh khác nhau trong phương thức tồn tại của v/c, không gian thì có 3 chiều,
thời gian chỉ có 1 chiều từ quá khứđến tương lai.
+ Tuy thế không gian và thời gian lại có những tính chất chung sau đây:
Một là: Tính khách quan, cả không gian và thời gian đều tồn tại gắn lièn
với v/c, vận động mà v/c vận động là tồn tại khách quan cho nên không gian thời
gian và thời gian cũng tồn tại một cáh khách quan và phụ thuộc vào sự tồn tại
của v/c
Hai là: Tính vĩnh viễn vô cùng, vô tận, không gian và thời gian của một
SVHT cụ thể thì có hạn, nhưng không gian và thời gian của v/c nói chung thì
vĩnh viễn vô cùng vô tận, vô thẳng, vô chung
Ba là: Không gian và thời gian gắn kết với nhau thành một thể thống nhất
không gian- Thời gian. Nghĩa là đi cùng với một tính quy định về không gian là
một tính quy định về thời gian và ngược lại.
* ý nghĩa :
- Đây là cơ sở khoa học để chống lại quan điểm của CNDT phủ nhận tính
khách quan của sự vận động và không gian, thời gian của v/c
- Là cơ sở lí luận phê phán quan điểm siêu hình trong quan niệm về vận
động cũng như không gian và thời gian.
- Là cơ sở lí luận để q/triệt q/điểm LS cụ thể trong việc phân tích đánh giá
SVHT


Câu 3 Trình bày nguồn gốc, bản chất ý thức:
Đặt vấn đề:
Xung quanh vấn đề nguồn gốc, bản chất của ý thức từ xưa đến nay trong
lịch sử triết học luôn luôn diễn ra cuộc đấu tranh giữa quan điểm duy vật và duy
tâm, luôn thể hiện sự khác nhau giữa chủ nghĩa duy vật cũ trước Mác với chủ
nghĩa duy vật biện chứng.
5


Nếu như CN duy tâm từ xưa đến nay đều phủ nhận nguồn gốc tự nhiên và
b/c XH của ý thức thì CN duy vật cũ trước Mác lại chỉ thấy nguồn gốc tự nhiên
của ý thức. Chỉ đến khi triết học Mác ra đời mới xuất hiện một quan niệm mang
tính CM và KH về nguồn gốc và b/c của ý thức.
Theo quan niệm của CN MLN thì ý thức là một phạm trù triết học dùng để
chỉ hình thức phản ánh cao nhất riêng có của óc con người về hiện thực KQ trên
cơ sở thực tiễn.
Như vậy:
Thứ nhất: Xét về mặt tự nhiên ý thức ý thức là sự sản phẩm của sự tiến
hóa lâu dài của thế giới động vật, xét về mặt kết cấu và chức năng phản ánh
tương ứng.
Khoa học đã c/minh rằng t/g v/c đã trải qua một quá trình tiến hóa lâu dài
về mặt kết cấu, theo đó kết cấu v/c phát triển dần dần từ thấp đến cao, từ đơn
giản đến phức tạp, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện cụ thể là: Thế giới ấy phát
triển từ vô cơ lên hữu cơ, từ thế giới không có sự sống đến thế giới có sự sống,
từ cơ thể đơn bào đến cơ thể đa bào, từ thực vật lên động vật, từ động vật bậc
tháp lên động vật bậc cao … Trong đó con người với bộ óc của họ là sản phẩm
phát triển cao nhất của thế giới v/c xét về mặt kết cấu. Óc người là một dạng v/c
đặc biệt có tổ chức cao là nền tảng v/c cho sự phát triển của ý thức
Khoa học cũng chứng minh rằng: Tương ứng với sự phát triển của thế giới

v/c về mặt kết cấu như đã nói ở trên thì một đặc tính vốn có cố hữu của t/g v/c đặc tính phản ánh cũng có một quá trình phát triển dần dần từ thấp đến cao, từ
đơn giản đến phức tạp, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện, từ sự phản ánh mang
tính chất soi gương, chụp ảnh của t/g vô cơ đến sự phản ánh mang t/c lựa chọn
của t/g hữu cơ, từ những phản xạ vô điều kiện của động vật bậc thấp đến phản
xạ có điều kiện của động vật bậc cao. Từ hình thức phản ánh mang tính chất tâm
lí của động vật có hệ thần kinh phát triển lên sự phản ánh mang tính ý thức chỉ
có ở con người, ý thức là hình thức phản ánh cao nhất riêng có của con người.
Nói một cách khác thế giới KQ, sự tác động của thế giới KQ óc con người phát
triển bình thường đo nguồn gốc tự nhiên của ý thức.
6


Thứ hai: YT không những có nguồn gốc TN mà còn là, chủ yếu là có
nguồn gốc XH
KH đã c/m rằng: ý thức của con người không chỉ là sản phẩm của TN mà
còn chủ yếu là sản phẩm của XH, các quan hệ của XH, là sản phẩm của hoạt
động v/c mang tính người của con người chính là thực tiễn trước hết là thực tiễn
LĐSX. Chính lao động một mặt đã sáng tạo ra chính bản thân con người hoàn
thiện các cơ quan phản ánh của con người làm cho bộ óc của con vượn phát
triển thành bộ óc của con người. Song song và đồng thời cùng lao động là ngôn
ngữ ra đời. Sự ra đời của ngôn ngữ đã làm cho ý thức của con người phát triển
nhanh chóng hơn bao giờ hết. Vì ngôn ngữ là cái vỏ v/c của tư duy. Theo đó
người ta dễ trao đổi tri thức kinh nghiệm với nhau, dễ truyền thụ kinh nghiệm tri
thức của thế hệ này cho thế hệ khác.
Thứ ba: Xét về mặt bản chất ý thức cuả con người là hình ảnh chủ quan
của thế giới KQ. Nói như thế có nghĩa là ý thức của con người là hình ảnh của
thế giới v/c là tính thứ hai, là bản sao về thế giới v/c; thế giới v/c tồn tại trong ý
thức con người dưới dạng hình ảnh lí tính, dưới dạng các khái niệm, các phạm
trù, sự phản ánh thế giới KQ vào có bộ óc con người luôn luôn thông qua lăng
kính của chủ thể nghĩa là nó phụ thuộc vào kinh nghiệm tri thức lợi ích của từng

chủ thể. Vì thế cùng một hiện tượng KQ như nhau nhưng với mỗi chủ thể khác
nhau thì hình ảnh của nó trong ý thức của họ cũng không như nhau. Mặc dù vậy
sự phản ánh của ý thức đối với hiện thực KQ bao giờ cũng mang tính tích cực
chủ động, sáng tạo. Vì nói đến ý thức là nói đến ý thức của con người mà con
người đi phản ánh hiện thực bao giờ cũng mang tính mục đích, bao giờ cũng
mang tính chủ động và cũng luôn luôn có tính sáng tạo.
Ý nghĩa: - Đây là cơ sở KH chống lại quan điểm của CNDT trong quan
niệm về nguồn gốc b/c của ý thức. Những quan niệm về của CNDT phủ nhận
nguồn gốc, tự nhiên, phủ nhận ND k/quan của ý thức là hoàn toàn trái với KH
và không đúng về mặt lí luận.
+ Phê phán quan đỉêm của CN duy vật siêu hình không thấy được vai trò
của thực tiễn đối với việc hình thành ý thức.
7


- Với CTĐ, CTCT: đây là cơ sở lí luận KH của ta vận dụng vào việc xác
định nội dung hình thức, biện pháp tiến hành CTĐ, CTCT hiện nay.
+ Cung cấp cho bộ đội đầy đủ những thông tin về đất nước, quốc tế, quân
đội … Tạo điều kiện cho họ nhận thức đúng tình hình.
+ Có quan điểm giáo dục một cách toàn diện cả về kinh nghiệm, cả về
trình độ, cả về ý thức chính trị lợi ích g/c … tạo ra thống nhất về mặt lăng kính.
Qua đó thống nhất ý trí hành động
Căn cứ vào từng đối tượng bộ đội cụ thể để có nội dung hình thức
CTĐ,CTCT cho phù hợp.

Câu 4: Mối quan hệ vật chất- ý thức; khách quan- chủ quan
Đặt vấn đề: Thế giới tồn tại xung quanh chúng ta chỉ có hai hiện tượng:
vật chất hoặc ý thức. Đây là hai phạm trù rộng nhất, hai phạm trù có mối liên hệ
biện chưng với nhau. Tuy nhiên, vị trí vai trò của từng yếu tố là không ngang
bằng nhau, trong đó V/c quyết định ý thức, ý thức tác động trở lại V/c. Việc

nghiên cứu và nắm vững hai phạm trù này có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong
giải quyết vấn đề thực tiễn là KQ và CQ trong hoạt động QS
1.Quan niệm về MQH vật chất, ý thức trong LS triết học:
- Quan điểm duy tâm cho rằng: ý thức là tính thứ nhất, V/c là tính thứ hai,
họ tuyệt đối hóa vai trò của ý thức, cho rằng ý thức là sáng tạo ra tất cả. Đây là
cơ sở dẫn đến hoạt động phưu lưu mạo hiểm, tả khuynh, duy tâm, duy ý chí.
- Quan điểm siêu hình: Khẳng định V/c là tính thứ nhất, ý thức là tính thứ
hai, nhưng họ lại tuyệt đối hóa vai trò của V/c mà không thấy vai trò của ý thức
của con người trong cải tạo thế giới. Đây là cơ sở cho hành động bó tay, đầu
hàng trước hoàn cảnh trong hoạt động thực tiễn
2. Quan điểm của CNMLN về MQH vật chất- ý thức:
Trên lập trường duy vật biện chứng, CNMLN khẳng định: Giữa V/c và ý
thức có MQH biện chứng với nhau. V/c là tính thứ nhất, ý thức là tính thứ hai,
V/c quyết định ý thức, ý thức có tác động to lớn trở lại V/c.
8


- Đây là sự khác nhau về chất trong việc giải quyết MQH giữa 2 phạm trù
V/c và ý thức. Nó vừa khẳng định MQH giữa hai phạm trù, vừa nhìn thấy vai
trò, vị trí từng phạm trù.
+ Vật chất quyết định ý thức, ý thức phụ thuộc và V/c ý thúc chỉ là sản
phẩm của dạng vật chất có tổ chức cao. Đến đây, quan điểm về MQH vật chất, ý
thức của CNM đã phân biệt rõ giữa CNDVBC với CNDT (Bởi CNDT khẳng
định ý thức là tính thứ nhất, V/c là tính thứ hai)
+ Đồng thời triết học MLN cũng chỉ rõ vai trò tác động trở lại của ý thức
đối với V/c. Đây chính là điểm mấu chốt để phân biệt quan điểm duy vật biện
chứng với quan điểm siêu hình (chỉ nhìn htấy vai trò của V/c mà không nhìn
thấy vai trò tác động trở lại của ý thức)
- Vật chất quyết định ý thức là quyết định:
+ Sự ra đời của ý thức: ý thức là sản phẩm phát triển lâu dài của thế giới

V/c
+ Nội dung của ý thức: Nội dung phản ánh của ý thức là phản ánh lại thế
giới V/c.
+ Bản chất ý thức: Bản chất ý thức là hình ảnh chủ quan về thế giới khách
quan.
- Ý thức tác động trở lại V/c:
+ Ý thức phản ánh tích cực chủ động sáng tạo lại thế giới V/c.
+ Ý thứcđề ra chủ trương, biện pháp cải tạo thế giới.
+ Ý thức hướng dẫn hoạt động thực tiễn.
3. ý nghĩa giải quyết MQH khách quan, chủ quan trong lĩnh vực quân
sự:
- Xuất phát từ việc giải quyết MQH vật chất, ý thức, triết học MLN dã
trang bị phương pháp luận khoa học trong giải quyết MQH khách quan, chủ
quan trong hoạt động QS.

9


- Khách quan, chủ quan trong hoạt động QS có MQH biện chứng với
nhau, tác động qua lại lẫn nhau, trong đó khách quan quyết định chủ quan, chủ
quan tác động trở lại KQ
+ Trong Hđộng QS, K/quan quyết định: - Mục đích của hoạt động QS
- P/tiện, V.khí, con người cho Hđộng QS
+ Chủ quan trong hoạt động QS tác động trở lại:
Nhận thức quy luật hoạt động QS, điều kiện KQ hoạt động QS, khả năng
khách quan trong hoạt động QS, trên cơ sở đó, đề ra mục đích, biện pháp cải tạo
thực tiễn QS.
Hướng dẫn tổ chức hoạt động QS, khi điều kiện cho phép nó quyết định đến
thành bại trong hoạt động QS.
4. Ý nghĩa phương pháp luận:

- Trong hoạt động thực tiễn phải luôn xuất phát từ khách quan, lấy khách
quan làm tiền đề cho mọi hoạt động, đồng thời phải phát huy năng động chủ
quan trong hoạt động thục tiễn.
- Trong hoạt động QS phải tôn trọng KQ, xuất phát từ quy luật KQ, điều
kiện KQ, khả năng KQ. Đồng thời phải phát huy tính năng động chủ quan của
người chỉ huy, năng lực cán bộ, chiến sĩ trong đơn vị

Câu 5: Nguyên lí về mối liên hệ phổ biến và nguyên lí về sự phát triển
Đặt vấn đề: Đây là hai nguyên lí cơ bản của phép biện chứng duy vật, nó
khẳng định giữa các SVHT trong thế giới luôn tồn tại trong mối liên hệ phổ biến
tác động qua lại lẫn nhau tạo nên sự vận động phát triển không ngừng. Vì vậy
việc nghiên cứu và nắm vững hai nguyên lí cơ bản của phép biện chứng duy vật
có một ý nghĩa rất lớn trong xem xét cải tạo các SVHT trong hoạt động thực
tiễn.
1/ Nguyên lý liên hệ và phổ biến

10


Trong LS triết học đã từng có Q/điểm không thừa nhận sự liên hệ giữa các
SVHT. Q/điểm của các nhà siêu hình họ xem xét thế giới trong sự cô lập, tách
rời, giữa các SVHT không liên hệ với nhau. Nếu phải thừa nhận họ chỉ thừa
nhận mối liên hệ hời hợt bên ngoài, không lên hệ, không chuyển hoá lẫn nhau,
cái nọ đặt bên cạnh cái kia. Ăng ghen đã nhận xét họ chỉ nhìn thấy cây mà
không nhìn thấy rừng, thấy sự vật mà không nhìn thấy chúng.
- Quan điểm duy vật biện chứng: Liên hệ là phổ biến, là sự tác động qua
lại lẫn nhau, giàng buộc ảnh hưởng quyết định lẫn nhau giữa các SVHT, các đối
tượng v/c, giữa các mặt của sự vật trong đời sống vật chất.
+ Liên hệ là khách quan, phổ biến:
Bất cứ sự vật nào cũng tồn tại trong mối liên hệ, giàng buộc với sự vật

khác, không có cái gì ra đời từ cái hư vô, tất cả đều có nguồn gốc của nó.
Ví dụ: Trong tự nhiên: Sự tác động liên hệ lẫn nhau giữa động vật và thực
vật.
Trong xã hội: Liên hệ giữa kinh tế - chính trị, giữa đời sống vật chất và
đời sống tinh thần, giữa người với người.
Trong tư duy: giữa các phạm trù - khái niệm, giữa biết và chưa biết
Như vậy liên hệ là khách quan, là phổ biến đối với mọi SVHT.
+ Liên hệ có tính phong phú muôn vẻ
Xuất phát từ:
- Bắt nguồn từ tính phong phú muôn vẻ của thế giới v/c. V/c biểu hiện sự
tồn tại của mình bằng các SVHT vô cùng phong phú.
- Biểu hiện tính phong phú muôn vẻ:
Có những mối liên hệ tác động đến nhiều lĩnh vực rộng lớn của thế giới
(Mối liên hệ: bản chất - hiện tượng, mối liên hệ cái chung cái riêng, nội dung hình thức ... )
Có mối liên hệ chỉ dẫn ra trong một lĩnh vực, một sự vật cụ thể (Ví dụ
đồng hoá, dị hoá chỉ dẫn ra trong lĩnh vực sinh học)
11


Có mối liên hệ trực tiếp, có mối liên hệ gián tiếp, ví dụ người với người
trong quan hệ sản xuất v/c (trực tiếp), sản xuất - tiêu dùng phải qua lưu thông
phân phối (gián tiếp).
Có mối liên hệ bên trong, có mối liên hệ bên ngoài, có mối liên hệ tất
nhiên, có mối liên hệ ngẫu nhiên.
- Có mối liên hệ cơ bản, có mối liên hệ không cơ bản, có mối liên hệ quyết
định sự tồn tại phát triển của sự vật, có mối liên hệ chỉ ảnh hưởng đến sự phát
triển.
Ý nghĩa : + Trong nhận thức và cải tạo sự vật đòi hỏi chủ thể phải có quan
điểm toàn diện, nghĩa là phải vạch ra tất cả các mỗi liên hệ vốn có của sự vật
hiện tượng đó.

+ Quán triệt quan điểm toàn diện nhưng phải sâu sắc, nghĩa là vạch ra các
mỗi liên hệ vối có của sự vật, nhưng phải có được vai trò, vị trí, tình chất của
từng mỗi quan hệ cụ thể đặc biệt là mối quan hệ bản chất bên trong của sự vật
hiện tượng không được cào bằng vì SVHT được biểu hiện thông qua các mỗi
liên hệ và thực chất nhận thức sự vật là nhận thức mỗi liên hệ vốn có của
chúng.
+ Trong N/thức và cải tạo cụ thể chống qđiểm phiếu diện 1 chiều và áp đặt
chủ quan.
+ Vận dụng trong lĩnh vực quân sự xem xét đánh giá tình hình trước say
phải chặt chẽ, xác định vấn đề mẫu chốt từ hiện thực.
2/ Nguyên lí sự phát triển:
Phát triển là quá trình vận động từ thấp tới cao, từ đơn giản tới phức tạp,
nét đặc trưng chủ yếu là cái cũ mất đi, cái mới ra đời.
- Những nhà triết học sieu hình không thừa nhận sự phát triẻn, SVHT là
đứng im, chết cứng. Nếu phải thừa nhận sự phát triển thì phát triển đó chỉ là tăng
giảm đơn thuần về số lượng lặp lại theo vòng tuần hoàn khép kín.

12


- CNDV biện chứng khẳng định: Mọi SVHT trong thế giới luôn vận động
biến đổi chuyển hóa từ trạng thái này sang trạng thái khác, khuynh hướng là tiến
lên, con đường tiến lên là quanh co, phức tạp, cái mới thay thé cái cũ đó là quá
trình phát triển tất yếu:
- Nghĩa là: Sự vận động phát triển của các SVHT tuân theo quy luật của
phép biện chứng, có đặc tính là tiến lên, có kế thừa những yếu tố tích cực của sự
vật cũ, dường như lặp lại cái cũ trên cơ sở cao hơn (VD: các phương thức SX
thay thế nhau trong lịch sử, phương thức SX mới ra đời bao giờ cũng kế thừa
các yéu tố tích cực trong phương thức SX cũ)
- Sự phát triển là tự thân, là khách quan vốn có của sự vật, là khunh hươíng

chung của mọi sự vật trên thé giới
Ví dụ: Trong tự nhiên, sự phát triển từ vô cơ đến hữu cơ; từ thực vật- động
vật đến con người là quá trìng phát triển tất yếu của giới tự nhiên tuân theo qui
luật khách quan.
* Ý nghĩa rút ra : Trong nhận thức và cải tạo sự vật đồi hỏi phải có quan
điểm phát triển, nghĩa là phải phân tích khách thể trong sự vận động của nó.
Phải biết phát hiện, đấu tranh ủng hộ cái mới, cái tiến bộ kiên quyết đấu
tranh xoá bỏ cái lạc hậu.
Phải thấy được sự phát triển là quá trình khó khăn, phức tạp, vừa mang
tính khuynh hướng chung là phát triển đi lên nhưng phải gắn với quan điểm cụ
thể.
Cần phải chống định kiến cá nhân, bảo thủ, chủ quan, nóng vội hoặc tả
khuynh, hữu khuynh

Câu 6: Trình bày qui luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập
Đây là một trong ba quan hệ cơ bản giữ vai trò hạt nhân của phép biện
chứng duy vật. Nó vừa là chìa khóa để chúng ta hiểu các qui luật khác của phép
BCDV vừa cho ta biết nguồn gốc, động lực của sự vận động phát triển của mọi
SVHT.
13


- Nhận thức đúng đắn nội dung của QL này là vừa có ý nghĩa lí luận sâu
sắc, đồng thời có ý nghĩa thực tiễn rất cấp bách nhất là đối với nhận thức các
quan điểm của ĐCSVN về chính sách đối ngoại trong quá trình đổi mới hiện
nay.
Chúng ta có thể khái quát QL này như sau:
Mọi SVHT đều bao hàm mâu thuẫn. Biện chứng của mâu thuẫn là sự
thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập là tương đối, là tiền đề để đấu tranh,
là cơ sở cho sự tồn tại của mọi SVHT. Cuộc đấu tranh của các mặt đối lập là

tuyệt đối, là điều kiện bảo đảm cho thống nhất, là động lực cho sự vận động phát
triển của SVHT.
Như vậy:
Thứ nhất: Mọi SVHT đều bao hàm mâu thuẫn. Nói đến mâu thuẫn là nói
đến phạm trù chỉ hai mặt đối lập có mối quan hệ biện chứng với nhau cùng tồn
tại trong một SVHT. Nói đến mặt đối lập là người ta nói đến những mặt, những
thuộc tính mang tính biến đổi trái ngược với những mặt những thuộc tính trong
từng SVHT, mặt đối lập có đặc điểm trên đây thì lập thành một mâu thuẫn. Ví
dụ như mâu thuẫn giữa CNTB với CNXH, giai cấp vô sản với g/c tư sản, giữa
biến dị và di truyền, giữa đồng hóa và dị hóa.
Thứ hai: Mọi mâu thuẫn đầu là sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt
đối lập. Nói cách khác bất cứ mâu thuẫn nào cũng bao hàm hai trạng thái đối lập
có quan hệ biện chứng với nhau đó là thống nhất và đấu tranh.
Nói đến thống nhất của các mặt đối lập là nói đến trạng thái của mâu
thuẫn ở đó các mặt đối lập luôn nương tựa vào nhau làm tiền đề tồn tại cho nhau
phù hợp và tác dụng ngang nhau. Ví dụ g/c VS và g/c TS đó là hai mặt đối lập
nhưng giữa chúng vẫn có sự “thống nhất” theo đó cả g/c vô sản và g/c tư sản đều
cần có nhau. đều phải nương tựa vào nhau, đều có những nhu cầu chung giống
nhau nào đó, đều có những đặc điểm đồng nhất

Sự thống nhất được hiểu như

trên rõ ràng chỉ là tương đối, tạm thời, thoáng qua và có điều kiện, nó tương ứng
với tình trạng đứng im tương đối củaứVHT.
14


Nói đến đấu tranh của các mặt đối lập là nói đến trạng thái của các mâu
thuẫn mà ở đó các mặt đối lập luôn lấy nhau làm tiền đề để tác động qua lại theo
xu hướng bài trừ và phủ định lẫn nhau, dẫn đến sự chuyển hóa lẫn nhau giữa

chúng.
Ví dụ: G/c vô sản và g/c tư sản đã nói ở trên mặc dù vẫn luôn “thống
nhất”. Nhưng thực ra ở bên trong cả g/c vô sản và g/c tư sản vẫn luôn tìm mọi
cách đấu tranh làm suy yếu lẫn nhau, cản trở xu hướng phát triển của nhau và
kết cục của cuộc đấu tranh này sẽ dẫn đến sự chuyển hóa địa vị của 2 g/c.
Sự đấu tranh được hiểu như trên rõ ràng là mang tính tuyệt đối vĩnh viễn,
nó tương ứng với tính tuyệt đối vĩnh viễn của sự vận động của SVHT.
Thứ ba:
- Thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập có mối quan hệ biện chứng
với nhau và có vai trò khác nhau đối với sự tồn tại phát triển SVHT.
+ Thống nhất là tiền đề cho đấu tranh, là điều kiện cho sự tồn tại của sự
vật, hiện tượng. Không có sự thống nhất của các mặt đối lập thì không có sự vật
hiện tượng nào tồn tại trên thực tế, do đó cũng không thể tiến hành đấu tranh.
+ Đấu tranh là điều kiện đảm bảo cho sự thống nhất, là động lực cho sự
vận động phát triển sự vật, không có đấu tranh thì sự thống nhất chỉ là hình thức,
thiếu sức sống và không chắc chắn. Chẳng hạn một tập thể mà không tiến hành
đấu tranh thường xuyên, không tiến hành tự phê bình và phê bình, không đấu
tranh chống các tệ nạn thì tập thể ấy thống nhất chỉ là hình thức dĩ hòa vi quí,
“thống nhất” mà bên trong chứa đựng những mâu thuẫn sắp bùng nổ, và đi
xuống.
Chỉ có đấu tranh mới làm cho mâu thuẫn được giải quýêt, khi mâu thuẫn
cơ bản được giải quyết, thì sự vật cũ mất đi, sự vật mới ra đời với một sự thống
nhất mới. Với ý nghĩa ấy LN coi phát triển là cuộc đấu tranh của các mặt đối
lập.
Ý nghĩa:

15


Thứ nhất: Thừa nhận sự thống nhất, nhưng không được tuyệt đối hóa sự

thống nhất, dẫn đến phủ nhận đấu tranh. Kiên quyết phê phán CN cơ hội xét lại
hữu khuynh hiện đại.
Thứ hai: Khẳng định vai trò của đấu tranh, nhưng không được tuyệt đối
hóa đấu tranh nhất là đấu tranh g/c, đấu tranh địch ta, phủ nhận vai trò của thống
nhất, phê phán khuynh hướng tư tưởng tả khuynh.
Thứ ba: Đây là cơ sở khọc để ta qtriệt đường lối đối ngoại của ĐCSVN
hiện nay.
- Đảng ta đã phân tích đánh giá thời cuộc hiện nay, xem nó như một chỉnh
thống nhất nhưng đầy dẫy những mâu thuẫn giữa các nước có chế độ XH khác,
các lực lượng, các khuynh hướng chính trị, giữa thời cơ và thách thức giữa vận
hội và nguy cơ.
- Trên cơ sở lí luận mâu thuẫn Đảng ta khẳng định mâu thuẫn cơ bản của
thời đại vẫn tồn tại và sâu sắc hơn trước.
- Từ đó Đảng ta xác định chính sách đối ngoại rộng mở có nguyên tắc.
+ Thừa nhận sự cùng tồn tại trong hòa bình giữa các nước có chế độ khác
nhau, đa dạng hóa, đa phương hóa các quan hệ, hợp tác đối ngoại để cùng phát
triển …
+ Giữ vững độc lập tự chủ, trong việc hoạch định đường lối, giữ vững
định hướng phát triển theo CNXH, kiên quyết đấu tranh vì các mục tiêu của thời
đại.
+ Do đường lối đối ngoại đúng đắn ấy mà công cuộc đổi mới thành công
tránh được vết xe đổ.

Câu 7: Quy luật Lượng-Chất
Đặt vấn đề: Đây là một trong những quan điểm cơ bản cuả phép biện
chứng duy vật nó khái quát trạng thái cách thức phát triển của SVHT.
16


- Nhận thức đúng những nội dung cơ bản của qui luật này có ý nghĩa hết

sức quan trọng cả lí luận và thực tiễn nhất là đối với xây dựng QĐ ta hiện nay.
Ta có thể khái quát nội dung của QL này như sau:
Bất cứ sự vật nào cũng là sự thống nhất giữa chất và lượng; sự thay đổi
dần dần về lượng vượt qua giới hạn độ sẽ dẫn đến sự thay đổi căn bản về chất
thông qua bước nhảy, chất mới ra đời sẽ tác động trở lại với việc thay đổi về
lượng.
Như vậy:
Thứ nhất: Theo quan điểm của CNDV biện chứng mọi SVHT đều là sự
thống nhất giữa chất và lượng.
+ Nói đến chất là người ta nói đến một phạm trù triết học dùng để chỉ tính
qui định vốn có cuả SVHT, là sự thống nhất hữu cơ của các thuộc tính, làm cho
SVHT là nó chứ không phải là cái khác. Ví dụ: Nói đến chất của QĐND VN là
người ta nói đến những thuộc tính trung với nước, hiếu vơí dân SSCĐ … sự
thống nhất của các thuộc tính này làm cho QĐND VN khác với các QĐ khác.
+ Nói đến lượng là người ta nói đến một phạm trù triết học dùng để chỉ
tính quy định vốn có của SVHT, biểu thị số lượng, qui mô, trình độ, nhịp điệu
của sự vận độngvà phát triển của sự vật cũng như của các thuộc tính của SVHT
ấy. Ví dụ: Nói đến lượng của một quá trình đào tạo la người ta nói đến số lượng
học viên, sách vở, giáo trình, các hình thức tổ chức dạy học, các lực lượng …
được huy động trong qui trình ấy.
+ Nói đến sự thống nhất giữa chất và lượng là người ta nói đến không thể
tách rời nhau giữa chúng, đi liền với một tính qui định về lượng là một tính qui
định về chất và ngược lại. Nói đến lượng là lượng của một chất nhất định, nói
đến chất là chất của một sự vật cụ thể, không có lượng và chất chung chung tách
rời nhau.

17


Tuy thế: Sự thống nhất giữa lượng và chất là sự thống nhất giữa hai mặt

đối lập. Lượng thì thường xuyên biến đổi hơn chất, chất lại tương đối ổn định hơn
lượng, vì thế sự vật hiện tượng luôn luôn có khả năng thay đổi về mặt trạng thái.
Giới hạn trong đó sự thay đổi về lượng chưa làm thay đổi căn bản về chất thì
người ta gọi là độ.
Thứ hai: Cách thức thay đổi trạng thái của SVHT là đi từ sự tích lũy dần
dần, nhỏ nhặt về lượng, vượt qua giới hạn độ, thành sự thay đổi về chất thông
qua bước nhảy.
+ Nói đến sự tích lũy dần dần về lượng là người ta nói đến quá trình tích
lũy dần những yếu tố, những thuộc tính, những đặc trung cho SVHT mới, ngay
trong lòng sự vật cũ. Ví dụ: Quá trình tích lũy dần những yếu tố về luật pháp, về
con người, về cơ sở hạ tầng .. . cho cơ chế quản lí mới luôn luôn diễn ra ngay
trong lòng cơ chế quản lí cũ.
+ Sự thay đổi về chất là người ta nói đến sự thay đổi căn bản của các
thuộc tính của SVHT cũ, hoặc là sự thay thế thuộc tính căn bản cuả sự vật cũ,
bằng một thuộc tính cơ bản khác về chất. Nó được đánh dấu bằng sự thay thế sự
vật này với sự vật khác. Ví dụ: phương thức SX XHCN phát triển ra đời thay thế
cho phương thức SX TBCN, cũng đồng thời là sự thay thế của một cách thức
SX XH khác với cách thức SX của XH TB (từ tư hữu thành công hữu )
+ Từ chất cũ chuyển sang chất mới bao giờ cũng thông qua một bước
nhảy. Đây chính là quá trình chuyển hóa, là thời kì quá độ mà qua đó sự vật cũ
chuyển hóa sang sự vật mới. Cái thời kì này diễn ra như thế nào, nhanh hay
chậm, từ từ hay đột biến cục bộ hay toàn bộ là tùy thuộc vào quá trình tích lũy
về lượng trước đó, phụ thuộc vào điều kiện lịch sử lúc bước nhảy xảy ra. Ví dụ:
Trong điều kiện như hiện nay, chúng ta hoàn toàn có thể tạo ra những bước nhảy
mang tính đột biến trên một số lĩnh vực SX mũi nhọn: Công nghệ thông tin,
phần mềm, bưu điện để thực hiện chiến lược đi tắt đón đầu. Cái điểm ở đó bước
nhảy xảy ra gọi là điểm nút của cuộc CM XH đầu tiên trên t/g.
+ Khi chất mới ra đời nó lại tạo điều kiện cho sự phát triển mới về lượng.
18



Ví dụ: Khi phương thức SX XHCN với tính cách là một chất mới ra
đờitạo điều kiện cho lực lượng SX mới phát triển, giải phóng sức SX XH. Đây
chính là quá trình phát triển liên tục không nghỉ của SVHT, hiện tượng là sự
thống nhất giữa tính liên tục và sự đứt đoạn của sự vật hiện tượng.
Ý nghĩa: - Kiên trì tích lũy về lượng để chủ động khi có thời cơ và điều
kiện thuận lợi sẽ thực hiện bước nhảy về chất. Chống nôn nóng giản đơn, đốt
cháy giai đoạn.
- Khi đã chuẩn bị đầy đủ về lượng, thời cơ đến thì phải kiên quyết thực
hiện bước nhảy. Chống do dự, trù trừ làm mất thời cơ, làm biến dạng quá trình
phát triển.
- Trong thực tiễn phải đặc biệt lưu ý trong việc đấu tranh khắc phục những
điểm “nóng” của XH, những tích tụ yếu kém khuyết điểm trong từng đơn vị,
tránh bùng nổ gây hậu quả xấu.
+ Trong XD QĐ phải quán triệt qđiểm từng bước kiên trì trên tất cả các
mặt nhưng đồng thời cũng phải mạnh dạn tạo ra bước nhảy đột biến trên từng
lĩnh vực, ở từng quân, binh chủng, ở từng thời điểm nào đó, khi mà nó hội đủ
các yếu tố và điều kiện cho phép.
Câu 8: Qui luật phủ định của phủ định,
Đặt vấn đề: Đây là một qui luật cơ bản của phép BCDV nó khái quát xu
hướng đi lên của sự phát triển, vạch rõ mối liên hệ nội tại giữa cái cũ và cái mới
trong quá trình phát triển. Nhưng cơ chế vận động của quy luật này rất phức tạp
cho nên việc nhận thức được những nội dung cơ bản của nó không những có ý
nghĩa về mặt lí luận mà còn có ý nghĩa rất cơ bản trong việc vận dụng vào thực
tiễn.
Qui luật này nếu được nhận thức một cách đầy đủ cơ sở lí luận chủ yếu,
trực tiếp cho quan niệm của ĐCS VN về thực chất thời kì quá độ bỏ qua CNTB
lên CNXH ở nước ta hiện nay.

19



Qui luật này có thể khái quát như sau: Khuynh hướng phát triển của sự vật
là quá trình cái mới phủ định cái cũ, cái mới vừa loại bỏ cái cũ, vừa kế thừa
những cái tích cực trong lòng cái cũ, theo cơ chế phủ định của phủ định, để
khẳng định sự tiến lên. Con đường đi lên trong sự phát triển, do đó không phải
theo đường thẳng mà theo đường xoáy ốc. Cái mới là cái tất thắng. Như vậy:
Thứ nhất : Theo quan điểm của triết học Mác, để có sự phát triển thì tất
yếu phải có sự phủ định biện chứng. Nói một cách khác phủ định biện chứng là
một mắt khâu tất yếu dẫn đến sự phát triển. Mác nói “không có lĩnh vực nào lại
có sự phát triển mà không phủ định những hình thức đã có từ trước”
Phủ định hiểu theo nghĩa chung nhất chỉ là sự thay thế lẫn nhau giữa các
sự vật hiện tượng. Nhưng phép biện chứng không n/c sự phủ định nói chung. Mà
nó chỉ vật chất cái sự phủ định tự thân. Nghĩa là nghiên cứu cái sự phủ định với
tư cách là mắt khâu của sự phát triển. Một sự phủ định dẫn đến sự ra đời của cái
mới dẫn đến tiến bộ hơn cái cũ. Đó chính là phủ định biện chứng, theo quan
điểm của triết học Mác phủ định biện chứng phải mang tính KQ nghĩa là sự phủ
định diễn ra do việc giải quyết mâu thuẫn nội tại của bản thân sự việc. Chứ
không phải là do sự áp đặt từ bên ngoài vào. Tuy thế đặc trưng cơ bản nhất của
phủ định biện chứng, đó là tính kế thừa, nghĩa là phủ định không phải chỉ đơn
giản là việc phá hủy hoàn toàn cái cũ. Không phải là sự chặt đứt hoàn toàn phát
triển. Mà trái lại nó bao hàm việc kế thừa những hạt nhân hợp lí, trong lòng cái
cũ. Nó nối liền cái mới với cái cũ trong quá trình phát triển; chính vì thế đây là
sự phủ định để khẳng định sự phát triển thế giới hiện thực.
Thứ hai: Tuy thế theo quan điểm của CN duy vật b/c phủ định của phủ
định mới là cơ chế nội tại đem đến sự phát triển. điều này có nghĩa là:
+ Cái mới ra đời, không phải chỉ thông qua những lần phủ định liên tiếp
với tính chất giống hệt nhau, mà trái lại phải thông qua một số lần phủ định nào
đó đủ hợp thành một chu kì: Từ khẳng định đến phủ định và từ phủ định của phủ
định, chỉ đến đây một cái mới đúng nghĩa của nó mới ra đời, sự vật dường như

quay trở lại cái ban đầu.
20


Số lần phủ định trong một chu kì có thể nhiều ít khác nhau. Nhưng về thực
chất bao giờ cũng có thể quay về 2 lần phủ định cơ bản với 3 giai đoạn đó là phủ
định biện chứng lần thứ nhất và phủ định biện chứng lần thứ hai. Lần phủ định
này có vai trò và tính chất hết sức khác nhau.
Nếu phủ định lần thứ nhất là mở đầu cho một chu kì, thì phủ định lần thứ
hai lại kết thúc một chu kì phát triển. Nếu như phủ định lần thứ nhất làm cho sự
vật hiện tượng trở thành cái độc lập với cái ban đầu, thì phủ định lần thứ hai lại
làm cho sự vật hiện tượng dường như nó lại cái ban đầu nhưng ở giai đoạn cao
hơn. Nếu như phủ định lần thứ nhất sự kế thừa mới mang tính chất phiến diện,
thì phủ định lần thứ hai kế thừa đã mang tính chất toàn diện.
Ví dụ: Toàn bộ chế độ chiếm hữu tư nhân về TLSX (chế độ chiếm hữu nô
lệ, phong kiến, tư bản) đóng vai trò là phủ định lần thứ nhất nó làm cho các XH
này đối lập lại với XHCS nguyên thủy. Thì phủ định lần thứ hai là (là CM
XHCN) lại làm cho XH dường như trở lại với XH CSNT nhưng với một trình độ
cao hơn rất nhiều.
Thứ ba: Chính do cơ chế trên đây qui định mà con đường đi lên trong sự
phát triển không thể là một đường thẳng, trái lại nó quanh co phức tạp. Lê Nin
dùng hình ảnh đó là con đường phát triển theo hình thức “xoáy ốc”. Điều này có
nghĩa là: là phát triển là một khuynh hướngthông qua nhièu giai đoạn. Chứ
không phải là mang tính trực tuyến. Phát triển do đó là một quá trình phức tạp
quanh co vừa có sự kế thừa, vừa có sự lặp lại, vừa có sự tiến lên và do đó có sự
thụt lùi đôi khi rất lớn, ví dụ: Sự phát triển của CNXH nó vừa có sự kế thừa
những thành tựu mà nhân loại đạt được trong XHTB, vừa như là lặp lại những
nguyên tắc của XH CSNT đồng thời lại có những bước tiến lên vượt xa tất cả
của tất cả xã hội trước đây kể cả XHTB, nhưng trong quá trình phát triển ấy,
CNXH vẫn có thể gặp phải những bước quay, những khủng hoảng, những sự

thụt lùi như thời gian vừa qua chúng ta đã thấy.

21


Mặc dù vậy phủ định của phủ định bao giờ cũng đem đến sự ra đời của cái
mới cái tiến bộ, cái mới ra đời là tất yếu bởi vì nó xuất hiện phù hợp với qui luật
của tiến trình phát triển sự vật và quá trình ấy cũng là một quá trình liên tục nối
tiếp nhau của các chu kì phát triển trong luận KQ.
22* ý nghĩa:- Là vì đặc trưng cơ bản của phủ định b/c là mang tính kế
thừa. Cho nên chúng ta phải khái quát chống lại sự phủ định sạch chơn thái độ
chối bỏ quá khứ hư vô lịch sử cũng như chủ trương kê thừa vô nguyên tắc trong
quá trình nhận thức và thực tiễn đặc biệt là trong quá trình đổi mới hiện nay.
- Là phải không đơn giản hóa quá trình của sự phát triển, điều quan trọng
nhất là phải phát hiện ra cái mới, ủng hộ cái mới, tạo điều kiện cho cái mới ra
đời một cách hợp qui luật thay thế cái cũ, cái lạc hậu.
- Đây chính là cơ sở lí luận KH giúp ta hiểu được sự đúng đắn trong quan
niệm của Đảng ta thực chất quá độ bỏ qua giai đoạn phát triển TBCN lên thẳng
CNXH như nước ta hiện nay.
+ Đảng là xác định thực chất bỏ qua là bỏ qua QHSX và KTTT – TBCN
với tính cách là cái thống trị. Bởi vì QHSX TBCN và KTTT – TBCN đã là cái
cũ, cái lạc hậu, dứt khoát phải bị phủ định.
+ Trong quá trình bỏ qua ấy ta vẫn kế thừa những thành tựu mà nhân loại
đạt được trong XHTB đặc biệt là thành tựu về KHCN thành tựu về quản lí nền
kinh tế, quản lí XH.
+ Đảng ta khẳng định chính vì bỏ qua như vậy nên phải trải qua thời kì
quá độ , nhiều hình thức trong giai đoạn quá độ

Câu 9. Bản chất nhận thức:
* ĐVĐ: Khi nói đến nhận thức là nói đến khả năng nhận thức của con

người, mà trực tiếp là giải quyết mặt thứ 2 của vấn đề triệt học tức là trả lời câu
hỏi con người có khả năng nhận thức được TG hay không.
Với câu hỏi trên trong LS Triết học có nhiều trường phái trả lời khác nhau:

22


+ Các nhà triết học DT: Không thừa nhận khả năng nhận thức của con
người nếu có thừa nhận thì cho rằng nhận thức con người không phải là sự phản
ánh hiện thực KQ.
+ Các nhà DVSH: Thừa nhận con người có khả năng nhận thức được TG
nhưng họ cho rằng sự nhận thức đó chỉ là soi gương, chụp ảnh, sao chép máy
móc và không thấy được vai trò thực tiễn đối với nhận thức.
+ CNDV biện chứng: Đã thực hiện một cuộc CM trong LL nhận thức và
đi đến khẳng định rằng nhận thức là một quá trình phản ánh hiện thực KQ bởi
con người là quá trình tạo thành tri thức trong bộ óc con người về hiện thực KQ.
* Bản chất nhận thức theo quan niệm CN Mác là dựa trên N/tắc cơ bản
sau:
1. Thừa nhận TG vật chất tồn tại KQ ở ngoài con người và độc lập với
cảm giác tư duy và ý thức con người ( Tán ).
2. Thừa nhận khả năng nhận thức TG của con người về nguyên tắc đối với
con người không có cái gì là không thể giải quyết được chỉ có những cái hiện
nay con người chưa biết mà thôi. Trong quá trình tồn tại phát triển của loài
người nói chung cùng với sự phát triển của thành tựu KH và thực tiễn con người
sẽ nhận biết được bản chất TG ( từng con người từng giai đoạn LS nhận thức là
có hạn nhưng đối với loài người và nhân loại thì không có gì là không nhận thức
được). VD: Mã mới nắng lâu gặp mưa gây cháy.
- Ngày xưa nhận thức có hạn: Cho là Ma chơi.
- Ngày nay có nhận thức KH: Là hiện tượng Phốt pho gặp không khí gây
cháy.

3. Nhận thức không phải là hành động tức thời, giản đơn, máy móc, thụ
động mà là quá trình phản ánh biện chứng tích cực sáng tạo của con người về
TG KQ. Quá trình đó diễn ra theo con đường từ trực quan sinh động đến tư duy
trìu tượng và từ tư duy trìu tượng trở về thực tiễn để thực tiễn kiểm nghiệm đúng
hay sai. Quá trình đó cứ lặp đi lặp lại làm cho nhận thức của con người luôn phát
triển và phản ánh ngày càng đúng đắn hơn hiện thực KQ.
23


Như vậy quá trình nhận thức của con người bao giờ cũng đi từ nhận thức
hiện tượng đến nhận thức bản chất, từ bản chất kém sâu sắc đến bản chất sâu sắc
hơn.
4. Cơ sở trực tiếp và chủ yếu nhất của nhận thức là thực tiễn. Thực tiễn là
mục đích của nhận thức đồng thời là tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý ( kiểm tra
nhận thức của con người đúng hay sai ).
* ý nghĩa:
- Nghiên cứu bản chất của nhận thức đã cung cấp cho ta TG quan và P 2
luận để tiếp tục khẳng định lập trường DVBC trong nghiên cứu khả năng nhận
thức và vai trò cải tạo TG của con người.
- Là cơ sở lý luận KH để chống tư tưởng sai lầm của CNDT, thuyết không
thể biết khắc phục những thiếu sót của CNDV siêu hình.

Câu 10: Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức.
Đặt vấn đề: Bàn về vai trò của thực tiễn đối với quá trình nhận thức LN
viết: “Quan điểm về đời sống, về thực tiễn, phải là qđiểm thứ nhất và cơ bản
của lí luận về nhận thức”
Vậy thực tiễn là gì? Vai trò thực tiễn đối với lí luận là như thế nào?
* Thực tiễn theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật b/c là toàn bộ những
hoạt động vật chất, có mục đích mang tính LSXH của con người, nhằm cải tạo
tự nhiên và XH.

+ Thực tiễn theo quan điểm của triết học Mác không phải là toàn bộ hoạt
động của con người nói chung mà nó chỉ đạo bao hàm toàn bộ những hoạt động,
v/c có mục đích của con người, nói đến hoạt động v/c của con người là người ta
nói đến hoạt động trong đó con người sử dụng công cụ, phương tiện v/c trực tiếp
tác động vào cải biến hiện thực, với tính cách như vậy thì hoạt động v/c đối lập
với hoạt động tinh thần (hoạt động tinh thần chính là những hoạt động tư duy chỉ
diễn ra trong đầu óc của con người.

24


Song thực tiễn không chỉ đơn thuần là hoạt động v/c con người, mà nó
phái là những hoạt động v/c có mục đích của một cộng đồng người. Với tính
cách như vậy hoạt động thực tiễn khác với hoạt động tự phát bản năng của mỗi
cá nhân.
- Với tư cách là toàn bộ những hoạt động v/c có mục đích của con người
thì thưc tiễn bao gồm nhiều hình thức, trong đó hoạt động SX v/c là hoạt động
nguyên thủy đầu tiên của con người, nó quyết định sự tồn tại phát triển của các
hình thức thực tiễn khác như: đấu tranh g/c, thực nghiệm KH
- Thực tiễn của con người bao giờ cũng mang tính LS XH; nghĩa là thực
tiễn bao giờ cũng được tiến hành bởi đông đảo những con người trong XH đó là
hoạt động mang tính loài của con người. Trình độ của thực tiễn nói lên trình độ
trinh phục tự nhiên làm chủ XH của con người, đó là một quá trình phát triển
qua nhiều thời đại và ở mỗi thời đại cả ND và phương thức thực hiện của thực
tiễn đều chịu sự chế ước của điều kiện XHLS.
* Thực tiễn có vai trò rất to lớn đối với nhận thức, điều đó được thể hiện ở
mấy nội dung cơ bản dưới đây:
- Thực tiễn là cơ sở của nhận thức. Mọi tri thức dù là trực tiếp hay gián
tiếp của con người thì xét đến cũng đều bắt nguồn từ thực tiễn, đều xuất phát từ
chính thực tiễn của họ.

- Thực tiễn là động lực của nhận thức nghĩa là trong tính hiện thực của
mình thực tiễn luôn đề ra những nhu cầu, nhiệm vụ, phương hướng phát triển
của nhận thức. Nhu cầu của con người là không cùng, nhưng vật phẩm tự nhiên
là có hạn. Để thỏa mãn con người phải không ngừng cải biến tự nhiên nâng cao
trình độ thực tiễn, nghĩa là phải không ngừng nâng cao nhận thức đáp ứng yêu
cầu của thực tiễn. Mâu thuẫn giữa nhận thức và thực tiễn trở thành động lực bên
trong để thúc đẩy nhận thức phát triển.
- Thực tiễn còn là mục đích của nhận thức. Sở dĩ như vậy vì là nhận thức
không phải để nhận thức, con người nhận thức cốt là để phục vụ chỉ đạo nâng
cao kết quả của hoạt động thực tiễn
25


×