I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT
TRN ANH TUN
QUYếT ĐịNH HìNH PHạT TRONG TRƯờNG HợP CHUẩN Bị
PHạM TộI, PHạM TộI CHƯA ĐạT THEO LUậT HìNH Sự VIệT NAM
(Trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Đắk Lắk)
LUN VN THC S LUT HC
H NI - 2015
I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT
TRN ANH TUN
QUYếT ĐịNH HìNH PHạT TRONG TRƯờNG HợP CHUẩN Bị
PHạM TộI, PHạM TộI CHƯA ĐạT THEO LUậT HìNH Sự VIệT NAM
(Trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Đắk Lắk)
Chuyờn ngnh: Lut hỡnh s v t tng hỡnh s
Mó s: 60 38 01 04
LUN VN THC S LUT HC
Cỏn b hng dn khoa hc: TS. TRNH TIN VIT
H NI - 2015
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa
học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận
văn bảo đảm độ tin cậy, chính xác và trung thực. Những kết
luận khoa học của luận văn chưa từng được ai công bố trong
bất kỳ công trình nào khác.
Tác giả luận văn
Trần Anh Tuấn
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các bảng
Danh mục các biểu đồ
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: CÁC VẤN ĐỀ CHUNG VỀ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT
TRONG TRƯỜNG HỢP CHUẨN BỊ PHẠM TỘI, PHẠM
TỘI CHƯA ĐẠT THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM 9
1.1. KHÁI NIỆM QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT TRONG TRƯỜNG
HỢP CHUẨN BỊ PHẠM TỘI, PHẠM TỘI CHƯA ĐẠT 9
1.1.1. Khái niệm và các đặc điểm cơ bản của chuẩn bị phạm tội,
phạm tội chưa đạt 9
1.1.2. Khái niệm quyết định hình phạt và quyết định hình phạt trong
trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt 16
1.2. CÁC ĐẶC ĐIỂM VÀ Ý NGHĨA CỦA VIỆC QUYẾT ĐỊNH HÌNH
PHẠT TRONG TRƯỜNG HỢP CHUẨN BỊ PHẠM TỘI, PHẠM
TỘI CHƯA ĐẠT 20
1.2.1. Các đặc điểm của việc quyết định hình phạt trong trường hợp
chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt 20
1.2.2. Ý nghĩa của việc quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn
bị phạm tội, phạm tội chưa đạt 22
1.3. NHỮNG NGUYÊN TẮC VÀ CÁC CĂN CỨ QUYẾT ĐỊNH
HÌNH PHẠT TRONG TRƯỜNG HỢP CHUẨN BỊ PHẠM TỘI,
PHẠM TỘI CHƯA ĐẠT 24
1.3.1. Những nguyên tắc quyết định hình phạt trong trường hợp
chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt 25
1.3.2. Các căn cứ quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị
phạm tội, phạm tội chưa đạt 29
Chương 2: QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT TRONG TRƯỜNG HỢP
CHUẨN BỊ PHẠM TỘI, PHẠM TỘI CHƯA ĐẠT TRONG
PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VÀ PHÁP LUẬT
HÌNH SỰ MỘT SỐ NƯỚC 34
2.1. QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT TRONG TRƯỜNG HỢP CHUẨN BỊ
PHẠM TỘI, PHẠM TỘI CHƯA ĐẠT THEO PHÁP LUẬT HÌNH
SỰ VIỆT NAM 34
2.1.1. Giai đoạn từ sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đến trước
pháp điển hóa lần thứ nhất - Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1985 34
2.1.2. Giai đoạn từ sau khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 đến
trước pháp điển hóa lần thứ hai - Bộ luật hình sự Việt Nam
năm 1999 39
2.1.3. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999
đến nay 44
2.2. QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT TRONG TRƯỜNG HỢP CHUẨN BỊ
PHẠM TỘI, PHẠM TỘI CHƯA ĐẠT TRONG PHÁP LUẬT HÌNH
SỰ MỘT SỐ NƯỚC 55
2.2.1. Pháp luật hình sự Liên bang Nga 56
2.2.2. Pháp luật hình sự Cộng hòa nhân dân Trung Hoa 59
2.2.3. Pháp luật hình sự Thụy Điển 61
2.2.4. Pháp luật hình sự Nhật Bản 64
Chương 3: THỰC TIỄN QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT TRONG
TRƯỜNG HỢP CHUẨN BỊ PHẠM TỘI, PHẠM TỘI
CHƯA ĐẠT TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐẮK LẮK VÀ
NHỮNG KIẾN NGHỊ 67
3.1. THỰC TIỄN QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT TRONG TRƯỜNG HỢP
CHUẨN BỊ PHẠM TỘI, PHẠM TỘI CHƯA ĐẠT TRÊN ĐỊA BÀN
TỈNH ĐẮK LẮK 67
3.1.1. Khái quát đặc điểm kinh tế, xã hội của địa bàn tỉnh Đắk Lắk 67
3.1.2. Tình hình quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị
phạm tội, phạm tội chưa đạt trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk 68
3.1.3. Một số tồn tại, hạn chế của việc quyết định hình phạt trong
trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt trên địa bàn
tỉnh Đắk Lắk và các nguyên nhân cơ bản 71
3.2. KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH
SỰ VIỆT NAM VỀ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT TRONG
TRƯỜNG HỢP CHUẨN BỊ PHẠM TỘI, PHẠM TỘI CHƯA ĐẠT 79
3.2.1. Yêu cầu của việc hoàn thiện quy định của Bộ luật hình sự Việt
Nam về quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm
tội, phạm tội chưa đạt 79
3.2.2. Nội dung hoàn thiện quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam về
quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội
chưa đạt 81
3.3. CÁC KIẾN NGHỊ KHÁC NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CỦA
VIỆC QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT TRONG TRƯỜNG HỢP
CHUẨN BỊ PHẠM TỘI, PHẠM TỘI CHƯA ĐẠT 88
3.3.1. Kiện toàn và nâng cao năng lực, trình độ đội ngũ cán bộ làm
công tác xét xử 88
3.3.2. Một số giải pháp phối hợp khác 89
KẾT LUẬN 92
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 95
DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu bảng
Tên bảng
Trang
Bảng 3.1:
Hệ thống các đơn vị hành chính của tỉnh Đắk Lắk
67
Bảng 3.2:
Tình hình công tác thụ lý, giải quyết án hình sự của Tòa án
nhân dân tỉnh Đắk Lắk trong giai đoạn 06 năm (2009 - 2014)
69
Bảng 3.3:
Kết quả khảo sát 200 vụ án hình sự của Tòa án nhân dân
tỉnh Đắk Lắk trong giai đoạn 06 năm (2009 - 2014)
70
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
Số hiệu biểu đồ
Tên biểu đồ
Trang
Biểu đồ 3.1:
Tổng số vụ án và bị cáo bị đưa ra xét xử sơ thẩm, phúc
thẩm của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk trong giai đoạn
06 năm (2009 - 2014)
69
Biểu đồ 3.2:
Kết quả khảo sát 200 vụ án hình sự của Tòa án nhân dân
tỉnh Đắk Lắk trong giai đoạn 06 năm (2009 - 2014)
70
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tính nguy hiểm cho xã hội là lý do khiến cho tội phạm phải bị trừng
phạt. Tội phạm luôn có tính nguy hiểm cho xã hội, bởi vì “tội phạm luôn
chứa đựng trong nó đặc tính chống đối lại Nhà nước, chống đối lại xã hội, đi
ngược lại lợi ích chung của cộng đồng, trật tự xã hội, xâm phạm đến quyền,
tự do và các lợi ích hợp pháp của con người” [47, tr.63]. Mặc dù tất cả tội
phạm đều có tính nguy hiểm cho xã hội nhưng mức độ nguy hiểm của các
hành vi phạm tội là khác nhau. Tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của
tội phạm thể hiện qua nhiều dấu hiệu như: Tính chất, tầm quan trọng và giá trị
của quan hệ xã hội bị tội phạm xâm hại hoặc bị đe dọa xâm hại; tính chất và
mức độ hậu quả thiệt hại đã gây ra hoặc đe dọa gây ra; mức độ thực hiện tội
phạm; phương thức thực hiện tội phạm (riêng lẻ hay là đồng phạm, đồng
phạm giản đơn hay đồng phạm có tổ chức); công cụ, phương tiện phạm tội,
thủ đoạn, thời gian, địa điểm, hoàn cảnh thực hiện tội phạm; hình thức lỗi,
mức độ lỗi, mục đích phạm tội và động cơ phạm tội, cũng như các đặc điểm
nhân thân của người phạm tội.
Như vậy, mức độ thực hiện tội phạm cũng là một trong các yếu tố thể
hiện mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội. Về phương diện lý luận, mức
độ thực hiện tội phạm được phân chia bởi các giai đoạn phạm tội là: chuẩn bị
phạm tội, phạm tội chưa đạt và tội phạm hoàn thành. Tương ứng với các giai
đoạn này, hành vi phạm tội mang tính nguy hiểm cho xã hội ở các mức độ
khác nhau. Với mức độ nguy hiểm khác nhau thì logic đương nhiên là trách
nhiệm hình sự và hình phạt áp dụng phải nặng, nhẹ khác nhau mới bảo đảm
công bằng và được dư luận xã hội đồng tình, người phạm tội tâm phục, khẩu
phục. Chính vì lẽ đó, trong pháp luật hình sự phải đặt ra quy định riêng về
2
quyết định hình phạt trong các trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa
đạt và tội phạm hoàn thành.
Quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội
chưa đạt là những trường hợp quyết định hình phạt phức tạp bởi vì hành vi
phạm tội ở các giai đoạn này thể hiện những mức độ thực hiện ý định phạm
tội đa dạng và đa phần chưa gây ra hậu quả của tội phạm nên rất khó để đánh
giá chính xác tính chất, mức độ nguy hiểm của chúng. Xét một cách tổng thể,
các phương diện đặt ra nghiên cứu về vấn đề này như sau:
* Về phương diện lý luận, quyết định hình phạt trong trường hợp
chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt vẫn chưa được quan tâm nghiên cứu
nhiều. Hiện nay, các nghiên cứu về vấn đề quyết định hình phạt nói chung có
thể cũng đã đề cập đến quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm
tội, phạm tội chưa đạt nhưng do không phải là đối tượng nghiên cứu chính
nên vấn đề chưa được giải quyết thấu đáo. Do đó, nhiều nội dung về quyết
định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt như:
khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa, các nguyên tắc, căn cứ quyết định hình phạt
trong những trường hợp này chưa được làm rõ về mặt khoa học; v.v
* Về phương diện lập pháp hình sự, Bộ luật hình sự năm 1999 tuy đã
có những bước tiến đáng kể so với Bộ luật hình sự năm 1985 khi quy định về
quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt
nhưng vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập như: xác định chưa đầy đủ căn cứ quyết
định hình phạt trong các trường hợp này, quy định phương thức lựa chọn loại
hình phạt, mức hình phạt áp dụng một cách thiếu cụ thể dẫn đến khả năng áp
dụng không chính xác, thống nhất Do đó, vấn đề hoàn thiện các quy định
của pháp luật hình sự về quyết định hình phạt nói chung, quyết định hình phạt
trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt nói riêng đã được đặt
ra là một trong các nội dung của những định hướng cơ bản sửa đổi Bộ luật
hình sự Việt Nam năm 1999 hiện hành [1, Điểm 3.1, Tiểu mục 3, Phần IV].
3
* Về phương diện thực tiễn, các vụ án chuẩn bị phạm tội, phạm tội
chưa đạt không phải là phổ biến nên kỹ năng, kinh nghiệm quyết định hình
phạt trong các trường hợp này của các cơ quan xét xử chưa có sự thành thục.
Do đó, việc quyết định hình phạt đối với hành vi chuẩn bị phạm tội, phạm tội
chưa đạt còn thiếu chính xác, đôi khi còn nặng quá hoặc nhẹ quá, thậm chí áp
dụng sai quy định làm mất đi tính công bằng và giảm đi hiệu quả của hình
phạt nói chung, yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm nói riêng.
Vì vậy, việc nghiên cứu sâu sắc hơn nữa để làm sáng tỏ về mặt khoa
học những vấn đề lý luận cơ bản như khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa, nguyên
tắc và căn cứ quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm
tội chưa đạt; thực trạng quy định pháp luật và áp dụng các quy định pháp luật
về vấn đề này để đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật, nâng cao chất lượng
quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt
không những có ý nghĩa lý luận - thực tiễn quan trọng, mà còn là vấn đề mang
tính cấp thiết. Đây chính là lý do luận chứng cho việc học viên quyết định lựa
chọn đề tài luận văn thạc sĩ luật học của mình với tên gọi: “Quyết định hình
phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt theo luật hình
sự Việt Nam (trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Đắk Lắk)”.
2. Tình hình nghiên cứu
Như đã nêu trên, trong khoa học luật hình sự, quyết định hình phạt
trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt còn ít được quan tâm
nghiên cứu. Vấn đề chủ yếu được đề cập đến bởi các nghiên cứu chung về
quyết định hình phạt hoặc giai đoạn thực hiện tội phạm, trong đó phải kể đến
các công trình ở những cấp độ khác nhau dưới đây:
* Ở cấp độ sách tham khảo, chuyên khảo, tạp chí nước ngoài: 1)
C.L.Ten, Tội phạm, lỗi và hình phạt, Oxford at the Clarendon Press, 1987; 2)
Sue Titus Reid, Tư pháp hình sự, Macmillan Publishing Company, 1990; 3)
4
Michael C. Braswell, Belinda R.McCathy, Berna J McCath, Công lý, tội phạm
và đạo đức, Anderson Publishing Co, 1991; 4) P.J.Fizgerald, Luật hình sự và
hình phạt, Oxford at the Clarendon Press, 1992; 5) Doman J. Newman, Giới
thiệu về Luật hình sự, McGraw-Hill, INC, 1993; 6) Larry K. Gaines and Roger
LeRoy Miller, Luật hình sự: Những vấn đề cơ bản trọng tâm, Wadsworth
Publishing, USA, 2006; Michael. T. Cahill, Định nghĩa tội phạm sơ bộ, tội
phạm chưa đạt, Attempt, Ohio State Journal of Crime, Vol. 9, p.751-759; v.v
* Ở cấp độ giáo trình, sách tham khảo, chuyên khảo trong nước: 1)
GS. TSKH. Lê Văn Cảm, Mục V - Chế định về các giai đoạn thực hiện tội
phạm, Chương 4, Sách chuyên khảo Sau đại học: Những vấn đề cơ bản trong
khoa học luật hình sự (Phần chung), Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội, 2005; 2)
PGS. TS. Nguyễn Ngọc Chí, Chương XII - Các giai đoạn phạm tội, Trong
sách: Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần chung) (GS. TSKH. Lê Cảm
chủ biên), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2001, tái bản năm 2003, 2007; 3)
GS. TS. Nguyễn Ngọc Hòa, Chương IX - Các giai đoạn phạm tội, Trong
sách: Giáo trình Luật hình sự Việt Nam, Tập I (GS. TS. Nguyễn Ngọc Hòa
chủ biên), Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2007; 4) GS. TS. Võ Khánh Vinh,
Chương XII - Các giai đoạn phạm tội, Trong sách: Giáo trình Luật hình sự
Việt Nam (GS. TS. Võ Khánh Vinh chủ biên), Nxb Công an nhân dân, Hà
Nội, 2001, 2009; 5) CN. Trần Văn Đượm, Chương VII - Các giai đoạn cố ý
thực hiện tội phạm, Trong sách: Giáo trình Luật hình sự Việt Nam - Phần
chung, Học viện Cảnh sát nhân dân, Hà Nội, 1995; 6) PGS. TS. Lê Thị Sơn,
Các giai đoạn thực hiện tội phạm, đồng phạm và tổ chức tội phạm với việc
hoàn thiện cơ sở pháp lý của trách nhiệm hình sự, Nxb Tư pháp, Hà Nội,
2013; 7) TS. Trịnh Tiến Việt, Tội phạm và trách nhiệm hình sự, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội, 2013; v.v
5
* Ở cấp độ luận án, luận văn thạc sĩ luật học trong nước: 1) Dương
Tuyết Miên, Quyết định hình phạt trong luật hình sự Việt Nam, Luận án
tiến sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2004; 2) Nguyễn Thị Bình,
Quyết định hình phạt trong đồng phạm, Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa
Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2009; 3) Hoàng Đức Ngọc, Những vấn đề
lý luận và thực tiễn về phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam, Luận
văn thạc sĩ luật học, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2010; 4) Hồ
Thanh Vinh, Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về tội phạm chưa hoàn
thành theo luật hình sự Việt Nam, Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa Luật,
Đại học Quốc gia Hà Nội, 2014; v.v
* Ở cấp độ bài viết, đề tài khoa học trong nước: 1) GS. TSKH. Lê Văn
Cảm, Chế định các giai đoạn thực hiện tội phạm và mô hình lý luận của nó
trong luật hình sự Việt Nam, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 2/2002; 2)
PGS. TS. Trịnh Quốc Toản, Một số vấn đề về giai đoạn phạm tội chưa đạt,
Tạp chí Khoa học, chuyên san Kinh tế - Luật, số 4/2002; 3) PGS. TS. Lê Thị
Sơn, Về trách nhiệm hình sự của hành vi chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa
đạt, Tạp chí Luật học, số 4/2002; 4) PGS. TS. Dương Tuyết Miên, Quyết định
hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt, Tạp chí
Luật học, số 4/2002; 5) TS. Trịnh Tiến Việt, Về phạm tội chưa đạt và một số
hình thức phạm tội khác trong quá trình thực hiện tội phạm, Tạp chí Khoa
học, chuyên san Kinh tế - Luật, số 2/2009; 6) Nguyễn Thị Mai, Chuẩn bị
phạm tội hay phạm tội chưa đạt, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 3/1993; v.v
Như vậy, nhìn chung, các công trình nghiên cứu nói trên mới chỉ đề cập
đến quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội chưa đạt với tư cách một
trường hợp của quyết định hình phạt nói chung hoặc là một trong các vấn đề
về trách nhiệm hình sự ở các giai đoạn phạm tội. Có thể nói rằng, hiện nay
chưa có công trình nghiên cứu chuyên sâu và có hệ thống nào về các vấn đề lý
6
luận cơ bản đồng thời đánh giá toàn diện các quy định pháp luật hình sự Việt
Nam hiện hành về quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội,
phạm tội chưa đạt và thực tiễn áp dụng của các quy định đó trên một địa bàn
cụ thể là tỉnh Đắk Lắk để làm cơ sở cho việc đề xuất giải pháp hoàn thiện
pháp luật và nâng cao chất lượng, hiệu quả quyết định hình phạt trong các
trường hợp này. Nói một cách khác, các vấn đề lý luận và thực tiễn xung
quanh việc quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm
tội chưa đạt đòi hỏi phải được tiếp tục nghiên cứu một cách toàn diện và
chuyên sâu hơn.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn có đối tượng nghiên cứu đúng như tên gọi của đề tài: Quyết
định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt theo
luật hình sự Việt Nam (trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Đắk Lắk).
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Trên cơ sở đối tượng nghiên cứu trên, luận văn có phạm vi nghiên cứu
như sau:
- Xây dựng khái niệm quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị
phạm tội, phạm tội chưa đạt; chỉ ra các đặc điểm và ý nghĩa của việc quyết
định hình phạt trong hai trường hợp này;
- Phân tích những nguyên tắc và các căn cứ quyết định hình phạt trong
trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt;
- Hệ thống hóa các quy định về quyết định hình phạt trong trường hợp
chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt trong lịch sử từ Cách mạng tháng Tám
năm 1945 đến nay, trong đó nhấn mạnh quy định của Bộ luật hình sự Việt
Nam hiện hành và các văn bản hướng dẫn thi hành về vấn đề này để rút ra
nhận xét, đánh giá;
7
- Nghiên cứu, so sánh quy định của Bộ luật hình sự một số nước trên
thế giới về quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội
chưa đạt để rút ra nhận xét, đánh giá;
- Đánh giá thực tiễn quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị
phạm tội, phạm tội chưa đạt trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk trong giai đoạn 06 năm
(2009 - 2014), từ đó chỉ ra một số tồn tại, hạn chế và các nguyên nhân cơ bản;
- Luận chứng và đưa ra kiến nghị hoàn thiện quy định của Bộ luật hình
sự Việt Nam về quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội,
phạm tội chưa đạt và các giải pháp nâng cao hiệu quả, chất lượng của việc
quyết định hình phạt trong hai trường hợp này.
4. Cơ sở lý luận và các phương pháp nghiên cứu của luận văn
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa duy
vật lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng Mác-xít, tư tưởng Hồ Chí Minh
về Nhà nước và pháp luật, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng
Nhà nước pháp quyền, về chính sách hình sự, về vấn đề cải cách tư pháp được
thể hiện trong các Nghị quyết Đại hội Đảng X, XI và các Nghị quyết số 08-
NQ/TW ngày 02/01/2002 về “Một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp
trong thời gian tới”, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 26/5/2005 về “Chiến
lược cải cách tư pháp đến năm 2020” của Bộ Chính trị.
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả luận văn đã sử dụng các
phương pháp đặc thù của khoa học luật hình sự như: phương pháp phân tích,
tổng hợp, so sánh, thống kê, điều tra xã hội học để tổng hợp các tri thức khoa
học và luận chứng các vấn đề tương ứng được nghiên cứu trong luận văn.
5. Ý nghĩa lý luận, thực tiễn và điểm mới về khoa học của luận văn
Ý nghĩa lý luận và thực tiễn quan trọng của luận văn là ở chỗ tác giả đã
làm rõ khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa và các căn cứ, những nguyên tắc của quyết
định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt; phân
8
tích, đánh giá nội dung quy định của pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành về
quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt,
đồng thời đưa ra các kiến nghị hoàn thiện các quy định này ở khía cạnh lập
pháp và các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng từ khía cạnh thực tiễn.
Bên cạnh đó, đây là nghiên cứu chuyên khảo đồng bộ đầu tiên ở cấp độ
một luận văn thạc sĩ đề cập riêng đến quyết định hình phạt trong trường hợp
chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam. Điều đó
càng trở nên quan trọng hơn vì đây là một trường hợp phức tạp của quyết định
hình phạt đòi hỏi phải có nhận thức thống nhất phục vụ cho thực tiễn xét xử,
tránh vi phạm trong việc áp dụng.
Đặc biệt, nó còn có ý nghĩa làm tài liệu tham khảo cần thiết cho cán bộ
nghiên cứu khoa học, cán bộ giảng dạy, nghiên cứu sinh, học viên cao học và
sinh viên thuộc chuyên ngành Tư pháp hình sự.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, kết cấu
của luận văn gồm ba chương như sau:
Chương 1: Các vấn đề chung về quyết định hình phạt trong trường
hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt theo luật hình sự
Việt Nam.
Chương 2: Quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội,
phạm tội chưa đạt theo Bộ luật hình sự Việt Nam và Bộ
luật hình sự một số nước.
Chương 3: Thực tiễn quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị
phạm tội, phạm tội chưa đạt trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk và
những kiến nghị.
9
Chương 1
CÁC VẤN ĐỀ CHUNG VỀ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT
TRONG TRƯỜNG HỢP CHUẨN BỊ PHẠM TỘI, PHẠM TỘI CHƯA
ĐẠT THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
Quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội
chưa đạt là hai trường hợp quyết định hình phạt đặc biệt bởi được đặt ra đối
với hành vi phạm tội chưa hoàn thành trong khi các quy định về tội phạm cụ
thể và hình phạt tương ứng của Bộ luật hình sự là quy định về tội phạm hoàn
thành. Do đó, về phương diện lý luận, quyết định hình phạt trong trường hợp
chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt chứa đựng nhiều yếu tố đặc thù, phức
tạp hơn so với quyết định hình phạt trong trường hợp tội phạm hoàn thành. Vì
vậy, để có thể xây dựng, hoàn thiện và áp dụng thống nhất các quy định của
pháp luật hình sự Việt Nam về quyết định hình phạt trong hai trường hợp của
tội phạm chưa hoàn thành này đòi hỏi phải làm rõ các vấn đề cơ bản như: khái
niệm, các đặc điểm, yêu cầu (nguyên tắc) và ý nghĩa của nó.
1.1. KHÁI NIỆM QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT TRONG TRƯỜNG HỢP
CHUẨN BỊ PHẠM TỘI, PHẠM TỘI CHƯA ĐẠT
1.1.1. Khái niệm và các đặc điểm cơ bản của chuẩn bị phạm tội,
phạm tội chưa đạt
Trong khoa học pháp lý thế giới, chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa
đạt được gọi chung với những tên như “tội phạm chớm nở” (inchoate crime)
hoặc “tội phạm sơ bộ” (preliminary crime) và được hiểu là “hành vi bị coi là
tội phạm nhưng không gây ra thiệt hại thực tế, với điều kiện thiệt hại nó có
thể gây ra là thiệt hại mà pháp luật muốn ngăn chặn” [58, p.56]. Hiện nay,
việc phân định rạch ròi giữa chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt được đặt
ra trong lý luận về các giai đoạn phạm tội.
10
Ở các nước theo truyền thống pháp luật Anh - Mỹ, việc thực hiện tội
phạm thông thường về lý thuyết được chia làm bốn giai đoạn như sau: 1) Ý
định phạm tội (Intention), 2) Chuẩn bị phạm tội (Preparation), 3) Thực hiện
tội phạm (Implementation), 4) Tội phạm hoàn thành (Accomplishment). Trong
giai đoạn thực hiện tội phạm có thể diễn ra ngoại lệ là “nỗ lực bất thành”
(Incomplete attempt) [59, p.751-759] mà gọi cách khác chính là “phạm tội chưa
đạt”. Trong đó, chuẩn bị phạm tội là “hành vi được thực hiện bởi người phạm tội
trong bất kỳ thời điểm nào kể từ khi có ý định phạm tội đến trước khi thực tế tiến
hành tội phạm đó” “thường được mô tả bằng các hành vi chuẩn bị công cụ, tìm
cách phạm tội” và “bị coi là phạm chính tội được chuẩn bị đó” [57, p.p.3]. Nỗ
lực bất thành (hay phạm tội chưa đạt) là trường hợp “người phạm tội đã nỗ
lực thực hiện tội phạm, tiến xa hơn là chuẩn bị phạm tội nhưng chưa đạt đến
việc hoàn thành nó” [56, p.5]. Như vậy, chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt
đều là những hành vi phạm tội ở giai đoạn tội phạm chưa được hoàn thành,
trong đó phạm tội chưa đạt có bước tiến xa hơn, đến gần với việc hoàn thành
tội phạm hơn chuẩn bị phạm tội. Cho nên, tuy ở giai đoạn chưa hoàn thành
nhưng chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt vẫn bị coi là hành vi phạm vào
chính những tội chưa được hoàn thành đó.
Trong khi đó, trong khoa học luật hình sự Việt Nam, chuẩn bị phạm tội
và phạm tội chưa đạt là những giai đoạn đầu trong ba giai đoạn của việc thực
hiện tội phạm như quan điểm thể hiện trong Giáo trình của Trường Đại học
Cảnh sát nhân dân: “các bước trong quá trình thực hiện tội phạm bao gồm
chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt và tội phạm hoàn thành” [39, tr.176].
Trước hết, về khái niệm chuẩn bị phạm tội, nhận thức lý luận cũng như
thực tiễn lập pháp ở nước ta đều thống nhất thừa nhận: “chuẩn bị phạm tội là
tìm kiếm, sửa soạn công cụ, phương tiện hoặc tạo ra những điều kiện khác để
thực hiện tội phạm” (Điều 15 Bộ luật hình sự năm 1985 và Điều 17 Bộ luật
hình sự năm 1999).
11
Còn trong khoa học luật hình sự, về cơ bản khái niệm chuẩn bị phạm
tội cũng được hiểu tương đồng như vậy. Chẳng hạn, có quan điểm nêu các
biểu hiện cụ thể:
Chuẩn bị phạm tội là giai đoạn đầu tiên của quá trình thực
hiện tội phạm cố ý trong đó người phạm tội tìm kiếm công cụ,
phương tiện phạm tội vạch kế hoạch thực hiện tội phạm, rủ rê
người khác cùng phạm tội hoặc có những hành vi khác nhằm tạo
ra những điều kiện cần thiết cho việc thực hiện tội phạm nhưng
chưa bắt đầu thực hiện được hành vi khách quan được quy định
cấu thành tội phạm [25, tr.161].
Hay có quan điểm chỉ ra lý do của việc dừng lại, theo đó: “chuẩn bị
phạm tội là (hành vi) tạo ra điều kiện cần thiết cho việc thực hiện tội phạm cụ
thể được quy định trong Bộ luật hình sự nhưng chưa bắt đầu thực hiện tội
phạm đó thì phải dừng lại vì nguyên nhân ngoài ý muốn” [15, tr.47].
Đặc biệt, có quan điểm mở rộng không chỉ nêu hành vi, mà còn cả việc
tìm kiếm những người đồng phạm, cấu kết với nhau, cũng như nguyên nhân
của việc dừng lại. Theo đó,
Chuẩn bị phạm tội là hành vi tìm kiếm hoặc sửa soạn công
cụ, phương tiện thực hiện tội phạm, cũng như tìm kiếm những
người đồng phạm, cấu kết với nhau hoặc cố ý tạo ra những điều
kiện cần thiết khác để thực hiện tội phạm, nhưng tội phạm đã không
được thực hiện đến cùng vì những nguyên nhân ngoài ý muốn của
người phạm tội [6, tr.443]; v.v
Như vậy, chuẩn bị phạm tội là hành vi tiền đề của tội phạm, là bước
thể hiện đầu tiên ra ngoài thế giới khách quan của ý định phạm tội. Trong
giai đoạn này người phạm mới chỉ chuẩn bị các điều kiện để tội phạm được
tiến hành thuận lợi chứ chưa thực hiện hành vi khách quan của tội phạm. Tuy
12
mới “chớm nở” nhưng chuẩn bị phạm tội lại nguy hiểm ở chỗ thể hiện mong
muốn, sự cố ý cao độ đến mức “rắp tâm” thực hiện tội phạm.
Trong khi đó, phạm tội chưa đạt được các từ điển pháp lý định nghĩa
như sau: “Phạm tội chưa đạt là (chủ thể) đã cố ý thực hiện tội phạm nhưng vì
nguyên nhân khách quan hành vi đã thực hiện chưa thỏa mãn hết các dấu hiệu
khách quan của cấu thành tội phạm” [45, tr.600] hay “Phạm tội chưa đạt là
hành vi cố ý tiến hành tội phạm nào đó nhưng do những nguyên nhân ngoài ý
muốn của người phạm tội mà không thực hiện được đến cùng” [20, tr.266];
v.v Đây cũng là quan điểm thống nhất trong khoa học pháp lý như
GS.TSKH. Lê Văn Cảm nhận định: “Phạm tội chưa đạt trong khoa học luật
hình sự có thể được hiểu là hành vi cố ý trực tiếp nhằm thực hiện tội phạm
nhưng tội phạm đã không được thực hiện đến cùng vì những nguyên nhân
ngoài ý muốn của người phạm tội” [6, tr.444]. Quan điểm đã nêu này cũng
được các nhà lập pháp hình sự thể hiện ở Điều 15 Bộ luật hình sự năm 1985,
Điều 18 Bộ luật hình sự năm 1999 hiện hành: “Phạm tội chưa đạt là cố ý thực
hiện tội phạm nhưng không thực hiện được đến cùng vì những nguyên nhân
ngoài ý muốn của người phạm tội”.
Do đó, phạm tội chưa đạt là giai đoạn thứ hai tiếp theo chuẩn bị phạm
tội trong quá trình thực hiện tội phạm. Ở giai đoạn này người phạm tội đã thực
hiện hành vi thuộc mặt khách quan của tội phạm nhưng chưa gây ra được hậu
quả của tội phạm do trở ngại khách quan ngoài ý muốn của người phạm tội.
Sự thống nhất nhận thức trên cho thấy: chuẩn bị phạm tội và phạm tội
chưa đạt là các giai đoạn trong quá trình thực hiện tội phạm. Trong đó, chuẩn
bị phạm tội là sự thể hiện bước đầu ra bên ngoài thế giới khách quan của ý
định phạm tội, khi đó người phạm tội đã có những hành vi tạo ra điều kiện để
việc phạm tội được tiến hành thuận lợi nhưng chưa bắt đầu thực hiện tội phạm
đó. Việc chuẩn bị càng chu đáo, cẩn thận, càng thể hiện mong muốn, quyết
13
tâm thực hiện được tội phạm. Phạm tội chưa đạt tiến xa hơn chuẩn bị phạm
tội, ở giai đoạn này người phạm tội không chỉ dừng lại ở việc tạo ra các điều
kiện thuận lợi mà đã thực sự đã tiến hành tội phạm nhưng chưa hoàn thành
được tội phạm đó. Hai trường hợp chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt thể
hiện những mức độ khác nhau trong việc thực hiện ý định phạm tội. Tuy
nhiên, chúng có chung một đặc điểm là các dạng tội phạm chưa hoàn thành.
Được gọi chung là các giai đoạn của việc thực hiện tội phạm nhưng
thực tế chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt chỉ có ở các trường hợp phạm
tội do cố ý. Sở dĩ như vậy là bởi vì trong tội phạm vô ý, người phạm tội
không nhận thức được hành vi nguy hiểm cho xã hội, không lường trước được
hậu quả nguy hiểm của hành vi và cũng không mong muốn cho hậu đó xảy ra
nên không thể có sự chuẩn bị hay nỗ lực tiến hành hành vi nguy hiểm cho xã
hội. Chỉ trường hợp phạm tội do cố ý thì người phạm tội mới nhận thức rõ
ràng về tính nguy hiểm của hành vi, mong muốn đạt được hậu quả của tội
phạm nên mới có sự chuẩn bị và nỗ lực thực hiện tội phạm.
Trong khoa học pháp lý, các nhà khoa học - luật gia luật hình sự Việt
Nam cũng đều thừa nhận rằng chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt chỉ có
trong trường hợp phạm tội do cố ý. GS.TSKH. Lê Văn Cảm đã nhận định:
Các giai đoạn thực hiện tội phạm là các bước phát triển theo
một trình tự nhất định mà tội phạm trải qua, được thể hiện bằng
việc thực hiện các dấu hiệu thuộc mặt khách quan của cấu thành tội
phạm tương ứng và bằng mức độ khác nhau của việc thể hiện sự cố
ý phạm tội của chủ thể [6, tr.441].
GS. TS. Nguyễn Ngọc Hòa lại cho rằng: “Các giai đoạn thực hiện tội
phạm là các mức độ thực hiện tội phạm cố ý, bao gồm chuẩn bị phạm tội,
phạm tội chưa đạt và tội phạm hoàn thành”[12, tr.66]. Tương tự, cùng quan
điểm như vậy, TS. Trịnh Tiến Việt định nghĩa: “Các giai đoạn phạm tội là
14
những bước trong quá trình thực hiện tội phạm do cố ý và bao gồm chuẩn bị
phạm tội, phạm tội chưa đạt và tội phạm hoàn thành” [46, tr.126]; v.v…
Do đó, tính chất cố ý trong mặt chủ quan của tội phạm ở giai đoạn
chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt còn thể hiện ở nguyên nhân khiến tội
phạm đó không được hoàn thành. Người chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt
không thực hiện được tội phạm đến cùng vì những lý do khách quan ngoài ý
muốn của họ chứ không phải họ không mong muốn thực hiện tội phạm nữa.
Trường hợp tội phạm không hoàn thành do người phạm tội tự mình dừng lại
mặc dù không có gì ngăn cản lại là trường hợp tự ý nửa chừng chấm dứt việc
phạm tội - một ngoại lệ khác xen vào giữa các giai đoạn phạm tội. Chỉ khi nào
lỗi cố ý được thể hiện rõ ràng bởi mong muốn, thậm chí nỗ lực thực hiện tội
phạm của người phạm tội và mong muốn, nỗ lực đó bị cản trở bởi yếu tố
khách quan, không phụ thuộc ý chí của người phạm tội thì hành vi phạm tội
chưa hoàn thành mới bị coi là chuẩn bị phạm tội hoặc phạm tội chưa đạt.
Tóm lại, dưới góc độ khoa học luật hình sự Việt Nam, theo chúng tôi,
chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt là những hành vi ở các giai đoạn
khác nhau của tội phạm chưa hoàn thành, trong đó hành vi của người phạm
tội thể hiện sự tích cực, nỗ lực nhằm thực hiện tội phạm nhưng không thực
hiện được đến cùng vì những nguyên nhân khách quan ngoài ý muốn của họ.
Như vậy, nghiên cứu khái niệm chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa
đạt cho thấy các giai đoạn thực hiện tội phạm này có những đặc điểm
chung như sau:
* Chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt là những hành vi phạm tội và
phải chịu trách nhiệm hình sự trên những cơ sở chung
Mặc dù chưa đạt được mục đích phạm tội nhưng những hành vi này đã
hiện thực hóa ý định phạm tội ra ngoài thế giới khách quan ở những mức độ
nhất định, điều đó đã đe dọa hoặc bắt đầu xâm hại đến lợi ích mà pháp luật
15
hình sự bảo vệ. Vì vậy, trong pháp luật hình sự Việt Nam, cũng như các quốc
gia trên thế giới (sẽ được phân tích ở chương sau của luận văn), chuẩn bị
phạm tội và phạm tội chưa đạt đều coi là hành vi phạm vào các tội chúng
chưa hoàn thành và phải chịu trách nhiệm hình sự. Tùy theo pháp luật của
mỗi quốc gia, trách nhiệm hình sự đối với hành vi chuẩn bị phạm tội, phạm
tội chưa đạt có thể được xác định theo quy định về các tội phạm tương ứng
hoặc quy định riêng.
* Chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt chỉ có trong các tội phạm do cố ý
Như đã phân tích ở trên, chỉ khi cố ý phạm tội thì người phạm tội mới
có sự chuẩn bị, cố gắng để việc thực hiện tội phạm được diễn ra thuận lợi;
cũng chỉ khi cố ý phạm tội thì mới có mong muốn, mục đích phạm tội và thực
tế xảy ra trường hợp không đạt được mục đích, mong muốn đó.
* Trong giai đoạn chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt, hậu quả của
tội phạm chưa xảy ra
Như vậy, mặc dù hành vi chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt thể hiện
sự hiện thực hóa ý định phạm tội ở những mức độ khác nhau nhưng chúng đều
chưa hoàn thành tội phạm đó. Người phạm tội có thể tích cực chuẩn bị, cố gắng
tiến hành tội phạm nhưng đều không thực hiện được đến cùng, mục đích của
việc phạm tội không đạt được. Hậu quả của tội phạm chưa xảy ra chính là đặc
thù để phân biệt chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt với tội phạm hoàn thành.
* Sự “dang dở” của chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt đã do
nguyên nhân khách quan ngoài ý muốn của người phạm tội
Như đã đề cập ở trên, lỗi cố ý thể hiện ở chuẩn bị phạm tội, phạm tội
chưa đạt bởi việc người phạm tội mong muốn thực hiện tội phạm đó. Bởi vì
hậu quả của tội phạm chưa xảy ra nên chính mong muốn chủ quan đó của
người phạm tội mới thể hiện tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi. Nếu
như người phạm tội không còn mong muốn thực hiện tội phạm nữa thì tính
16
nguy hiểm cho xã hội của hành vi bị triệt tiêu. Do đó, chỉ trường hợp tội phạm
chưa hoàn thành được vì lý do khách quan ngoài ý muốn của người phạm tội
rõ ràng thực sự nguy hiểm cho xã hội và cần xử lý về hình sự ngay cả khi
không gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội.
* Tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi chuẩn bị phạm tội, phạm tội
chưa đạt thấp hợp tội phạm tương ứng hoàn thành
Mặc dù chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt thể hiện sự mong muốn,
tích tích cực, nỗ lực nhằm thực hiện tội phạm của người phạm tội nhưng dù
sao hậu quả thực sự của tội phạm vẫn chưa xảy ra. Do vậy, tính nguy hiểm
cho xã hội của chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt chắc chắn thấp hơn tội
phạm tương ứng được hoàn thành.
1.1.2. Khái niệm quyết định hình phạt và quyết định hình phạt
trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt
Quyết định hình phạt là hoạt động áp dụng pháp luật quan trọng trong
giai đoạn xét xử vụ án hình sự. Quyết định hình phạt chính xác, khách quan
và công minh là cơ sở để đạt được các mục đích của hình phạt: trừng trị và
giáo, cải tạo người phạm tội; ngăn ngừa họ phạm tội mới; răn đe, ngăn ngừa
những người khác trong xã hội. Chỉ khi hình phạt được quyết định một cách
chính xác thì mục đích của hình phạt mới đạt được, giúp cho người bị kết án
tự mình ý thức được sự công bằng của pháp luật và bản thân họ cũng thấy rõ
lỗi lầm, sai phạm mà quyết tâm cải tạo trở thành người công dân có ích cho xã
hội. Hình phạt được quyết định quá nhẹ so với tính chất và mức độ nguy hiểm
cho xã hội của tội phạm đã được thực hiện sẽ sinh ra ở người phạm tội và ở
những người khác thái độ xem thường pháp luật, còn hình phạt được quyết
định quá nặng sẽ gây ra ở người bị kết án cũng như những người khác tâm lý
oán hận, mất niềm tin, chống đối Nhà nước và xã hội.
Quyết định hình phạt là một hoạt động áp dụng pháp luật, được gọi tên
17
là “lượng hình” [32, tr.75] trong thực tiễn xét xử ở nước ta trước khi có Bộ
luật hình sự năm 1985. Sau khi Bộ luật hình sự năm 1985 ra đời, thuật ngữ
quyết định hình phạt chính thức được ghi nhận bởi khoản 4 Điều 17 và tiếp
tục được sử dụng trong Bộ luật hình sự năm 1999. Định nghĩa quyết định hình
phạt không được đặt ra về mặt lập pháp mà chỉ là sự thừa nhận về mặt thực
tiễn và trong các nghiên cứu lý luận. Theo nhận thức thông thường, quyết
định hình phạt được hiểu là việc Tòa án lựa chọn, áp dụng đối với người bị
kết án loại và mức chế tài hình sự tương ứng hành vi phạm tội của họ theo
quy định của pháp luật hình sự. Đó cũng là nhận thức về cốt lõi của khái niệm
quyết định hình phạt trong khoa học luật hình sự. Tuy nhiên, về nội hàm,
ngoại diên của khái niệm này một cách chính xác thì giữa các nhà khoa học
Việt Nam vẫn còn một số điểm chưa thống nhất. Cơ bản các quan điểm hiện
nay theo hai trường phái:
Trường phái thứ nhất cho rằng quyết định hình phạt bao gồm việc
quyết định hình phạt chính, quyết định hình phạt bổ sung, quyết định biện
pháp chấp hành hình phạt và quyết định các biện pháp tư pháp (với mục đích
thay thế hoặc hỗ trợ cho hình phạt). Thậm chí, có quan điểm còn cho rằng
quyết định hình phạt là quyết định biện pháp xử lý đối với người phạm tội,
nghĩa là bao gồm cả việc quyết định lựa chọn hình phạt, mức hình phạt,
quyết định biện pháp tư pháp hoặc quyết định các biện pháp tha miễn trong
luật hình sự. Các quan điểm theo trường phái này thể hiện trong các nghiên
cứu như: Sách tham khảo “Trách nhiệm hình sự và hình phạt” do GS.TS.
Nguyễn Ngọc Hòa chủ biên, Hà Nội, 2001; Luận án tiến sĩ luật học “Quyết
định hình phạt trong luật hình sự Việt Nam” của tác giả Dương Tuyết Miên,
Hà Nội, 2003, sau đó là sách chuyên khảo năm 2007; Giáo trình “Kỹ năng
xét xử vụ án hình sự” của PGS.TS. Nguyễn Văn Huyên chủ biên, Hà Nội,
2006; v.v [13, tr.65].