Tải bản đầy đủ (.doc) (98 trang)

Phát triển doanh nghiệp công nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn tỉnh Hà Giang đến năm 2020

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (604.8 KB, 98 trang )

LƯU ĐÌNH PHÁT

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
----------------------------

LƯU ĐÌNH PHÁT
LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ KINH TẾ

PHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP CÔNG NGHIỆP
NHỎ VÀ VỪA TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HÀ GIANG
ĐẾN NĂM 2020

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ KINH TẾ
CHƯƠNG TRÌNH ĐỊNH HƯỚNG THỰC HÀNH

HÀ NỘI - 2015

HÀ NỘI, NĂM 2015


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
----------------------------

LƯU ĐÌNH PHÁT

PHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP CÔNG NGHIỆP
NHỎ VÀ VỪA TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HÀ GIANG
ĐẾN NĂM 2020
Chuyên ngành: Quản lý kinh tế


Mã số: 60 34 04 10

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ KINH TẾ
CHƯƠNG TRÌNH ĐỊNH HƯỚNG THỰC HÀNH
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. HOÀNG VĂN HẢI
XÁC NHẬN CỦA
CÁN BỘ HƯỚNG DẪN

XÁC NHẬN CỦA CHỦ TỊCH HĐ
CHẤM LUẬN VĂN

PGS.TS. HOÀNG VĂN HẢI

HÀ NỘI, NĂM 2015


i

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi. Các dữ
liệu, kết quả trình bày trong luận văn này là do tôi thu thập và chưa từng được
ai công bố trong bất kỳ công trình nghiên cứu nào trước đây.

Tác giả

Lưu Đình Phát


ii


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn này tôi trân trọng cảm ơn Lãnh đạo Trường Đại
học Kinh tế - Đại học quốc gia Hà Nội, Hội đồng khoa học, các thầy, cô giáo
đã giảng dạy và giúp đỡ tận tình về mọi mặt để tôi hoàn thành tốt khóa đào
tạo Thạc sỹ chuyên ngành Quản lý kinh tế của Trường Đại học kinh tế - Đại
học quốc gia Hà Nội.
Tôi vô cùng biết ơn sự quan tâm giúp đỡ về mọi mặt của Lãnh đạo
HĐND-UBND tỉnh Hà Giang các đồng nghiệp, học viên đã tạo mọi điều kiện
thuận lợi cho tôi hoàn thành khóa học.
Đặc biệt, tôi rất biết ơn PGS.TS Hoàng Văn Hải – Chủ nhiệm khoa
Quản trị kinh doanh của trường Đại học kinh tế, là người đã trực tiếp hướng
dẫn và giúp đỡ tận tình để tôi có thể hoàn thành luận văn này.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng trong quá trình thực hiện, song luận văn
này không thể tránh khỏi những thiếu sót, rất mong nhận được ý kiến đóng
góp của các thầy giáo, cô giáo, các bạn đồng nghiệp và độc giả để luận văn
được hoàn thiện và đề tài có giá trị thực tiễn cao hơn.
Xin chân thành cảm ơn!
Hà Giang, Ngày… tháng… năm
2015
Tác giả

Lưu Đình Phát


iii

MỤC LỤC

Bảng 1.1. Phân loại DNNVV của khu vực EU Error:
Reference source not found.......................................iv

Bảng 1.2 : Phân loại DNNVV của Nhật Bản Error:
Reference source not found.......................................iv
Bảng 1.3. Tham khảo về tiêu chí doanh nghiệp công
nghiệp nhỏ và vừa ở một số nước Error: Reference
source not found.......................................................iv
Bảng 3.1. Số lượng các DNNVV thành lập theo loại hình
(2011 - 2014) Error: Reference source not found.........iv
Bảng 3.2. Cơ cấu DNCNNVV phân theo lĩnh vực hoạt
động (%) Error: Reference source not found...............iv
Bảng

3.3.

Lao

động

của

các

DNNVV

tỉnh

Error:

Reference source not found.......................................iv
Bảng 3.4. Đóng góp của loại hình doanh nghiệp nhỏ và
vừa lĩnh vực Công nghiệp ở tỉnh Hà Giang Error:

Reference source not found.......................................iv
Bảng 4.1. Dự báo nhu cầu lao động tỉnh đến năm 2020
Error: Reference source not found.............................iv


iv
DANH MỤC BẢNG BIỂU

Bảng 1.1. Phân loại DNNVV của khu vực EU...Error: Reference source not found
Bảng 1.2 : Phân loại DNNVV của Nhật Bản......Error: Reference source not found
Bảng 1.3. Tham khảo về tiêu chí doanh nghiệp công nghiệp nhỏ và vừa ở một số
nước................................................................. Error: Reference source not found
Bảng 3.1. Số lượng các DNNVV thành lập theo loại hình (2011 - 2014)......Error:
Reference source not found
Bảng 3.2. Cơ cấu DNCNNVV phân theo lĩnh vực hoạt động (%)Error: Reference
source not found
Bảng 3.3. Lao động của các DNNVV tỉnh.........Error: Reference source not found
Bảng 3.4. Đóng góp của loại hình doanh nghiệp nhỏ và vừa lĩnh vực Công nghiệp
ở tỉnh Hà Giang................................................ Error: Reference source not found
Bảng 4.1. Dự báo nhu cầu lao động tỉnh đến năm 2020Error: Reference source not
found


v
DANH MỤC CÁC CHỮ VIÊT TẮT
TT
1
2
3
4

5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16

Chữ viết tắt
DNNVV
DN
DNCNNVV
NVV
KH
CN
KHCN
XHCN
WTO
CTCP
TNHH
DNNN
DNTN
KCN
KCX
XK


Nội dung
Doanh nghiệp nhỏ và vừa
Doanh nghiệp
Doanh nghiệp công nghiệp nhỏ và vừa
Nhỏ và vừa
Khoa học
Công nghệ
Khoa học công nghệ
Xã hội chủ nghĩa
Tổ chức thương mại thế giới
Công ty cổ phần
Công ty trách nhiệm hữu hạn
Doanh nghiệp nhà nước
Doanh nghiệp tư nhân
Khu công nghiệp
Khu chế xuất
Xuất khẩu


1
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Trong bất kỳ một nền kinh tế nào trên thế giới cho dù là nền kinh tế phát triển
hay đang phát triển thì sự đa dạng của các loại hình doanh nghiệp luôn luôn tồn tại.
Bên cạnh những doanh nghiệp lớn vốn thường được xem như những đầu tàu phát
triển của nền kinh tế, người ta không thể không nhắc tới một số lượng đáng kể các
doanh nghiệp nhỏ và vừa nói chung và doanh nghiệp công nghiệp nhỏ và vừa nói
riêng mà vị trí và vai trò của nó đã được khẳng định qua thực tế phát triển kinh tế
của rất nhiều quốc gia, rất nhiều nền kinh tế. Sự phát triển của các DNCNNVV đã

và đang trở thành một bộ phận hợp thành sức sống kinh tế sôi động và tạo ra động
lực tăng trưởng của nhiều quốc gia và trên cơ sở đó, việc phát triển DNCNNVV đã
trở thành định hướng chiến lược quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế xã
hội nói chung của nhiều quốc gia trên thế giới. Trong cộng đồng doanh nghiệp Việt
Nam thì doanh nghiệp công nghiệp nhỏ và vừa là loại hình doanh nghiệp chiếm đa
số và chủ yếu trong nền kinh tế. Theo đó, loại hình doanh nghiệp này đóng vai trò
quan trọng nhất là tạo việc làm, tăng thu nhập cho người lao động, giúp huy động
các nguồn lực xã hội cho đầu tư phát triển, xóa đói giảm nghèo… Cụ thể, về lao
động, hàng năm tạo thêm trên nửa triệu lao động mới; Sử dụng tới 51% lao động xã
hội và đóng góp hơn 40% GDP…Số tiền thuế và phí mà các Doanh nghiệp công
nghiệp nhỏ và vừa tư nhân đã nộp cho nhà nước đã tăng 18,4 lần sau 10 năm. Sự
đóng góp đã hỗ trợ lớn cho việc chi tiêu vào các công tác xã hội và các chương trình
phát triển khác. Do vậy đã tạo tạo ra 40% cơ hội cho dân cư tham gia đầu tư, có hiệu
quả nhất trong việc huy động các khoản tiền đang phân tán, nằm trong dân cư để
hình thành các khoản vốn đầu tư cho sản xuất kinh doanh
Tuy nhiên, DNCNNVV còn bộc lộ nhiều hạn chế, yếu kém cần khắc phục.
Phần lớn doanh nghiệp có quy mô nhỏ, ít vốn và còn nhiều khó khăn về mặt bằng
sản xuất kinh doanh, về môi trường pháp lý, môi trường tâm lý xã hội. Công nghệ
sản xuất lạc hậu, ít đầu tư vào lĩnh vực sản xuất, trình độ quản lý yếu kém do đó
hiệu quả sức cạnh trạnh tranh của các DNCNNVV trên thị trường còn hạn chế. Tình


2
hình như vậy đặt ra nhiều vấn đề về chiến lược phát triển DNCNNVV đối với tỉnh
Hà Giang. Khắc phục những hạn chế và phát huy những mặt tích cực của các
DNCNNVV; khuyến khích, tạo điều kiện cho DNCNNVV phát triển nhanh, bền
vững và tăng cường sức cạnh tranh trên thị trường, tạo thêm nhiều việc làm cho
người lao động, đóng góp nhiều hơn nữa cho ngân sách nhà nước là việc làm cần
thiết, trước mắt trong tình hình hiện nay ở Hà Giang.
Để đóng góp phần vào việc tìm ra những giải pháp tích cực hỗ trợ các

DNCNNVV nhằm thúc đẩy các doanh nghiệp này phát triển trong điều kiện kinh tế
toàn cầu suy giảm, góp phần thực hiện sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tác
giả đã lựa chọn đề tài: “Phát triển doanh nghiệp công nghiệp nhỏ và vừa trên địa
bàn tỉnh Hà Giang đến năm 2020” làm đề tài cho Luận văn thạc sỹ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Đã có các nghiên cứu chung về doanh nghiệp nhỏ và vừa ở nước ta nói
chung, phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa nói riêng. Các nhận định đánh giá rất có
ý nghĩa cho sự phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa trong bối cảnh như hiện nay.
Tổng cục Thống kê biên soạn và công bố ấn phẩm “Doanh nghiệp nhỏ và
vừa giai đoạn 2006-2011”. Ấn phẩm dựa trên cơ sở cập nhật, tổng hợp thông tin thu
được từ các cuộc điều tra doanh nghiệp hàng năm của Tổng cục Thống kê. Trong ấn
phẩm đã chỉ rõ được thực trạng chung về doanh nghiệp nhỏ và vừa, cũng như
những xu thế phát triển mới của các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Doanh nghiệp Việt
Nam hiện nay chủ yếu là doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV). Các doanh nghiệp
này đóng góp một phần không nhỏ cho sự phát triển của nền kinh tế. DNNVV phát
triển nhanh về số lượng. Kể từ năm 2009 đến nay, kinh tế toàn cầu rơi vào tình trạng
suy thoái, đã gây ảnh hưởng và khó khăn không nhỏ đối với toàn bộ doanh nghiệp Việt
Nam nói chung và khu vực DNNVV nói riêng. Tuy nhiên, sự hỗ trợ kịp thời của Chính
phủ, các Bộ ngành, các địa phương cũng như sự nỗ lực không nhỏ của bản thân từng
doanh nghiệp đã góp phần giảm thiểu tác động của cuộc suy thoái này [18].
Trong hội thảo“Hỗ trợ DNNVV vượt qua khủng hoảng”, 16/06/2013 các tác
giả Nguyễn Văn Chiến: “Thực trạng và giải pháp cho doanh nghiệp nhỏ và vừa


3
trong giai đoạn hiện nay”, Nguyễn Xuân Trường: “Khó khăn của các doanh nghiệp
vừa và nhỏ năm 2012 và một số giải pháp hỗ trợ”, Đoàn Thanh Hà, Th.S Mai Hữu
Ước: Thách thức, ưu thế và một số giải pháp cơ bản để DNNVV tại Việt Nam phát
triển.[11] ….đưa ra các vấn đề mà các DNNVV đang gặp phải nhằm đưa ra các giải
pháp và chiến lược phát triển cho loại hình doanh nghiệp này vượt qua khó khăn,

phát triển ổn định
Viện kinh tế và quản lý Trung ương “Phát triển Doanh nghiệp nhỏ và vừa ở
Việt Nam”: Các nghiên cứu và thực tế đã chỉ ra rằng chính các Doanh nghiệp nhỏ
và vừa là một động lực quan trọng thúc đẩy phát triển và đổi mới kinh tế - xã hội.
Sự xuất hiện của các Doanh nghiệp nhỏ và vừa đã thực sự định nghĩa lại những
mảng thị trường hoàn toàn mới, khởi đầu cho những làn sóng sáng tạo - đổi mới
không ngừng không chỉ cho quốc gia mà cả thế giới. Loại hình doanh nghiệp này có
vai trò quan trọng cho sự phát triển không chỉ hiện tại mà cả trong tương lai [23].
Phạm Xuân Giang , “Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa trong tiến trình hội
nhập kinh tế quốc tế”- Trường ĐH Công nghiệp Tp. HCM. Nghiên cứu đã chỉ rõ
Doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNN&V) là một lọai hình doanh nghiệp trong nền kinh
tế thị trường. Đây là lọai hình doanh nghiệp có quy mô nhỏ bé về vốn, lao động
hoặc doanh thu. Ở nước ta, không phân biệt lĩnh vực kinh doanh, các doanh nghiệp
có số vốn đăng ký dưới 10 tỷ đồng hoặc số lượng lao động bình quân hàng năm
không quá 300 người được coi là DNN&V[10]. Các nước nói chung, đặc biệt là các
nước đang phát triển, trong quá trình phát triển kinh tế đều chú trọng phát triển lọai
hình DNN&V. Bởi vì đây là lọai hình doanh nghiệp rất thích hợp với giai đọan đầu
của quá trình phát triển kinh tế trong một đất nước cụ thể.
Luận văn Thạc sỹ. “Phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở thị xã Sơn Tây”
của Đỗ Thị Ngân. Tác giả làm rõ quan niệm cũng như vị trí, vai trò của doanh
nghiệp vừa nhỏ trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Chỉ ra
được tiêu chí xác định quy mô của doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nước ta. Phân tích,
đánh giá thực trạng phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở thị xã Sơn Tây giai đoạn
2000 - 2010, những kết quả đã đạt được và những vấn đề còn tồn tại. Đề ra một số


4
giải pháp khả thi nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động và phát triển các doanh nghiệp
vừa và nhỏ ở thị xã Sơn Tây trong thời gian tới [13].
Luận văn Thạc sỹ “Phát triển DNNVV tại tỉnh Gia Lai” của tác giả Trần

Ngọc Nam . Trong luận văn đã chỉ rõ phát triển DNNVV là bộ phận quan trọng
trong quá trình xóa đói giảm nghèo, là hoạt động tiên phong trong quá trình phát
triển kinh tế và tự do hóa kinh doanh. Tại Gia Lai, kể từ khi Luật doanh nghiệp có
hiệu lực số lượng DNNVV phát triển nhanh chóng. Tuy nhiên, DN loại này cũng
bộc lộ nhiều hạn chế như chưa tìm được định hướng phát triển mang tính chiến
lược, quy mô nhỏ, nguồn vốn hạn chế, trình độ công nghệ lạc hậu [14]… Luận văn
đã chỉ ra nguyên nhân và đề xuất những giải pháp phát triển DNNVV ở địa phương.
Hội thảo công bố Báo cáo “Đặc điểm môi trường kinh doanh ở Việt Nam:
Kết quả điều tra doanh nghiệp nhỏ và vừa năm 2013” Kết quả điều tra trên 2.500
DNNVV cho thấy, cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu vẫn có ảnh hưởng tiêu cực
đến điều kiện kinh doanh hiện tại của khoảng 70% DN. Trong khi đó, môi trường
kinh doanh tại Việt Nam về tổng thể chậm được cải thiện so với giai đoạn khảo sát
trước (công bố vào các năm 2005, 2007, 2009 và 2011). Kết quả điều tra cũng ghi
nhận số lượng DN mới gia nhập thị trường chỉ chiếm 1% tổng số DN được điều tra
nhưng có tới 18% trong gần 2.500 DN được điều tra năm 2011 đã ngừng kinh
doanh. Nếu xét ở quy mô DN thì tỷ lệ DN có quy mô vừa ngừng sản xuất, kinh
doanh thấp hơn so với những DN nhỏ và siêu nhỏ (trong khi số DN loại này chiếm
tới 80% số DN thành lập mới). Nguyên nhân chính của việc nhiều DN tạm ngừng
hoạt động trong giai đoạn này là thiếu cầu, trong khi số DN ngừng hoạt động do sức
ép cạnh tranh và hạn chế nguồn lực có tỷ lệ thấp hơn và những DN này có xu hướng
chuyển sang ngành sản xuất khác[23]. Khoảng 40% số DN được điều tra gặp khó
khăn trong việc tiếp cận vốn, nên không tiếp cận được nguồn tín dụng chính thức
vay, 1/3 trong số này thiếu tài sản thế chấp để vay vốn.
Luận án tiến sỹ “Tăng trưởng tín dụng ngân hàng đối với doanh nghiệp nhỏ
và vừa ở Việt Nam trong điều kiện kinh tế vĩ mô bất ổn” của tác giả Nguyễn Văn Lê.
Thông qua những phân tích thực tiễn, tác giả đã tập trung đánh giá một cách tổng


5
thể thực trạng tăng trưởng tín dụng đối với đối tượng DNNVV trong thời gian qua

theo nhiều cách tiếp cận, bao gồm cách tiếp cận định tính và định lượng. Nghiên
cứu định lượng về khả năng tăng trưởng tín dụng cho DNNVV Việt Nam khi nền
kinh tế mất ổn định được sử dụng làm cơ sở để đưa ra những giải pháp phù hợp
nhất với điều kiện hiện tại của Việt Nam. Kết quả nghiên cứu về mặt định lượng cho
thấy hệ thống DNNVV phải đối mặt với rủi ro tài chính khá lớn trong bối cảnh kinh
tế vĩ mô bất ổn, khi lợi nhuận tạo ra giảm sút trong khi chi phí lãi vay tăng cao. Trên
cơ sở định hướng phát triển DNNVV tại Việt Nam, định hướng tăng trưởng tín dụng
đối với DNNVV từ phía NHNN cũng như từ phía các NHTM và những tồn tại đã
được chỉ ra, luận án đã xây dựng một hệ thống các giải pháp được chia thành hai
nhóm: (i) Nhóm giải pháp mang tính chiến lược và (ii) Nhóm giải pháp cụ thể cho
việc tăng trưởng tín dụng cho DNNVV trong điều kiện kinh tế vĩ mô bất ổn [12]
…..Tất cả các nghiên cứu trên đều tập trung vào nghiên cứu doanh nghiệp vừa và
nhỏ với những góc nhìn và đánh gái khác nhau nhưng chưa có một nghiện cứu nào
về sựu phát triển của doanh nghiệp nói chung, doanh nghiệp công nghiệp nhỏ và
vừa Hà Giang nói riêng.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn có mục đích phân tích thực trạng của Doanh nghiệp công nghiệp
nhỏ và vừa ở Hà Giang, đề xuất một số kiến nghị, giải pháp triển cho Doanh nghiệp
công nghiệp nhỏ và vừa ở địa bàn tỉnh Hà Giang đến năm 2020.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, cần thực hiện những nhiệm vụ sau:
- Làm rõ khái niệm về Doanh nghiệp nhỏ và vừa nói chung và doanh nghiệp
công nghiệp nhỏ và vừa nói riêng, so sánh với mô hình của Doanh nghiệp công
nghiệp nhỏ và vừa ở một số nước khác trên thế giới, tiêu chí phân loại Doanh
nghiệp nhỏ và vừa theo nhóm tiêu chí định tính, nhóm tiêu chí định lượng, nhóm
tiêu chí trình độ phát triển kinh tế một số nước,… từ đó nêu ra các nhân tố thuận lợi
và khó khăn cho sự phát triển của Doanh nghiệp công nghiệp nhỏ và vừa.



6
- Đánh giá thực trạng Doanh nghiệp công nghiệp nhỏ và vừa của cả nước và
của các Doanh nghiệp công nghiệp nhỏ và vừa ở riêng tỉnh Hà Giang, đưa ra các
điểm lợi thế và hạn chế của Doanh nghiệp công nghiệp nhỏ và vừa ở Hà Giang.
- Kiến nghị và đề xuất nhằm phát triển Doanh nghiệp công nghiệp nhỏ và
vừa tỉnh Hà Giang đến năm 2020.
3.3. Câu hỏi nghiên cứu.
- Tiêu chí và vai trò của doanh nghiệp công nghiệp nhỏ và vừa?.
- Những thành tựu và hạn chế, nguyên nhân của hạn chế phát triển doanh
nghiệp công nghiệp nhỏ và vừa ở Hà Giang trong thời gian qua?
- Giải pháp nào là quan trọng để phát triển doanh nghiệp công nghiệp nhỏ và
vừa ở Hà Giang trong thời gian tới?
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là phát triển Doanh nghiệp công nghiệp
nhỏ và vừa.
Phạm vi không gian nghiên cứu: tỉnh Hà Giang.
Phạm vi thời gian: Thực trạng từ năm 2007 đến năm 2014, giải pháp hướng
đến năm 2020.
5. Đóng góp của luận văn
Luận văn đã góp phần làm rõ các vấn đề lý luận về phát triển doanh nghiệp
ghiệp công nhỏ và vừa; đồng thời đưa ra những giải pháp góp phần phát triển doanh
nghiệp công nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn tỉnh Hà Giang.
Các kết quả nghiên cứu thực trạng và giải phát triển doanh nghiệp công nghiệp
nhỏ và vừa trên địa bàn tỉnh Hà Giang có ý nghĩa áp dụng thực tiễn đối với các
doanh nghiệp tỉnh Hà Giang và các địa phương khác có điểm tương đồng trong cả
nước.


7
6. Kết cấu của luận văn:

Ngoài lời mở đầu, kết luận, danh mục chữ cái viết tắt, danh mục biểu bảng,
danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm có 4 chương như sau:
Chương 1. Cơ sở lý luận về phát triển doanh nghiệp công nghiệp nhỏ và vừa
Chương 2. Phương pháp nghiên cứu.
Chương 3. Thực trạng phát triển các doanh nghiệp công nghiệp nhỏ và vừa ở Hà
Giang trong thời gian qua.
Chương 4. Định hướng và giải pháp phát triển các doanh nghiệp công nghiệp nhỏ
và vừa ở tỉnh Hà Giang đến năm 2020


8
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN CÁC DOANH NGHIỆP CÔNG
NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA
1.1. Những vấn đề cơ bản về phát triển các doanh nghiệp nhỏ và vừa.
1.1.1. Quan niệm, đặc điểm và vai trò của DNNVV
1.1.1.1. Quan niệm của Thế giới
Khái niệm DNNVV tuy có mặt ở rất nhiều nền kinh tế trên thế giới, nhưng lại
không có một điểm chung thống nhất giữa các quốc gia thế nào là một DNNVV,
điều này thể hiện sự khác nhau giữa các điều kiện hoàn cảnh lịch sử, chính trị, kinh
tế xã hội giữa các quốc gia, đồng thời thể hiện sự khác nhau trong các chính sách ưu
đãi, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của các DNNVV giữa các quốc gia.
Việc xác định thế nào là một DNNVV có ý nghĩa rất quan trọng để xác định
đúng đối tượng. Nếu xác định rộng thì các chính sách ưu đãi lại không đủ sức bao
quát, tác dụng hỗ trợ theo đó giảm đi rất nhiều. Ngược lại, nếu xác định hẹp khái
niệm DNNVV thì tác dụng của sự hỗ trợ lại ít có tác dụng đến nền kinh tế. Dưới đây
là cách xác định DNNVV ỏ một số quốc gia và khu vực:
Khu vực EU, đây là khu vực phát triển rất mạnh các DNNVV (80% số DN
EU có số lượng dưới 100 người). Tiêu chí xác định DNNVV ở phần lớn các nước
trong khu vực EU căn cứ vào 3 yếu tố chính là: số lao động được sử dụng thường

xuyên, doanh số bán hàng năm và vốn đầu tư cho sản xuất.
Sự phân định như vậy chưa xác đáng vì không phân biệt các DN giữa các
ngành trong khi có một thực tế là đặc điểm kinh tế giữa các ngành nhiều khi quyết
định qui mô DN
Bảng 1.1. Phân loại DNNVV của khu vực EU
Tiêu thức phân loại
DN nhỏ
DN vừa
Số lao động tối đa
50
250
Doanh thu/ năm tối đa
7 triệu EURO
40 triệu EURO
Tồng kết tài sản/ năm tối đa
5 triệu EURO
27 triệu EURO
Tại các nước ASEAN, khái niệm về DNNVV còn có sự khác nhau. Song
nhìn chung các nước Singapore, Malaixia, Inđônêxia, Thái lan, Philippin đều dựa


9
vào 2 tiêu chí cơ bản để phân định một DN thuộc quy mô vừa, nhỏ hay lớn, đó là:
số lượng lao động được sử dụng và vốn đầu tư. Ví dụ: với Singapore, quan niệm
DNNVV là những DN có số lượng lao động dưới 100 người và vốn đầu tư dưới 1,2
triệu đô la Singapore. Với Malaixia, DNNVV là những DN có số lao động dưới 200
người và vốn đầu tư dưới 2,5 triệu đô la Malaixia. Còn với Inđônêxia, Thái Lan và
Philippin thì có sự phân loại chi tiết hơn thành DN vừa, DN nhỏ và DN cực nhỏ
trong đó DN cực nhỏ thường là những hộ kinh doanh trong phạm vi gia đình. Như
vậy, quan niệm thế nào là một DNNVV ở một số nước ASEAN còn có sự khác

nhau, đồng thời sự phân định này chỉ mang ý nghĩa tương đối và chủ yếu căn cứ
vào quy mô về vốn và lao động. Do đó, cách xác định DNNVV cũng mắc phải một
số nhược điểm như cách phân loại một số nước trong khu vực EU, tức là chưa xét
đến yếu tố đặc điểm kinh tế ngành [15].
Khái niệm DNNVV tại Nhật Bản được xác định trong “Luật cơ bản về
DNNVV” ban hành năm 1963, được sửa đổi năm 1973 và 1999. Trong Luật này các
tiêu chuẩn xác định DNNVV đã phần nào khắc phục được những nhược điểm trên.
Cụ thể là, việc phân định DNNVV ở nước này đã có sự khác biệt giữa các ngành.
Tùy theo từng ngành nghề mà phân định DNNVV và DN loại nhỏ được phân loại
khác nhau xét theo vốn pháp định và số lượng lao động như sau:
Bảng 1.2 : Phân loại DNNVV của Nhật Bản
Doanh nghiệp vừa
Ngành

Công nghiệp,
khai khoáng
Bán buôn
Bán lẻ
Dịch vụ

Năm 1963
Vốn
Lao
(triệu động
Yên)
≤50

≤10

≤300


≤30

Doanh
nghiệp nhỏ

Năm 1973
Vốn
Lao
(triệu động
Yên)

Năm 1999
Vốn
Lao
(triệu
động
Yên)

≤300

≤100

≤300

≤300

≤20

≤100


≤30

≤50

≤10

≤100
≤50

≤100
≤50

≤5

≤10

≤50

Lao động

Nguồn: Tổng cục DNNVV Nhật Bản


10
Tại Mỹ, nơi mà khi nhắc tới, người ta nghĩ ngay đến những tập đoàn kinh tế
hùng mạnh thì vai trò của các DNNVV cũng được rất đề cao ở đây. Việc phân loại
các DNNVV cũng đã tính đến sự khác biệt giữa các ngành. Bên cạnh những tiêu
chuẩn về mặt định lượng như: Lợi nhuận với mức tăng trưởng hàng năm dưới
150.000 USD trong tất cả các lĩnh vực sản xuất, dịch vụ và thương mại; hay các tiêu

chuẩn về lao động để phân loại quy mô DNNVV tùy thuộc vào từng ngành riêng
biệt như sau [25]:
Trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp: Tổ chức có từ 250 lao động trở xuống
được coi là DN nhỏ.
Trong ngành công nghiệp, dịch vụ và thương mại bán lẻ: DN có dưới 100
lao động thì được coi là nhỏ; từ 100-1.000 lao động được coi là vừa và từ 1.000 lao
động trở lên được coi là lớn và rất lớn.
Luật DNNVV của Mỹ còn có thêm một số tiêu chuẩn về mặt định tính như:
DNNVV là một xí nghiệp độc lập, không ở vào địa vị chi phối trong ngành của
mình liên quan. Theo khái niệm của Mỹ, các DNNVV không phải là công ty con
hoặc xí nghiệp vệ tinh của những công ty lớn. Điều này khác hẳn với các DNNVV
ở Nhật, các công ty con hoặc xí nghiệp vệ tinh thuộc công ty lớn vẫn được hưởng
những đặc quyền của các DNNVV.
Khái niệm DNNVV của Hàn Quốc được quy định tại “Đạo luật cơ bản về
DNNVV của Hàn Quốc” ban hành năm 1966 và đã trải qua nhiều lần sửa đổi bổ
sung. Theo đó, việc phân loại DNNVV được thực hiện theo hai nhóm ngành:
Trong ngành chế tạo, khai thác và xây dựng: các DN có vốn đầu tư dưới
600.000 USD và số lao động thường xuyên từ 200-300 người là DN vừa và có dưới
20 lao động thường xuyên là DN nhỏ.
Trong thương mại: DNNVV là DN có doanh thu dưới 250.000 USD/ năm.
DN có từ 6 tới 20 lao động là DN vừa, DN có lao động dưới 5 người được coi là
DN nhỏ,.
Như vậy: Khái niệm DNNVV chỉ nên được hiểu một cách tương đối, bởi sự
quan niệm về các DNNVV ở các quốc gia và các khu vực trên thế giới là không


11
đồng nhất hoàn toàn do ảnh hưởng của các nhân tố vốn không hề giống nhau giữa
các khu vực và quốc gia, đó là trình độ phát triển kinh tế xã hội, tính chất nghề
nghiệp, cơ cấu vùng lãnh thổ, tính lịch sử, mục đích phân loại…

Qua những khái niệm DNNVV đã và đang được áp dụng rộng rãi trên thực tế
ở nhiều nước, có thể thấy rằng nhóm tiêu chí phân loại “lao động” và “vốn” đầu tư
được sử dụng khá phổ biến. Và tuỳ theo điều kiện kinh tế, xã hội cụ thể của mỗi
nước mà các thước đo này cao hoặc thấp, và có thể đi kèm thêm các tiêu chí phân loại
khác. Trong tiến trình hội nhập kinh tế, Việt Nam có thể học hỏi được rất nhiều kinh
nghiệm tổ chức và quản lý DNNVV của các nước trên thế giới và trong khu vực.
Trên thế giới, định nghĩa về doanh nghiệp công nghiệp nhỏ và vừa được hiểu
và quy định khác nhau tuỳ theo từng nơi. Các tiêu chí để phân loại doanh nghiệp có
hai nhóm: tiêu chí định tính và tiêu chí định lượng. Nhóm tiêu chí định tính dựa trên
những đặc trưng cơ bản của doanh nghiệp như chuyên môn hoá thấp, số đầu mối
quản lý ít, mức độ phức tạp của quản lý thấp... Các tiêu chí này có ưu thế là phản
ánh đúng bản chất của vấn đề nhưng thường khó xác định trên thực tế. Do đó chúng
thường được dùng làm cơ sở để tham khảo trong, kiểm chứng mà ít được sử dụng
để phân loại trong thực tế. Nhóm tiêu chí định lượng có thể dựa vào các tiêu chí như
số lao động, giá trị tài sản hay vốn, doanh thu, lợi nhuận. Trong đó:
Số lao động: có thể lao động trung bình trong danh sách, lao động thường
xuyên, lao động thực tế; Tài sản hay vốn: có thể là tổng giá trị tài sản (hay vốn), tài
sản (vốn) cố định, giá trị tài sản còn lại; Doanh thu: có thể là tổng doanh thu/năm,
tổng giá trị gia tăng/năm (hiện nay có xu hướng sử dụng chỉ số này).
Trong các nước APEC tiêu chí được sử dụng phổ biến nhất là số lao động.
Còn một số tiêu chí khác thì tuỳ thuộc vào điều kiện từng nước. Tuy nhiên sự phân
loại doanh nghiệp theo quy mô lại thường chỉ mang tính tương đối và phụ thuộc vào
nhiều yếu tố như:
Trình độ phát triển kinh tế của một nước: trình độ phát triển càng cao thì trị
số các tiêu chí càng tăng lên. Ví dụ như một doanh nghiệp có 400 lao động ở Việt
Nam không được coi là doanh nghiệp công nghiệp nhỏ và vừa nhưng lại được tính


12
là SME ở CHLB Đức. Ở một số nước có trình độ phát triển kinh tế thấp thì các chỉ

số về lao động, vốn để phân loại doanh nghiệp công nghiệp nhỏ và vừa sẽ thấp hơn
so với các nước phát triển.
Tính chất ngành nghề: do đặc điểm của từng ngành, có ngành sử dụng nhiều
lao động như dệt, may, có ngành sử dụng ít lao động nhưng nhiều vốn như hoá chất,
điện... Do đó cần tính đến tính chất này để có sự so sánh đối chứng trong phân loại các
SME giữa các ngành với nhau. Trong thực tế, ở nhiều nước, người ta thường phân chia
thành hai đến ba nhóm ngành với các tiêu chí phân loại khác nhau. Ngoài ra có thể
dùng khái niệm hệ số ngành (Ib) để so sánh đối chứng giữa các ngành khác nhau.
Vùng lãnh thổ: do trình độ phát triển khác nhau nên số lượng và quy mô
doanh nghiệp cũng khác nhau. Do đó cần tính đến cả hệ số vùng (I a) để đảm bảo
tính tương thích trong việc so sánh quy mô doanh nghiệp giữa các vùng khác nhau.
Bảng 1.3. Tham khảo về tiêu chí doanh nghiệp công
nghiệp nhỏ và vừa ở một số nước
TÊN NƯỚC
ÚC
MỸ
NHẬT
CHLB ĐỨC
ĐÀI LOAN

TIÊU CHÍ DOANH NGHIỆP CÔNG NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ
- Sản xuất : dưới 100 LĐ
- Doanh nghiệp nhỏ: dưới 100 LĐ
-

Doanh nghiệp vừa: 101-499 LĐ
Sản xuất:dưới 300 LĐ hoặc dưới 100 triệu Yên
Dưới 500 LĐ
Công nghiệp, xây dựng: vốn góp dưới 40 triệu NT$, dưới 300 LĐ


-

Khai khoáng: vốn góp dưới 40 triệu NT$, dưới 500 LĐ
(Nguồn : />
1.1.1.2. Quan niệm ở Việt Nam
Ở Việt Nam, những năm gần đây chúng ta đã bắt đầu nhận thức và quan tâm
đến tầm quan trọng của DNNVV. Ngày 29/11/2000, tại Hà Nội, Ngân hàng thế giới
(WB) đã công bố bản báo cáo: “Việt Nam 2010 tiến vào thế kỷ 21” với đề xuất đưa
ra 6 trụ cột của chiến lược phát triển nền kinh tế Việt Nam thì trụ cột đầu tiên là:
“Tạo dựng môi trường giúp đỡ các DN, đặc biệt là các DNNVV”.


13
Tuy nhiên, cho đến trước năm 1998 khái niệm về DNNVV chưa được một
văn bản pháp lý nào của Nhà nước công nhận cụ thể. Quan niệm về DNNVV ở Việt
Nam trước giai đoạn này, còn rất khác nhau. Cụ thể là:
Ngân hàng Công nghiệp Việt Nam đưa ra qui định DNNVV là DN có giá trị
tài sản dưới 10 tỷ đồng, vốn lưu động dưới 8 tỷ đồng, số lao động thường xuyên
dưới 500 người và doanh thu dưới 20 tỷ đồng/năm .
Bộ Lao động - Thương binh - Xã hội và Bộ Tài chính quy định tiêu chí xác
định DNNVV tại Thông tư số 21/LĐTT ngày 17/6/1993, theo đó, DNNVV là DN
có số lao động thường xuyên dưới 100 người, doanh thu hàng năm dưới 10 tỷ, vốn
pháp định dưới 10 tỷ. Thành phố Hồ Chí Minh, xác định DN qui mô vừa là DN có
vốn pháp định trên 1 tỷ đồng, lao động có trên 100 người, doanh thu hàng năm trên
10 tỷ đồng. DN qui mô nhỏ có các tiêu thức dưới mức trên.
Quỹ hỗ trợ DNNVV thuộc chương trình Việt Nam - EU coi DNNVV là
những DN có số lao động từ 10 đến 500 người và vốn điều lệ từ 50.000 USD đến
300.000 USD tức từ khoảng 650 triệu đồng đến 3,9 tỷ đồng Việt Nam.
Như vậy, mỗi tổ chức, mỗi dự án đều có một cách xác định riêng cho mình về
DNNVV. Điều này tạo ra sự thiếu nhất quán và khó khăn cho Chính phủ trong việc đưa

ra các chính sách ưu đãi một cách công bằng và hiệu quả và cũng tạo ra khó khăn cho
chính các DNNVV khi thực hiện chính sách hỗ trợ.
Đến ngày 20/6/1998, Thủ tướng Chính phủ tại Công văn số 681/CP-KTN xác
định tiêu thức DNNVV tạm thời qui định trong giai đoạn hiện nay là: “DNNVV là
những DN có vốn điều lệ trung bình dưới 5 tỷ VND và có số lao động trung bình dưới
200 người”. Tuy mới chỉ là tiêu chí quy ước tạm thời mang tính hành chính để xây dựng
cơ chế chính sách hỗ trợ DNNVV nhưng có thể coi đây chính là bước đi đầu tiên của
chính phủ trong việc xây dựng 1, cơ sở pháp lý chính thức là cơ sở hoạch định và triển
khai các chính sách và biện pháp phát triển DNNVV tại Việt Nam. Cũng theo qui định
này, DN nhỏ là DN có số lao động dưới 30 người và vốn dưới 1 tỷ VND. DN vừa là các
DN có vốn từ 1 tỷ VND đến 5 tỷ VND. Đối với các DN công nghiệp thì DN nhỏ có vốn
từ 1 tỷ VND trở xuống, các DN thương mại và dịch vụ thì số lao động dưới 30 người.


14
Đến ngày 23/11/2001. Tham khảo kinh nghiệm của nhiều nước trên thế giới
và khu vực. Xuất phát từ tình hình kinh tế xã hội của nước ta trong giai đoạn hiện
nay. Chính phủ đã ban hành Nghị định 90/2001/CP-NĐ về việc trợ giúp và phát
triển DNNVV. Theo đó, DNNVV được hiểu là: “cơ sở sản xuất kinh doanh độc
lập, đã đăng ký kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký < 10 tỷ VND
hoặc có số lao động trung bình hàng năm không quá 300 người”. Căn cứ vào tình
hình kinh tế xã hội cụ thể của từng ngành, địa phương trong quá trình thực hiện các
biện pháp, các chương trình trợ giúp, có thể áp dụng đồng thời cả hai chỉ tiêu vốn và
lao động hoặc một trong hai chỉ tiêu đó. Gần đây nhất, theo Nghị định số 56/2009/NĐCP ngày 30/6/2009 của Chính phủ, qui định cụ thể thêm: số lượng lao động trung bình
hàng năm từ 10 người trở xuống được coi là DN siêu nhỏ, từ 20 đến 200 người lao
động được coi là DN nhỏ và từ 200 đến 300 người lao động thì được coi là DN vừa.
Như vậy, tất cả các DN thuộc mọi thành phần kinh tế có đăng ký kinh doanh
và thoả mãn 2 tiêu thức trên đều được coi là DNNVV. Theo cách phân loại này, tại
Việt Nam hiện nay, số DNNVV hiện vào khoảng trên 550.000 DN, chiếm khoảng
97% tổng số DN. Bên cạnh đó là hơn 1,4 triệu hộ kinh doanh cá thể, 16.000 hợp tác

xã, hàng trăm nghìn trang trại tư nhân.
Trong phạm vi Luận văn này, tác giả sử dụng định nghĩa DNNVV theo quy
định của Chính phủ tại Nghị định 56/2009/NĐ-CP ngày 30/6/2009: DNNVV là cơ
sở sản xuất kinh doanh độc lập, đã đăng ký kinh doanh theo pháp luật hiện hành,
có vốn đăng ký < 10 tỷ VND hoặc có số lao động trung bình hàng năm không quá
300 người”
1.1.1.3. Đặc điểm của doanh nghiệp công nghiệp nhỏ và vừa.
So với các loại hình doanh nghiệp sản xuất, các doanh nghiệp công nghiệp
có các đặc trưng sau:
Nếu xét trên góc độ tổng hợp các mối quan hệ của con người trong hoạt động
sản xuất, thì quá trình sản xuất là sự tổng hợp của 2 mặt: Mặt kỹ thuật của sản xuất
và mặt kinh tế - xã hội của sản xuất. Trong lĩnh vực sản xuất vật chất của xã hội, do
sự phân công lao động xã hội, nền kinh tế chia thành nhiều ngành như nông nghiệp,


15
công nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, xây dựng… Song xét trên phương diện tính
chất tương tự của công nghệ sản xuất có thể coi đó là tổng thể của hai ngành cơ bản:
nông nghiệp và công nghiệp, còn các ngành khác có thể là các dạng đặc thù của hai
ngành đó. Vì vậy, doanh nghiệp công nghiệp có những đặc trưng cơ bản về mặt kỹ
thuật sản xuất, cũng như đặc trưng kinh tế - xã hội khác với các loại hình doanh
nghiệp khác ở các khía cạnh chủ yếu sau:
- Trong các doanh nghiệp công nghiệp, quá trình sản xuất chủ yếu là quá
trình tác động trực tiếp bằng phương pháp cơ, lý hoá của con người thông qua một
công nghệ sản xuất nhất định, làm thay đổi các đối tượng lao động thành các sản
phẩm thích ứng với nhu cầu của con người (khác với doanh nghiệp sản xuất nông
nghiệp quá trình sản xuất lại bằng phương pháp sinh học là chủ yếu).
- Các đối tượng lao động của các doanh nghiệp công nghiệp, sau mỗi chu kỳ
sản xuất được thay đổi hoàn toàn về chất từ công dụng cụ thể này chuyển sang các sản
phẩm có công dụng cụ thể khác. Hoặc một loại nguyên liệu sau quá trình sản xuất có

thể tạo ra nhiều loại sản phẩm có công dụng khác nhau (nếu so sánh với các doanh
nghiệp nông nghiệp thì đối tượng lao động của doanh nghiệp nông nghiệp bao gồm các
động vật và thực vật sau quá trình sản xuất chỉ có sự thay đổi về lượng là chủ yếu).
- Sản phẩm của các doanh nghiệp công nghiệp có khả năng đáp ứng nhiều
loại nhu cầu ở các trình độ ngày càng cao của xã hội, là hoạt động duy nhất tạo ra
các sản phẩm thực hiện chức năng là các tư liệu lao động trong các ngành kinh tế.
Với đặc điểm về mặt kỹ thuật của sản xuất của các doanh nghiệp công nghiệp nêu
trên, trong quá trình phát triển, doanh nghiệp công nghiệp luôn có điều kiện phát
triển về kỹ thuật, tổ chức sản xuất; dễ dàng tạo ra được một đội ngũ lao động có tính
tổ chức, tính kỷ luật cao, có tác phong “công nghiệp”; đồng thời, có điều kiện và
cần thiết phải phân công lao động ngày càng sâu, tạo điều kiện tiền đề để phát triển
nền sản xuất hàng hóa ở trình độ và tính chất cao hơn so với doanh nghiệp ở các
ngành khác. Ngoài những đặc điểm chung của doanh nghiệp công nghiệp,
DNCNNVV có những đặc điểm nhất định trong quá trình phát triển. Có thể nhận
thấy DNCNNVV có một số đặc điểm cơ bản sau:


16
- Thứ nhất: tính dễ khởi sự. Luật doanh nghiệp hiện nay không quy định mức
vốn điều lệ hoặc vốn đầu tư tối thiểu, số lao động tối thiểu bắt buộc khi đăng ký
doanh nghiệp. Cùng với môi trường kinh doanh đang được cải thiện thì số lượng
các DNCNNVV đăng ký gia tăng nhanh chóng. Trong một chừng mực nhất định,
khi việc thực thi của quy định về phá sản và giải thể doanh nghiệp chưa thuận lợi
nên một số DNCNNVV thay vì rút lui khỏi thị trường một cách chính thức thì chọn
phương án đơn giản là ngừng hoạt động. Cũng chính vì lý do đó việc thống kê số
lượng DNCNNVV đang hoạt động trên thị trường gặp nhiều khó khăn và khó đưa
ra con số chính xác.
- Thứ hai: là tính linh hoạt cao theo cơ chế thị trường. Đây là đặc điểm gắn
liền với các DNCNNVV. Do quy mô không lớn nên đầu tư của các DNCNNVV vào
các dây chuyền và máy móc công nghệ không nhiều, chính vì lẽ đó nên sau một

thời gian hoạt động nếu nhận thấy một ngành hay một mặt hàng kinh doanh nào đó
không có lợi thì lập tức các DNCNNVV sẽ chuyển hướng sang các mặt hàng và
dịch vụ hiệu quả hơn. Một số DNCNNVV sau một thời gian khẳng định được uy tín
và thương hiệu đã tiến hành các biện pháp tích luỹ vốn và mở rộng quy mô để trở
thành các doanh nghiệp lớn. Tuy nhiên nhiều chủ DNCNNVV bằng lòng với quy
mô doanh nghiệp mình và thể hiện tính linh hoạt cao để khẳng định vị trí thương
trường. Nếu như các doanh nghiệp lớn chuyên kinh doanh một số sản phẩm hoặc
dịch vụ nhất định thì khi gặp suy thoái hoặc các tác động bất lợi từ bên ngoài thì sẽ
rất khó xoay sở.
- Thứ ba: Là tính linh hoạt trong cạnh tranh. Với xuất phát điểm là khả
năngdễ tham gia vào thị trường cũng như rút khỏi thị trường. Trong các chuỗi giá trị
ngành hàng thì các DNCNNVV có thể khá dễ dàng tìm cho mình phân khúc phù
hợp trong hợp tác với doanh nghiệp lớn. Dễ phát huy bản chất hợp tác sản xuất,
dễdàng thu hút lao động với chi phí thấp, do đó tăng hiệu quả sử dụng vốn, có thể
sử dụng lao động tại nhà hoặc xung quanh do đó góp phần tăng thêm thu nhập cho
một bộ phận dân cư có mức sống thấp, ít xảy ra xung đột giữa người lao động và
người sử dụng lao động; Có thể huy động tiềm lực của thị trường trong nước.


17
Bên cạnh đó, chúng ta cũng có thể kể đến hàng loạt các điểm yếu của các
DNCNNVV là: khởi đầu thường thiếu các nguồn lực phát triển, đặc biệt là các
nguồn lực về tài chính và con người trong đầu tư công nghệ, đào tạo công nhân, chủ
doanh nghiệp. Đối với một số ngành hàng thì các DNCNNVV không tận dụng các
lợi thế về quy mô. Còn một điểm nữa đó là sự hình thành và phát triển của các
DNCNNVV phụ thuộc vào các chủ doanh nghiệp nên khó thu hút trí tuệ tập thể
trong các quyết định dài hạn và chiến lược của các doanh nghiệp. Điều này thể hiện
qua cách thức đưa ra quyết định quan trọng mang tính chiến lược của doanh nghiệp.
Tại các doanh nghiệp lớn các quyết định mang chiến lược được thực hiện theo quy
trình và có hệ thống, tuy nhiên tại các DNCNNVV thì quyết định này trong nhiều

trường hợp mang nặng ý kiến chủ quan của chủ doanh nghiệp.
1.1.1.4. Vai trò của doanh nghiệp Công nghiệp nhỏ và vừa đối với sự phát triển
kinh tế - xã hội
Ở Việt Nam cũng như nhiều nước khác trên thế giới, các DNCNNVV đóng
vai trò rất quan trọng việc thúc đẩy sự phát triển kinh tế và trong mạng lưới sản xuất
toàn cầu và chuỗi cung ứng hàng hoá và dịch vụ. Trong điều kiện nền kinh tế Việt
Nam hiện nay vai trò của các DNCNNVV được thể hiện ở các khía cạnh khác nhau:
- Thứ nhất: Đóng góp vào kết quả hoạt động của nền kinh tế, góp phần làm
tăng GDP. Cũng như DNCNNVV ở tất cả các nước, DNCNNVV ở Việt Nam cung
cấp ra thị trường nhiều loại hàng hoá khác nhau đáp ứng nhu cầu sản xuất và tiêu
dùng trong nước, trang thiết bị và linh kiện cần thiết cho các ngành sản xuất hàng
tiêu dùng và các ngành thủ công nghiệp cũng như các hàng hoá tiêu dùng khác.
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê trong những năm vừa qua trung bình hàng năm
DNCNNVV đã đóng góp 12% tổng sản phẩm quốc dân (GDP) của cả nước. Ngoài
ra, DNCNNVV Việt Nam còn tham gia phân phối sản phẩm cho nhiều ngành công
nghiệp truyền thống thu hút nhiều lao động như giầy dép, chiếu cói...Việc mở rộng
và phát triển các DNCNNVV sẽ góp phần không nhỏ trong việc làm tăng GDP.
- Thứ hai: Thu hút vốn của các nguồn lực có sẵn có trong dân cư. Vốn đầu tư
là một yếu tố cơ bản của quá trình kinh doanh. Vốn là yếu tố cơ bản để khai thác và


18
phối hợp các yếu tố khác trong kinh doanh như lao động, công nghệ và quản lý…để
tạo ra lợi nhuận. Tuy nhiên một nghịch lý hiện nay là trong khi có nhiều DN đang
thiếu vốn trầm trọng thì vốn nhàn rỗi trong dân cư còn nhiều nhưng không huy
động được. Khi chính sách tài chính tín dụng của Chính phủ và các ngân hàng chưa
thực sự tạo được niềm tin đối với những người có tiền đứng ra đầu tư kinh doanh,
thành lập DN. Dưới khía cạnh đó, DNCNNVV có vai trò to lớn trong việc huy động
vốn để phát triển kinh tế.
- Thứ ba: Giúp nền kinh tế phát triển ổn định và hiệu quả hơn. Trong quá

trình kinh doanh, nhiều DNCNNVV có thể hỗ trợ cho các DN lớn, cung cấp những
bán thành phẩm hay nguyên liệu đầu vào cho DN lớn hoặc thâm nhập vào mọi ngõ
ngách thị trường mà DN lớn khó có thể với tới để phân phối các sản phẩm cuả DN
lớn. Bên cạnh đó, khi số DNCNNVV tăng lên sẽ kéo theo sự gia tăng nhanh chóng
cung cấp số lượng các sản phẩm và dịch vụ mới trong nền kinh tế. Nhờ hoạt động
với quy mô nhỏ và vừa, các DNCNNVV có ưu thế là chuyển hướng kinh doanh
nhanh từ những mặt hàng này sang mặt hàng khác, thỏa mãn nhu cầu linh hoạt của
dân cư. Chính sự phát triển đó của các DNCNNVV đã làm tăng tính cạnh tranh, tính
linh hoạt và làm giảm bớt mức độ rủi ro trong nền kinh tế.
- Thứ tư: Góp phần tăng cường và phát triển các mối quan hệ kinh tế. Các
DNCNNVV hình thành và phát triển kinh doanh trong những ngành nghề khác nhau
luôn có mối quan hệ mật thiết với nhau và có mối liên kết với các DN lớn. Nhiều DN
nhỏ khi mới ra đời chỉ nhằm mục đích làm vệ tinh cung cấp các sản phẩm cho các
DN lớn. Mối quan hệ giữa DNCNNVV và các DN lớn cũng chính là nguyên nhân
thành công của nền kinh tế Nhật Bản trong nhiều thập kỷ qua. Do đó, khi các
DNCNNVV Việt Nam phát triển sẽ góp phần tăng cường các mối quan hệ liên kết lẫn
nhau giữa các DNCNNVV và giữa các DNCNNVV với các DN lớn. Nhờ đó mà các
rủi ro kinh doanh sẽ chia sẻ và góp phần tăng hiệu quả kinh tế xã hội chung.
- Thứ năm: Tạo cơ hội cơ sở để hình thành các DN lớn. Kinh nghiệm phát
triển kinh tế ở nhiều nước cho thấy hiện nay phần lớn các công ty và các tập đoàn
kinh tế đa Quốc gia đều trưởng thành từ các DNCNNVV. Với cách xem xét đó


×