Tải bản đầy đủ (.pdf) (104 trang)

Những đóng góp và hạn chế trong chính sách đào tạo và sử dụng quan lại của lê thánh tông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.31 MB, 104 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------

ĐỖ THỊ THU HẰNG

NHỮNG ĐÓNG GÓP VÀ HẠN CHẾ TRONG CHÍNH
SÁCH ĐÀO TẠO VÀ SỬ DỤNG QUAN LẠI
CỦA LÊ THÁNH TÔNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH TRỊ HỌC

Hà Nội - 2017


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------

ĐỖ THỊ THU HẰNG

NHỮNG ĐÓNG GÓP VÀ HẠN CHẾ TRONG CHÍNH
SÁCH ĐÀO TẠO VÀ SỬ DỤNG QUAN LẠI
CỦA LÊ THÁNH TÔNG

Chuyên ngành: Khoa học chính trị/ Chính trị học
Mã số: 60 31 02 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH TRỊ HỌC

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS. TS. Đỗ Thị Hòa Hới



Hà Nội - 2017


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luận văn: “Những đóng góp và hạn chế trong chính sách
đào tạo và sử dụng quan lại của Lê Thánh Tông” là công trình nghiên cứu của riêng
tôi. Các số liệu, kết quả được đưa ra trong luận văn là trung thực và chưa từng được
ai công bố trong bất cứ công trình nào khác. Mọi tham khảo trong luận văn đều
được trích dẫn rõ nguồn, đảm bảo tính khách quan của tư liệu và bản quyền tác giả.

Học viên
Đỗ Thị Thu Hằng


LỜI CẢM ƠN
Luận văn “Những đóng góp và hạn chế trong chính sách đào tạo và sử dụng
quan lại của Lê Thánh Tông” là một công trình nghiên cứu khoa học nghiêm túc, là
kết quả của quá trình học tập tại trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn - Đại
học Quốc gia Hà Nội của tác giả dưới sự hướng của các thầy cô bộ môn, sự giúp đỡ
của các thầy cô trong ban chủ nhiệm khoa Chính trị học. Tôi xin bày tỏ sự biết ơn sâu
sắc đến những sự giúp đỡ quý báu đó.
Đặc biệt, tôi xin gửi lời biết ơn chân thành đến PGS. TS. Đỗ Thị Hòa Hới là
giáo viên trực tiếp hướng dẫn luận văn cho tôi, người đã luôn tận tình hướng dẫn,
dành nhiều thời gian quý báu để trao đổi và định hướng nghiên cứu cho tôi trong
suốt quá trình thực hiện đề tài luận văn này. Cuối cùng, tôi xin cảm ơn những người
thân trong gia đình, bạn bè đã luôn động viên và là chỗ dựa tinh thần để tôi học tập
và thực hiện thành công đề tài luận văn này.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

Hà Nội, 7/2017
Học viên

Đỗ Thị Thu Hằng


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU................................................................................................. 3
1.Lý do chọn đề tài ......................................................................................................... 3
2.Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài ................................................................. 5
3.Mục đích, nhiệm vụ của luận văn............................................................................... 9
4.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn ......................................................10
5.Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn ........................................10
6.Những đóng góp mới về khoa học của luận văn .....................................................10
7.Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn ................................................................11
8.Kết cấu của luận văn..................................................................................................11
CHƢƠNG 1: BỐI CẢNH RA ĐỜI VÀ NỘI DUNG CHÍNH SÁCH
ĐÀO TẠO VÀ SỬ DỤNG QUAN LẠI CỦA LÊ THÁNH TÔNG ...... 12
1.1.Bối cảnh ra đời chính sách đào tạo và sử dụng quan lại của Lê Thánh
Tông. …………….......................................................................................................12
1.1.1.Điều kiện khách quan .........................................................................................12
1.1.2.Yếu tố chủ quan...................................................................................................27
1.2. Nội dung chính sách đào tạo và sử dụng quan lại của Lê Thánh Tông .............33
1.2.1.Chính sách đào tạo quan lại ..............................................................................33
1.2.2.Chính sách sử dụng quan lại .............................................................................38
TIỂU KẾT CHƢƠNG 1 ...................................................................... 45
CHƢƠNG 2: ĐÁNH GIÁ VỀ CHÍNH SÁCH ĐÀO TẠO VÀ QUAN
LẠICỦA LÊ THÁNH TÔNG .............................................................. 48
2.1. Đóng góp của chính sách đào tạo và sử dụng quan lại theo mô hình Nho giáo
của Lê Thánh Tông.......................................................................................................48

2.1.1.Bảo vệ và củng cố thể chế triều đình và thiết chế xã hội theo mô hình Nho
giáo…………………… .................................................................................................48
2.1.2Tạo nên truyền thống trọng dụng người có học trong hệ thống chính trị......57

1


2.1.3.Chuẩn mực hóa trách nhiệm, nghĩa vụ của các thành viên trong hệ
thống chính trị toàn xã hội…………………….. ....................................................63
2.1.4.Khẳng định tư duy, tầm nhìn chiến lược của Lê Thánh Tông. .......................68
2.2. Hạn chế của chính sách đào tạo và sử dụng quan lại của Lê Thánh Tông ........73
2.2.1.Nội dung và phương thức đào tạo chưa hướng tới giáo dục con người hoàn
thiện………………………. ...........................................................................................73
2.2.2.Hệ thống giáo dục nhằm phục vụ cho tầng lớp trên, khoa cử là con đường
chật hẹp……………......................................................................................................75
2.2.3.Duy trì sự bất bình đẳng trong cơ hội học tập, thi cử và sử dụng quan
lại………………………................................................................................................78
2.3. Một số bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam hiện nay (qua tìm hiểu chính
sách đào tạo và sử dụng quan lại của Lê Thánh Tông) ...........................................79
KẾT LUẬN .......................................................................................... 92
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................. 94

2


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
“Hiền tài là nguyên khí của quốc gia” là câu nói rất nổi tiếng của Thân Nhân
Trung (1419 – 1499), đời nào cũng vậy, việc lựa chọn hiền tài vào bộ máy nhà nước
được ví như “vun trồng” nguyên khí quốc gia. Vào nửa cuối thế kỷXV, vương triều

Lê Thánh Tông (1460 - 1497) đã đạt được những thành tựu rực rỡ trong xây dựng
và phát triển đất nước, được xem là đỉnh cao sự phát triển của chế độ phong kiến
Việt Nam. Lê Thánh Tông thực sự được coi là nhà văn hóa lớn của dân tộc với
những chính sách tiến bộ của ông đối với mọi mặt đời sống lúc bấy giờ. Bộ máy
nhà nước trung ương tập quyền dưới triều Lê Thánh Tông đã đến mức hoàn bị, từ
trung ương xuống đến xã phường. Thế lực của đại quý tộc bị hạn chế, thay vào đó là
sự tham chính của tầng lớp sĩ phu nho giáo được tuyển lựa bằng con đường thi cử.
Bộ luật Hồng Đức là một trong những thành tựu đáng tự hào nhất của sự nghiệp Lê
Thánh Tông và của cả thời đại ông. Sự ra đời của bộ luật Hồng Đức được xem là sự
kiện đánh dấu trình độ văn minh cao của xã hội Việt Nam thế kỷ XV.
Chính sách của vua Lê Thánh Tông không chỉ sử dụng dưới thời đó mà còn
được các vua sau đó sử dụng và có thể thấy rằng nó đã trở thành “khuôn mẫu” để
các triều đại khác noi theo. Trong xã hội phong kiến hiếm có vị vua nào có tầm nhìn
xa và chiến lược như thế. Đặc biệt trong thời đại của mình, Lê Thánh Tông đã có
những đóng góp vượt trội trong chính sách đào tạo và sử dụng quan lại, góp phần
vô cùng to lớn cho việc củng cố sức mạnh quốc gia, phát huy được sức mạnh nội tại
mà ở đây là một bộ máy nhà nước với đội ngũ quan lại đủ đức, đủ tài. Lê Thánh
Tông với sự tiến bộ của mình, tư duy vượt thời đại đã xây dựng nên cho mình một
đội ngũ quan lạitinh anh về trí tuệ, mẫn cán trong công việc,đầy đủ về số lượng, vận
hành tốt hệ thống quan chế, điều đó đã giúp cho vua Lê Thánh Tông xây dựng được
một vương triều vững mạnh, quản lý, điều hành tốt đất nước. Chính những lý do đó
mà chúng ta càng cần phải kế thừa và học tập từ chính sách đào tạo và sử dụng quan
lại của Lê Thánh Tông.
3


Ngày nay cũng vậy, kế thừa bài học từ lịch sử chúng ta càng phải coi trọng
chăm lo đào tạo, bồi dưỡng, xây dựng đội ngũ cán bộ nhà nước. Từ khi được thành
lập, Đảng và Nhà nước luôn nhận thức và thực thi được việc đào tạo cán bộ là vô
cùng quan trọng và cấp thiết cho dù trong thời kỳ kháng chiến hay trong thời bình

đi chăng nữa. Hồ Chí Minh cũng luôn đề cao việc đào tạo và sử dụng cán bộ trong
mọi hoàn cảnh. Người còn kế thừa từ truyền thống và nâng cao để đưa ra nhiều tiêu
chuẩn mà hàng đầu làtiêu chuẩn vềđạo đức tư cách người cán bộ và những bài học
vô cùng sâu sắc đối với đào tạo cán bộ. Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Nhà nước cần
phải kiến thiết. Kiến thiết cần phải có nhân tài”. Xã hội ngày càng phát triển và có
nhiều thay đổi, những chính sách đào tạo ra người quản lý phát triển đất nước cũng
phải thay đổi cho phù hợp với hoàn cảnh và ngày càng văn minh, tiến bộ hơn. Bên
cạnh những thành tựu Đảng và nhà nước ta đã đạt được đó thì hiện trạng việc đào
tạo đội ngũ cán bộ, công chức viên chức vẫn còn nhiều bất cập, chưa đáp ứng được
nguyện vọng của người dân và đòi hỏi của đất nước trong giai đoạn phát triển ngày
nay. Bởi vậy, việc trở lại tìm hiểu các đóng góp của giai đoạn trước là cần kíp, còn
là để tránh những mặt tiêu cực, những hạn chế của tiền nhân.
Những chính sách sử dụng quan lại, trọng dụng người tài của vua Lê Thánh
Tông đã có sự kế thừa thành tựu của những thời đại trước và phát huy được những
giá trị tiềm tàng của dân tộc và thực sự có ý nghĩa rất lớn không chỉ đối với thời đại
lúc đó mà còn có ích cho các thời kỳ nhà nước Việt Nam sau này. Việc phấn đấu
cho tương lai, nhìn về tương lai không có nghĩa là chúng ta không nhìn lại quá khứ.
Muốn tương lai tốt đẹp cần nhìn về quá khứ để học tập những giá trị và xóa bỏ
những hạn chế, thiếu sót để có thể đưa ra những chính sách hoàn thiện hơn, phù hợp
với hoàn cảnh của đất nước trong bối cảnh hội nhập vào tiến bộ chung sự vận động
của thế giới. Với những lý do trên đây, tôi tìm hiểu và nhận thấy rằng những giá trị
đạt được trong chính sách đào tạo và sử dụng quan lại dưới thời Lê Thánh Tông
lànhững gợi ý rất thiết thực, góp phần thúc đẩyviệc xây dựng đội ngũ cán bộ trong
sạch, vững mạnh đảm bảo cho công cuộc đổi mới thành công. Tuy nhiên, chính
sách đó cũng không tránh khỏi những hạn chế mà chúng ta cần khắc phục. Vậy

4


những điều đó là những gì, chúng ta nên học hỏi và bỏ qua những gì trong chính

sách của Lê Thánh Tông? Để trả lời những câu hỏi đó, tôi đã chọn đề tài: “Những
đóng góp và hạn chế trong chính sách đào tạo và sử dụng quan lại của Lê Thánh
Tông” làm đề tài cho luận văn thạc sĩ chính trị học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Liên quan về đề tài nghiên cứu của tôi, trước đó đã có rất nhiều công trình
văn học, sử học, Hán Nôm học, Văn bản học…nghiên cứu về thời đại Lê sơ và cuộc
đời, sự nghiệp vua Lê Thánh Tông. Mỗi đề tài lại nghiên cứu một khía cạnh riêng
và có vai trò bổ sung nhất định đối với sự phát triển của chính trị học nói riêng và
toàn bộ mọi mặt đời sống hiện nay nói chung. Ngoài ra chính từ góc độ chính trị
học, lịch sử tư tưởng chính trị Việt Nam cũng nhiều học viên chọn đề tài này làm
luận văn tốt nghiệp cho mình. Tuy nhiên, mỗi người sẽ có một cái nhìn dưới từng
khía cạnh khác nhau về một vấn đề và mỗi vấn đề lại có góc độ tiếp cận khác nhau.
Nhìn chung dựa vào có thể dẫn đến một số công trình nghiên cứu có liên quan về
vấn đề trên như sau:
 Nhóm công trình có tính học thuật lý luận chung về con người chính trị
Trong cuốn sách Đến hiện đại từ truyền thốngcủa GS.TS. Trần Đình Hựu,
NXB Văn Hóa, l996, gồm tập hợp những bài viết và tham luận rải rác từ năm 1974
đến 1993 về đề tài Nho giáo, Phật giáo, Đạo giáo và những truyền thống văn hóa
bản địa đặc biệt chú ý phân tích chỉ rõ ảnh hưởng của chế độ khoa cử Nho giáo.
Trong đó có những nội dung đóng góp tích cực của nền giáo dục Nho học vào việc
đào tạo đội ngũ quan lại cho các triều đại phong kiến dân tộc trước đây và di sản để
lại cho hôm nay.
Công trình nghiên cứu Con người chính trị Việt Nam - truyền thống và hiện
đại của một nhóm tác giả của Viện Chính trị học thuộc Học viện Chính trị - Hành
chính quốc gia Hồ Chí Minh do GS.TS Nguyễn Văn Huyên (chủ biên), Nhà xuất
bản Chính trị quốc gia, năm 2009. Đây là tác phẩm tiêu biểu tiếp cận ở góc độ văn
hóa chính trị viết về đóng góp con người chính trị trong lịch sử và hiện tại. Trong
cuốn sách, các tác giả đã đưa ra khái niệm về con người chính trị cùng với những lý

5



luận cơ bản về vấn đề này đã được khắc họa rõ nét. Và đúng như cái tên của nó thì
con người chính trị Việt Nam được tác giả nói đến cả trong bề sâu quá khứ và tương
lai. Từ khi nó chỉ là “mầm mống” trong Nhà nước sơ khai cho đến khi dân tộc tự chủ là
cả một quá trình dài lâu tư tưởng về con người chính trị phong kiến và hiện đại, được
nghiên cứu bằng cái nhìn khoa học. Cuốn sách tạo thành lĩnh vực khoa học tiếp cận
triết học chính trị từ vấn đề con người chính trị riêng. Thêm vào đó, cuốn sách đã gạn
đục khơi trong từ việc lượm lặt quá khứ, bù đắp thiếu sót hiện tại và củng cố những
kiến thức trong tương lai để đưa ra những yêu cầu từ thực tiễn xây dựng con người
chính trị hiện đại để xác định những tiêu chí yêu cầu từ giáo dục đào tạo đối với con
người chính trị được tập thể tác giả vô cùng chú trọng.
 Nhóm công trình về bối cảnh xã hội thời Lê sơ và triều đại Lê Thánh Tông:
Trong Đại Việt sử ký toàn thư đã nói khá rõ về tình hình kinh tế - xã hội,
chính trị… thời Lê Sơ đặc biệt là dưới thời vua Lê Thánh Tông. Giai đoạn này được
coi là giai đoạn phát triển đỉnh cao và tiêu biểu nhất trong thời Lê sơ nói riêng và
lịch sử Việt Nam nói chung. Trong sách có ghi nhận thời Lê Thái Tông, xã hội được
đi vào ổn định, phát triển thịnh vượng thông qua việc đưa ra những dẫn chứng bằng
chiếu, chỉ của các Lê Thánh Tông.
Cuốn Khâm định Việt sử thông giám cương mục của Nxb. Giáo dục đã cung
cấp bức tranh toàn diện về lịch sử Việt Nam từ thời vua Hùng dựng nước cho tới thế
kỷ XVIII, bao trùm tất cả các lĩnh vực chính trị, văn hóa, pháp luật..đặc biệt là bối
cảnh xã hội dưới thời Lê sơ nói chung và triều đại Lê Thánh Tông nói riêng.
Thêm vào đó là các sách Lịch sử Việt Nam: Tập III - Thế kỷ XV-XVI của Tạ
Ngọc Liễn, Tư tưởng Việt Nam từ thế kỷ XV đến thế kỷ XIX của Doãn Chính, Chế
độ ruộng đất và kinh tế nông nghiệp thời Lê sơ của Phan Huy Lê, Lịch sử Việt Nam
giản yếu của Lương Ninh, Đông Nam Á thế kỷ XIII – XVI của O. Bezin, Lịch sử tư
tưởng Việt Nam của Nguyễn Tài Thư, Lịch sử tư tưởng chính trị - xã hội Việt Nam
thời kỳ Lê - Nguyễn của Lê Văn Quán…cũng là nguồn tài liệu rất hữu ích trong việc
nghiên cứu bối cảnh xã hội thời Lê sơ và triều đại Lê Thánh Tông để tôi viết luận

văn này.

6


 Nhóm công trình nghiên cứu về Lê Thánh Tông – cuộc đời và sự nghiệp
Lê Thánh Tông - Vị Vua Anh Minh, Nhà Cách Tân Vĩ Đại (NXB Tư Pháp,
2007) - Lê Đức Tiết, 449 trang. Đây là công trình có nội dung nghiên cứu những
cách tân về hành chính, pháp lý, kinh tế, quân sự của vua Lê Thánh Tông. Mỗi khía
cạnh, nội dung được tác giả đưa ra các dẫn chứng đều rất cụ thể, dựa vào những tài
liệu lịch sử và những sự việc trong quá khứ dưới góc nhìn luật học của tác giả khiến
chúng ta hiểu phần nào về những cải cách về pháp luật chính sách pháp luật nói
chung và việc đào tạo, sử dụng người tài để hành pháp và tư pháp nói riêng của Lê
Thánh Tông.
Cuốn Lê Thánh Tông (1442-1497) – con người và sự nghiệp, Nxb Đại học
quốc gia, Hà Nội là công trình nghiên cứu rất tỉ mỉ, công phu và có giá trị lớn trong
việc tìm hiểu về vua Lê Thánh Tông kể từ khi ông được sinh ra cho đến khi ông mất
đi. Cuốn Lê Thánh Tông – tác gia và tác phẩm của Bùi Duy Tân là một tài liệu khá
đầy đủ trong việc nghiên cứu những tác phẩm văn học của Lê Thánh Tông và trong
đó cũng nêu khá rõ về con đường sự nghiệp và những đóng góp to lớn của Lê
Thánh Tông đặt được trong sự nghiệp của mình.
Những tác phẩm viết về cuộc đời, sự nghiệp của Lê Thánh Tông cũng có rất
nhiều như : Đệ nhất minh quân Lê Thánh Tông của Nguyễn Đình Chú;Vua Lê
Thánh Tông - đấng minh quân văn trị, vũ công toàn năng của Đại Việt (1442-1497)
của Minh Vượng, Tư tưởng Lê Thánh Tông và triều đại thịnh trị của ông của
Nguyễn Tài Thư, đăng trênTạp chí Triết học, số 6/1997…
Kỷ yếu hội thảo khoa họcLê Thánh Tông - Nhà văn hóa kiệt xuất, nhà cải
cách đổi mới đất nước năm 2016 với 20 tham luận đã khai thác, đánh giá dưới
nhiều góc độ về cuộc đời, sự nghiệp, đóng góp cải cách ở các lĩnh vực vua Lê
Thánh Tông của các nhà khoa học chuyên ngành lịch sử, văn hóa như: Vua Lê

Thánh Tông - Danh nhân văn hóa (GS Nguyễn Duy Quý); Nhà văn hóa lớn, nhà
thơ Lê Thánh Tông (GS Phong Lê), Vua Lê Thánh Tông - nhà cải cách canh tân đất
nước (PGS, TS Lê Đình Sỹ), Vua Lê Thánh Tông với việc xây dựng chấn hưng kinh
tế Đại Việt (TS Vũ Tang Bồng)...

7


 Nhóm đề tài nghiên cứu về chính sách giáo dục, khoa cử, chính sách đào tạo,
sử dụng con người của Lê Thánh Tông, nổi bật có sách:
Cuốn Chế độ đào tạo, sử dụng quan lại thời Lê Thánh Tông và công tác cán
bộ hiện nay của PGS. TS. Nguyễn Văn Hoài, Ths. Đặng Duy Thìn, do Nhà xuất bản
Chính trị Quốc gia phát hành năm 2012. Trong đó đã cung cấp những nội dung
chính trị tích cực của chế độ khoa cử Nho giáo thời Lê sơ tiến bộ so với thời phong
kiến trước thế kỷ XV. Cuốn sách còn thêm những chỉ dẫn liên hệ với thời hiện đại.
Một cuốn sách rất quan trọng nữa là Tổ chức chính quyền trung ương dưới
thời Lê Thánh Tông, của tác giả Lê Kim Ngân (Bộ Quốc gia Giáo dục, Sài Gòn,
1963), là cuốn sách mà bất cứ ai nghiên cứu về vấn đề đào tạo, sử dụng quan lại
dưới thời Lê Thánh Tông cũng cần phải gối đầu giường.Cuốn sách đã phân tích rất
kỹ lưỡng về bộ máy chính quyền Trung ương thời Lê Thánh Tông. Tác giả đã phân
tích quan niệm thần quyền về nhà vua, những nguyên tắc chung để chọn vua, quyền
hạn, nghĩa vụ của vua ở chương 1. Chương 2 đã nhận xét đánh giá về cách tổ chức,
những cơ quan thuộc chính quyền trung ương. Chương 3 kê khai những quan chức
chính dưới thời Lê Thánh Tông.
Những bài báo viết về những chính sách của Lê Thánh Tông như: Bùi Huy
Khiên, Những bài học kinh nghiệm từ hai cuộc cải cách hành chính dưới thời Lê
Thánh Tông và Minh Mệnh, Tạp chí Tổ chức Nhà nước, số 8/2011; Trương Vĩnh
Khang, Chính sách của Lê Thánh Tông đối với việc bảo vệ lãnh thổ đất nước,
Nghiên cứu lịch sử, số 6/2010; Phạm Thị Quỳnh , Những đặc điểm cơ bản của hệ
thống giáo dục – khoa cử ở Việt Nam thời Lê Thánh Tông, Tạp chí Triết học, số

6/2011; Ngô Văn Hưởng, Quan niệm “văn trị” từ Nguyễn Trãi đến Lê Thánh Tông,
Tạp chí Triết học, số 4/2012; Đặng Duy Thìn, Sử dụng quan lại dưới thời Lê Thánh
Tông, Tạp chí Xây dựng Đảng, số 12/2009; Nguyễn Thị Việt Hương, Mối quan hệ
giữa nhà nước và nhân dân trong quan niệm cai trị của Lê Thánh Tông một vài suy
ngẫm từ lịch sử, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 10/2010; Hoàng Tuấn Phổ, Lê
Thánh Tông và Hình luật…

8


Tóm lại theo sự hiểu biết trên mặc dù Lê Thánh Tông đã được giới nghiên
cứu tìm hiểu sâu, nhưng cho đến nay, vấn đề thời đại, cuộc đời, sự nghiệp, chính
sách đào tạo và sử dụng quan lại dưới thời Lê Thánh Tông vẫn ẩn dấu trong đó
nhiều nội dung có giá trị bền vững tới thời đại hiện nay từ góc nhìn chính trị học, nó
đã thu hút được sự quan tâm và nghiên cứu của rất nhiều người và có nhiều công
trình nghiên cứu khác nhau, vẫn rất cần tiếp tục được soi tỏ nhưng hầu hết các công
trình nghiên cứu trên chỉ nêu lên một số khía cạnh nào đó trong chính sách đào tạo,
sử dụng quan lại, chưa có sự tập trung khái quát hệ thống hóa và phân tích cụ thể,
về những điểm đóng góp và hạn chế trong chính sách này dưới góc nhìn chính trị
học chúng tôi bổ sung thêm dưới lát cắt của chính trị học văn hóa. Tuy nhiên, chúng
tôi cho rằng tất cả các tư liệu trên là nguồn tư liệu tham khảo quý báu, để tôi có thể
học tập và tiếp thu và thực hiện đề tài này đi sâu chỉ ra một số đóng góp mới trong
chính sách của Lê Thánh Tông về đào tạo và sử dụng quan lại được soi chiếu từ góc
độ chính trị học văn hóa.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
- Mục đích nghiên cứu
Luận văn tập trung làm rõ những đóng góp và hạn chế trong chính sách đào
tạo và sử dụng quan lại của Lê Thánh Tông.
- Nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
Để đạt được mục đích trên, luận văn tập trung giải quyết các nhiệm vụ sau:

+ Nêu và làm rõ những điều kiện khách quan và chủ quan cho sự hình thành
chính sách đào tạo, sử dụng quan lại của Lê Thánh Tông.
+ Trình bày nội dung cơ bản trong chính sách đào tạo và sử dụng quan lại
thời Lê Thánh Tông.
+ Tiếp cận từ góc nhìn chính trị học văn hóa,đưa ra đánh giá về đóng góp và
hạn chế của chính sách đào tạo, sử dụng quan lại của Lê Thánh Tông đối với thế kỷ
XV. Từ đó rút ra bài học cho công tác cán bộ trong thời điểm hiện nay.

9


4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Đối tượng nghiên cứu: luận văn tập trung nghiên cứu những đóng góp và
hạn chế của chính sách đào tạo và sử dụng quan lại của Lê Thánh Tông thông qua
việc tìm hiểu những tài liệu lịch sử gốc như văn bản chiếu, chỉ, lệnh dụ của Lê
Thánh Tông, những lời nói, việc làm của Lê Thánh Tông trong quản lý đất nước để
phân tích, đánh giá về đóng góp và hạn chế của chính sách đào tạo và sử dụng quan
lại của ông.
- Phạm vi nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu giai đoạn lịch sử Việt
Nam thế kỷ XV dưới thời Lê sơ và đặc biệt đi sâu vào nửa cuối thể kỷ XV thời vua
Lê Thánh Tông trị vì (1460 – 1497). Luận văn tập trung nghiên cứu chính sách đào
tạo và sử dụng quan lại của Lê Thánh Tông để tìm ra đóng góp và hạn chế của
chính sách.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn
Cơ sở lý luận của luận văn là phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác
cán bộ. Luận văn cũng dựa trên các quan điểm của Đảng và Nhà nước về kế thừa và
phát huy các giá trị truyền thống trong lịch sử.
Trên cơ sở đó, luận văn chủ yếu sử dụng phương pháp duy vật lịch sử,
phương pháp logic, đồng thời kết hợp nhiều phương pháp khác như: phương pháp

phân tích - tổng hợp, phương pháp so sánh, phương pháp hệ thống, khái quát hoá có
vận dụng góc nhìn chính trị học văn hóa.
6. Những đóng góp mới về khoa học của luận văn
Luận văn đã nêu một cách cụ thể, rõ ràng về bối cảnh hình thành và nội dung
của chính sách đào tạo, sử dụng quan lại nổi bật của Lê Thánh Tông.
Từ nguồn tài liệu thu thập được luận văn có những đánh giá về những đóng
góp cũng như là những hạn chế trong chính sách đào tạo, sử dụng quan lại của Lê
Thánh Tông đề ra đối với thời ông trị vì và cũng như đã đưa ra được một số bài học
cho việc đào tạo, sử dụng đội ngũ cán bộ trong công cuộc xây dựng đất nước hiện
nay thông qua tìm hiểu chính sách đó.

10


7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Ý nghĩa lý luận: luận văn góp phần làm rõ bối cảnh ra đời của chính sách,
nội dung tích cực và hạn chế trong chính sách đào tạo, sử dụng quan lại dưới thời
đại Lê Thánh Tông.
- Ý nghĩa thực tiễn: Luận văn có thể sử dụng làm tư liệu tham khảo cho việc
nghiên cứu, giảng dạy về lịch sử tư tưởng chính trị Việt Nam nói riêng và khoa học
chính trịnói chung.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận
văn gồm 2 chương, 5 tiết.

11


CHƢƠNG 1
BỐI CẢNH RA ĐỜI VÀ NỘI DUNG CHÍNH SÁCH ĐÀO TẠO VÀ SỬ

DỤNG QUAN LẠI CỦA LÊ THÁNH TÔNG
1.1. Bối cảnh ra đời chính sách đào tạo và sử dụng quan lại của Lê Thánh
Tông.
1.1.1. Điều kiện khách quan
 Tình hình chính trị
Cuối thời nhà Hồ, khi đó nội trị trong nước tình hình rối ren đã tạo điều kiện cho
giặc ngoài cơ hội nhòm ngó và thực hiện mưu đồ xâm lược. Năm 1404, quân Minh lấy
cớ phù Trần diệt Hồ chính thức sang xâm lược nước ta với quy mô lớn, cha con Hồ
Quý Ly bị bắt về Trung Quốc. Nước Đại Việt rơi vào tay giặc. Suốt 20 năm nhân dân
ta bị nô dịch dưới ách thống trị của giặc Minh, chúng muốn đồng hóa Đại Việt, chúng
chia nước ta ra làm 15 phủ, mỗi phủ chia thành nhiều huyện và châu.
Nhân dân không thể sống trong áp bức, bóc lột mãi được nên các cuộc khởi
nghĩa đã liên tiếp nổ ra nhưng đều thất bại. Nhưng thời thế tạo anh hùng, tới mùa
xuân năm Mậu Tuất - 1418, Lê Lợi cùng những hào kiệt, được sự ủng hộ, đồng
thuận, chung chí hướng là Nguyễn Trãi, Trần Nguyên Hãn, Lê Văn An, Lê Văn
Linh, Bùi Quốc Hưng, Lưu Nhân Chú v.v...nổi dậy phất cờ khởi nghĩa ở Lam Sơn,
xưng là Bình Định Vương, kêu gọi nhân dân đồng lòng đứng lên đánh giặc cứu
nước. Trải qua 10 năm chờ đợi thời cơ, chuẩn bị lực lượng, chiến đấu với quân
giặc vào sinh ra tử, Lê Lợi đã thực thi chiến lược tấn công của Nguyễn Trãi, lãnh
đạo cuộc kháng chiến chống quân Minh đi tới thắng lợi. Trong sáchĐại Việt sử ký
toàn thưvẫn còn lưu lại cụ thể công lao to lớn của ông trong việc dựng nước mà
giữ nước, là người có tài trí, mở mang cơ nghiệp của Đại Việt nói chung và nhà
Lê sơ nói riêng.
Ngày 15/4/1428, Lê Lợi lên ngôi Hoàng đế, xưng hiệu là Lê Thái Tổ. Ông
đổi lại quốc hiệu từ Giao Chỉ (tồn tại dưới thời nhà Minh) thành Đại Việt, ông quyết
định đóng đô ở Thăng Long, đổi tên kinh thành Thăng Long thành Đông Kinh, Tây

12



Đô thành Tây Kinh, Tây Kinh về sau đều gọi là Lam Kinh, nhà Lê sơ chính thức
được thành lập. Nhà Lê sơ đãchủ trương lấy Nho giáo làm cốt tủy của hệ tư tưởng
chính trị, xây dựng bộ máy nhà nước theo mô hình nhà nước trung ương tập quyền
chuyên chế và hoàn chỉnh dần theo mô hình Nho giáo. Theo học thuyết Nho giáo có
bảng giá trị khác với Phật giáo, học thuyết Nho giáo tôn vua ở mức độ cao nhất, vua
là Thiên tử, là người nắm mọi quyền hành, giúp vua có 6 bộ (là Lại, Hộ, lễ, Binh,
Hình, Công), đứng đầu mỗi bộ có quan Thượng thư, bên cạnh bộ có Hàn Lâm Viện
(công văn), Quốc sử viện (biên soạn lịch sử), Ngự sử đài (kiểm tra). Lê Thái Tổ với sự
tham chính của Nguyễn Trãi và các Nho thần thực hiện hàng loạt các cuộc cải cách để
thay đổi tình hình toàn diện đất nước lúc bấy giờ thông qua các chiếu, chỉ, lệnh thi hành
cải cách. Ông quản lý các lĩnh vực, sát sao các vùng khác nhau theo địa vực, chia cả
nước thành 5 đạo: Đông Đạo, Tây Đạo, Nam Đạo, Bắc Đạo và Hải Tây Đạo. Đứng đầu
mỗi đạo là hành khiển để giữ sổ sách về việc quân - dân, bên cạnh là tổng quản chỉ huy
vệ quân trong đạo. Trấn, lộ, phủ, huyện, châu là các đơn vị hành chính dưới đạo. Các
chức quan của hệ thống hành chính được đặt rõ: đứng đầu trấn là trấn phủ sứ, tuyên úy
sứ; ở lộ là an phủ sứ, tổng quản; ở phủ là tri phủ; huyện là chuyển vận sứ; châu là
phòng ngự sứ. Đơn vị hành chính nhỏ nhất là xã. Vua Lê Thái Tổ chia xã làm ba loại là
đại xã, trung xã và tiểu xã. Bộ máy hành chính nhà nước lúc này khá chặt chẽ, hoàn bị
chi phối tới cả cấp xã, xã là đơn vị cấp cơ sở.
Ngày 22/8/1433, Lê Lợi mất, Lê Thái Tông lên kế vị, Lê Sát là công thần cao
được ban quyền phụ chính. Triều đình có nhiều mâu thuẫn xảy ra nên Lê Thái Tông
dựa vào tư tưởng Nho giáo đã ra tay dẹp bỏ quyền thần, giành lấy quyền tư pháp và
càng ngày càng khắt khe đối với các công thần. Sau khi quyền lực về tay, ông đã
ban nhiều chỉ dụ chỉnh đốn việc hành chính, giáo dục, thi cử ở các đạo, khiến các
quan lại chuyên tâm vào chính sự. Ông đề ra nhiều chính sách thay đổi hệ thống tổ
chức quan lại, đặt lại nguyên tắc và kèm theo đặt ra thế chế cho chế độ thi cử theo
Nho giáo để lấy người có học. Vua đưa con thứ là Bang Cơ lên làm Thái tử. Năm
1442, Lê Thái Tông mất, Bang Cơ khi đó mới 2 tuổi lên ngôi Hoàng đế là vua Lê
Nhân Tông. Vì vua còn quá nhỏ nên Thái hậu Nguyễn Thị Anh đã buông rèm nhiếp


13


chính, họ ngoại dường như nắm quyền lực trong tay. Tuy nhiên, những chính sách
cai trị đất nước của bà đưa ra chưa có hiệu quả, chúng mang tính tư lợi, tình hình
triều đình lục đục và dân chúng càng trở nên khốn đốn hơn, công thần bị chém giết
vô cớ, tham ô hối lộ công khai và người dân rơi vào lầm than, cực khổ. Tới năm 12
tuổi, vua Lê Nhân Tông mới chính thức được nắm quyền, ông đã thay đổi chính
sách, đưa ra quy định mới khiến tình hình ổn định hơn. Ông truy tặng cho các công
thần khai quốc của triều Hậu Lê, việc này về sau được Lê Thánh Tông tiếp tục kế
thừa và phát huy. Lê Nhân Tông là một vị vua nhân từ và sáng suốt được các bậc
quần thần yêu mến.
Tới ngày 3/10/1459, Lê Nghi Dân (Lạng Sơn Vương) là người anh cùng cha
khác mẹ của Lê Nhân Tông đã đảo chính, giết hại vua và thái hậu và cướp ngôi báu.
Ông lên ngôi Hoàng đế và đặt niên hiệu là Thiên Hưng. Tháng 2 năm 1460, Nghi
Dân bàn việc đặt phủ huyện, lại đặt 6 bộ (Lại, Lễ, Bộ, Binh, Hình, Công), 6 khoa
(Trung thư, Hải, Đông, Tây, Nam, Bắc) và các quan ở phủ, huyện, châu. Năm 1460,
các tể tướng là Đỗ Bí, Lê Ngang, Lê Thu đã bàn kế hoạch lật đổ Thiên Hưng đế
nhưng bị bại lộ, nên vua Nghi Dân đã bắt giết và đề phòng nhiều hơn bằng cách đưa
ra chỉ dụ và nhiều pháp chế hà khắc, làm nhiều người oán giận, không được lòng
quan lại và dân chúng. Tháng 6 năm 1460 Nguyễn Xí đã phát lệnh dẫn quân vào
giết khoảng 100 người bề tôi thân cận của Nghi Dân. Sau đó, lật đổ Nghi Dân, truất
làm Lê Đức hầu và cho ra khỏi cung, trao cho một dải lụa để tự vẫn. Ngày hôm ấy,
các đại thần đem kiệu đến rước Gia Vương là Lê Tư Thành, tức con trai thứ tư của
Lê Thái Tông để trao ngôi báu, tức hoàng đế Lê Thánh Tông. Nhà vua Lê Thánh
Tông lên ngôi và cai trị trong vòng 38 năm (1460- 1497) và trong ngần ấy năm cầm
quyền Lê Thánh Tông đã cải cách đất nước, biến Đại Việt thành một quốc gia phát
triển rực rỡ về mọi mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, giáo dục… thành một vương
quốc có tiếng nói trong khu vực Đông Nam Á, cũng như đã khiến quân chủ chuyên
chế Việt Nam đạt tới đỉnh cao. Ngay từ khi mới lên ngôi, Lê Thánh Tông đã dốc

sức cải cách mọi mặt đời sống. Về vấn đề hành chính, bộ máy nhà nước tổ chức
thành 6 bộ: Lại, Lễ, Hộ, Binh, Hình, Công. Rút bài học về sự lộng quyền đời trước,

14


ông tiến hành xóa bỏ chức tướng quốc, đại tổng quản, hành khiển; trực tiếp làm
tổng chỉ huy quân đội, cấm các quan lập quân đội riêng. Ông xóa chế độ hành chính
cũ từ thời Lê Thái Tổ từ 5 đạo, ông chia cả nước ra làm 13 đạo thừa tuyên, mỗi thừa
tuyên do 3 ty cai quản là Đô ty (quân sự), Hiến ty (xử án), Thừa ty (hành chánh);
hành chính ở địa phương,dưới đạo có phủ , huyện, châu (miền núi), xã. Vua Lê
Thánh Tông đã kế thừa và cải tổ hệ thống quan lại và chính sách đào tạo đội ngũ
quan lại của nhà nước quân chủ tập quyền
Như vậy, từ thời Lê Thái Tổ cho tới Lê Thánh Tông trị vì thì vận động theo
xu hướng các vị vua đều hướng tới xây dựng nhà nước quân chủ tập quyền quan
liêu. Đến thời Lê Thánh Tông thì có sự hoàn thiện nhất và thể hiện rõ rệt nhất được
ưu điểm của mô hình đó.
Nhìn nhận một cách sâu sắc được những bài học cai trị đất nước của các
vương triều trước nhất là những thiếu sót của nhà nước cuối thời Trần, Hồ nên từ
khi lên ngôi Lê Thái Tổ đã có cho xây dựng nhà nước quân chủ tập quyền thay thế
nhà nước quý tộc tản quyền trước đó. Ông đã biết được rằng nhà nước đó đã không
đáp ứng được những yêu cầu tập trung quyền lực phát triển của xã hội, cần phải loại
bỏ và tạo dựng nhà nước mới phù hợp với thời cuộc thì mới vực dậy được nước
nhà. Ông lấy học thuyết Nho giáo làm cơ sở để đưa ra các chính sách xã hội và đặc
biệt là xây dựng nền giáo dục Nho học. Có được nền tảng từ thời Lê Thái Tổ, Lê
Thái Tông, Lê Nhân Tông, đến thời Lê Thánh Tông chính sách đào tạo đội ngũ
quan lại theo mô hinh giáo dục Nho học được nâng lên tầm cao mới và mô hình nhà
nước quân chủ phong kiến tập quyền được kiện toàn hơn bao giờ hết, thể hiện rõ
ràng những mặt ưu việt trong chính sách của mọi mặt đời sống. Trong luận văn này
chúng tôi tiếp tục làm rõ những đóng góp và cả mặt hạn chế trong chính sách đào

tạo và sử dụng quan lại thời Lê Thánh Tông.

 Tình hình kinh tế
Đến thời Lê sơ, sau khi giành được đất nước từ tay giặc Minh, vua Lê Thái
Tổ đã đề ra nhiều chính sách cải cách khuyến khích nông nghiệp, khôi phục lại sản
xuất để nền kinh tế thoát khỏi tình trạng đình trệ, thúc đẩy thông thương.

15


Về nông nghiệp, nông thôn Đại Việt trước Lê sơ từng tồn tại loại hình kinh
tế đại điền trang với kiểu bóc lột nông nô nô tỳ thời Lý, Trần. Từ cuối thế kỷ XIV
nền kinh tế ấy đã bị thủ tiêu. Vua Lê Thái Tổ lệnh cho các con em tướng sĩ và các
đầu mục về quê nhận ruộng cấy cày. Ông ra lệnh “vườn của các quan ở kinh thần
đều phải được trồng hoa hoặc trồng rau đậu, nếu bỏ hoang sẽ bị thu hồi” [85,
tr.302]. Vua cho tù binh đi khai phá những vùng đất mới, lập thôn xóm, mở mang
những vùng đất hoang, đất ven biển với quy mô tương đối lớn. Ông có chủ trương
lập đồn điền để mở rộng diện tích sản xuất, theo đó là có thêm thu nhập từ tô thuế
cho nhà nước. Chính sách này đã làm cho những người dân lưu vong trở về quê
hương, có cuộc sống ổn định hơn, tạo điều kiện cho nhân dân an cư lạc nghiệp. Vua
còn cho người dân được sở hữu ruộng tư, khuyến khích sản xuất nông nghiệp làm
năng suất tăng nhanh chóng và xoa dịu mâu thuẫn trong xã hội.
Ruộng đất được chia làm hai loại chính là ruộng công và ruộng tư. Ruộng
công được gọi là quan điền. Trong số đó sẽ được thưởng cho công thần, quan lại,
quý tộc, đó gọi là lộc điền. Ở thời Lê sơ, chế độ này có quy mô lớn chưa từng có.
Vua ban ruộng đất cho quý tộc, công thần, quan lại trụ cột trong triều nhằm tăng
cường quyền lực nhà nước. Phép lộc điền với quy mô lớn trong đó bao gồm cả
ruộng ban cấp được phép thừa kế và ban cấp tạm thời có thể thu hồi lại sau khi đã
chết. Chế độ này đã góp phần ngăn chặn tình hình ly khai, cát cứ triều đình. Phép
quân điền được vua áp dụng vào năm 1429, những ruộng đất mà tịch thu được từ

tay quân Minh, cùng với việc mở mang ruộng đất bằng khai hoang lập đồn điền đã
được vua Lê bổ sung vào quỹ ruộng công tại làng xã để ban cho dân cày cấy. Phép
quân điền quy định chia ruộng đất công làng xã theo định kỳ 6 năm, nông dân làng
xã phải nộp tô thuế đầy đủ cho nhà nước. Có hàng ngàn mẫu ruộng mỗi năm được
phân bố khắp cả nước, chứ không tập trung vào một chỗ. Ruộng lộc điền trên
nguyên tắc là ruộng đất vẫn thuộc quyền sở hữu của nhà nước, chỉ là tạm thời giao
quyền sử dụng và hưởng thụ sưu phần chứ không phải là người sở hữu. Người nào
được cấp sẽ có quyền hưởng dụng tô. Sau khi người được nhận lộc điền chết 3 năm
thì con cháu phải trả lại chứ không có quyền chiếm nhận. Thực tế thì ruộng quân

16


điền là nhà nước phát canh thu tô nhưng nó có ý nghĩa là nhà nước như một đại chủ
thu tô, còn nông dân cày ruộng khẩu phần như những tá điền lĩnh canh thu tô. Chính
sách này phần nào giải quyết đươc phần ruộng đất bỏ hoang, giúp người dân có đất cày
cấy và làm ổn định tình hình kinh tế ở thời kỳ này. Về sau phép quân điền lộc điền
hoàn thiện hơn nữa và ghi vào luật pháp triều đình vào thời Lê Thánh Tông. Bộ luật
này có chép trong Thiên Nam dư hạ tập năm 1481. Chế độ lộc điền đưa ra để bảo vệ lợi
ích cho giai cấp quý tộc, công thần và quan lại, đẩy mạnh sự phát triển của giai cấp
thống trị lúc bấy giờ. Còn chế độ quân điền thì mang lại lợi ích là phục hồi và phát triển
nông nghiệp, giảm bớt bất công trong xã hội, động viên những người có công trong
việc đóng góp xây dựng quân đội, huy động được nhân lực và vật lực. Chế độ lộc điền
và quân điền kết hợp với nhau đã giúp xóa bỏ được tình trạng điền trang, thái ấp độc
lập, khép kín, xóa bỏ được tình trạng quyền lực phân tán ở thời Lý, Trần trước đó. Nhờ
thế mà nền kinh tế phục hồi nhanh chóng, củng cố nền kinh tế tiểu nông và tạo tiền đề
phát triển các ngành khác. Đồng thời trên cơ sở kinh tế đó thì quyền lực sẽ tập trung
vào giai cấp quan lại và quý tộc, cao nhất là nhà vua.
Kế thừa thành quả cai trị thời Lý – Trần, các vị vua nhà Lê sơ có còn thực hiện
“ngụ binh ư nông”, quân lính vừa là người nông dân, vừa là lính. Họ được thay phiên

nhau về làm ruộng ở thời bình, thời chiến thì đi chiến đấu như một người lính. Điều
này đảm bảo cho một đội quân hùng mạnh, vừa có đủ sức lao động phục vụ sản xuất
nông nghiệp tạo ra của cải vật chất nuôi sống xã hội. Sau khi đánh giặc xong xuôi, vào
năm 1429, Lê Thái Tổ đã cho 25 vạn quân về quê làm ruộng, chia làm 5 phiên thay
nhau về quê sản xuất. Vua còn lập một số chức quan để quản lý, chăm lo nông nghiệp:
Khuyến nông sứ, Hà đê sứ, Đồn điền sứ…Vua cấm giết mổ trâu, bò nhằm bảo sức kéo
trong nông nghiệp và bắt dân đi phu trong mùa không cấy gặt.
Chính những điểm tiến bộ trong chính sách đất đai nông nghiệp đó của vua
Lê Thái Tổ đã làm cho Đại Việt có những bước phát triển mới như trong sách Đại
Việt sử ký toàn thư đã viết: “vua mặc áo sớm, ăn cơm trưa, trải qua 10 năm thiên hạ đại
trị” [14, tr. 371]. Người dân no đủ, thoát khỏi lầm than và khổ cực. Tuy nhiên trong
chính sách cũng có những hạn chế như đã vua chú trọng quá nhiều vào kinh tế nông

17


nghiệp chứ chưa thực sự quan tâm tới buôn bán, phát triển kinh tế hàng hóa, các ngành
sản xuất khác bị bỏ bê. Điều đó, vô hình chung đã làm người dân bó buộc vào nông
nghiệp, chưa có tầm nhìn xa trông rộng, chủ yếu dựa vào sản xuất manh mún nhỏ lẻ,
chưa có giao thương ra bên ngoài. Thêm vào đó mâu thuẫn giữa giai cấp thống trị và bị
trị chưa được giải quyết triệt để mà chỉ mang tính chất dung hòa tạm thời.
Về thủ công nghiệp, các nghề thủ công truyền thống như kéo tơ, dệt lụa, đúc
đồng, đồ gốm…ngày càng phát triển. Nhiều làng thủ công nổi tiếng ra đời như làng
gốm Bát Tràng, nhuộm Huê Cầu, nung vôi Yên Thế, chạm khắc đá Kính Chủ, sơn
Thường Tín, in mộc bản ở Hồng Lục và Liễu Tràng…Thăng Long là nơi tập trung
nhiều ngành nghề thủ công nhất. Thợ thủ công chủ yếu là những người nông dân họ
thường làm những công việc dệt lụa, làm nón, dệt vải khi nông nhàn. Họ làm ra sản
phẩm để giải quyết nhu cầu gia đình và một số ít thì phục vụ thị trường địa phương.
Nhà Lê sơ duy trì sản xuất thủ công nhỏ lẻ, thêm vào đó cũng đẩy mạnh các xưởng
phục vụ nhu cầu của nhà nước. Các công xưởng do nhà nước quản lý gọi là Cục

Bách công, dùng để sản xuất đồ dùng cho vua, sản xuất vũ khí và đúc tiền. Hàng
năm, triều đình cho người về địa phương để tuyển chọn thợ giỏi, lành nghề vào làm
trong Cục Bách công.
Về vấn đề thương nghiệp, nhà nước khuyến khích phát triển cả nội thương và
ngoại thương. Do buôn bán chủ yếu dưới thời Lê sơ là buôn bán nhỏ, thông qua
mạng lưới chợ ở nông thôn và thành thị nên nhà nước cho lập chợ mới, họp chợ tự
do. Vua ban hành điều lệ quy định về việc thành lập chợ và họp chợ. Kinh đô Thăng
Long là nơi buôn bán sầm uất nhất lúc bây giờ, thương nhân từ mọi nơi đổ về để
buôn bán và trao đổi hàng hóa. Ở những địa phương khác thì mỗi xã có một chợ
hoặc cũng có thể vài xã có một chợ chung. Chợ được ban hành nguyên tắc họp chợ
luân phiên. Chợ họp hàng ngày hoặc những ngày nhất định trong tháng gọi là chợ
phiên. Vua ban hành tiền đồng, thay cho tiền giấy đời nhà Hồ. Các đơn vị đo lường
được thống nhất để tiện cho giao thương hàng hóa. Tuy nhiên, nhà Lê sơ lại hạn chế
và hầu như không cho người dân bỏ quê hương, ruộng đất đi buôn bán, tập trung ở
thị trấn do chính sách “trọng nông ức thương”, và coi nghề buôn bán là thấp kém.

18


Buôn bán với nước ngoài phát triển, các sản phẩm sành, sứ, vải, lụa và lâm
sản quý rất được các thương nhân ưa chuộng. Do nhu cầu tự vệ, ngăn chặn sự xâm
lược từ bên ngoài nên triều đình cho lập các cơ quan kiểm soát chặt chẽ ngoại
thương rất khắt khe, hầu như là bế quan tỏa cảng. Các nhà buôn chỉ được buôn bán
ở những nơi triều đình quy định như là Vân Đồn, Vạn Ninh (Quảng Ninh), Càn Hải,
Hội Thống (Nghệ An), Hội Triều (Thanh Hóa), Phú Lương (Thái Nguyên), Tam Kỳ
(Tuyên Quang). Thương nhân ngoại quốc không được tự ý vào trong trấn. Người
dân hay quan lại đều không tự ý đón tiếp thuyền buôn và mua hàng hóa của họ nếu
không sẽ bị trừng trị nghiêm khắc.
Chính sách bế quan tỏa cảng của nhà Lê sơ cũng như các triều đại phong
kiến khác ở phương Đông lúc bây giờ xuất phát từ tình hình nhiều quốc gia bị xâm

lược, chiến tranh xảy ra liên miên và nước ta mới vừa đấu tranh thoát khỏi hàng
chục năm chiến đấu thoát khỏi ách đô hộ của nhà Minh. Chính sách này của các vị
vua nhà Lê sơ có mục đích bảo vệ nền độc lập tự chủ của nước nhà, ngăn chặn
những phần tử nhòm ngó, xâm lăng của giặc ngoài thêm một lần nữa. Tuy nhiên,
hiện tượng buôn lậu, lén lút giao thương với bên ngoài vẫn thường xuyên xảy ra và
chính quan lại, sứ thần lại là những người tham gia vào công việc đó.
Nhà Lê sơ cho thực hiện trọng nông ức thương cũng làm cho nền kinh tế
không được phát triển toàn diện, còn có tư tưởng “vun gốc, xén ngọn”, coi làm
nông là gốc, công thương nghiệp là ngọn, chưa hiểu đúng về tầm quan trọng của
công thương nghiệp trong kinh tế. Kéo theo đã làm cho nền kinh tế nước ta dù đã có
nhiều khởi sắc so với các triều đại trước đó nhưng vẫn tụt hậu so với các nước trong
khu vực. Đồng thời, nền kinh tế chưa phát triển toàn diện thì sẽ chưa đủ mạnh, mà nền
kinh tế chưa đủ mạnh thì nội lực của chúng ta cũng phần nào yếu thế, và kinh tế vẫn
chưa là chỗ dựa vững chắc cho khác chính trị, xã hội vẫn còn tồn tại nhiều mâu thuẫn
trong đời sống xã hội.
 Kết cấu xã hội
Từ thời nhà Trần, xã hội đã phân hóa sâu sắc bao gồm hai tầng lớp là tầng
lớp thống trị gồm vua, vương hầu, quý tộc, quan lại, địa chủ; tầng lớp bị trị gồm

19


nông dân, thợ thủ công, thương nhân, nông dân tá điền, nông nô, nô tì. Xã hội tồn
tại nhiều tầng lớp, có sự phân biệt rõ ràng thành phần xuất thân. Triều đình có sự ưu
đãi đối với tầng lớp quý tộc, vương hầu. Tầng lớp dưới bị đối xử bất công và coi
thường. Thời Lê sơ xây dựng nhà nước theo mô hình quân chủ tập trung quan liêu,
xã hội chia làm 2 giai cấp chính là phong kiến gồm vua, quan, địa chủ; giai cấp
nông dân chiếm đại đa số. Các tầng lớp khác nhỏ bé như thương nhân, thợ thủ công,
nô tì…Tất cả các tầng lớp trong xã hội đều là thần dân của vua, đều chịu sự giám
sát, quản lý và tuân theo mệnh lệnh của vua. Có thể thấy rằng, xã hội dưới thời Lê

sơ tương đối ổn định và phát triển, các tầng lớp phân cấp rõ ràng.
Quan là đội ngũ cầm quyền, thay mặt vua cai trị quản lý nhà nước dưới vua,
họ là tầng lớp trên của xã hội, là những người được qua đào tạo và tuyển chọn qua
các kỳ thi, những công thần trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Họ xuất thân từ nhiều
tầng lớp khác nhau, được chia làm quan văn và quan võ. Quan lại có nhiệm vụ cai
quản những công việc quốc gia, giải quyết các vấn đề liên quan đến phận vị tới
chức danh của mình, tuyệt đối trung thành với vua và phải có cả đức lẫn tài. Đội
ngũ quan lại thời Lê sơ bao gồm các quan trong và quan ngoài, có tới 18 bậc phẩm
hàm khác nhau, từ nhất phẩm cho tới cửu phầm. Khác với thời nhà Trần, quan lại
chủ yếu là tôn thất quý tộc thì tới thời Lê sơ và đặc biệt là từ đời vua Lê Thánh
Tông thì việc tuyển dụng quan lại dựa vào con đường thi cử đỗ đạt thì mới được
làm quan. Vua Lê Thánh Tông cho ban chiếu trọng dụng hiền tài trên mọi nơi, mọi
tầng lớp xã hội.
Dưới vua, quan là đẳng cấp thứ dân, tầng lớp xã hội bị cai trị bao gồm sĩ,
nông, công, thương. Tầng lớp Nho sĩ là cầu nối giữa bình dân và quan liêu, có số
lượng ngày càng đông đảo, chiếm vị trí ưu tú dưới thời Lê sơ đặc biệt là thời Lê
Thánh Tông. Vào thời kỳ này, có rất nhiều cuộc thi theo Nho học được tổ chức,
triều đình chú trọng vào giáo dục, đào tạo, tuyển chọn quan lại qua thi cử. Họ là
những người được học hành đỗ đạt, xuất thân từ nhiều tầng lớp khác nhau, được xã
hội trọng vọng. Nông dân chiếm đại đa số dân cư trong xã hội, sống chủ yếu ở nông
thôn, làm ruộng để sinh sống, nhưng họ là có rất ít hoặc không có ruộng đất nên

20


phải cày cấy thuê cho địa chủ, quan lại và nộp tô thuế. Thời Lê sơ do chính sách hạn
nô (hạn chế mua bán nô tì, giải phóng quan hệ chủ nô – nô tì) khiến cho quý tộc, địa
chủ bị phân hóa mạnh mẽ. Nông dân là nguồn cung cấp lực lượng sản xuất để tạo ra
của cải vật chất, cung cấp binh lính cho quân đội, lao dịch cho nhà nước. Họ là tầng
lớp đói khổ, bị bóc lột và nghèo khổ trong xã hội.

Thợ thủ công nghiệp là lực lượng chiếm số ít trong xã hội, phải nộp thuế cho
nhà nước, không được xã hội phong kiến coi trọng. Họ chủ yếu làm bán chuyên trong
các làng nghề ở làng xã, thợ giỏi thì được tuyển chọn vào Cục bách công để xây dựng
các công trình cho cung điện, thành quách, đồ dùng cho triều đình…Các làng nghề
trong xã hội khi ấy phát triển khá mạnh và có chiều hướng mạnh hơn trước.
Thương nhân có số lượng không nhiều do chính sách ức thương của nhà Lê
sơ, những người buôn bán chủ yếu ở địa phương và trong nước, hạn chế giao
thương bên ngoài. Những sản phẩm làm ra nếu dư thừa sẽ được buôn bán, trao đổi
ra bên ngoài nên hầu hết người buôn bán là nông dân kiêm việc buôn bán. Ở thời kỳ
này thương nhân không được nhà nước coi trọng và quan tâm nhiều.
Quân đội dưới thời Lê sơ tương đối mạnh và số lượng đông đảo chủ yếu là
những người nông dân áo vải, bộ phận binh lính cũng là một tầng lớp quan trọng
trong xã hội. Chính sách ngụ binh ư nông cho quân lính thay phiên nhau về làm
ruộng, binh lính vừa là nông dân vừa phục vụ quân đội. Tầng lớp này là công cụ
bạo lực của nhà nước, giúp nhà nước giữ gìn bờ cõi, bảo vệ an ninh xã hội, bảo vệ
chủ quyền quốc gia. Cuối cùng là nô tì, tầng lớp thấp kém nhất của xã hội, bao gồm
cả người Việt, người Hoa và dân tộc ít người, họ là những người chuyên phục dịch
trong các cung điện, dinh thự của vua, quan và đi phục dịch tại các đồn điền. Nô tì
đã từng chiếm số lượng khá lớn ở thời Lý, Trần. Tuy vua Lê Thái Tổ cũng duy trì
chính sách hạn nô và đưa ra nhiều biện pháp tích cực trong các chính sách xã hội
nhưng việc buôn bán nô tì vẫn còn tồn tại.
Tóm lại, dưới thời Lê sơ thì tầng lớp xã hội phân chia khá rõ ràng. Đây cũng
là cơ sở quan trọng để nhà vua đưa ra những chính sách phù hợp trong việc tuyển
chọn, đào tạo những hiền tài trong xã hội.

21


×