Tải bản đầy đủ (.doc) (129 trang)

Biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh trong luật hình sự Việt Nam (trên cơ sở số liệu địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (548.11 KB, 129 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
--------

NGÔ THANH SƠN

BIỆN PHÁP TƯ PHÁP BẮT BUỘC CHỮA BỆNH
TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
(Trên cơ sở các số liệu địa bàn thành phố Hồ Chí
Minh)
Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 60 38 01 04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Cán bộ hướng dẫn khoa học: GS. TSKH LÊ VĂN
CẢM


HÀ NỘI - 2013


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu
của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được
công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví
dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác,
tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn
học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo
quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật


xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Ngô Thanh Sơn


MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI.......................................................................1
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết
quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy
và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả
các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
...........................................................................................................................1
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo
vệ Luận văn.......................................................................................................1
Tôi xin chân thành cảm ơn!...............................................................................1
NGƯỜI CAM ĐOAN.......................................................................................1
Ngô Thanh Sơn..................................................................................................1
Bắt buộc chữa bệnh là biện pháp cưỡng chế do Tòa án, Viện kiểm sát tùy theo
giai đoạn tố tụng áp dụng buộc người mà trong hoặc sau khi thực hiện hành vi
nguy hiểm cho xã hội nhưng trước khi xét xử hoặc đang chấp hành hình phạt
mà mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả
năng điều khiển hành vi của mình vào cơ sở điều trị chuyên khoa để chữa

bệnh, nhằm xử lý tội phạm được triệt để, đồng thời loại bỏ những điều kiện có
thể dẫn đến tội phạm mới trong tương lai do tình trạng bệnh của người bị áp
dụng.................................................................................................................24
Xuất phát từ khái niệm, bản chất pháp lý đã nêu về BPBBCB trong Bộ luật
hình sự, chúng ta có thể nhận thấy có sáu đặc điểm chủ yếu như sau: a)
BPBBCB là biện pháp cưỡng chế về hình sự được quy định trong BLHS; b)
BPBBCB được áp dụng đối với người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã
hội; c) BPBBCB được áp dụng bởi các cơ quan tư pháp hình sự có thẩm
quyền; d) BPBBCB không tạo ra án tích cho người bị áp dụng; đ) BPBBCB
được áp dụng nhằm xử lý tội phạm được triệt để và toàn diện; e) BPBBCB là


biện pháp cưỡng chế hình sự mang tính nhân đạo. Dưới đây chúng ta sẽ lần
lượt xem xét nội dung của từng đặc điểm chủ yếu này:..................................25
a) BPBBCB là biện pháp cưỡng chế về hình sự được quy định trong BLHS.25
Trong xã hội luôn cần có sự cưỡng chế để điều chỉnh các quan hệ xã hội, đảm
bảo điều kiện tồn tại của xã hội. Ở xã hội xã hội chủ nghĩa cưỡng chế là biện
pháp có vai trò rất quan trọng để đảm bảo trật tự xã hội, bảo vệ giai cấp thống
trị, đấu tranh phòng chống và ngăn ngừa tội phạm. Do tính chất đa dạng của
hành vi nguy hiểm cho xã hội đòi hỏi cần phải có nhiều cách thức cưỡng chế
phù hợp. Trong số các biện pháp cưỡng chế, BPBBCB là biện pháp cưỡng
chế có hiệu quả. Tính chất cưỡng chế của BPBBCB thể hiện ở chỗ: thứ nhất,
nó được áp dụng một cách bắt buộc, không tùy thuộc vào sự mong muốn của
những người bị mắc bệnh hay của người thân thích hoặc người đại diện của
họ; thứ hai, nó gắn với việc hạn chế tự do cá nhân, và thứ ba, nó được áp dụng
khi có quyết định của Viện kiểm sát hoặc Tòa án tùy thuộc vào giai đoạn tố
tụng [54, tr.831]...............................................................................................25
Tuy nhiên, BPBBCB chỉ được áp dụng đối với những hành vi vi phạm pháp
luật hình sự, những hành vi vi phạm các quy định pháp luật chuyên ngành
khác như hành chính, dân sự… thì không thể bị áp dụng BPBBCB. Vì là biện

pháp cưỡng chế hình sự nên BPBBCB cũng mang những nội dung cưỡng chế
nhất định, tuy nhiên sự cưỡng chế ở BPBBCB không quá nghiêm khắc như
hình phạt mà chỉ ở mức độ ngăn ngừa hành vi tiếp tục vi phạm của người bị
áp dụng đồng thời còn mang tính chất nhân đạo. Vì trong các hình thức của
TNHS thì hình phạt là hình thức cơ bản và quan trọng nhất nên tính cưỡng
chế nghiêm khắc để tương xứng với tính chất nguy hiểm của hành vi phạm tội
chủ yếu được thể hiện trong hình phạt, còn BPBBCB là để nhằm hỗ trợ hoặc
trong những trường hợp đặc biệt dùng để thay thế cho hình phạt. Là một dạng
biện pháp cưỡng chế hình sự nên nội dung của BPBBCB cũng mang tính tước
bỏ hoặc hạn chế một số quyền nhất định của người bị áp dụng nhưng không
nhằm gây đau đớn về thể xác hoặc hạ thấp danh dự nhân phẩm của người bị
áp dụng. Bởi lẽ BPBBCB cũng như hình phạt và án tích luôn được xây dựng
trên cơ sở nguyên tắc cơ bản của Luật hình sự như nguyên tắc pháp chế,
nguyên tắc nhân đạo, nguyên tắc dân chủ.......................................................26
Để bảo vệ một cách vững chắc các quyền và tự do của con người bằng pháp
luật hình sự chống lại sự tùy tiện, chuyên quyền trong nhận thức và hành vi
của một bộ phận quan chức thoái hóa, biến chất và vụ lợi khi thực thi công


vụ, BLHS năm 1999 bằng các quy phạm trong Phần chung về nhiệm vụ của
BLHS (đoạn 2 Điều 1) đã ghi nhận tư tưởng “tội phạm và hình phạt đối với
người phạm tội” phải được luật hình sự quy định [17, tr.264]. Hơn nữa, với
tính chất là một trong các dạng trách nhiệm pháp lí nghiêm khắc nhất, việc áp
dụng BPBBCB cũng đem lại những hậu quả pháp lí bất lợi cho người bị áp
dụng, vì vậy để tránh việc áp dụng tùy tiện gây ảnh hưởng đến quyền lợi của
những người tham gia tố tụng (người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội
hoặc người bị kết án) BPBBCB phải được quy định trong BLHS để làm căn
cứ pháp lí cho việc áp dụng và thi hành trên thực tế. Đây là cơ sở rất quan
trọng để đảm bảo tính pháp chế, Luật hình sự ràng buộc các cơ quan tiến hành
tố tụng chỉ được áp dụng những biện pháp cưỡng chế nói chung và đối với

BPBBCB nói riêng đã được quy định rõ trong BLHS. BPBBCB được quy
định tại các Điều 43, 44 của BLHS.................................................................26
Khác với hình phạt chỉ được áp dụng đối với các hành vi là tội phạm,
BPBBCB còn được áp dụng với cả những hành vi nguy hiểm cho xã hội. Có
nghĩa là có hai nhóm đối tượng bị áp dụng BPBBCB. Thứ nhất, là người
phạm tội, đây là người bị truy cứu TNHS trong vụ án và BPBBCB áp dụng
đối với họ cũng là để giải quyết TNHS của người này. Thứ hai, là những
người tuy có hành vi nguy hiểm nhất định nhưng hành vi đó của họ không đủ
dấu hiệu để cấu thành tội phạm. Đây là trường hợp họ không có năng lực
TNHS...............................................................................................................27
Trong thực tiễn thì người đang mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh khác làm mất
khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi (tức là không có năng
lực chịu TNHS) vẫn có thể thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội hoặc sau
khi thực hiện hành vi mới mắc bệnh, trường hợp này họ bị coi là tạm thời
không có năng lực TNHS. Việc kết án cũng như áp dụng hình phạt với họ vừa
trái với nguyên tắc nhân đạo được Luật hình sự Việt Nam thừa nhận, vừa
không đạt được mục đích giáo dục, cải tạo người phạm tội, không đạt được
hiệu quả của hình phạt, tuy nhiên để phòng ngừa và ngăn chặn họ tiếp tục
thực hiện những hành vi nguy hiểm cho xã hội thì việc áp dụng BPBBCB là
hết sức cần thiết và phù hợp, đồng thời còn thể hiện nguyên tắc nhân đạo sâu
sắc. ..................................................................................................................28
Với tính chất là một trong các dạng trách nhiệm pháp lý nghiêm khắc nhất,
mặc dù không giống như hình phạt song việc áp dụng BPBBCB cũng đem lại
những hậu quả pháp lý bất lợi cho người bị áp dụng, do đó việc áp dụng biện


pháp này trên thực tế đòi hỏi phải hạn chế tối đa sự tùy tiện, chính vì thế
BLHS 1999 giao thẩm quyền áp dụng BPBBCB cho các cơ quan tư pháp hình
sự, bao gồm 2 cơ quan là Tòa án, Viện kiểm sát tùy vào từng giai đoạn tố tụng
cụ thể áp dụng theo một trình tự nhất định được quy định trong BLTTHS.

Việc ràng buộc này là để đảm bảo nguyên tắc pháp chế, là cơ sở để đảm bảo
các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân...................................................28
Chính sách hình sự của Nhà nước ta là huy động tối đa, đồng bộ các biện
pháp, các phương tiện để giải quyết triệt để những vấn đề phát sinh trong vụ
án hình sự. Tuy nhiên, hình phạt với tư cách là phương tiện chính lại không
thể giải quyết hết những khía cạnh pháp lý nảy sinh trong vụ án hình sự, đặc
biệt là trong những trường hợp người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội
trong khi mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh khác làm mất khả năng nhận thức
hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình; hoặc người phạm tội trong khi có
năng lực TNHS nhưng trước khi bị kết án đã mắc bệnh tới mức mất khả năng
nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình; hoặc trong trường hợp
người đang chấp hành hình phạt mà bị bệnh tới mức mất khả năng nhận thức
hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình thì BPBBCB được áp dụng để
giải quyết những vấn đề phát sinh trong quá trình tố tụng cũng như trong thời
gian đang chấp hành hình phạt, nhằm thay thế hoặc hỗ trợ cho hình phạt có
thể đạt được mục đích và hiệu quả tối đa là không chỉ nhằm trừng trị người
phạm tội mà còn giúp cho họ trở thành những người có ích cho xã hội, có ý
thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống, ngăn ngừa họ phạm tội
mới, đồng thời giáo dục người khác tuân thủ pháp luật. Nói một cách khác
việc quy định và áp dụng BPBBCB nhằm góp phần giải quyết một cách trọn
vẹn, triệt để hơn các vấn đề phát sinh trong vụ án hình sự bao gồm cả vấn đề
TNHS của người phạm tội và các vấn đề khác như lợi ích của Nhà nước, của
xã hội và cả quyền và lợi ích hợp pháp của người khác. Việc quy định và áp
dụng BPBBCB trong pháp luật hình sự thể hiện phương châm đúng đắn trong
việc thực hiện chính sách hình sự là sử dụng tối đa, đồng bộ mọi biện pháp để
nhằm răn đe, giáo dục người phạm tội và phòng ngừa tội phạm, góp phần
nâng cao hiệu quả của sự tác động hình sự đối với tội phạm và hình phạt
không phải là phương tiện, công cụ duy nhất trong công tác đấu tranh phòng
ngừa và chống tội phạm..................................................................................31
Trong xu thế hội nhập quốc tế về mọi phương diện kinh tế, xã hội…và trước

yêu cầu hoàn thiện hệ thống pháp luật, chúng ta nên nghiên cứu pháp luật của


các nước trên thế giới để học hỏi cách thức lập pháp, áp dụng pháp luật và
tránh những hạn chế mà các nước gặp phải. Để hoàn thiện chế định BPBBCB
trong BLHS 1999 cũng nên xem xét các quy định pháp luật tương tự ở một số
nước. Tác giả nhận thấy phần lớn trong hệ thống pháp luật hình sự của một số
nước không có quy định về BPBBCB nhưng có quy định các biện pháp cưỡng
chế hình sự tương tự như biện pháp này về vai trò, mục đích, tính chất.........35
BLHS Nga quy định về biện pháp cưỡng chế có tính chất y học tương tự như
BPBBCB trong pháp luật hình sự Việt Nam. Đặc biệt, các biện pháp này được
quy định thành một chương riêng với 8 Điều luật. Biện pháp này được áp
dụng với người thực hiện hành vi quy định tại phần riêng của BLHS khi
không có năng lực TNHS hoặc sau khi phạm tội mà mắc bệnh tới mức mất
khả năng nhận thức và điều khiển hành vi… Nhưng đặc biệt khác với
BPBBCB trong BLHS nước ta, biện pháp an ninh còn được áp dụng với
người phạm tội đang trong tình trạng nghiện rượu hay nghiện ma túy. Đây là
điểm rất hay trong quy định của pháp luật hình sự Nga, thiết nghĩ trong thời
gian tới Việt Nam cần nghiên cứu và vận dụng quy định này.........................35
Trong hệ thống pháp luật hình sự Tây Ban Nha, cụ thể là trong BLHS năm
1995 thì quy định các biện pháp an ninh tại phần 4 Quyển 1 nhằm mục đích
ngăn chặn tội phạm mới. Trong đó có biện pháp đưa vào một cơ sở tâm thần,
đưa vào cơ sở phục hồi và đưa vào cơ sở giáo dục đặc biệt. Đây là các biện
pháp cưỡng chế hình sự khác không phải là hình phạt được áp dụng để ngăn
ngừa tội phạm..................................................................................................36
Tương tự như BPBBCB trong BLHS Việt Nam trong BLHS Thụy Điển cho
phép Tòa án có thể xem xét điều kiện tâm thần, hoàn cảnh cá nhân cụ thể để
quyết định áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở điều trị tâm thần cùng với việc
hạn chế tự do và các biện pháp cưỡng chế khác đối với người phạm tội do ảnh
hưởng của rối loạn tân thần nghiêm trọng và hành vi phạm tội của họ không

giới hạn bị áp dụng phạt tiền, đó là biện pháp đưa vào cơ sở chăm sóc đặc biệt
được được quy định tại Điều 3 BLHS Thụy Điển. Ngoài ra, pháp luật hình sự
Thụy Điển còn quy định trong trường hợp người mắc bệnh tâm thần ở mức độ
cao thì sẽ không bị truy cứu TNHS. Tuy nhiên, đối với trường hợp này Tòa án
cần phải điều tra đặc biệt để tránh nguy cơ truy cứu một người vì lý do tâm
thần. Một điều đáng đáng lưu ý là biện pháp này vẫn được xem là một trong
các hình phạt được quy định trong hệ thống các hình phạt của BLHS Thụy


Điển trong khi BPBBCB trong Luật hình sự Việt Nam không phải là hình
phạt..................................................................................................................36
Biện pháp lưu trú trong bệnh viện tâm thần là một trong các biện pháp xử lý
cải thiện và đảm bảo an toàn quy định trong BLHS Đức được áp dụng đối với
người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội khi mắc bệnh tâm thần. Biện
pháp này theo quy định của BLHS Đức không thuộc hệ thống hình phạt mà
thuộc hệ thống biện pháp xử lý hình sự riêng biệt có mục đích cải thiện tình
trạng của người bị áp dụng cũng như bảo đảm an toàn xã hội. Để quyết định
biện pháp xử lý này Tòa án không chỉ căn cứ vào ý nghĩa của hành vi đã thực
hiện mà còn phải căn cứ cả vào ý nghĩa của các hành vi được dự liệu cũng
như mức độ của sự nguy hiểm từ phía người phạm tội...................................37
Trong Luật hình sự hiện hành của Trung Hoa cũng có quy định một số biện
pháp cưỡng chế hình sự tương tự như các biện pháp tư pháp ở nước ta. Tuy
nhiên, BLHS Trung Hoa lại không có bất cứ một điều luật nào quy định cụ
thể về các biện pháp tư pháp, thậm chí những biện pháp cưỡng chế hình sự
giống như các biện pháp tư pháp của Việt Nam cũng không có tên gọi cụ thể
và nằm rải rác trong các quy định tại phần chung của Bộ luật hình sự Trung
Hoa. Một biện pháp tương tự như BPBBCB quy định tại Điều 15 BLHS
Trung Hoa: “Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi đang
mắc bệnh tâm thần làm mất khả năng nhận thức hoặc điều khiển hành vi của
mình thì không phải chịu TNHS. Nhưng người nhà hoặc người bảo lãnh phải

tăng cường kiểm tra và chữa bệnh cho họ”. Có thể thấy quy định trên của
BLHS Trung Hoa đã giao trách nhiệm chữa bệnh đối với người thực hiện
hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần làm mất khả
năng nhận thức hoặc điều khiển hành vi cho người thân hoặc người bảo lãnh,
còn trong Luật hình sự Việt Nam trách nhiệm này thuộc về nhà nước (chi phí
điều trị: tiền viện phí, tiền thuốc và các chi phí khác phục vụ cho việc chữa
bệnh cho người bị bắt buộc chữa bệnh do Nhà nước cấp [1, tr.342]), điều này
một mặt thể hiện trách nhiệm của Nhà nước đối công dân, một mặt thể hiện
bản chất nhân đạo sâu sắc của pháp luật hình sự Việt Nam trong đường lối xử
lý đối với người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội nói chung và với
người mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi khi thực
hiện tội phạm do mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh khác nói riêng......................37
BPBBCB là một trong những biện pháp cưỡng chế hình sự có vai trò quan
trọng trong đấu tranh phòng ngừa tội phạm. Việc áp dụng BPBBCB là cần


thiết vì khi áp dụng chúng có khả năng tác động hỗ trợ hoặc thay thế cho hình
phạt trong đó có việc giải quyết những vấn đề phát sinh trong vụ án hình sự
và mặc dù giữa BPBBCB và hình phạt đều có những nét tương đồng nhất
định như: đều là những biện pháp cưỡng chế về hình sự của Nhà nước được
quy định trong Luật hình sự (1); do Toà án áp dụng đối với cá nhân người có
hành vi nguy hiểm cho xã hội (2); theo một trình tự, thủ tục chặt chẽ do
BLTTHS quy định (3); nhằm loại bỏ những điều kiện có thể dẫn đến tội phạm
mới trong tương lai, đồng thời cả hai biện pháp này khi áp dụng đều dựa trên
cơ sở nguyên tắc pháp chế, nguyên tắc công bằng và tôn trọng danh dự, nhân
phẩm của con người (4). Nhưng giữa BPBBCB và hình phạt cũng có những
điểm khác nhau, và chính những điểm khác nhau đó mà hình phạt và
BPBBCB có những vai trò và vị trí riêng khi được áp dụng trên thực tế.
Những điểm khác nhau giữa BPBBCB và hình phạt có thể nhận thấy khi so
sánh các tiêu chí sau:.......................................................................................65

Bảng 1.1. Những điểm khác nhau giữa BPBBCB và hình phạt......................65
Nhằm phòng ngừa tội phạm thông qua việc chữa trị những nguyên nhân dẫn
đến việc thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội của người bị áp dụng và loại
bỏ những điều kiện có thể dẫn đến việc phạm tội mới trong tương lai do tình
trạng bệnh của người bị áp dụng. Tuy nhiên, cũng cần lưu ý rằng BPBBCB
được biểu hiện dưới dạng tước tự do hoặc hạn chế tự do của người bị áp dụng
trong một thời hạn nhất định là nhằm hướng đến mục đích phòng ngừa tội
phạm, bảo vệ xã hội khi người bị áp dụng tái hoà nhập cộng đồng chứ việc áp
dụng biện pháp này đối với người bị áp dụng không phải là sự trừng trị của
Nhà nước đối với người bị áp dụng, cũng không phải là sự trả giá của người
bị áp dụng khi họ đã thực hiện hành vi phạm tội như khi áp dụng hình phạt. 69
Cùng với TNHS, trách nhiệm hành chính cũng được thể hiện dưới nhiều dạng
khác nhau, do đó nếu đem BPBBCB so sánh với nội hàm của khái niệm trách
nhiệm hành chính thì rõ ràng sẽ là rất khập khiễng bởi hai đối tượng đem so
sánh là không tương thích với nhau. Vì vậy ở đây tác giả chỉ muốn so sánh
BPBBCB với biện pháp có tính chất tương tự thuộc nội dung của trách nhiệm
hành chính đó là Biện pháp đưa vào cơ sở bắt buộc chữa bệnh trong Pháp
lệnh xử lý vi phạm hành chính (PLXLVPHC) năm 2002 sửa đổi bổ sung
2007, 2008 và biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc trong Luật xử lý
vi phạm hành chính (LXLVPHC) năm 2012 nhằm làm rõ hơn bản chất cũng


như vai trò của BPBBCB dùng hỗ trợ hoặc thay thế cho hình phạt. Sự khác
nhau thể hiện ở những tiêu chí sau:.................................................................70
Bảng 1.2. Những điểm khác nhau giữa BPBBCB với biện pháp đưa vào cơ sở
chữa bệnh và biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc............................70
STT..................................................................................................................70
Tiêu chí............................................................................................................70
Biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh................................................................70
Biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.................................................70

BPBBCB.........................................................................................................70
1.......................................................................................................................70
Đối tượng.........................................................................................................70
áp dụng............................................................................................................71
Người nghiện ma túy từ đủ 18 tuổi trở lên đã bị áp dụng biện pháp giáo dục
tại xã, phường, thị trấn mà vẫn còn nghiện hoặc chưa bị áp dụng biện pháp
này nhưng không có nơi cư trú ổn định).........................................................70
(Điều 96 LXLVPHC 2012)..............................................................................72
Người có hành vi nguy hiểm cho xã hội, đó có thể là tội phạm hoặc không là
tội phạm...........................................................................................................70
(Điều 43 BLHS 1999).....................................................................................71
2.......................................................................................................................72
Thời hạn áp dụng.............................................................................................72
Thời hạn áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh đối với người nghiện
ma tuý là từ 1 năm đến 2 năm, đối với người bán dâm là từ 3 tháng đến 18
tháng................................................................................................................72
(Khoản 1 Điều 26 PLXLVPHC 2002 sửa đổi bổ sung 2007, 2008)...............72
Thời hạn áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc từ 12 tháng
đến 24 tháng. (Khoản 2 Điều 95 LXLVPHC 2012)........................................72
Không giới hạn thời gian bắt buộc chữa bệnh, nghĩa là cho đến khi nào người
bị bắt buộc chữa bệnh khỏi bệnh thì thời hạn này mới kết thúc......................72
(Điều 43 BLHS 1999).....................................................................................72
3.......................................................................................................................72
Thẩm quyền áp dụng.......................................................................................72
Chủ thể có thẩm quyền áp dụng là Chủ tịch UBND cấp huyện......................72
(Khoản 7 Điều 29 PLXLVPHC 2002 sửa đổi bổ sung 2007, 2008)...............72


TAND cấp huyện có thẩm quyền quyết định áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở
cai nghiện bắt buộc..........................................................................................72

(Khoản 2 Điều 105 LXLVPHC 2012).............................................................72
Do các cơ quan tư pháp hình sự có thẩm quyền như Tòa án, Viện kiểm sát tùy
vào từng giai đoạn tố tụng cụ thể áp dụng.......................................................72
(Điều 43 BLHS 1999).....................................................................................72
4.......................................................................................................................72
Cơ sở áp dụng..................................................................................................72
a)Được quy định trong PLXLVPHC và áp dụng theo trình tự, thủ tục do
PLXLVPHC quy định......................................................................................72
b)Được thực hiện trên cơ sở quyết định của chủ thể có thẩm quyền là Chủ tịch
UBND cấp huyện............................................................................................73
a)Được quy định trong LXLVPHC và áp dụng theo trình tự, thủ tục do
LXLVPHC quy định........................................................................................72
b)Được thực hiện bằng quyết định của Tòa án................................................73
c)Được quy định trong BLHS và áp dụng theo trình tự, thủ tục nhất định do
BLTTHS quy định...........................................................................................72
d)Được thực hiện bằng quyết định của Tòa án hoặc Viện kiểm sát................73
Cũng cần lưu ý rằng LXLVPHC năm 2012 được Quốc hội nước Cộng hoà xã
hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XIII, kỳ họp thứ 3 thông qua ngày 20 tháng 6
năm 2012 nhằm thay thế PLXLVPHC năm 2002 sửa đổi bổ sung năm 2007,
2008; do đó kể từ ngày LXLVPHC năm 2012 có hiệu lực pháp luật
(01/7/2013) thì biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh trong PLXLVPHC cũng
không còn được áp dụng mà thay vào đó biện pháp có tính chất tương tự là
biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Đồng thời theo LXLVPHC năm
2012 thì biện pháp này chỉ có thể được áp dụng đối với người nghiện ma túy
từ đủ 18 tuổi trở lên đã bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn
mà vẫn còn nghiện hoặc chưa bị áp dụng biện pháp này nhưng không có nơi
cư trú ổn định, nghĩa là không như biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh trong
PLXLVPHC năm 2002 sửa đổi bổ sung năm 2007, 2008 trước đây được áp
dụng đối với cả hai đối tượng là người nghiện ma túy và người bán dâm.
LXLVPHC 2012 đã loại trừ đối tượng áp dụng đối với người bán dâm, do

hành vi bán dâm hiện nay không còn được xem là hành vi vi phạm pháp luật
hành chính nữa do đó không thuộc đối tượng điều chỉnh của LXLVPHC 2012.
.........................................................................................................................73


1.Nguyễn Ngọc Anh (chủ biên) (2012), Bình luận Luật thi hành án hình sự
năm 2010, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội...................................................108
2.Bộ luật hình sự năm 1985...........................................................................108
3.Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009...............................108
4.Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003..............................................................108
5.Bộ luật hình sự năm 1985...........................................................................108
6.Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009...............................108
7.Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003..............................................................108
8.Bộ luật hình sự Tây Ban Nha, Bộ tư pháp dịch..........................................108
9.Bộ luật hình sự Cộng hòa nhân dân Trung Hoa.........................................108
10.Bộ luật hình sự Thụy Điển, Bộ tư pháp dịch............................................108
11.Bộ luật hình sự nước Cộng hòa Pháp năm 1994......................................108
12.Bộ luật hình sự Đức, Bộ tư pháp dịch......................................................108
13.Bộ luật hình sự, ngày 20/12/1972 của chính phủ Việt Nam Cộng hòa....108
14.Bộ tư pháp (Viện khoa học pháp lý) (2005), Bình luận khoa học Bộ luật tố
tụng hình sự năm 2003, Nxb Tư pháp, Hà Nội.............................................108
15.Lê Văn Cảm (2005), Sách chuyên khảo sau đại học - Những vấn đề cơ bản
trong khoa học Luật hình sự (phần chung), Nxb Đại học quốc gia Hà Nội. .108
16.Lê Văn Cảm (2010), “Những vấn đề chung về bảo bệ các quyền con người
bằng pháp luật trong lĩnh vực tư pháp hình sự”, Sách chuyên khảo Bảo đảm
quyền con người trong tư pháp hình sự Việt Nam (TS. Võ Thị Kim Oanh chủ
biên), Nxb Đại học quốc gia Tp. Hồ Chí Minh.............................................108
17.Lê Văn Cảm (Lê Cảm) (2012), Sách chuyên khảo Một số vấn đề cấp bách
của khoa học pháp lý Việt Nam trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp
quyền, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội............................................................109

18.Đỗ Văn Chỉnh (1999), “Về bắt buộc chữa bệnh và những thiếu xót cần
khắc phục”, Tạp chí TAND, (03), tr.2...........................................................109
19.Nguyễn Đăng Đức (2001), Tâm thần học tư pháp, Trung tâm sức khỏe tâm
thần, Tp. Hồ Chí Minh..................................................................................109
20.Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 1992...................109
21.Học viện quân y (2007), Giáo trình Tâm thần học và Tâm lý học y học,
Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội...................................................................109
22.Phạm Hồng Hải (2000), “Các biện pháp tư pháp trong BLHS năm 1999 và
vấn đề hoàn thiện LTTHS về trình tự thủ tục áp dụng các biện pháp đó”, Tạp
chí luật học, (05), tr.19..................................................................................109


23.Nguyễn Ngọc Hòa, Lê Thị Sơn (2006), Từ điển pháp luật hình sự, Nxb Tư
pháp, Hà Nội..................................................................................................109
24.Nguyễn Thị Ánh Hồng (2012), “Biện pháp tư pháp trong Luật hình sự Việt
Nam và vấn đề bảo vệ quyền con người”, Tạp chí khoa học pháp lý, (3), tr.29.
.......................................................................................................................109
25.Trần Minh Hưởng (2007), Sách tìm hiểu hình phạt và các biện pháp tư
pháp trong luật hình sự Việt Nam, NXB Lao Động, Hà Nội........................109
26.Trần Minh Hưởng (2009), Sách hệ thống pháp luật hình sự - tập 1: Bình
luận khoa học BLHS (đã được sửa đổi bổ sung năm 2009), thực hiện từ
01/01/2010, Nxb Lao động, Hà Nội..............................................................109
27.Luật giám định tư pháp năm 2012............................................................109
28.Luật thi hành án hình sự năm 2010..........................................................109
29.Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012................................................110
30.Nguyễn Đức Mai, Đỗ Thị Ngọc Tuyết (2012), Bình luận khoa học Bộ luật
hình sự năm 1999 sửa đổi bổ sung năm 2009 phần chung, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội.....................................................................................................110
31.Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 và chiến lược cải cách tư pháp
đến 2020 của Bộ chính trị..............................................................................110

32.Nghị định số 64/NĐ-CP ngày 28 tháng 07 năm 2011 của Chính Phủ quy
định việc thi hành Biện pháp bắt buộc chữa bệnh.........................................110
33.Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002 sửa đổi bổ sung năm 2007,
2008...............................................................................................................110
34.Đinh Văn Quế (2000), Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 1999 phần
chung, Nxb Tp. Hồ Chí Minh........................................................................110
35.Đinh Văn Quế (2009), Bình luận khoa học về các tình tiết tăng nặng, giảm
nhẹ trách nhiệm hình sự, Nxb Tổng hợp Tp. Hồ Chí Minh...........................110
36.Đinh Văn Quế (2009), Bình luận khoa học về loại trừ trách nhiệm hình sự
(bình luận chuyên sâu có viện dẫn các vụ án đã xét xử), Nxb Tổng hợp Tp.
Hồ Chí Minh..................................................................................................110
37.Đinh Văn Quế (2010), Tìm hiểu Tội phạm và hình phạt trong Luật hình sự
Việt Nam, Nxb Phương đông........................................................................110
38.Thông tư liên tịch số 03/TTLT ngày 24/09/1997 của Bộ nội vụ - Bộ y tế Bộ quốc phòng - Bộ tài chính - Viện kiểm sát nhân dân tối cao- Tòa án nhân
dân tối cao hướng dẫn về biện pháp bắt buộc chữa bệnh..............................110


39.Trịnh Quốc Toản (2003), “Trách nhiệm hình sự của pháp nhân theo Luật
hình sự Hà Lan”, Tạp chí kiểm sát, (5), tr 48-52...........................................110
40.Nguyễn Minh Tuấn (2004), Các rối loạn tâm thần chuẩn đoán và điều trị,
Nxb Y học, Hà Nội........................................................................................110
41.Phan Hồng Thủy (2002), “Bàn về áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh”,
Tạp chí Kiểm sát, (04), tr.34..........................................................................110
42.Lương Hữu Thông (2005), Sức khỏe tâm thần và các rối loạn tâm thần
thường gặp, Nxb Lao động, Hà Nội..............................................................111
43.Nguyễn Duy Thuân (1999), Các biện pháp ngăn chặn trong Tố tụng hình
sự - Những vấn đề lý luận và thực tiễn, NXB Công an nhân dân, Hà Nội....111
44.Trường Đại học Luật Hà Nội (1997), Báo cáo của Chính phủ trước Quốc
hội về phần chung của Bộ Luật hình sự luật hình sự Việt Nam những vấn đề
lý luận và thực tiễn, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội....................................111

45.Trường Đại học luật Hà Nội (2001), Giáo trình luật hình sự Việt Nam tập
1, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.................................................................111
46.Trường Đại học luật Hà Nội (2005), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam,
Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.....................................................................111
47.Trường Đại học Luật Hà Nội (2000), Từ điển giải thích thuật ngữ Luật học
(Luật hình sự và Luật tố tụng hình sự), Nxb Công an nhân dân, Hà Nội......111
48.Trường Đại học Luật Hà Nội (1997), Luật hình sự Việt Nam - Những vấn
đề lý luận và thực tiễn, Nxb Công An nhân dân, Hà Nội..............................111
49.Trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh (2008) Khoa luật Dân sự, Tập bài
giảng "Những vấn đề chung về Luật dân sự"................................................111
50.Trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh (2008) Khoa luật hình sự, Tập bài
giảng "Những vấn đề chung về Luật hình sự và tội phạm"...........................111
51.Trần Quang Tiệp (2011), Về tự do cá nhân và biện pháp cưỡng chế tố tụng
hình sự, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.......................................................111
52.Trương Quang Vinh (2010), “Thực trạng qui định của pháp luật hình sự về
các biện pháp tư pháp. Thực tiễn áp dụng và một số đề xuất”, Tạp chí Nhà
nước và pháp luật, (02),tr.67..........................................................................111
53.Võ Khánh Vinh, Nguyễn Mạnh Kháng (chủ biên) (2006), Sách chuyên
khảo Pháp luật thi hành án hình sự Việt Nam – Những vấn đề lý luận và thực
tiễn, Nxb Tư pháp, Hà Nội............................................................................112
54.Võ Khánh Vinh (chủ biên) (2006), Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình
sự, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội...............................................................112


55. />.......................................................................................................................112
56. />57. />

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BLHS:
BPBBCB:

CSĐT:
CHXHCN:
LXLVPHC:
NLTNHS:
PLHS:
PLXLVPHC:
STT:
TAND:
TANDTC:
TTLT:
THA:
TNHS:
VKS:
VKSND:
VKSNDTC:

Bộ luật hình sự
Biện pháp bắt buộc chữa bệnh
Cảnh sát điều tra
Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa
Luật xử lý vi phạm hành chính
Năng lực trách nhiệm hình sự
Pháp luật hình sự
Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính
Số thứ tự
Tòa án nhân dân
Tòa án nhân dân tối cao
Thông tư liên tịch
Thi hành án
Trách nhiệm hình sự

Viện kiểm sát
Viện kiểm sát nhân dân
Viện kiểm sát nhân dân tối cao


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền và cải cách
tư pháp ở Việt Nam hiện nay, một trong những mục tiêu đề ra và
được thể hiện xuyên suốt trong quá trình lập pháp nói chung và
lập pháp trong lĩnh vực tư pháp hình sự nói riêng đó là chủ động
phòng ngừa và kiên quyết đấu tranh chống tội phạm, trừng trị,
giáo dục, cảm hoá người phạm tội, cải tạo họ trở thành công dân
có ích cho xã hội trong đó giáo dục, phòng ngừa tội phạm là chủ
yếu. Việc nghiên cứu để đưa ra các cơ chế pháp lý vừa nhằm đấu
tranh phòng và chống tội phạm một cách hữu hiệu, vừa đảm bảo
các quyền và tự do của con người và của công dân trên thực tế
bằng các biện pháp cưỡng chế của hệ thống tư pháp hình sự
không chỉ là những nhiệm vụ cơ bản của hoạt động lập pháp, mà
còn là hướng nghiên cứu quan trọng của khoa học pháp lý nước ta.
Bởi lẽ, với chức năng của mình các biện pháp cưỡng chế của hệ
thống tư pháp hình sự có liên quan thiết thực hàng ngày đến một
số quyền cơ bản của công dân - đến các giá trị xã hội cao quý nhất
được thừa nhận chung đã nêu trong một xã hội có tính nhân bản
cao [43, tr.3], đồng thời dựa vào đó cho phép đánh giá mức độ dân
chủ và pháp chế trong bất kỳ một quốc gia nào. Trong số các biện
pháp cưỡng chế ấy của hệ thống tư pháp hình sự thì biện pháp tư
pháp bắt buộc chữa bệnh sau đây gọi là biện pháp bắt buộc chữa
bệnh (BPBBCB) trong Bộ luật hình sự có chức năng rất quan trọng.
Với tư cách là chế định độc lập, BPBBCB đã được các nhà làm luật

nước ta ghi nhận tại Điều 43, 44 của Bộ luật hình sự 1999.
Việc quy định BPBBCB trong pháp luật hình sự thể hiện
phương châm đúng đắn trong việc thực hiện chính sách hình sự
nước ta đó là sử dụng tối đa, đồng bộ mọi biện pháp để tác động

1


đến việc giáo dục người phạm tội, hình phạt không phải là phương
tiện, công cụ duy nhất trong công tác đấu tranh phòng ngừa và
chống tội phạm. Tất cả các biện pháp cưỡng chế hình sự cũng đều
nhằm mục đích giáo dục người phạm tội và phòng ngừa tội phạm,
góp phần nâng cao hiệu quả của sự tác động hình sự đối với tội
phạm.
Trong thực tiễn đấu tranh phòng chống tội phạm ở nước ta
trong thời gian qua đã cho thấy, vì các lý do chủ quan và khách
quan khác nhau nên Bộ luật hình sự Việt Nam hiện hành nói chung
và chế định BPBBCB nói riêng đã bộc lộ những nhược điểm nhất
định trong việc thực hiện chức năng của mình. Do đó, hiện nay để
đảm bảo cho sự vận hành đồng bộ của hệ thống tư pháp hình sự
nhằm đạt được hiệu quả cao trong cuộc đấu tranh phòng và chống
tội phạm, việc tiếp tục nghiên cứu một cách đồng bộ và có hệ
thống chế định này là nhiệm vụ quan trọng và cần thiết.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong bối cảnh các bài viết nghiên cứu có liên quan đến
BPBBCB trong luật hình sự Việt Nam là không nhiều và còn thiếu
tính đồng bộ, trong đó đa số chỉ đề cập một cách khái quát hoặc
chỉ phân tích một vài khía cạnh của vấn đề, các cơ quan chức năng
dường như bỏ quên công tác tổng hợp, thống kê tình hình áp dụng
BPBBCB. Mặt khác, trong quá trình thu thập các số liệu có liên

quan đến đề tài, khi tác giả liên hệ với các cơ quan chức năng để
được tiếp cận và thu thập số liệu thì nhận được trả lời: i) Tòa án,
Viện kiểm sát: đây là các số liệu không nằm trong chỉ tiêu thống kê
của ngành nên không thể có để cung cấp; ii) Phân viện giám định
pháp y tâm thần phía nam (Biên Hòa - Đồng Nai): đây là các số
liệu hạn chế cung cấp (Phân viện chỉ cung cấp cho các cơ quan
chức năng có liên quan khi có yêu cầu) còn đối với cá nhân như tác
giả thì không được cung cấp. Chính vì những lí do đó mà tác giả đã

2


gặp không ít những khó khăn trong quá trình thực hiện đề tài, đặc
biệt là trong việc tìm hiểu thực tiễn áp dụng. Trong quá trình
nghiên cứu, tác giả không tìm thấy một tài liệu hay ấn phẩm nào
nghiên cứu chuyên sâu của các nhà nghiên cứu cũng như học giả
Việt Nam về vấn đề "Biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh trong
luật hình sự Việt Nam". Nghiên cứu của các nhà nghiên cứu, học
giả Việt Nam có liên quan đến BPBBCB trong luật hình sự Việt Nam
chỉ là những nghiên cứu dưới góc độ diễn giải, bình luận một cách
khái quát đối với BPBBCB trong công trình nghiên cứu chung về
các biện pháp tư pháp theo luật hình sự Việt Nam như: “Thực
trạng quy định của pháp luật hình sự về các biện pháp tư pháp.
Thực tiễn áp dụng và một số đề xuất” [52] hoặc chỉ nhắc lại các
quy định của pháp luật đối với chế định về BPBBCB trong Bộ luật
hình sự Việt Nam như: “Biện pháp tư pháp trong Luật hình sự Việt
Nam và vấn đề bảo vệ quyền con người” [24]. Hay chỉ phân tích
một vài khía cạnh về biện pháp này, chẳng hạn “Bàn về áp dụng
biện pháp bắt buộc chữa bệnh” [41] hay “Về bắt buộc chữa bệnh
và những thiếu xót cần khắc phục” [18]. Việc nghiên cứu BPBBCB

trong luật hình sự Việt Nam một cách tổng thể dưới gốc độ quy
định của Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 và thực tiễn áp dụng
biện pháp này của các cơ quan tố tụng trong những năm gần đây
trên một địa bàn cụ thể - địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh vẫn chưa
được thực hiện thông qua các công trình nghiên cứu nói trên.
Ngoài ra, tác giả cũng tham khảo được một số quy định của Luật
hình sự của một số nước có liên quan đến quy định về BPBBCB
như: Nga, Trung Quốc, Pháp, Tây Ban Nha, Thụy Điển, Đức.Vì vậy,
có thể khẳng định đề tài “Biện pháp tư pháp bắt buộc chữa
bệnh trong luật hình sự Việt Nam” là có tính mới và khoa học
của một công trình luận văn thạc sĩ.

3


3. Mục đích nghiên cứu, đối tượng nghiên cứu
Để đem đến một cái nhìn tổng quan về nội dung, vai trò và ý
nghĩa của quy định về "Biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh
trong luật hình sự Việt Nam" tác giả sẽ nghiên cứu theo cách tiếp
cận của phương pháp so sánh những quy định có liên quan đến
BPBBCB với các chế tài pháp lý hình sự và phi hình sự khác;
BPBBCB trong Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 là đối tượng
nghiên cứu chính của tác giả, những quy định của một vài nước
cũng sẽ được tác giả nghiên cứu nhưng chỉ dừng lại ở mức độ tham
khảo và minh họa. Một cách chi tiết hoá, trong phạm vi của đề tài,
tác giả sẽ tập trung nghiên cứu ba nội dung:
(i) Những vấn đề lý luận về BPBBCB theo luật hình sự Việt
Nam: Với nội dung này, tác giả tập trung làm rõ khái niệm
BPBBCB, nội dung của các quy định có liên quan đến BPBBCB
trong pháp luật hình sự Việt Nam, cơ sở lý luận về vấn đề này của

Bộ luật hình sự Việt Nam.
(ii) Thực tiễn áp dụng BPBBCB trong Bộ luật hình sự Việt
Nam năm 1999: Trong nội dung này, tác giả hướng tới việc
nghiên cứu hoạt động áp dụng BPBBCB trong việc đấu tranh
phòng và chống tội phạm trong giai đoạn hiện nay và thực tiễn
áp dụng trên địa bàn Tp. Hồ Chí Minh; cụ thể là kỹ năng cá biệt
hoá quy định về “Biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh trong
Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999”, khả năng áp dụng biện
pháp này của các cơ quan tư pháp hình sự và tác dụng của việc
áp dụng biện pháp này đến hiệu quả của hoạt động đấu tranh
phòng và chống tội phạm.
(iii) Những giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả áp dụng
BPBBCB trong Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999: Trong nội dung
này, tác giả hướng tới việc nghiên cứu các giải pháp nhằm hoàn
thiện quy định về BPBBCB trong Bộ luật hình sự Việt Nam năm

4


1999, góp phần nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp này trong
việc đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm trong giai đoạn hiện
nay.
Qua việc làm rõ những nội dung trên, tác giả mong muốn
hoạt động nghiên cứu của mình sẽ góp phần làm rõ quy định có
liên quan đến BPBBCB trong Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999.
Đồng thời luận văn này cũng trình bày một số quy định có liên
quan đến BPBBCB của một vài nước, điều này sẽ giúp cho chúng ta
có thể đánh giá ưu, nhược điểm của các quy định về BPBBCB trong
Bộ luật hình sự hiện hành và học hỏi kinh nghiệm của các nước từ
đó giúp cho hoạt động áp dụng BPBBCB đạt hiệu quả mong muốn.

4. Phạm vi nghiên cứu
Ở một luận văn Thạc sĩ Luật, đề tài này sẽ nghiên cứu vấn đề
về BPBBCB theo quy định của pháp luật hình sự của Việt Nam. Tuy
nhiên, đề tài chỉ nghiên cứu vấn đề BPBBCB trong Bộ luật hình sự
Việt Nam hiện hành. Nghĩa là đề tài giới hạn phạm vi nghiên cứu
trong khuôn khổ quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999
về BPBBCB.
Trong giới hạn của đề tài, tác giả sẽ nghiên cứu quy định của
Bộ luật hình sự Việt Nam hiện hành về BPBBCB và thực tiễn áp
dụng biện pháp này trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh từ năm
2007 đến 2012.
5. Phương pháp nghiên cứu
Nhằm đạt được nội dung và mục đích của việc nghiên cứu đề
tài sử dụng chủ yếu hai phương pháp là: phương pháp phân tích tổng hợp và phương pháp so sánh.
a. Phương pháp phân tích - tổng hợp: Để diễn giải nội hàm của
khái niệm BPBBCB và để làm rõ các quy định có liên quan của pháp
luật hình sự Việt Nam, tác giả sử dụng phương pháp phân tích trong
quá trình trình bày những nội dung này. Phương pháp phân tích sẽ
được sử dụng kết hợp cùng với phương pháp tổng hợp nhằm giúp

5


cho từng nội dung được trình bày trở nên logic và có căn cứ. Tác giả
sẽ tổng hợp và phân tích các thông tin từ các nguồn khác nhau bao
gồm các văn bản pháp quy, các tài liệu chuyên ngành như các bài
nghiên cứu, sách, báo chuyên ngành,...
b. Phương pháp so sánh: Với mục đích nghiên cứu các quy
định của Bộ luật hình sự Việt Nam liên quan đến BPBBCB với một
số chế tài pháp lý hình sự và phi hình sự vài khác, cũng như trong

quá trình nghiên cứu tác giả cũng trình bày một số quy định có liên
quan đến BPBBCB của một vài nước, phương pháp so sánh là
phương pháp thích hợp để thực hiện mục tiêu trên.
6. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài
BPBBCB đóng vai trò rất quan trọng trong đó có liên quan
đến việc xác định năng lực trách nhiệm hình sự của người bị áp
dụng. Do đó, việc nghiên cứu đề tài "Biện pháp tư pháp bắt buộc
chữa bệnh trong luật hình sự Việt Nam" có ý nghĩa thực tiễn rất lớn
trong quá trình đấu tranh phòng và chống tội phạm trong giai đoạn
hiện nay. Song những quy định này vẫn chưa được quan tâm
nghiên cứu đúng mức trong thực tiễn khoa học pháp lý tại Việt
Nam. Vì vậy, việc nghiên cứu những quy định của pháp luật về
"Biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh trong luật hình sự Việt
Nam" là một nhu cầu bức thiết và mang tính thực tiễn cao hiện
nay.
Luận văn này đề cập việc nghiên cứu và đánh giá một cách
tương đối toàn diện về quy định "Biện pháp tư pháp bắt buộc chữa
bệnh trong luật hình sự Việt Nam" thông qua việc làm rõ khái niệm
BPBBCB, điều kiện cần và đủ để áp dụng biện pháp này và so sánh
các căn cứ để áp dụng BPBBCB trong Bộ luật hình sự Việt Nam.
Bên cạnh đó, tác giả còn nghiên cứu cách thức vận dụng biện
pháp này trong thực tiễn trên phạm vi địa bàn Thành phố Hồ Chí
Minh để minh chứng cho tính hiệu quả của việc áp dụng biện pháp

6


cưỡng chế này. Với vai trò là biện pháp cưỡng chế trong pháp luật
hình sự, việc nghiên cứu các quy định về "Biện pháp tư pháp bắt
buộc chữa bệnh trong luật hình sự Việt Nam " sẽ có ý nghĩa thực

tiễn rất lớn vì nó đưa ra các căn cứ pháp lý cho việc áp dụng
BPBBCB trong quá trình đấu tranh phòng và chống tội phạm trong
giai đoạn hiện nay.
7. Bố cục của luận văn
Với mục đích nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu của đề tài,
luận văn sẽ được bố cục thành ba phần gồm Lời nói đầu, phần nội
dung gồm ba chương và Kết luận. Cụ thể như sau:
Mở đầu
Chương 1: Một số vấn đề lý luận chung về biện pháp tư pháp
bắt buộc chữa bệnh theo Luật hình sự Việt Nam.
Chương 2: Các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam
hiện hành về biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh và thực tiễn
áp dụng trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh.
Chương 3: Hoàn thiện pháp luật và những giải pháp góp phần
nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của pháp luật hình sự
Việt Nam về biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh.
Kết luận

7


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BIỆN PHÁP BẮT BUỘC CHỮA
BỆNH THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
Trong pháp luật hình sự tội phạm có thể được hiểu một cách
ngắn gọn là hành vi nguy hiểm cho xã hội, có lỗi, trái pháp luật
hình sự và phải chịu hình phạt. Do đó tội phạm trước hết phải là
một hành vi. Chính vì vậy, tội phạm bao giờ cũng được thực hiện
bởi chủ thể xác định. Hay nói cách khác, không thể có hành vi xuất
hiện ngoài thế giới khách quan mà không có chủ thể thực hiện.

Các tác động trong thế giới vật chất gây nên những thiệt hại đáng
kể như sóng thần, động đất, lũ lụt, sấm sét,...xảy ra trong tự nhiên
thì không được coi là hành vi. Theo từ điển giải thích thuật ngữ
Luật học Trường Đại học Luật Hà Nội thì: Hành vi là toàn bộ những
phản ứng, cách xử sự ra bên ngoài của một con người trong một
hoàn cảnh cụ thể [47, tr.23]. Do vậy, tội phạm trước hết phải có
chủ thể thực hiện. Luật hình sự trong mọi thời điểm lịch sử đều xây
dựng trên cơ sở nguyên tắc này. Chủ thể của tội phạm cùng với
các yếu tố khác như khách thể, mặt khách quan, mặt chủ quan
của tội phạm cấu thành nên tội phạm. Do đó, để xác định một
hành vi nào đó có phải là tội phạm hay không cần phải xem xét
đến việc hành vi đó có đủ các yếu tố cấu thành tội phạm như nói
trên hay không? Nếu không có đầy đủ các yếu tố đó thì không thể
coi đó là tội phạm và do đó không thể truy cứu trách nhiệm hình
sự (TNHS) đối với người thực hiện hành vi đó. Mặt khác, để trở
thành chủ thể của tội phạm, người thực hiện hành vi nguy hiểm
cho xã hội một cách cố ý hay vô ý cần phải: có năng lực TNHS (1),
đạt độ tuổi nhất định theo Luật hình sự quy định (2). Đây là hai
dấu hiệu pháp lý bắt buộc trong chủ thể của tội phạm ở mọi cấu
thành tội phạm. Trong đó, đặc điểm có năng lực TNHS là điều kiện

8


×