Tải bản đầy đủ (.doc) (106 trang)

Miễn chấp hành hình phạt theo Luật hình sự Việt Nam (trên cơ sở số liệu địa bàn tỉnh Đồng Nai)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (386.28 KB, 106 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN VĂN THỦY

MIỄN CHẤP HÀNH HÌNH PHẠT
THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
(TRÊN CƠ SỞ CÁC SỐ LIỆU ĐỊA BÀN TỈNH ĐỒNG NAI)
Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 60 38 01 04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: GS. TSKH LÊ VĂN CẢM

HÀ NỘI - 2013


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác,
tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán
tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia
Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

NGƯỜI CAM ĐOAN


Nguyễn Văn Thủy


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
DANH MỤC CÁC BẢNG

LỜI CAM ĐOAN..............................................................................................2
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết
quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy
và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả
các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
...........................................................................................................................2
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo
vệ Luận văn.......................................................................................................2
Tôi xin chân thành cảm ơn!...............................................................................2
NGƯỜI CAM ĐOAN.......................................................................................2
Nguyễn Văn Thủy.............................................................................................2


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BLHS
CHHP
TAND
VKSND

Bộ luật hình sự

Chấp hành hình phạt
Toà án nhân dân
Viện kiểm sát nhân dân


DANH MỤC CÁC BẢNG
LỜI CAM ĐOAN..............................................................................................2
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết
quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy
và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả
các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
...........................................................................................................................2
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo
vệ Luận văn.......................................................................................................2
Tôi xin chân thành cảm ơn!...............................................................................2
NGƯỜI CAM ĐOAN.......................................................................................2
Nguyễn Văn Thủy.............................................................................................2


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nghiên cứu lịch sử lập pháp hình sự của Việt Nam và xem xét hoạt
động thực tiễn áp dụng pháp luật về miễn chấp hành hình phạt cũng như tình
hình nghiên cứu khoa học pháp lý trong lĩnh vực này hiện nay, tác giả thấy
rằng việc đi sâu nghiên cứu đề tài: “Miễn chấp hành hình phạt theo Luật hình
sự Việt Nam (trên cơ sở các số liệu địa bàn tỉnh Đồng Nai)” là đòi hỏi khách
quan, cần thiết vì các lý do sau:
Miễn chấp hành hình phạt là một trong những chế định quan trọng theo
Luật hình sự Việt Nam. Đây chính là cơ sở pháp lý nền tảng mang tính phổ

quát chung, liên quan đến nhiều chế định khác mà căn cứ vào những điều
kiện, hoàn cảnh cụ thể các cơ quan tư pháp hình sự tham gia vào quá trình áp
dụng trong giai đoạn chấp hành hình phạt. Chấp hành hình phạt là kết quả của
sự lên án mang tính cưỡng chế Nhà nước đối với hành vi tiêu cực xâm hại đến
các lợi ích được pháp luật hình sự bảo vệ, nhưng tự thân nó miễn chấp hành
hình phạt lại thể hiện sự khoan hồng, nhân đạo, mang giá trị nhân văn mà ở
đó, nguyên tắc chủ đạo, xuyên suốt trong chính sách hình sự của Nhà nước
luôn là sự kết hợp giữa việc trừng trị với khuyến khích người bị kết án quyết
tâm tự giáo dục mình mình để nhận lấy sự tha miễn đó.
Xuất phát từ vai trò thực tiễn chấp hành hình phạt, tình hình áp dụng
pháp luật về miễn chấp hành hình phạt trong thời gian qua cho thấy, một mặt
đã bảo đảm được mục đích, ý nghĩa của việc chấp hành hình phạt không chỉ
là sự kết hợp giữa các yếu tố trừng trị, cải tạo, giáo dục người phạm tội
hướng thiện mà quan trọng hơn với chính sách xã hội phù hợp đã giúp cho
người bị kết án sớm thích nghi, tái hòa nhập cộng đồng trong môi trường ổn
định, phòng ngừa việc tái phạm, ảnh hưởng tiêu cực đến lợi ích Nhà nước,

1


xã hội và công dân. Mặt khác, bên cạnh việc xét xử thì việc miễn chấp hành
hình phạt còn là công việc thường xuyên của Tòa án, nên các quy định tại
các chế định này phải bảo đảm được đầy đủ về bản chất chính trị - pháp lý
của Nhà nước, điều kiện kinh tế - xã hội, giá trị văn hóa truyền thống của
dân tộc. Bởi vì, sau khi bản án và quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa
án, không còn một hình thức pháp lý nào khác để công dân thực hiện việc
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình [22, tr.253]. Do đó, việc tiếp thu,
ghi nhận những tiến bộ của nền văn minh nhân loại về quyền con người và
bảo vệ chúng ngay cả trong giai đoạn chấp hành hình phạt, nhất là những
quyền của nhóm dễ bị tổn thương như trẻ em, người già, người khuyết tật...

đó là từng bước nội luật hóa bằng các chính sách hình sự trong việc miễn
chấp hành hình phạt mà Nghị quyết số 48/NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ
Chính trị đã xác định, “cần xây dựng, ban hành kịp thời, đồng bộ và tổ chức
thực thi các pháp luật, các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên về
quyền con người, quyền công dân” [20].
Pháp luật Việt Nam có nhiều quy định điều chỉnh về lĩnh vực này, song
các quy định đó đã tồn tại những mâu thuẫn về nội dung, chưa phù hợp với
thực tế. Bộ luật hình sự năm 1999 được sửa đổi, bổ sung theo Luật số
37/2009/QH12 ngày 19/6/2009 nhưng vẫn còn những hạn chế nhất định trong
đó, nhà làm luật vẫn chưa đưa ra định nghĩa pháp lý của khái niệm miễn chấp
hành hình phạt; hoặc không mở rộng việc miễn hình phạt bổ sung ngoài hai
hình phạt cấm cư trú và quản chế; điều kiện áp dụng để miễn chấp hành hình
phạt còn thiếu, ít về đối tượng...Những bất cập này phần nào đã làm giảm tính
tích cực, chủ động trong việc áp dụng, ảnh hưởng đến uy tín của Việt Nam
trên trường quốc tế.
Vì vậy, định hướng và hoàn thiện hệ thống pháp luật phát triển theo xu thế
chung của thời đại, chính là việc nghiên cứu rà soát pháp luật, chính sách đối

2


chiếu, so sánh với thông lệ quốc tế và các tiêu chuẩn về nhân quyền cũng như
mô hình hoạt động ưu việt trên thế giới để tham khảo đánh giá tìm giải pháp phù
hợp với điều kiện kinh tế xã hội Việt Nam [8, tr.14]; xây dựng lại các quy phạm
pháp luật có tính khả thi hơn, minh bạch hơn là yêu cầu cấp thiết được đặt ra
trong giai đoạn hiện nay. Do đó, việc tiếp tục nghiên cứu các quy định của pháp
luật hình sự về miễn chấp hành hình phạt nói chung với mong muốn làm giàu
thêm về lý luận và hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật; góp phần vào quá trình
xây dựng, hoàn thiện pháp luật hình sự trong thời gian tới.
Với nhận thức đó, tác giả quyết định lựa chọn đề tài: “Miễn chấp hành

hình phạt theo Luật hình sự Việt Nam (trên cơ sở các số liệu địa bàn tỉnh Đồng
Nai)” làm Luận văn thạc sĩ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Đến thời điểm hiện nay, tác giả đã biết đến công trình nghiên cứu khoa
học có liên quan đến vấn đề này, ở cấp độ Luận văn thạc sĩ luật học, có đề tài
của tác giả Trần Thị Thanh Thúy, Chế định miễn chấp hành hình phạt trong
Luật hình sự Việt Nam, Khoa Luật, Đại học Quốc Gia Hà Nội, 2012.
Bên cạnh đó, về giáo trình, sách chuyên khảo, bình luận khoa học Luật
hình sự có các công trình sau: TSKH.PGS Lê Văn Cảm, sách chuyên khảo
sau đại học: Những vấn đề cơ bản trong khoa học Luật hình sự (Phần chung),
NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 2005; TSKH.PGS Lê Văn Cảm, Hệ thống tư
pháp hình sự trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền, (sách chuyên
khảo), NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 2009; Giáo trình Luật hình sự Việt
Nam, tập thể tác giả do PGS.TS Nguyễn Ngọc Hòa chủ biên, NXB Công an
nhân dân, Hà Nội, 2002; TS. Phạm Văn Beo, Luật hình sự Việt Nam, quyển 1
(Phần chung) NXB Chính trị Quốc Gia, Hà Nội, 2009; ThS. Đinh Văn Quế:
Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 1999, Phần chung, NXB Thành phố
Hồ Chí Minh, 2000; v.v...

3


Ngoài ra, còn có những bài báo khoa học đề cập đến miễn chấp hành
hình phạt của một số tác giả đã công bố như: ThS. Mai Bộ, Miễn chấp hành
hình phạt tù, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 4/2005; PGS.TS Nguyễn Ngọc
Anh, Khái niệm đặc xá và một số khái niệm có liên quan đến đặc xá, Tạp chí
Tòa án nhân dân, số 10/2007; TS. Trịnh Quốc Toản, Hoàn thiện một số biện
pháp miễn, giảm hình phạt trong Bộ luật hình sự năm 1999 đáp ứng yêu cầu
cải cách tư pháp, Tạp chí Khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội, Kinh tế - Luật,
số 24/2008; Nguyễn Văn Cừ, Hoàn thiện các quy định về miễn chấp hành

hình phạt, Tạp chí Kiểm sát, số 4/2013; v.v...
Những công trình khoa học, bài viết trên đã tập trung nghiên cứu và
phát triển trong từng phạm vi nhất định; do đó, cần tiếp tục nghiên cứu để
đánh giá, đối chiếu so sánh và phân tích sâu về lý luận, quy định của pháp
luật thực định một cách có hệ thống từ đó đưa ra mô hình lý luận, kiến giải
lập pháp, hướng đến việc xây dựng, hoàn thiện các biện pháp miễn chấp
hành hình phạt.
Với tình hình nghiên cứu trên đây thì việc nghiên cứu đề tài: “Miễn
chấp hành hình phạt theo Luật hình sự Việt Nam (trên cơ sở các số liệu địa bàn
tỉnh Đồng Nai)” là đòi hỏi khách quan, cấp thiết vừa có tính lý luận, vừa có
tính thực tiễn.
3. Mục đích nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của Luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của Luận văn là nghiên cứu các quy định của pháp luật về miễn
chấp hành hình phạt dưới góc độ lập pháp hình sự và áp dụng chúng trong thực
tiễn, từ đó Luận văn đưa ra những giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định về
miễn chấp hành hình phạt trong Luật hình sự Việt Nam, cũng như đề xuất những
giải pháp nâng cao hiệu quả của chế định này trong thực tiễn áp dụng.

4


3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Từ mục đích nghiên cứu nêu trên, Luận văn đã đặt ra những nhiệm vụ chủ
yếu sau:
Trên cơ sở kết quả tổng hợp các quan điểm của các tác giả về miễn
chấp hành hình phạt, luận văn nghiên cứu làm sáng tỏ một số vấn đề chung về
miễn chấp hành hình phạt như:
- Nhận thức chung về các chế định có liên quan đến việc miễn chấp hành
hình phạt; khái niệm, các đặc điểm cơ bản và bản chất pháp lý hình sự của miễn

chấp hành hình phạt; phân biệt chế định này với các chế định có liên quan như
hoãn chấp hành hình phạt; giảm mức hình phạt tù đã tuyên, tạm đình chỉ chấp
hành hình phạt; miễn hình phạt và rút ra những kết luận;
- Khái quát về sự hình thành và phát triển của chế định miễn chấp hành
hình phạt trong pháp luật hình sự thực định Việt Nam từ sau Cách mạng Tháng
Tám năm 1945 đến trước khi thông qua Bộ luật hình sự năm 1999 hiện hành để
rút ra những nhận xét, đánh giá;
- Nghiên cứu các quy phạm của Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999
hiện hành về chế định miễn chấp hành hình phạt; thực tiễn áp dụng chế
định miễn chấp hành hình phạt trên địa bàn tỉnh Đồng Nai để rút ra những
nhận xét đánh giá;
- Nghiên cứu các quy phạm của pháp luật hình sự một số nước trên
thế giới về chế định miễn chấp hành hình phạt để so sánh đối chiếu, đưa ra
những kết luận.
Trên cơ sở các nghiên cứu đó, đề xuất những định hướng và giải pháp hoàn
thiện các quy phạm pháp luật hình sự thực định hiện hành; hướng dẫn của thực
tiễn xét xử; thực tiễn áp dụng chế định miễn chấp hành hình phạt trên địa bàn
tỉnh Đồng Nai và một số giải pháp khác.

5


3.3. Phạm vi nghiên cứu
Trong khuôn khổ của một Luận văn thạc sĩ, tác giả không thể giải quyết
hết được một cách toàn diện những vấn đề có liên quan trong hệ thống pháp
luật Việt Nam về miễn chấp hành hình phạt (mà chế định án treo là một trường
hợp cụ thể đó vì tính chất rộng lớn của nó); tác giả tập trung nghiên cứu phân
tích quy định pháp luật về lĩnh vực này trong Luật hình sự Việt Nam và thực tiễn
áp dụng, trên cơ sở các số liệu xét xử của địa bàn tỉnh Đồng Nai để chỉ ra một
số tồn tại hạn chế, các nguyên nhân chủ yếu để đưa ra giải pháp nhằm nâng

cao hiệu quả áp dụng.
Luận văn cũng có tham khảo những bài học kinh nghiệm lập pháp một
số nước khi nghiên cứu về miễn chấp hành hình phạt.
4. Phương pháp luận và các phương pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu và thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp luận
biện chứng của Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước
và pháp luật; quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng Nhà nước
pháp quyền; về chính sách hình sự; về vấn đề cải cách tư pháp.
Quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả vận dụng các phương pháp nghiên
cứu như: Phương pháp cụ thể và đặc thù của khoa học Luật hình sự; phương
pháp phân tích và tổng hợp; phương pháp nghiên cứu so sánh, đối chiếu.
Ngoài ra, đề tài còn áp dụng các phương pháp thống kê, hệ thống hóa các vấn
đề được nghiên cứu để tổng hợp các tri thức khoa học Luật hình sự và luận
chứng các vấn đề tương ứng được nghiên cứu trong Luận văn.
5. Những điểm mới và đóng góp của Luận văn
Kết quả nghiên cứu của Luận văn có ý nghĩa quan trọng về phương
diện lý luận và thực tiễn, vì đây là công trình nghiên cứu có hệ thống ở cấp độ

6


một Luận văn thạc sĩ luật học về miễn chấp hành hình phạt, trong đó đã giải
quyết nhiều vấn đề quan trọng về lý luận và thực tiễn trong Luật hình sự Việt
Nam. Những điểm mới cơ bản của luận văn là:
- Tổng hợp các quan điểm khoa học về miễn chấp hành hình phạt để xây
dựng nên khái niệm chung, đồng thời chỉ ra các đặc điểm cơ bản và bản chất
pháp lý hình sự của miễn chấp hành hình phạt. Lấy đó làm tiêu chí để phân biệt
miễn chấp hành hình phạt với các chế định có liên quan như như hoãn chấp
hành hình phạt; giảm mức hình phạt tù đã tuyên; tạm đình chỉ chấp hành hình
phạt; miễn hình phạt;

- Nghiên cứu và chỉ ra những đặc điểm chủ yếu của quá trình hình
thành và phát triển về miễn chấp hành hình phạt trong Luật hình sự Việt Nam
từ sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 cho đến trước khi thông qua Bộ luật
hình sự năm 1999;
- Nghiên cứu, đánh giá tình hình áp dụng miễn chấp hành hình phạt trên
địa bàn tỉnh Đồng Nai; chỉ ra những tồn tại, hạn chế và những nguyên nhân
cơ bản đó;
Trên cơ sở đối chiếu, so sánh các quy định của pháp luật Việt Nam và
các nước trên thế giới, cùng với kết quả nghiên cứu về lý luận và thực tiễn,
Luận văn đã đề xuất các định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật thực
định; nâng cao hiệu quả áp dụng miễn chấp hành hình phạt trong giai đoạn xây
dựng Nhà nước pháp quyền và cải cách tư pháp hiện nay ở Việt Nam.
Với ý nghĩa khoa học đó, thiết nghĩ đề tài sẽ là một tài liệu khoa học bổ
ích dành cho những ai quan tâm tìm hiểu và nghiên cứu trong lĩnh vực này.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của Luận văn gồm 3 chương:

7


Chương 1: Một số vấn đề lý luận về miễn chấp hành hình phạt theo
Luật hình sự Việt Nam.
Chương 2: Các quy phạm về chế định miễn chấp hành hình phạt trong
Bộ luật hình sự năm 1999 và thực tiễn áp dụng trên địa bàn tỉnh Đồng Nai
Chương 3: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng của chế
định miễn chấp hành hình phạt

8



Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ MIỄN CHẤP HÀNH HÌNH PHẠT
THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1 Nhận thức chung về các chế định có liên quan đến việc miễn chấp
hành hình phạt
Trong suốt chiều dài lịch sử nhân loại, ở bất kỳ xã hội có giai cấp nào,
để duy trì, bảo đảm trật tự xã hội thì việc quy định trách nhiệm pháp lý và
hình phạt cũng nhằm mục đích chung là trấn áp, đe dọa sẽ trấn áp đối với
người phạm tội bằng những hình thức tác động khác nhau tùy thuộc vào bản
chất của Nhà nước đó. Chính vì vậy, mỗi một hệ thống pháp luật đều dựa
trên những yêu cầu chính trị để đặt ra và xác định các hành vi phạm tội đồng
thời quy định một số loại hình phạt đối với người phạm tội. Các hình phạt đó
có thể từ buộc phải xin lỗi cho đến tử hình nhưng trong mọi trường hợp
người phạm tội phải hiểu rằng họ đã hành động sai trái, do đó, phải gánh
chịu hậu quả [52, tr.98].
Hình phạt, theo C. Mác không phải là một cái gì khác ngoài phương
tiện tự vệ của xã hội chống lại sự vi phạm các điều kiện tồn tại của nó. Với
tính cách là hình thức phổ biến và chủ yếu nhất của trách nhiệm hình sự, hình
phạt luôn hàm chứa yếu tố trừng trị và luôn động chạm trực tiếp đến quyền và
lợi ích của người phạm tội. Mặt khác, nhìn từ yêu cầu phòng ngừa tội phạm,
hình phạt phải hàm chứa cả yếu tố cải tạo giáo dục người phạm tội [30, tr.74].
Hình phạt theo Điều 26 BLHS Việt Nam, chính là biện pháp cưỡng chế
nghiêm khắc nhất của Nhà nước nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích
của người phạm tội, được Tòa án quyết định trong bản án có hiệu lực pháp
luật. Với tư cách là chủ thể của giai cấp thống trị, Nhà nước thông qua pháp
luật, áp đặt ý chí lên toàn xã hội nhằm bảo vệ lợi ích cố hữu của giai cấp mình

9



bằng trách nhiệm pháp lý; nghĩa là, đã gắn kết giữa trách nhiệm hình sự do
thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội với hậu quả pháp lý bất lợi bằng biện
pháp cưỡng chế hình sự. Do đó, tính cưỡng chế nghiêm khắc nhất của trách
nhiệm hình sự được biểu hiện bằng quyết định hình phạt trong bản án kết tội
để đảm bảo đạt được mục đích “không chỉ nhằm trừng trị người phạm tội mà
còn giáo dục họ trở thành người có ích cho xã hội, có ý thức tuân theo pháp
luật và các quy tắc của cuộc sống xã hội chủ nghĩa, ngăn ngừa họ phạm tội
mới. Hình phạt còn nhằm giáo dục người khác tôn trọng pháp luật, đấu tranh
phòng ngừa và chống tội phạm” [26, Điều 27].
Với phương châm “nghiêm trị kết hợp với khoan hồng, trừng trị kết
hợp với giáo dục, thuyết phục...”, “khuyến khích người phạm tội lập công
chuộc tội, chứng tỏ khả năng giáo dục, cải tạo nhanh chóng, hòa nhập với
cộng đồng và trở thành người có ích cho xã hội” [56, tr.103] mà thông qua đó,
còn có tác dụng ngăn ngừa tội phạm, tác động đến ý thức công dân tuân thủ
và thực hiện đúng pháp luật. Chính vì vậy, M.Anxel’M rất đúng khi đã viết:
“Điều quan trọng là chúng ta phải quy định hình phạt làm sao để bản thân nó
có tính giáo dục, cải tạo người phạm tội… Điều cần thiết là làm sao để chức
năng tái hòa nhập người phạm tội vào cộng đồng xã hội được nhận thức là
chức năng chủ yếu của hình phạt và việc thực hiện chức năng này phải khác
với việc thực hiện chức năng giáo dục đơn giản và thứ yếu của sự trừng phạt
thích đáng mà những người theo trường phái kinh điển mới hiện đại đã nêu
ra” [31, tr.53-54].
Như vậy, bản án hình sự chính là kết quả cuối cùng của một trình tự thủ
tuc tố tụng khi chính thức tuyên bố hành vi của một người phạm một tội nào
đó quy định trong BLHS và kèm theo nó là hình phạt. Do đó, “để đảm bảo
công lý, công bằng xã hội hình phạt mà Tòa án quyết định áp dụng đối với
người phạm tội phải được người đó nghiêm chỉnh chấp hành. Chính vì vậy,

10



Điều 136 Hiến Pháp năm 1992 quy định: “Các bản án và quyết định của Toà
án nhân dân đã có hiệu lực pháp luật phải được các cơ quan Nhà nước, tổ
chức kinh tế, tổ chức xã hội, các đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công dân
tôn trọng; những người và đơn vị hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành”
[32, tr.222-223]. Khi bản án có hiệu lực pháp luật về nguyên tắc, người phạm
tội phải chấp hành toàn bộ hình phạt mà Tòa án quyết định trong bản án thì
mục đích của hình phạt mới đạt được và như vậy “trừng trị là nội dung, là
thuộc tính của hình phạt, đồng thời, nó là cách thức tác động để giáo dục, cải
tạo người phạm tội và ngăn ngừa tội phạm. Nếu không có trừng trị thì không
có hình phạt. Nó là tiền đề để đạt mục đích phòng ngừa tội phạm…mục đích
trực tiếp của hình phạt là giáo dục, cải tạo người phạm tội trở thành người có
ích cho xã hội, có ý thức tuân thủ pháp luật và quy tắc của cuộc sống và xã
hội, không phạm tội mới” [37, tr.49].
Là một trong những chế định quan trọng trong Luật hình sự Việt Nam,
miễn chấp hành hình phạt cùng với các chế định khác như: Giảm mức hình
phạt đã tuyên; hoãn chấp hành hình phạt tù và tạm đình chỉ chấp hành hình
phạt tù với tư cách là những biện pháp tha miễn trong Luật hình sự không
những góp phần phản ánh nguyên tắc nhân đạo của chính sách hình sự mà còn
thể hiện sự tôn trọng và bảo vệ quyền con người bằng pháp luật hình sự với
những giá trị xã hội cao quý nhất [14, tr.710-713].
Xuất phát từ nguyên tắc nhân đạo của Luật hình sự, Tòa án có quyền
miễn, giảm, hoãn và tạm đình chỉ chấp hành hình phạt đối với người phạm tội
khi thấy rằng thực sự họ đã ăn năn hối cải, quyết tâm cải tạo, nhanh chóng tái
hòa nhập cộng đồng và như vậy, Nhà nước đã tiết kiệm việc trấn áp ở giai
đoạn này. Nhưng “căn cứ để miễn chấp hành hình phạt là tính không hợp lý,
không cần thiết hoặc không có khả năng chấp hành hình phạt do người bị kết
án đã hết nguy hiểm cho xã hội hoặc do tính chất nguy hiểm cho xã hội của


11


nhân thân người phạm tội, do trạng thái sức khỏe của người phạm tội hoặc có
tình tiết khác” [6, tr.536]. Và do đó, GS.TSKH Lê Văn Cảm rất đúng khi cho
rằng: “Các chế định về chấp hành hình phạt là những biện pháp cưỡng chế về
thi hành án hình sự liên quan đến việc chấp hành hình phạt phản ánh nguyên
tắc nhân đạo của luật hình sự, cũng như Luật thi hành án hình sự Việt Nam và
được áp dụng trong từng trường hợp cụ thể tương ứng đối với người bị kết án
khi có các căn cứ và những điều kiện nhất định do pháp luật hình sự quy
định” [14, tr.789].
Phụ thuộc rất lớn vào quan điểm chính trị, điều kiện lịch sử, truyền
thống pháp luật mà mỗi một quốc gia, dân tộc tự lựa chọn và tìm ra giải pháp
tối ưu cho mình trong việc “xây dựng trật tự xã hội trên cơ sở nhấn mạnh sự
phù hợp giữa trật tự xã hội với các chuẩn mực văn hóa trong hành vi xử
sự...từ chỗ thừa nhận trật tự xã hội dưới những quan điểm chiến lược khác
nhau, các quốc gia phát triển những phương thức, công cụ khác nhau để hành
xử với các công dân có hành vi xử sự không đúng” [52, tr.228]; bằng cách áp
dụng “mục tiêu trừng phạt, ngăn chặn, tái hòa nhập và làm mất năng lực phạm
tội của kẻ tội phạm” [52, tr.229].
Xuất phát từ địa vị pháp lý và phương pháp tiếp cận trong xử lý chuyển
hướng cải tạo người phạm tội trên thế giới như vậy, nên việc phân hóa, lựa
chọn trong quyết định hình phạt và chấp hành hình phạt ở mỗi nơi mỗi khác.
Như Australia và Hoa Kỳ, hình phạt áp dụng cải tạo dựa vào cộng đồng là phổ
biến ở một số Bang như là giải pháp được ưu tiên lựa chọn (như án treo, lao
động công ích và tạm tha trước thời hạn có cam kết). Một số nước khác lại lựa
chọn phạt tiền thay cho tù giam, bằng việc để người phạm tội tự cải tạo mà
không sử dụng nhà tù, làm giảm đáng kể số người vào tù bằng cách áp dụng
cơ chế hình “phạt tiền theo ngày” hoặc “hoãn thi hành hình phạt” như Đức


12


hay Thụy Điển và gia tăng số người ra tù bằng việc tha tù có điều kiện cho
người bị kết án như Áo, Thụy Điển, Canada, Ba Lan...[52, tr.242-251].
Pháp điển hóa lần thứ nhất bằng việc thông qua BLHS năm 1985, các chế
định về: (i) giảm thời hạn chấp hành hình phạt chính (Điều 49); (ii) giảm thời
hạn chấp hành hình phạt bổ sung; (iii) giảm thời hạn và miễn việc chấp hành
hình phạt trong trường hợp đặc biệt (Điều 51) được ghi nhận như một chế
định độc lập. Pháp điển hóa lần thứ hai BLHS năm 1999, bằng việc hệ thống
hóa và phát triển trên cơ sở sự kế thừa của các chế định này. Đó là, lần đầu tiên
chính thức ghi nhận trong Phần chung BLHS đại xá, đặc xá là một trong các
trường hợp miễn chấp hành hình phạt (Điều 57); đồng thời, xây dựng lại chế
định hoãn, tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù mà BLHS năm 1985 không quy
định (trừ trường hợp được hoãn đối với quân nhân phạm tội ít nghiêm trọng tại
Điều 69) từ quy định tại các Điều 231 và 232 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988
như là những chế định độc lập, mà trước đó chúng được quy định rải rác trong
các văn bản pháp luật khác nhau. Cũng như chế định miễn chấp hành hình phạt,
các chế định này đã phản ánh tính cưỡng chế trong giai đoạn thi hành án hình sự
của Nhà nước đối với người thực hiện tội phạm đã có bản án kết tội có hiệu lực
thi hành. Tuy nhiên, các chế định có liên quan đến “miễn chấp hành hình phạt
cũng mới chỉ được quy định trực tiếp hoặc gián tiếp tại một số điều luật riêng
lẻ trong BLHS, chưa được ghi nhận tại một chương riêng như các chế định
khác về tội phạm, hình phạt” [34, tr.2-3].
Các chế định này nằm trong hệ thống các chế định về chấp hành hình
phạt, vai trò của nó thể hiện trong mối liên hệ tác động qua lại với nhau là điều
kiện, tiền đề cho việc miễn chấp hành hình phạt. Do đó, giải quyết tốt vấn đề
chấp hành hình phạt và áp dụng đúng đắn chế định này trong thực tiễn sẽ là điều
kiện thuận lợi cho Tòa án bảo vệ hiệu quả lợi ích của Nhà nước và công dân
trong công cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm.


13


1.2 Khái niệm các đặc điểm cơ bản và bản chất pháp lý hình sự của
miễn chấp hành hình phạt
1.2.1 Khái niệm miễn chấp hành hình phạt
Trong hệ thống các biện pháp tha miễn quy định theo BLHS Việt Nam,
mỗi một chế định đều có vị trí, vai trò, đặc điểm và hậu quả pháp lý khác nhau.
Miễn chấp hành hình phạt đã được ghi nhận ngay trong lần pháp điển hóa lần
thứ nhất thông qua BLHS năm 1985; đến BLHS năm 1999 tiếp tục được bổ sung
và hoàn thiện trên cơ sở kế thừa và phát triển từ chế định này cho phù hợp với
thực tiễn áp dụng pháp luật của đất nước.
Tuy nhiên, về phương diện lập pháp hình sự thì chế định này chưa được
quan tâm nghiên cứu một cách toàn diện, có tính hệ thống khoa học. Có thể nhận
thấy, qua hai lần pháp điển hóa Luật hình sự nhưng nhà làm luật vẫn chưa xây
dựng và đưa ra khái niệm miễn chấp hành hình phạt làm cơ sở pháp lý cho việc
áp dụng vào thực tiễn.
Hiện nay, trong khoa học luật hình sự các nước theo trường phái pháp luật
Châu âu lục địa như Liên bang Nga, Nhật Bản, Trung Quốc hoặc Cộng hòa Liên
bang Đức...vẫn chưa đưa ra khái niệm miễn chấp hành hình phạt trong BLHS
của mình. Do đó, việc tiếp cận những kinh nghiệm trong nghiên cứu và xây
dựng pháp luật từ các nước nói chung và hệ thống pháp luật tiên tiến trên thế
giới nói riêng vẫn còn đó những khác biệt về điều kiện chính trị - pháp lý, sự
phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia, đã hình thành nên chính sách hình
sự riêng biệt về vấn đề này.
Ở nước ta, khi nói đến khái niệm miễn chấp hành hình phạt thì quan điểm
giữa các nhà luật học vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau:
Quan điểm thứ nhất, PGS.TS Nguyễn Ngọc Hòa cho rằng “Miễn chấp
hành hình phạt là không buộc người đã bị kết án phải chấp hành toàn bộ hoặc


14


phần còn lại của hình phạt đã tuyên...” [42, tr.225] nghĩa là có thể miễn toàn bộ
hình phạt hoặc phần còn lại của hình phạt; cùng quan điểm trên, theo GS.TS Đỗ
Đình Hòa, PGS.TS Võ Khánh Vinh thì “Miễn chấp hành hình phạt là không
buộc người bị kết án phải chấp hành toàn bộ hoặc một phần còn lại của hình phạt
đã tuyên”. [7, tr.257], [4, tr.464].
Quan điểm thứ hai mà theo TS. Phạm Tấn Beo thì “Miễn chấp hành hình
phạt là không buộc người đã bị kết án phải chấp hành hình phạt mà tòa án đã
tuyên đối với họ” [11, tr.464].
Giải thích về chế định này, theo Từ điển Luật học thì miễn chấp hành hình
phạt là “Không buộc người bị kết án phải chấp hành hình phạt đã tuyên hoặc tiếp
tục chấp hành phần hình phạt còn lại” [6, tr.563].
Theo GS.TSKH Lê Văn Cảm thì “Miễn chấp hành hình phạt là hủy
bỏ việc chấp hành biện pháp cưỡng chế về hình sự nghiêm khắc nhất mà
Tòa án đã tuyên trong bản án kết tội có hiệu lực pháp luật đối với người bị
kết án” [14, tr.790].
“Miễn” theo Từ điển tiếng Việt thì “Tha cho, không phải chịu” [47,
tr.663] hoặc “Tha cho khỏi” [54, tr.729] hoặc “Thoát khỏi, tránh khỏi, trừ bỏ
đi, tha cho” [48, tr.1290]; trong tiếng Anh, “Remission” nghĩa là việc bãi bỏ,
hủy bỏ, giảm án, khoan hồng, việc tha miễn (trách nhiệm, hình phạt, nộp tiền)
[ 23, tr.1102] hoặc “Pardon” nghĩa là ân xá, tha thứ, tha tội... [23, tr.924].
Có thể thấy rằng, vẫn còn tồn tại những ý kiến khác nhau dưới góc độ
lý luận, quy định pháp luật hiện hành và thực tiễn áp dụng về khái niệm miễn
chấp hành hình phạt. Do đó, sự cần phải có quan điểm chung và thống nhất về
nhận thức lý luận trên cơ sở khoa học về khái niệm này, làm cơ sở cho việc
xây dựng và hoàn thiện pháp luật hình sự của nước ta trong giai đoạn xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa hiện nay.


15


Tổng hợp các quan điểm trên thấy rằng, hình phạt là hậu quả pháp lý
bất lợi của trách nhiệm hình sự mà Nhà nước buộc người phạm tội gánh chịu,
là hệ quả tất yếu của hành vi trái pháp luật, có lỗi trong việc thực hiện tội
phạm tội mang lại. “Tính nghiêm khắc của hình phạt thể hiện ở chỗ người bị
kết án có thể bị tước bỏ hoặc hoặc hạn chế quyền tự do, quyền về tài sản, về
chính trị thậm chí cả quyền sống...và mang lại hậu quả pháp lý là án tích cho
người bị kết án trong thời hạn nhất định” [42, tr.172]. Do đó, việc chấp hành
hình phạt tức là đảm bảo được tính cưỡng chế hình sự của Nhà nước để duy
trì pháp luật, trật tự xã hội. Nhưng ngược lại, miễn chấp hành hình phạt, tức là
với chính sách hình sự, Nhà nước đã tác động trực tiếp đến những đối tượng
cụ thể, làm mềm hóa tính cưỡng chế nghiêm khắc của hình phạt bằng biện
pháp tha miễn toàn bộ hay một phần hoặc phần còn lại của hình phạt trong
những điều kiện và căn cứ nhất định.
Cách diễn giải về miễn chấp hành hình phạt mà các quan điểm đưa ra
khi nói đến miễn “toàn bộ hoặc phần còn lại” hoặc “một phần còn lại” của hình
phạt mà Tòa án đã tuyên đối với người bị kết án trong các khái niệm trên
không phải không có cơ sở pháp lý của luận điểm này, khi đã dựa vào lời văn
của Điều luật mô tả trong các chế định với ý nghĩa dùng để chỉ “mức độ”
miễn chấp hành hình phạt. Tương tự, quy định trong pháp luật hình sự Nga
hoặc Trung Quốc, nhà làm luật các nước này vẫn sử dụng thuật ngữ khi đề
cập đến chế định này khi “miễn từng phần hoặc hoàn toàn việc chấp hành
hình phạt bổ sung” hoặc “miễn chấp hành phần hình phạt còn lại” để phân
biệt miễn chấp hành toàn bộ hay phần còn lại của hình phạt là vì lẽ đó [46,
Điều 79, Điều 81].
Tuy nhiên, khi nói đến “miễn”, nghĩa là nói đến việc hủy bỏ, không
buộc phải thực hiện; và vì vậy, việc không buộc phải chấp hành toàn bộ hình

phạt trong bản án hay phần hình phạt còn lại của bản án chưa được chấp hành.

16


Suy cho cùng, miễn “toàn bộ hoặc phần còn lại” “hoặc một phần còn lại” thực
chất là miễn thực hiện hình phạt mà Tòa án đã tuyên trong trường hợp người
bị kết án chưa chấp hành hình phạt, được hoãn chấp hành hành hình phạt hoặc
đang chấp hành hình phạt nhưng được tạm đình chỉ chấp hành hình phạt đó.
Sự phân loại về đối tượng, căn cứ, điều kiện của nhà làm luật khi xây dựng
nên các quy phạm nêu trên là khác nhau, nhưng cuối cùng đều đưa đến hậu
quả pháp lý chung nhất là miễn chấp hành hình phạt. Tuy nhiên, cần chú trọng
cách thức lựa chọn ngôn ngữ trong lập pháp khi xây dựng các quy phạm định
nghĩa, vì đòi hỏi đến tính khái quát cao tùy thuộc vào phạm vi tác động của
từng quan hệ xã hội hay từng chế định riêng biệt.
Như vậy, khi xây dựng khái niệm miễn chấp hành hình phạt, nhất thiết
phải dựa vào các tiêu chí nói trên mới thể hiện được sự bao quát về mục đích
của hình phạt mà Tòa án đã tuyên và cả về bản chất pháp lý hình sự của chế
định này. Do đó, theo quan điểm của chúng tôi có thể đưa ra khái niệm miễn
chấp hành hình phạt như sau: “Miễn chấp hành hình phạt là hủy bỏ và không
buộc người bị kết án phải chấp hành hình phạt đã tuyên trong bản án có hiệu
lực pháp luật khi có những căn cứ và điều kiện do luật định”.
1.2.2 Các đặc điểm cơ bản và bản chất pháp lý hình sự của miễn chấp
hành hình phạt
Xuất phát từ khái niệm miễn chấp hành hình phạt và thực tiễn áp dụng
về chấp hành hình phạt có thể rút ra các đặc điểm chung cơ bản của chế định
này như sau:
Thứ nhất, đây là những biện pháp cưỡng chế về thi hành án hình sự có
liên quan đến việc chấp hành hình phạt trong Luật hình sự, phản ánh nguyên
tắc mang tính nhân đạo trong chính sách hình sự, thi hành án hình sự ở nước

ta. GS. Claude Brenner – Trường Đại học tổng hợp Panthéon-Assas, Cộng

17


hòa Pháp viết: trước hết phải bảo đảm cân đối giữa tính nhân đạo và tính hiệu
quả, sao cho phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội và văn hóa của đất nước.
Nguyên tắc này thể hiện rất rõ trong lĩnh vực hình sự, trong đó việc áp dụng
và chấp hành hình phạt là kết quả của một chính sách có thể điều chỉnh tùy
theo từng nơi, từng lúc nhưng đều trên cơ sở kết hợp giữa trừng phạt và chuộc
tội, giữa trấn áp tội phạm và tạo điều kiện cho người phạm tội tái hòa nhập xã
hội, giữa bảo vệ xã hội và cải tạo người phạm tội... [12, tr 30-35].
Thứ hai, miễn chấp hành hình phạt chỉ được áp dụng đối với người bị
kết án trong mỗi trường hợp cụ thể tương ứng.
Về nguyên tắc, bản án hoặc quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật
phải được tổ chức thi hành. Việc thi hành bản án, quyết định của Tòa án có ý
nghĩa chính trị xã hội ở chỗ, Nhà nước duy trì được trật tự xã hội, đảm bảo
công lý, sự công bằng trong nền tảng pháp chế xã hội chủ nghĩa. Như vậy,
miễn chấp hành hình phạt quy định trong BLHS là những trường hợp mà
người phạm tội đã bị Tòa án kết tội bằng bản án đã có hiệu lực pháp luật.
Tuy nhiên, không phải mọi trường hợp bản án, quyết định của Tòa án
có hiệu lực pháp luật trên thực tế đều được thi hành. Điều đó không hề mâu
thuẫn, xung đột với mục đích của hình phạt và nguyên tắc đảm bảo mọi bản
án, quyết định của Tòa án phải được tổ chức thi hành. Bởi vì, bằng những
chính sách pháp luật hình sự, việc thi hành bản án, quyết định đó không phải
là giải pháp duy nhất; mà có thể thông qua nhiều biện pháp tác động khác
nhau thì hiệu quả của việc đấu tranh phòng chống và ngăn ngừa tội phạm
không vì thế mà giảm đi tính hiệu quả.
Theo quy định trong BLHS Việt Nam, có hai trường hợp được miễn
chấp hành hình phạt, đó là: (i) Miễn chấp hành toàn bộ phần quyết định của

bản án, nghĩa là trong trường hợp này, người bị kết án chưa thi hành bản án,

18


quyết định có hiệu lực pháp luật. (ii) Người bị kết án đang thi hành bản án,
quyết định mà được hoãn hoặc tạm đình chỉ chấp hành hình phạt.
Thứ ba, không được áp dụng tùy tiện mà chỉ có thể được áp dụng
khi có các căn cứ và những điều kiện nhất định do pháp luật hình sự quy
định [14, tr.790].
Khi áp dụng các biện pháp tha miễn mang tính chất nhân đạo theo Luật
hình sự Việt Nam vào thực tiễn nói chung và chế định miễn chấp hành hình
phạt nói riêng phải có đầy đủ những căn cứ và điều kiện do pháp luật hình sự
quy định. Mỗi một chế định đều có ý nghĩa pháp lý hình sự khác nhau, song
tựu trung nó thể hiện bằng chính sách pháp luật hình sự khi phân hóa trong
việc xử lý tội phạm và người phạm tội; để từ đó áp dụng một cách hợp lí, phù
hợp các biện pháp cưỡng chế về hình sự bao gồm cả hình phạt đối với mỗi
người phạm tội một cách chính xác, công bằng, chính là những tiền đề quan
trọng để cải tạo, giáo dục người bị kết án và ngăn ngừa những người khác
phạm tội, tránh khuynh hướng “áp dụng hình phạt tràn lan đã hạn chế khả năng
cải tạo, giáo dục người phạm tội mà không cần cách ly họ khỏi đời sống xã
hội...” [2, tr.38-39]. Với mục đích làm mềm hóa việc trấn áp trong giai đoạn
thi hành ánh hình sự và cá thể hóa việc chấp hành hình phạt, tiết kiệm chi phí
cho Nhà nước, thì việc cần tiếp tục nghiên cứu, xây dựng lại các quy phạm
này theo hướng bảo vệ quyền con người, cụ thể hóa bằng việc mở rộng hơn
nữa nguyên tắc nhân đạo trong chế định này làm khung pháp lý chuẩn mực để
căn cứ áp dụng nhưng mặt khác khuyến khích người phạm tội cải tạo, tự giáo
dục bản thân để hưởng chính khoan hồng của Nhà nước. Chính vì vậy, GS.
Claude Brenner đã viết: Chúng ta không thể hình dung nổi trường hợp Luật
hình sự của một nước muốn tỏ ra tuyệt đối khách quan và mang tính răn đe,

nhưng đến khâu thi hành án thì lại cho phép cá thể hóa việc chấp hành hình
phạt và dự kiến các biện pháp cải tạo tâm lý - xã hội đối với người phạm tội.

19


Ngược lại, sẽ rất khó hiểu nếu như Luật hình sự đã nhấn mạnh đến sự cần
thiết phải tạo điều kiện cho người bị kết án tái hòa nhập xã hội và việc quyết
định hình phạt trên cơ sở phù hợp với nhân thân và thái độ của người phạm
tội, nhưng lại bỏ qua mọi khả năng điều chỉnh trong quá trình chấp hành hình
phạt [13, tr.31-35].
Với những đặc điểm cơ bản trên cho thấy rằng, bản chất pháp lý hình
sự của miễn chấp hành hình phạt lại xuất phát từ nguyên tắc nhân đạo được
ghi nhận trong Phần chung của BLHS. Trong mỗi quy phạm đó, chứa đựng
những nội dung theo hướng có lợi cho người bị kết án, thể hiện sự tôn trọng
và bảo đảm giá trị các quyền của con người bằng pháp luật hình sự trong Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Miễn chấp hành hình phạt “phản ánh
chính sách khoan hồng của Nhà nước đối với người phạm tội và việc cải tạo,
giáo dục người phạm tội, tạo điều kiện cho người phạm tội tự ăn năn, hối cải,
trở thành người lương thiện, sống có ích cho xã hội, sớm tái hòa nhập cộng
đồng” [11, tr.436].
1.3 Phân biệt chế định miễn chấp hành hình phạt với các chế định
pháp lý hình sự khác có liên quan
1.3.1 Với chế định hoãn chấp hành hình phạt
“Hoãn chấp hành hình phạt tù là việc tạm dừng trong trong một khoảng
thời gian nhất định việc chấp hành hình phạt tù của người bị kết án nếu người
này chưa chấp hành hình phạt đó” [ 14, tr.794].
Như vậy, người bị Tòa án kết án bằng hình phạt tù nhưng chưa chấp
hành hình phạt đó mà được hoãn chấp hành hình phạt tù. Còn miễn chấp hành
hình phạt là hủy bỏ và không buộc người bị kết án phải chấp hành hình phạt

đã tuyên trong bản án có hiệu lực pháp luật. Đối chiếu, so sánh hai chế định
thì thấy những đặc điểm khác nhau căn bản, đó là:

20


×