Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

Phân tích và đánh giá hoạt động lập pháp của đại biểu quốc hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (98.64 KB, 10 trang )

MỞ ĐẦU
Trong bộ máy nhà nước, Quốc hội chiếm vị trí đặc biệt quan trọng, là cơ
quan đại biểu cao nhất của nhân dân và là cơ quyền quyền lực cao nhất của nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hội là tổ chức chính quyền đại diện
cho ý chí, lợi ích của nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt
Nam. Về chức năng của quốc hội, Hiến pháp 2013 đã quy định rõ hơn, khái quát
hơn trên ba phương diện: quyền lập hiến, lập pháp, quyết định những vấn đề
quan trọng của đất nước; xây dựng, củng cố và phát triển bộ máy nhà nước và có
quyền giám sát hoạt động tối cao hoạt động của bộ máy nhà nước. Hiến pháp
năm 2013 đòi hỏi Quốc hội phải tập trung hơn nữa vào chức năng làm luật để
khắc phục tình trạng vừa thiếu pháp luật, vừa mâu thuẫn, chồng chéo trong hệ
thống pháp luật. Do vậy, hoạt động lập lập pháp của đại biểu quốc hội chính là
vấn đề được quan tâm hàng đầu trong hệ thống pháp luật hiện hành. Vì vậy, em
chọn đề tài: “ Phân tích và đánh giá hoạt động lập pháp của đại biểu quốc hội
theo pháp luật” để làm bài tập lớn.

NỘI DUNG
1.Khái niệm, bản chất và các giai đoạn của hoạt động lập pháp
1.1.Khái niệm lập pháp
Theo từ điển luật học Black’s Law Dictionary of Henry Sambell Black, MA:
lập pháp là làm luật hoặc sửa đổi luật, thuộc về chức năng làm luật hoặc quyết
định xem xét, thông qua luật, là hoạt động đặt ra luật hoặc văn bản quy phạm có
tính chất bắt buộc chung, loại trừ các quyết định hành chính và điều hành.Theo
quan điểm của Hiến pháp và pháp luật hiện hành, hoạt động lập pháp là hoạt
động Quốc hội ban hành luật và nghị quyết. Quốc hội là cơ quan duy nhất có
quyền lập pháp. Tóm lại, có thể hiểu: “ hoạt động lập pháp là những hoạt động
liên tục, kế tiếp nhau từ việc xác định chính sách, xây dựng chính sách pháp lí tới
việc thể hiện, thảo luận, thông qua và công bố luật, điều chỉnh các quan hệ xã hội
phát sinh trong mọi lĩnh vực của đời sống, phù hợp với chủ trương của Đảng và ý
chí nguyện vọng của nhân dân”
1.2.Đặc điểm của hoạt động lập pháp:




Hoạt động lập pháp là hoạt động mang tính tất yếu: Trong nhà nước pháp
quyền đòi hỏi việc tổ chức, thực thi quyền lực nhà nước phải dựa trên nền tảng
pháp lí cơ bản và đồng bộ. Do đó, Quốc hội đảm bảo cho mọi quan hệ xã hội, đặc
biệt là hoạt động của chính quyền được điều chỉnh và hạn chế bởi pháp luật, đảm
bảo quyền lợi cho mọi công dân thông qua hoạt động lập pháp.
Hoạt động lập pháp là hoạt động mang tính khách quan: Pháp luật được
ban hành nhằm điều chỉnh các văn bản phát sinh, xuất phát từ nhu cầu điều chỉnh
xã hội của nhà nước. Vì vây, việc ban hành pháp luật không phụ thuộc vào ý chí
chủ quan của một các nhân, tổ chức nào mà phải xuất phát từ nhu cầu điều chỉnh
quan hệ xã hội trong cuộc sống. Mặt khác, những nội dung chính sách cụ thể
không được áp đặt ý chí chủ quan của nhà lập pháp. Luật được xây dựng trên nền
tảng nhận thức, tư duy sâu sắc và thực tiễn đời sống, được khái quát hóa cộng vớ
những kĩ thuật pháp lí bài bản thì những đạo luật đó mới được đi vào thực tiễn và
phát huy một cách triệt để
Hoạt động lập pháp là một nội dung quan trọng trong cơ chế tổng thể lao
động và quản lí xã hội: Hoạt động lập pháp chính là sự chuyển hóa nội dung., hình
thức lao động của Đảng thành nội dung, hình thức pháp lí. Thông qua hoạt động
lập pháp, chúng ta chính thức hóa đường lối của Đảng, quan điểm của bộ chính
trị trong việc xây dựng chính sách pháp luật phù hợp với cuộc sống.
Hoạt động lập pháp thể hiện tính quyền lực nhà nước: Quyền lực nhà
nước bao gồm 3 quyền là quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Trong đó, quyền
lập pháp được biểu hiện cụ thể, rõ ràng nhất bởi kết quả của các luật được ban
hành. Đây là lĩnh vực hoạt động đặc thù riêng của nhà nước, do vậy, văn bản pháp
luật này cũng tất yếu mang tính quyền lực nhà nước và tính bắt buộc thi hành đối
với mọi cá nhân, tổ chức trong xã hội.
Hoạt động lập pháp là hoạt động mang tính nhân dân: Theo pháp luật hiện
hành, Quốc hội là cơ quan duy nhất do nhân dân cả nước bầu ra, nhân dân trao
quyền cho Quôc hội. Do đó, hoạt đọng lập pháp phải lấy mục tiêu làm ra các đạo

luật vì con người, phục vụ con người mang tính nhân văn sâu sắc. Tính nhân dân,
tính dân chủ trong hoạt động lập pháp được thể hiện ở quy trình lập pháp, cụ thể
là các dự thảo luật được lấy ý kiến rộng rãi của nhân dân thông qua các lệnh tiếp
xúc cử tri của đại biểu Quốc hội, đoàn đại biểu Quốc hội, để nhân dân là người
thẩm định chất lượng dự án luật một cách khách quan nhất.


1.3.Các giai đoạn của hoạt động lập pháp: Hoạt động lập pháp có thể chia làm 4
giai đoạn:
1.3.1: Sáng kiến lập pháp:
Sáng kiến lập pháp (gọi sáng kiến pháp luật hoặc sáng quyền lập pháp) với
vị trí là bước đầu tiên trong quy trình lập pháp có vai trò đặc biệt quan trọng,
quyết định đến số phận của một dự luật nói riêng cũng như hiệu quả công tác lập
pháp của Quốc hội nói chung. Sáng kiến lập pháp có hai đặc điểm cơ bản đó là:
-Quyền sáng kiến lập pháp là quyền năng mà pháp luật chỉ ghi nhận cho
một số chủ thể nhất định, thực theo các trình tự, thủ tục pháp lí;
-Quyền sáng kiến lập pháp có tính bắt buộc (thể hiện qua việc Quốc hội,
Nghị viện phải xem xét việc chấp thuận hoặc không chấp thuận các sáng kiến lập
pháp này);
Để thực hiện quyền này một cách có hiệu quả cần có một số điều kiện (kỹ
năng) sau đây:
Tổng hợp, đánh giá, nắm bắt được nhu cầu của xã hội: những vấn đề bức
xúc của xã hội (của người dân) cần phải điều chỉnh bằng luật
Xác định đúng nhu cầu quản lý nhà nước trong từng lĩnh vực, nhận diện
đdầy đủ xu hướng phát triển của loại quan hệ xã hội cần được điều chỉnh bằng
pháp luật;
Xác định, làm rõ mức độ và loại văn bản pháp luật cần ban hành v.v…
1.3.2: Soạn thảo dự án luật:
Dự án pháp luật, dự thảo nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội do ban
soạn thảo tiến hành soạn thảo: Ban soạn thảo tùy từng trường hợp có thể do Ủy

ban thường vụ Quốc hội; Bộ hoặc cơ quan ngang Bộ thuộc Chính phủ; Tòa án
nhân dân tối cao; Viện kiểm sát nhân dân tối cao; Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và
các tổ chức thành viên thành lập
1.3.3: Thảo luận và thông qua dự án luật:
Các văn bản sau khi được cơ quan soạn thảo văn bản luật đưa ra sẽ được
các chuyên gia luật đánh giá, xem xét, thảo luận xem điều luật nào là đúng đắn,


phù hợp với các văn bản pháp luật hiện hành. Sau khi nhận thấy là phù hợp và
đúng đắn, các dự án luật sẽ được thông qua
1.3.4: Công bố văn bản luật:
Qua nhiều quá trình xem xét và thông qua, văn bản luật sẽ được công bố.
Nhà nước chịu trách nhiệm công bố, tuyên truyền và phổ biến văn bản luật, đảm
bảo văn bản luật ấy được áp dụng rộng rãi bằng quyền lực nhà nước.
2.Vai trò, nhiệm vụ của đại biểu Quốc hội đối với hoạt động lập pháp:
Đại biểu Quốc hội là những công dân ưu tú trong lĩnh vực hoạt động của
nhà nước và xã hội, được nhân dân cả nước tín nhiệm và bầu ra. Đại biểu Quốc
hội có địa vị pháp lí đặc biệt, đó là những người đại diện của nhân dân đồng thời
đai biểu cấu thành cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất. Trong hoạt động lập
pháp, đại biểu Quốc hội được xác định là một trong những chủ thể quan trọng
nhất. Điều này được thể hiện qua một số biểu hiện như: Đại biểu Quốc hội tham
gia trực tiếp vào các hoạt động trong quy trình lập pháp như: đưa ra các ý kiến
xây dựng luật, quy định chương trình xây dựng luật; tham gia thẩm tra dự án luật;
cho ý kiến về dự thảo luật trước khi dự án được trình trước Quôc hội; thảo luận,
quy định thông qua dự án luật
-Đưa ra ý kiến xây dựng luật: đây là vai trò có chức năng quyết định trong
hoạt động lập pháp. Đại biểu Quốc hội đầu là những cá nân ưu tú, có hiểu biết sâu
sắc về luật pháp, do đó ý kiến xây dựng luật của họ là những ý tưởng đóng góp
quan trong việc thành lập hiến pháp
-Quy định chương trình xây dựng luật: xây dựng luật là hoạt động mang

tính lâu dài của Quốc hội, chính thế mà để hoạt động diễn ra một cách hiệu quả thì
cần phải được lên chương trình một cách cụ thể, tiện cho việc các thành viên dưới
cấp thực hiện. Trước mỗi hoạt động lập pháp, các đại biểu quốc hội đều họp để
quy định chương trình xây dựng luật sao cho hiệu quả và dễ thực hiện
-Thông qua dự án luật: Dự án luật tuy được các chuyên gia về các lĩnh vực
khác nhau trong hoạt động lập pháp đưa ra, cũng như có sự đóng góp, tham gia
của toàn thể nhân dân cả nước nhưng nó vẫn không thể tránh khỏi những sai sót.
Chính thế các đại biểu Quốc hội luôn họp bàn để điều chỉnh, bổ sung các dự án
luật sao cho chỉn chu nhất mới thông qua và tiến hành phổ biến luật
3. Sơ lược về thực trạng việc đại biểu quốc hội tham gia hoạt động lập pháp:


3.1.Những điểm mạnh:
Trong thời gian qua, công tác lập pháp của Quốc hội thường xuyên được
đổi mới và ngày càng có hiệu quả hơn. Đặc biệt, từ năm 2013 đến nay, hoạt động
lập pháp được Quốc hội quan tâm đẩy mạnh trên cơ sở Hiến pháp năm 2013 và
quán triệt các chủ trương, đường lối của Đảng, và do vậy đã đạt được những kết
quả quan trọng. Hoạt động lập pháp của Quốc hội đã tạo cơ sở pháp lý phục vụ
công cuộc đổi mới toàn diện đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta
theo hướng ngày càng sâu rộng, trọng tâm hướng vào việc xây dựng nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, giữ vững ổn định chính trị,
phát triển kinh tế, hội nhập quốc tế, thực hiện quyền con người, quyền tự do, dân
chủ của công dân, góp phần đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp
theo hướng hiện đại vào năm 2020.
Nội dung các vấn đề được điều chỉnh trong các luật ngày càng mở rộng,
bao phủ các lĩnh vực của đời sống xã hội, từ quy trình, thủ tục ban hành văn bản
quy phạm pháp luật đến các lĩnh vực kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, khoa học,
công nghệ, môi trường, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, tổ chức bộ máy nhà
nước, hành chính, dân sự, hình sự, tư pháp,... Đồng thời, Quốc hội đã quan tâm

sửa đổi, bổ sung kịp thời các chế định pháp luật không còn phù hợp thuộc nhiều
lĩnh vực
Về kỹ thuật lập pháp, Quốc hội đã áp dụng hình thức ban hành một luật để
sửa đổi, bổ sung nội dung của một số luật nhằm đáp ứng kịp thời yêu cầu của
cuộc sống, tiết kiệm thời gian, đơn giản thủ tục mà vẫn bảo đảm chất lượng của
dự án luật.Công tác soạn thảo, thẩm tra dự án luật được tiến hành tích cực, có sự
phân công rõ ràng về cơ quan chủ trì, cơ quan phối hợp. Quá trình chuẩn bị dự án
có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan, tổ chức hữu quan, với tinh thần cộng
đồng trách nhiệm. Các đại biểu Quốc hội luôn đề cao tinh thần trách nhiệm, chủ
động nghiên cứu, tích cực đóng góp ý kiến để nâng cao chất lượng văn bản ban
hành..
Việc tổ chức lấy ý kiến nhân dân, các ngành, các cấp về các dự án luật được
chú trọng và từng bước đổi mới, hình thức đa dạng, phong phú, trong đó có việc
phát huy và sử dụng thế mạnh của công nghệ thông tin, các phương tiện truyền
thông. Việc công khai dự thảo văn bản trên các phương tiện thông tin đại chúng,


nhất là trên các trang thông tin điện tử, đã tạo điều kiện thuận lợi cho người dân,
các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp kịp thời nắm bắt được dự kiến những thay
đổi về chính sách, pháp luật để đóng góp ý kiến xây dựng văn bản và chuẩn bị các
điều kiện cho việc thực hiện sau này. Việc lấy ý kiến về các dự án luật ngày càng
có hiệu quả, thể hiện tính dân chủ, sự thận trọng trong hoạt động lập pháp, huy
động được trí tuệ, sự đồng thuận của nhân dân, bảo đảm tính rõ ràng, công khai,
minh bạch ngay trong khi dự kiến hoạch định chính sách.
3.2.Điểm còn hạn chế:
Bên cạnh những kết quả nêu trên, công tác lập pháp của Quốc hội trong
thời gian qua cũng đã bộc lộ một số bất cập, hạn chế nhất định. Trong hoạt động
lập pháp, vẫn còn những lĩnh vực của đời sống xã hội chưa có luật điều chỉnh; còn
tình trạng một số luật mới được ban hành nhưng chất lượng chưa cao, thiếu tính
khả thi, chậm đi vào cuộc sống. Quá trình xây dựng một số luật chưa thực sự bám

sát nhu cầu cuộc sống, dẫn đến việc phải sửa đổi, bổ sung nhiều lần, làm ảnh
hưởng đến sự ổn định của hệ thống pháp luật. Quy trình xây dựng luật tuy đã
được cải tiến, nhưng vẫn chưa đồng bộ và có điểm chưa hợp lý; nhiều nội dung
đã được quy định nhưng việc thực hiện có lúc còn chưa nghiêm túc làm ảnh
hưởng không nhỏ đến chất lượng xem xét, thông qua dự án luật. Hoạt động thẩm
tra của các ủy ban của Quốc hội đối với một số dự án luật chưa thể hiện tính phản
biện cao. Việc bảo đảm tính hợp hiến và tính thống nhất của hệ thống pháp luật
đối với một số dự án luật và công tác giải thích Hiến pháp, luật thực hiện còn hạn
chế. Quy định trong nhiều văn bản luật được ban hành vẫn còn trùng lặp hoặc
mâu thuẫn, chồng chéo với các văn bản đã được ban hành trước đó, nhiều quy
định còn mang tính khung, chưa cụ thể. Quyền trình dự án luật của đại biểu Quốc
hội chưa được thực hiện, do thiếu các cơ chế, điều kiện bảo đảm, hỗ trợ cho đại
biểu thực hiện quyền của mình.
*Nguyên nhân: Những hạn chế nêu trên có thể do nhiều nguyên nhân tạo nên,
trong đó có cả nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan
Nguyên nhân khách quan:
Thứ nhất, sự quá tải một cách trầm trọng của chương trình xây dựng luật
của Quốc hội. Các dự án luật do các cơ quan tổ chức trình là quá lớn. Để dự án
được đưa vào chương trình xây dựng luật là một việc không đơn giản. Dự án luật
phải thật sự bức xúc hoặc phải có một sự “vận động” khá mạnh. Trong tình hình


như thế có đại biểu Quốc hội cho rằng nếu có trình dự hoặc kiến nghị về luật thì
khó có hy vọng được chấp nhận.
Thứ hai, đại đa số đại biểu Quốc hội của ta là kiêm nhiệm. Ngoài việc thực
hiện nhiệm vụ đại biểu thì các đại biểu Quốc hội còn phải thực hiện các công việc
theo chức trách nơi mình công tác. Trong khi đó, muốn trình dự án luật, pháp
lệnh hoặc chủ trì xây dựng dự án luật, pháp lệnh cần rất nhiều thời gian và công
sức.
Thứ ba, việc xây dựng dự án luật cần có chi phí tài chính và bộ máy giúp

việc. Để giúp đại biểu Quốc hội làm việc này, luật pháp của ta (cả Quy chế hoạt
động của đại biểu Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội và Luật Ban hành văn bản
quy phạm pháp luật) chỉ quy định: “Văn phòng Quốc hội bảo đảm điều kiện cần
thiết cho Ban soạn thảo dự án luật, dự án pháp lệnh do đại biểu Quốc hội trình”
quy định như thế này quá chung chung, cần có cơ chế cụ thể hơn.
Nguyên nhân chủ quan: Bên cạnh các nguyên nhân khách quan nêu trên cũng
cần nêu về nguyên nhân chủ quan của một số đại biểu Quốc hội có ý tưởng về dự
án và kiến nghị luật nhưng còn e ngại chưa tích cực đề xuất
4 .Một số đề xuất về để nâng cao hoạt động lập pháp của các đại biểu Quốc
hội:
4.1. Đổi mới tư duy pháp lý
Việc đổi mới tư duy pháp lý trong hoạt động lập pháp có vai trò rất quan
trọng trong việc nâng cao chất lượng của các đạo luật.
Thứ nhất, đổi mới tư duy pháp lý trong xây dựng và hoàn thiện pháp luật
về thể chế kinh tế dân sự trong nền kinh tế thị trường nhiều thành phần định
hướng xã hội chủ nghĩa.Đây là định hướng tư duy hàng đầu trong việc nâng cao
năng lực lập pháp của đại biểu Quốc hội hiện nay. Bao gồm tư duy pháp lý về xây
dựng và hoàn thiện chế độ trách nhiệm pháp lý của chủ sở hữu nhà nước và các
chủ sở hữu khác, cơ chế bảo đảm quyền sở hữu và hạn chế quyền sở hữu... hoàn
thiện cơ chế bảo vệ quyền tự do kinh doanh; tạo cơ sở pháp lý để huy động mọi
tiềm năng, nguồn lực vào phát triển sản xuất - kinh doanh.
Thứ hai, đổi mới tư duy pháp lý trong xây dựng và hoàn thiện pháp luật về
tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước phù hợp với yêu cầu xây dựng nhà


nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân. Xây dựng một nền
tư pháp là biểu tượng của công bằng và công lý, trong đó toà án là yếu tố trung
tâm với nguyên tắc xét xử độc lập, đúng pháp luật, kịp thời, với thủ tục tố tụng
dân sự dân chủ, tranh tụng bình đẳng, công khai, minh bạch, chặt chẽ, nhưng
thuận tiện, đảm bảo cho nhân dân tham gia và giám sát đối với hoạt động tư

pháp. Nâng cao năng lực lập pháp trong lĩnh vực này, trước hết là nâng cao năng
lực thể chế mối quan hệ giữa trách nhiệm của Nhà nước nói chung, của cơ quan
và cá nhân có thẩm quyền nói riêng với cá nhân công dân theo hướng đề cao
nhân tố con người, quyền công dân về dân sự, chính trị, kinh tế, văn hoá - xã hội.
Thứ ba, đổi mới tư duy pháp lý trong xây dựng và hoàn thiện pháp luật về
giáo dục, khoa học - công nghệ và các vấn đề xã hội.
Thứ tư, đổi mới tư duy pháp lý trong nội luật hoá các điều ước quốc tế mà
Nhà nước ta đã gia nhập hoặc ký kết.
4.2: Nâng cao chất lượng chương trình xây dựng luật của quốc hội:
Chương trình xây dựng luật là những dự kiến mang tính kế hoạch, dù đã
được xây dựng trên cơ sở nghiên cứu và tổng kết thực tiễn thì vẫn không tránh
khỏi có những điểm chưa thay đổi kịp so với sự biến đổi trên thực tế, nên cần
được điều chỉnh cho phù hợp. Chính vì vậy, trong quá trình tổ chức triển khai
thực hiện Chương trình xây dựng luật phải phát huy được tính linh hoạt, chủ
động, sáng tạo của các cơ quan của Quốc hội, đặc biệt là Ủy ban Thường vụ Quốc
hội, nhằm giải quyết kịp thời các vướng mắc phát sinh. Kiến nghị Ủy ban thường
vụ Quốc hội nên có định hướng khuyến khích đại biểu Quốc hội trình các dự án
luật, pháp lệnh hoặc chủ trì soạn thảo dự án luật.
4.3.Hệ thống luật pháp của ta hiện nay quy định tương đối đầy đủ về quyền của
đại biểu Quốc hội về sáng kiến lập pháp. Tuy nhiên cần có các phương pháp, biện
pháp phù hợp trong tổ chức thực hiện.

KẾT LUẬN :
Hoạt động lập pháp của các đại biểu Quốc hội theo pháp luật hiện hành
ngày càng có những bước tiến triển mạnh mẽ. Đó là điều kiện tiên quyết, có vị trí
quan trọng, tạo nền tảng vững chắc cho hệ thống pháp luật nước ta ngày càng trở
nên chặt chẽ và hoàn thiện hơn. Để hoạt động của Quốc hội nói chung và của các


đại biểu Quốc hội nói riêng trong hoạt động lập pháp ngày càng phát triển mạnh

mẽ hơn nữa thì cần có một sự đổi mới trong hoạt động Quốc hội đặc biệt là sự
thay đổi về tư tưởng.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


Giáo trình luật Hiến pháp Việt Nam / Trường Đại học Luật Hà Nội . - Hà
Nội : Công an nhân dân, 1994



Khóa luận tốt nghiệp của Đoàn Xuân Trường / Trường Đại học Luật Hà
Nội



Văn bản luật Hiến pháp Việt Nam



/>



/>


/>UrlListProcess=/ct/cms/nghiencuuchuyende/Lists/nghiencuuphapluat/V
iew_Detail.aspx&ListId=5a817ad2-c993-469d-a625955d86c9b2af&SiteId=eeca256a-5020-443e-8530bb4b31ff1ee0&ItemID=182&SiteRootID=ae93a5bf-4d4f-412c-ba6e3dfdba90bf10




/>at_luong_lap_phap_theo_Hien_phap_nam_2013



/>




×