Tải bản đầy đủ (.pdf) (97 trang)

Giáo trình quản lý chương trình dân số, sức khỏe sinh sản và kế hoạch hóa gia đình phần 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (999.89 KB, 97 trang )

BỘ Y TẾ
TỔNG CỤC DÂN SỐ - KẾ HOẠCH HÓA GIA ĐÌNH

GIÁO TRÌNH
QUẢN LÝ CHƯƠNG TRÌNH
DÂN SỐ , SỨC KHỎE SINH SẢN

VÀ KẾ HOẠCH HÓA GIA ĐÌNH

Hà Nội, tháng 11 năm 2011

1


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
KHHGĐ

Kế hoạch hóa gia đình

SKSS

Sức khỏe sinh sản

DS-KHHGĐ

Dân số - Kế hoạch hóa gia đình

NKĐSS

Nhiễm khuẩn đường sinh sản


DS/SKSS/KHHGĐ

Dân số/ Sức khỏe sinh sản/ Kế hoạch hóa gia đình

SKSS/KHHGĐ

Sức khỏe sinh sản/ Kế hoạch hóa gia đình

CS SKSS

Chăm sóc sức khỏe sinh sản

BPTT

Biện pháp tránh thai

PTTT

Phương tiện tránh thai

DCTC

Dụng cụ tử cung

CBCT

Cán bộ chuyên trách

CTV


Cộng tác viên

UBND

Ủy ban Nhân dân

HĐBT

Hội đồng Bộ trưởng

TTg

Thủ t ướng

UBTVQH

Ủy ban thường vụ Quốc hội

NĐ-CP

Nghị định – Chính phủ

BVSKBMTE/KHHGĐ

Bảo vệ sức khỏe bà mẹ , trẻ em, kế hoạch hóa gia
đình

UBQG- DS&KHHGĐ

Ủy ban Quốc gia Dân số & Kế hoạch hóa gia đình


QLNN

Quản lý nhà nước

TSGTKS

Tỷ số giới tính khi sinh

NCT

Người cao tuổi

HDI

Chỉ số phát triển con người

Năm X

Năm hiện tại

2


Lời nói đầu
Công tác dân số, kế hoạch hóa gia đình là một bộ phận quan trọng của Chiến
lược phát triển đất nước, là yếu tố cơ bản để nâng cao chất lượng cuộc sống của con
người, của từng gia đình và của toàn xã hội. Xác định mục tiêu, ý nghĩa, tầm quan
trọng của công tác dân số, kế hoạch hóa gia đình, Đảng và Nhà nước ta luôn coi
trọng công tác quản lý dân số, kế hoạch hóa gia đình ở tuyến cơ sở.

Giáo trình Quản lý chương trình dâ n số , sức khỏe sinh sản và kế hoạch
hóa gia đình được biên soạn làm tài liệu học tập cho đối tượng là học viên đạt
trình độ chuyên môn Trung cấp dân số - y tế, trên cơ sở Chương trình đào tạo
dân số - y tế trình độ Trung cấp chuyên nghiệp đã được Bộ Y tế phê duyệt tại
công văn 751/BYT-K2ĐT ngày 16/02/2011.
Mục tiêu của tài liệu nhằm cung cấp những kiến thức, kỹ năng cơ bản
nhất về nghiệp vụ quản lý, quản lý chương trình DS -KHHGĐ đáp ứng yêu cầu,
nhiệm vụ công tác DS -KHHGĐ cho đội ngũ cán bộ cơ sở. Giáo trình bao gồm
bốn bài:
Bài 1. Quản lý chương trình dân số, kế hoạch hóa gia đình.
Bài 2. Lập kế hoạch và tổ chức thực hiện kế hoạch về công tác dân số,
kế hoạch hóa gia đình ở tuyến cơ sở.
Bài 3. Quản lý đối tượng thực hiện kế hoạch hóa gia đình và các dịch vụ
dân số.
Bài 4. Giám sát, đánh giá trong chương trình dân số, kế hoạch hóa gia
tại
đình cơ sở.
Công tác Dân số, kế hoạch hóa gia đình luôn vẫn là một lĩnh vực mới ở
nước ta. Vì vậy, trong quá trình biên soạn sẽ không tránh khỏi những hạn chế,
thiếu sót. Chúng tôi mong nhận được những ý kiến đóng góp, bổ sung của các
nhà khoa học, các cán bộ quản lý và đông đảo bạn đọc để cuốn sách được hoàn
thiện hơn.
Thay mặt các tác giả
Ths. Trần Ngọc Sinh

3


MỤC LỤC


Nội dung

Trang

Danh mục chữ viết tắt

2

Lời nói đầu

3

Bài 1. Quản lý chương trìn h dân số, kế hoạch hóa gia đình

5

I. Những vấn đề cơ bản của quản lý
II. Quản lý chương trình DS-KHHGĐ
Bài 2. Lập kế hoạch và tổ chức thực hiện kế hoạch về công
tác dân số, kế hoạch hóa gia đình ở tuyến cơ sở.

5
31
49

I. Những nội dung cơ bản của lập kế hoạch
II. Lập kế hoạch năm ở tuyến cơ sở

49


III. Lập kế hoạch tuần, tháng, qúy ở tuyến cơ sở

91

Bài 3. Quản lý đối tượng thực hiện kế hoạch hóa gia đình
và các dịch vụ dân số.
I. Quản lý đối tượng KHHGĐ

73
98
98

II. Quản lý hoạt động của cộng t ác viên DS-KHHGĐ.

108

III. Quản lý các dịch vụ Dân số-KHHGĐ.

118

Bài 4. Giám sát, đánh giá trong chương trình dân số, kế
hoạch hóa gia đình tại cơ sở.

132

I. Gám sát các hoạt động về DS -KHHGĐ

132

II. Đánh giá các hoạt động về DS-KHHGĐ


143

Đáp án câu hỏi lượng giá

151

Tài liệu tham khảo

159

4


Bài 1
QUẢN LÝ CHƯƠNG TRÌNH
DÂN SỐ VÀ KẾ HOẠCH HOÁ GIA ĐÌNH

MỤC TIÊU
- Trình bày được các khái niệm về quản lý, quản lý nhà nướ c về dân số,
kế hoạch hóa gia đình;
- Phân tích đượ c các nguyên tắc và phương pháp quản lý, quản lý nhà
nướ c về DS-KHHGĐ.
- Trình bày được những nội dung chính của các chức năng quản lý, quản lý
nhà nước về DS-KHHGĐ và quản lý DS-KHHGĐ theo chương trình mục tiêu.
I. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA QUẢN LÝ
1. Khái niệm
1.1. Quản lý
Quản lý là sự tác động có t ổ chức, có hướng đích của chủ thể quản lý lên
đối tượng và khách thể quản lý nhằm sử dụng có hiệu quả nhất các tiềm năng,

các cơ hội của tổ chức để đạt được mục tiêu đ ặt ra trong điều kiện biến động
của môi trường .
Như vậy, nói đến quản lý phải bao gồm các yếu tố (các điều kiện) sau:
- Phải có ít nhất một chủ thể là tác nhân tạo ra các tác động và ít nhất
một đối tượng bị quản lý trực tiếp nhận tác động của chủ thể và các khách thể
khác chịu sự tác động gián tiếp từ chủ thể.
Thông thường, sự tác động diễn ra thường xuyên, liên tục. Điều đó đòi
hỏi muốn quản lý thành công, trước tiên phải xác định rõ chủ thể, đối tượng và
khách thể quản lý.
- Phải có một mục tiêu được định rõ từ đầu. Mục tiêu chính là căn cứ để
chủ thể quản lý tạo ra những chuỗi các tác động cụ thể. Điều này đòi hỏi hành
vi quản lý phải biết định hướng đúng, từ đó tạo ra mục tiêu đúng.
- Chủ thể quản lý tạo ra tác động và phải biết tác động. Cho nên có thể
nói, người biết quản lý chính là người biết tác động. Sự tác động này mang tính
chủ quan nhưng phải phù hợp với các quy luật khách quan.
- Quản lý là sự tác động vào con người , là sự vận động của thông tin.
5


Chủ thể
quản lý
Mục tiêu
quản lý

Môi trường
KT-XH

Đối tượng
quản lý


Sơ đồ 1. Logic của khái niệm quản lý
1.2. Quản lý nhà nước
Quản lý Nhà nước là dạng quản lý xã hội mang tính quyền lực Nhà nước
để điều chỉnh các quan hệ xã hội và hành vi hoạt động của con người.
Quản lý Nhà nước khác với dạng quản lý của các chủ thể xã hội khác
như Công đoàn, Hội Phụ nữ, Đoàn Thanh niên… ở chỗ các c hủ thể này dùng
hình thức giáo dục, vận động quàn chúng là chủ yếu; còn quản lý nhà nước sử
dụng phương thức pháp luật và bằng luật là chủ yếu.
Quản lý Nhà nước biểu hiện trước hết ở việc tác động vào nhận thức ,
hành vi của con người, các tổ chức , buộc mọi cá nhân, tổ chức phải hành động
theo một định hướng và mục tiêu nhất định. Bên cạnh việc sử dụng pháp luật
như một phương thức cơ bản, quan trọng nhất, Nhà nước cũng chú trọng
đến việc tuyên truyền, giáo dục và động viên tinh thần các công dân, kết
hợp với việc xây dựng và thực hiện các chính sách đòn bẩy kích thích
kinh tế, vật chất nhằm phát huy tính chủ động, sáng tạo của cơ quan,
doanh nghiệp và mọi tầng lớp nhân dân.
1.3. Quản lý nhà nước về DS-KHHGĐ
Quản lý nhà nước về DS -KHHGĐ là quá trình tác động có ý thức, có tổ
chức của nhà nước đến các quá trình và yếu tố dân số nhằm làm thay đổi trạng
thái dân số để đạt được mục tiêu đã đề ra.
Chủ thể quản lý của nhà nước về DS -KHHGĐ là nhà nước với hệ thống
các cơ quan của Nhà nước được phân chia thành các cấ p và bao gồm cả 3 khu
vực là lập pháp, hành pháp và tư pháp . Trong đó, quản lý hành chính (hành
6


pháp) về DS-KHHGĐ là cực kỳ quan trọng. Trong lĩnh vực DS-KHHGĐ, Nhà
nước chỉ tác động vào nhận thức và hàn h vi về DS-KHHGĐ hoặc liên quan đế n
DS-KHHGĐ.
Đối tượng quản lý nhà nước về DS -KHHGĐ là các quá trình và yếu tố

dân số bao gồm sinh, tử, di cư, quy mô, cơ cấu, phân bổ và chất lượng dân số.
Khách thể của quản lý Nhà nước về DS-KHHGĐ là các tổ chức, cá nhân.
Mục tiêu quản lý nhà nước về DS -KHHGĐ là trạng th ái thay đổi về các
yếu tố quy mô, cơ cấu, phân bổ dân số, thực hiện KHHGĐ hoặc các quá trình
sinh, chết, di dân... mà nhà nước mong muốn đạt được cho phù hợp điều kiện
phát triển kinh tế-xã hội của đất nước.
Quản lý nhà nước về DS -KHHGĐ cũng như các lĩnh vực khác được
thông qua việc ban hành và đảm bảo thực thi các đường lối, chính sách và pháp
luật. Đồng thời, trong những điều kiện cụ thể, nhà nước đảm nhiệm việc tổ
chức, cung cấp các dịch vụ về dân số như là các dịch vụ công, để quá trình thay
đổi nhận th ức và hành vi của công dân, tổ chức diễn ra đúng hướng và nhanh
chóng hơn. Việc thực hiện quản lý nhà nước về DS -KHHGĐ được diễn ra trong
các điều kiện, bối cảnh cụ thể nhằm đảm bảo đạt được mục tiêu về công tác DSKHHGĐ, đồng thời hạn chế tối đa những tác động tiêu cực đến sự ổn định, phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước.
2. Vai trò của quản lý
2.1. Vai trò chung
Định hướng phát triển của tổ chức trên cơ sở xác định mục tiêu quản lý
và hướng đối tượng quản lý vào việc thực hiện mục tiêu quản lý;
Thống nhất về ý chí và hành động của mọi đối tượng quản lý nhằm thực
hiện được mục tiêu và thực hiện có hiệu quả mục tiêu quản lý ( cơ chế quản lý);
Tổ chức, phối hợp, dẫn dắt đối tượng quản lý vào việc thực hiện mục
tiêu quản lý hoặc hướng dẫn hoạt động của các đối tượng quản lý vào việc thực
hiện mục tiêu quản lý để giảm độ bất định (kế hoạch hoạt động);
Tạo động lực cho các đối tương quản lý bằng cách kích thích, đánh giá,
động viên, khen thưởng đối tượng quản lý hoàn thành công việc có hiệu quả,
uốn nắn những lệch lạc, sai sót của đối tượng quản lý nhằm giảm bớt những
thất thoát, sai lệch trong quá trình quản lý ( chính sách khuyến khích);
Tạo môi trường và điều kiện cho sự phát triển của cá nhân, đối tượng
quản lý và phát triển chung của tổ chức quản lý, bảo đảm phát triển ổn định,
bền vững và mang lại hiệu quả cao.

7


2.2. Vai trò của quản lý chương trình DS -KHHGĐ ở xã, phường
Quá trình phát triển dân số ở xã, phường chịu nhiều sự tác động của các
yếu tố con người, môi trường kinh tế -xã hội; Việc quản lý chương tr ình DSKHHGĐ ở xã, phường không chỉ bảo vệ lợi ích của con người, mà còn hướng
sự phát triển vào mục tiêu vì con người, tạo tiền đề cho sự phát triển và phát
triển bền vững.
Quản lý chương trình DS -KHHGĐ ở xã, phường là hết sức quan trọng,
là trách nhiệm của cộng đồng và toàn xã hội và là yếu tố quyết định thành công
của công tác DS -KHHGĐ ở xã, phường . Ban chỉ đạo DS-KHHGĐ các cấp,
đặc biệt là tuyến xã, phường đóng vai trò chỉ đạo, huy động các ngành, đoàn
thể, tổ chức xã hội, chính trị -xã hội và mọi tầng lớp nhân dân tham gia chương
trình DS-KHHGĐ.
3. Chức năng quản lý
3.1. Khái niệm
Chức năng quản lý là hình thức biểu hiện phương hướng và giai đoạn tác
động có chủ đích của chủ thể quản lý lên đối tượng và khách thể quản lý nhằm
đạt mục tiêu.
Chức năng quản lý là một thể thống nhất những hoạt động tất yếu của
chủ thể quản lý nảy sinh từ sự phân công, chuyên môn hóa trong hoạt động
quản lý nhằm thực hiện mục tiêu .
Chức năng quản lý nhà nước về DS-KHHGĐ là tập hợp những nhiệm vụ
quản lý khác nhau, mang tính độc lập tương đối , đượ c hình thành trong quá
trình chuyên môn hoá hoạt độ ng quản lý mà cơ quan, tổ chức phải thực hiện
nhằm đạ t đượ c các mục tiêu về DS-KHHGĐ đã đề ra.
3.2. Ý nghĩa của chức năng quản lý
Chức năng quản lý xác định vị trí, mối quan hệ giữa cá c bộ phận, các
khâu, các cấp trong hệ thống quản lý. Nếu không có chức năng quản lý thì bộ
phận đó không còn lý do tồn tại. Từ những chức năng quản lý mà chủ thể xác

định các nhiệm vụ cụ thể, thiết kế bộ máy và bố trí con người phù hợp.
Chức năng quản lý nhà nước về DS-KHHGĐ thể hiện nội dung các tác
động của Nhà nước đến các yếu tố quy mô cơ cấu, phân bố và chất lượng dân
số cũng như đối với các tổ chức và cá nhân trong các loại hành vi về hoặc liên
quan đến lĩnh vực DS-KHHGĐ.
Căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ được giao, cơ quan quản lý nhà nước
về DS-KHHGĐ các cấp có thể theo dõi, kiểm tra, đánh giá, điều chỉnh hoạt
8


động của mỗi bộ phận trong hệ thống cơ quan quản lý nhà nước về DS KHHGĐ.
3.3. Phân loại chức năng quản lý
3.3.1. Theo phương hướng tác động
Theo phương hướng tác động thì quản lý có hai chức năng sau:
- Chức năng đối nội: là chức năng quản lý nội bộ tổ chức (bao gồm: tổ
chức bộ máy và lề lối làm việc; phát triển và đào tạo nguồn nhân lực ; tạo thời
cơ và nghệ thuật hoạt động);
- Chức năng đối ng oại : là chức năng vận hành hệ thống trong môi
trường biến động bên ngoài (như phân tích các đối tác, tìm ra mặt mạnh, mặt
yếu giúp công tác quản lý có chính sách đối ngoại hợp lý đó là sự hợp tác toàn
bộ, hợp tác từng phần hay không hợp tác...).
3.3.2. Theo giai đoạn tác động
Theo giai đoạn tác động thì quản lý có năm chức năng sau:
- Chức năng hoạch định: là chức năng quan trọng nhất của quản lý ,
nhằm định ra chương trình, mục tiêu, chiến lược mà quản lý cần đạt được.
- Chức năng tổ chức: là chức năng nhằm hình thành nhóm chuyên môn
hoá, các phân hệ tạo nên hệ thố ng để cùng góp phần vào hoạt động của hệ
thống đạt tới mục tiêu mong muốn.
- Chức năng điều hành: là chức năng nhằm phối hợp các hoạt động
chung của nhóm, của các phân hệ trong hệ thống.

- Chức năng kiểm tra , giám sát: là chức năng nhằm kịp thời phát hiện
những sai sót trong quá trình hoạt động và các cơ hội đột biến trong hệ thống .
Đây là chức năng quan trọng nhất của người lãnh đạo.
- Chức năng đánh giá: là chức năng nhằm so sánh, nhận dạng và rút ra
bài học để thông tin cho nhà quản lý những vấn đề chủ yếu làm cơ sở cho
những quyết định liên quan đến kế hoạch, chương trình, dự án.
Trong công tác DS-KHHGĐ, quản lý nhà nước về DS-KHHGĐ bao
gồm các chức năng như: hoạch định công tác DS -KHHGĐ, tổ chức bộ máy
quản lý DS-KHHGĐ, điều hành, kiểm tra, giám sát v à đánh giá.
+ Chức năng hoạch định: bao gồm việc hoạch định, định hướng, dự báo
các biến động, ổn định và đổi mới quản lý DS -KHHGĐ nhằm hoàn thành
những mục đích của hệ thống đặt ra trong quá trình phát triển của hệ thống.
9


Việc hoạch định bao gồm cả xây dựng pháp luật, chính sách dân số, chiến lược
dân số, các chương trình DS -KHHGĐ, kế hoạch công tác DS-KHHGĐ ngắn
hạn và dài hạn.
+ Chức năng tổ chức: nhằm hình thành cơ cấu tổ chức quản lý, bảo đả m
tính tối ưu của mô hình tổ chức của các cấp quản lý, bảo đảm sự phối hợp hài
hòa trong các khâu quản lý, giữa các đối tượng quản lý và thực hiện tốt các
mối quan hệ trong hệ thống tổ chức DS-KHHGĐ.
+ Chức năng điều hành : thể hiện quyền lực quản lý của chủ thể quản lý
để chỉ đạo, ra quyết định và tổ chức thực hiện kế hoạch về DS -KHHGĐ; chức
năng điều hành còn thể hiện rõ sự uỷ quyền của người lãnh đạo cấp trên đối
với cán bộ quản lý dưới quyền trong việc ra quyết định và điều hành công tác
quản lý về DS-KHHGĐ.
+ Chức năng kiểm tra, giám sát : nhằm phát hiện những sai sót, các ách
tắc, ngăn chặn các sai phạm có thể xảy ra trong quá trình quản lý về DSKHHGĐ để có giải pháp xử lý, đồng thời tìm kiếm cơ hội để thúc đẩy việc đạt
mục tiêu DS-KHHGĐ đã đặt ra.

+ Chức năng đánh giá : nhằm xem xét mức độ đạt được của các mục tiêu
về DS -KHHGĐ đã đặt ra nhằm rút ra các bài học kinh nghiệm về nguyên nhân
thành công hay thất bại, trên cơ sở đó góp phần cải tiến các khâu trong quá
trình quản lý trong tương lai.
3.4. Các chức năng quản lý nhà nước về DS -KHHGĐ
3.4.1. Xây dựng pháp luật
Xây dựng pháp luật về DS-KHHGĐ là toàn bộ quá trình nghiên cứu,
soạn thảo, ban hành, phổ biến và thực thi các qui phạm pháp lu ật nhằm điều
chỉnh các quan hệ xã hội, hành vi của tổ chức, cá nhâ n trong các hoạt động về
hoặc liên quan đến lĩnh vực DS -KHHGĐ. Đối tượng điều chỉnh của các văn
bản qui phạm pháp luật về DS-KHHGĐ không chỉ bao gồm các tổ chức, cá
nhân là đối tượng quản lý mà còn bao gồm cả các cơ quan, tổ chức cá nhân
đóng vai trò là chủ thể quản lý.
3.4.2. Chức năng lập kế hoạch
Chức năng lập kế hoạch là chức năng quan trọng nhất trong các chức
năng quản lý, bởi vì nó gắn liền với việc lựa chọn, xây dựng chương trình hành
động trong tương lai của hệ thống.
Trong công tác DS-KHHGĐ, lập kế hoạch là chức năng cơ bản của quản
lý Nhà nước về DS-KHHGĐ, là sự mở đầu của quá trình quản lý, đồng thời là
10


một biện pháp hữu hiệu của quản lý. Nhờ có kế hoạch mà hoạt động của toàn
bộ hệ thống cơ quan quản lý Nhà nước về DS -KHHGĐ cũng như hoạt động
của các cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia vào công tác DS-KHHGĐ được
tiến hành thống nhất và hướng vào mục đích chung.
Lập kế hoạch đòi hỏi các nhà quản lý phải dự đoán được những gì xẩy ra
trong tương lai, những vấn đề cần được ưu tiên giải quyết trong vô số những
vấn đề về DS-KHHGĐ, giải pháp và phương thức thực hiện để đạt được kết
quả mong muốn.

Như vậy kế hoạch đề cập đến mục tiêu, mục đích của quản lý và các cách
thức và phương tiện để đạt được mục tiêu, mục đích đó. Kế hoạch còn là căn cứ
cho các hoạt động tổ chức, điều hành, giám sát và đánh giá kết quả, hiệu quả quản
lý Nhà nước về DS-KHHGĐ nói riêng, công tác DS-KHHGĐ nói chung.
3.4.3. Chức năng tổ chức , điều hành
Tổ chức là sự phối hợp hài hòa giữa các đối tượng quản lý, giữa các cá
nhân hoặc giữa các nhóm trong việc thực hiện những hoạt động chung nhằm
đạt được các mục tiêu đặc thù.
Điều hành là một quá trình chỉ đạo và thường xuyên ra các quyết định để
giải quyết các khó khăn, duy trì các hoạt động hợp lý và đảm bảo tiến độ thực hiện.
Chức năng tổ chức, điều hành công tác DS -KHHGĐ là tập hợp những
nhiệm vụ mà cơ quan nhà nước các cấp phải thực hiện nhằm thiết lập hệ thống
quản lý cũng như vận hành hệ thống đó hoạt động trong khuôn khổ của pháp
luật theo định hướng của chính sách và kế hoạch về DS -KHHGĐ.
Tổ chức, điều hành có vị trí then chốt trong tiến trình quản lý nhà nước
về DS -KHHGĐ: Tạo ra sự thống nhất, động lực sáng tạo cho các cơ quan, đơn
vị trong hệ thống quản lý nhà nước, cơ quan quản lý các chương trình dự án
DS-KHHGĐ. Huy động được và sử dụng có hiệu quả các lực lượng và nguồn
lực công tác DS-KHHGĐ (bao gồm nhân lực, vật lực và tài lực, nguồn lực
trong nước và nguồn lực nước ngoài ).
Chức năng tổ chức, điều hành thực h iện công tác DS -KHHGĐ gồm:
+ Tổ chức bộ máy quản lý về DS-KHHGĐ từ trung ương đến địa phương;
+ Tổ chức bộ máy quản lý các chương trình dự án về DS -KHHGĐ;
+ Đảm bảo sự vận hành của bộ máy quản lý nhà nước, quản lý các
chương trình, dự án hoạt động theo định hướng kế hoạch của trung ương và địa
phương về DS-KHHGĐ.
11


3.3.4. Chức năng giám sát, kiểm tra, thanh tra, đánh giá

a) Giám sát
Giám sát về DS -KHHGĐ là hoạt động của các cơ quan quyền lực nhà
nước nhằm phát hiện, chấn ch ỉnh những lệch lạc trái pháp luật, sai mục tiêu
trong công tác DS-KHHGĐ.
Giám sát bao gồm 2 loại hình c hủ yếu : Các hoạt động giám sát của Quốc
hội , Hội đồng Nhân dân, Tòa án nhân dân; Các hoạt động giá sát của các cơ
quan hành chính nhà nước đối với cấp dưới và đối với các tổ chức, cá nhân.
Các hoạt động giám sát của các cơ quan hành chính bao gồm:
+ Giám sát tuân thủ hiến pháp, pháp luật, chính sách của các cơ quan
hành chính cấp dưới, của các tổ chức, công dân ;
+ Giám sát việc thực hiện mục tiêu cũng như thực hiện tiến độ của các
chương trình, kế hoạch;
+ Giám sát việc phân bổ, quản lý và sử dụng các nguồ n lực đầu tư cho
thực hiện các chương trình kế hoạch, dự án.
Mục đích của hoạt động giám sát này không chỉ đảm bảo việc tuân thủ
hiến pháp, pháp luật, chính sách về DS-KHHGĐ, mà còn dự báo xu thế vận
động và phát triển của các yếu tố và quá trình dân số là căn cứ cho điều chỉnh
chính sách phát hiện và điều chỉnh những lệch lạc, vướng mắc trong việc thực
hiện các chương trình, kế hoạch dự án thuộc lĩnh vực DS-KHHGĐ.
b) Kiểm tra
Trong quản lý nhà nước về DS -KHHGĐ, kiểm tra được hiểu là hoạt
động thường xuyên của cơ quan nhà nước cấp trên nhằm xem xét mọi hoạt
động c ủa cấp dưới nhằm làm cho các hoạt động nà y được tiến hành theo đúng
pháp luật, chính sách, đúng mục tiêu và đạt kết quả cao ; Giúp phát hiện các sai
sót, lệch lạc, vướng mắc trong hoạt động của cấp dưới để có biệ n pháp khắc
phục, điều chỉnh kịp thời đảm bảo cho các hoạt động diễn ra đúng hướng.
Thông qua kiểm tra để kiểm chứng xem mọi việc có được thực hiện theo
như kế hoạch đã được vạch ra, theo những nguyên tắc đã được ấn định hay
không. Kiểm tra có nhiệm vụ tìm ra những khuyết điểm và sai lầm để sửa
chữa, ngăn ngừa sự vi phạm, phát hiện các s áng kiến để áp dụng rộng rãi hơn.

c) Thanh tra
Hệ thống các cơ quan thanh tra nhà nước bao gồm các cơ quan thanh tra
theo cấp Hành chính ( Tổng Thanh tra nhà nướ c, Thanh tra tỉnh, thành phố,
12


Thanh tra huyện/quận) và cơ quan thanh tra ở các cơ quan quản lý theo ngành,
lĩnh vực (Bộ, cơ quan ngang bộ và thuộc bộ, thanh tra Sở thuộc UBND tỉnh ).
Thanh tra quản lý nhà nước về DS -KHHGĐ thuộc loại thanh tra chuyên
ngành. Hoạt động thanh tra được thực hiện đối với các cơ quan, tổ chức, cá
nhân trong việc chấp hành pháp luật, những quy định về chuyên môn kỹ thuật ,
quy tắc quản lý về DS-KHHGĐ (như các chuẩn mực thiết yếu đối với từng loại
dịch vụ, chuẩn quốc gia về KHHGĐ….). Thực hiện chức năng này là công việc
của Thanh tra Bộ Y tế, Thanh tra Tổng cục DS-KHHGĐ và Thanh tra các Sở
Y tế. Trong thực tế các cơ quan này không chỉ thực hiện việc thanh tra chuyên
ngành mà còn có nhiệm vụ giúp Thủ trưởng thực hiện thanh tra hành chín h đối
với các cơ quan đơn vị thuộc quyền quản lý của Bộ Y tế, Tổng cục DS KHHGĐ và Sở Y tế.
Hoạt động thanh tra nhằm phòng ngừa, phát hiện và xử lý các hành vi vi
phạm pháp luật về DS-KHHGĐ; phát hiện những sơ hở trong cơ chế, chính
sách, pháp luật để kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền các biện
pháp khắc phục; phát huy những nhân tố tích cực, góp phần nâng cao hiệu lực,
hiệu quả của hoạt động quản lý nhà nước về DS -KHHGĐ, bảo vệ lợi ích của
nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân.
Thanh tra là hoạt động thường xuyên, không chỉ được thực hiện kh i có
đơn tố giác hoặc có vụ việc xảy ra, do vậy mục đích phòng ngừa là mục đích
ưu tiên hàng đầu của thanh tra.
Hoạt động thanh tra phải tuân thủ pháp luật, đảm bảo chính xác, khách
quan, trung thực, công khai, dân chủ, kịp thời, không làm cản trở hoạt động
bình thường của cơ quan, tổ chức, cá nhân là đối tượng của thanh tra .
d) Đánh giá

Đánh giá là một chức năng quan trọng của quản lý nói chung và quản lý
nhà nước về DS-KHHGĐ nói riêng, là khâu cuối và không thể thiếu của quá
trình quản lý. Đánh giá là một hoạt động khoa học, có tính khái quát mà bản
chất là sự so sánh giữa các phần việc, kết quả đã đạt được sau một khoảng thời
gian nhất định với các mục tiêu đề ra để xem xét mức độ đ ạt được mục tiêu về
DS-KHHGĐ.
e) Điều phối
Điều phối là một quá tr ình lồng ghép các hoạt động của nhiều đối tượng
quản lý khác nhau (bao gồm các đối tượng quản lý trong và ngoài đơn vị )

13


nhằm đảm bảo cho các hoạt động được tiến hành đồng bộ, tuân theo trật tự, tạo
nên sự cộng hưởng trong việc thực hiện mục đích đề ra.
Điều phối l à chức năng tách biệt của nhà quản lý, song nên coi điều phối
là thực chất của việc quản lý. Bởi vì, phối hợp việc thực hiện các chức năng
quản lý chính là mục đích của quản lý.
Điều phối tốt sẽ sử dụng có hiệu quả hơn các nguồn lực, cải thiện cung
cấp dịch vụ, chia sẻ thông tin và bài học kinh nghiệm, mở rộng phạm vi hoạt
động và tiếp cận có hiệu quả hơn đến các nhóm đối tượng.
Trong công tác DS-KHHGĐ, việc phối hợp đã trở thành mộ t nhiệm vụ
trung tâm nhằm tăng cường năng lực thực hiện công tác DS-KHHGĐ để đóng
góp vào mục tiêu chung của chương trình. Công tác DS -KHHGĐ sẽ hiệu quả
hơn nếu được sự phối hợp thực hiện tốt giữa cơ quan quản lý và cơ quan thực
hiện ở các cấp. Việc phối hợp được thể hiện rõ không chỉ trong tổ chức thực
hiện kế hoạch mà còn ở tất cả các khâu khác trong quá trình quản lý như lập kế
hoạch, điều hành, xây dựng tổ chức, lãnh đạo, kiểm tra, giám sát việc thực hiện
kế hoạch cũng như đánh giá việc thực hiện các mụ c tiêu chung của chương
trình đã được đề ra.

4. Mục tiêu quản lý nhà nước về DS-KHHGĐ
4.1. Khái niệm
Mục tiêu quản lý nhà nước về DS-KHHGÐ là trạng thái DS -KHHGÐ
mong muốn, phải đạt tới tại một thời điểm nào đó trong tương lai hoặc sau một
thời gian nhất định.
Những mục tiêu này phải thể hiện một cách tập trung những biến đổi
quan trọng nhất về quy mô, cơ cấu, phân bổ và chất lượng dân số.
4.2. Vai trò của mục tiêu quản lý Nhà nước về DS-KHHGĐ
- Mục tiêu là điểm xuất phát quyết định diễn biến và hoạt động của toàn
bộ quá trình QLNN về DS -KHHGÐ của toàn hệ thống.
- Hệ thống các mục tiêu quản lý là căn cứ quan trọng để hình thành tổ
chức bộ máy làm công tác DS-KHHGÐ.
- Mục tiêu là cơ sở của mọi tác động QLNN. Từ mục tiêu, các cơ quan
QLNN về DS-KHHGÐ đề ra các giải pháp, quyết định để thực hiện mục tiêu.
- Mục tiêu quản lý phản ảnh và quy tụ lợi ích của Nhà nước, cộng đồng
và của từng gia đình.
14


Xác định đúng và phấn đấu đạt được các mục đích đã đề ra sẽ đảm bảo
đạt được các lợi ích của Nhà nước, xã hội và c á nhân.
4.3. Hệ thống mục tiêu quản lý Nhà nước về DS-KHHGĐ
Trong công tác DS-KHHGÐ có các mục tiêu trước mắt, mục tiêu quá độ
và mục tiêu lâu dài (có tính chiến lược).
Mục tiêu lâu dài, mục tiêu có tính chiến lược là cơ sở, là định hướng để
hoạch định sắp xếp các mục tiêu quá độ và trước mắt. Ngược lại, phải thực
hiện tốt các mục tiêu cụ thể ở từng thời điểm mới có thể đạt được mục tiêu lâu
dài. Trong thực tiễn, đó là mục tiêu của chiến lược (10 năm), mục tiêu của
chương trình mục tiêu quốc gia (5 năm) và mục tiêu hàng năm.
Theo cấp quản lý nhà nước : có mục tiêu DS -KHHGÐ chung của cả nước,

mục tiêu của từng ngành (giáo dục, công an, quân đội...) và của từng địa
phương. Mục tiêu của cả nước là cơ sở để hoạch định mục tiêu của các ngành
và các địa phương. Thực hiện tốt mục tiêu của các ngành, các địa phương mới
thực hiện được mục tiêu chung của cả nước.
Theo nội dung hoạt động QLNN cụ thể : có các loại mục tiêu về quy mô
dân số, cơ cấu dân số, phân bổ dân cư và nâng cao chất lượng dân số.
4.3.1. Về quy mô dân số
Kiểm soát quy mô dân số “..thực hiện gia đình ít con, tiến tới ổn định mô
dân số một cách hợp lý..” thông qua chương trình KHHGĐ nhằm tạo thuận lợi
cho sự nghiệp phát triển đất nước và nâng cao chất lượng cuộc sống cho nhân
dân luôn là mục tiêu được quan tâm hàng đầu trong lĩnh vực DS-KHHGÐ của
Nhà nước ta từ khi bắt đầu công tác DS -KHHGÐ cho đến nay.
- Giai đoạn 1961-1975: Trong giai đoạn này, mục tiêu của công tác DS KHHGĐ là hướng tới quy mô gia đình 3 con, đẻ thưa, đẻ muộn nhằm bảo vệ sức
khỏe bà mẹ, nuôi dạy con cái được chu đáo, bảo đảm hạnh phúc và sự hòa thuận
của gia đình thông qua cuộc vận động sinh đẻ có kế hoạch đối với phụ nữ trong
độ tuổi sinh đẻ, trước hết trong nữ công nhân viên chức Nhà nước, lực lượng
vũ trang và tập trung ở vùng đồng bằ ng đông dân.
- Giai đoạn 1975 -1991: Công tác DS-KHHGĐ được xác định là vị trí
quốc sách trong sự nghiệp phát triển đất nước.
Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng tại Đại hội Đảng
lần thứ IV đã xác định "Mọi ngành, mọi cấp phải coi trọng cuộ c vận động sinh đẻ
có kế hoạch là công tác có tầm quan trọng to lớn, có ý nghĩa chính trị, kinh tế và

15


xã hội, góp phần tích cực vào việc nâng cao đời sống của nhân dân ta” (Văn kiện
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV, NXB Sự thật, Hà nội -1977, trang 72).
Mục tiêu cuộc vận động trong giai đoạn này là đẻ ít (2 đến 3 con), đẻ muộn
(từ 22 tuổi trở lên) và đẻ thưa (cách nhau từ 3 đến 5 năm).


- Giai đoạn từ 1991 đến năm 2000:
+ Đại hội Đảng lần thứ VII xác định vị trí, vai trò và yêu cầu đối với công
tác DS-KHHGĐ là “giảm tốc độ gia tăng dân số là một quốc sách, phải trở thành
cuộc vận động rộng lớn, mạnh mẽ và sâu sắc trong toàn dân” (Văn kiện Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ VII, NXB Sự thật, Hà nội -1991, trang 76).
+ Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư số 04-NQ/HNTW ngày 14/1/1993 của
Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VII về chính sách DS -KHHGĐ xác định:
Mục tiêu tổng quát của chính sách DS-KHHGĐ là “Thực hiện gia đình ít
con, khoẻ mạnh, tạo điều kiện để có cuộc sống ấm no, hạnh phúc”;
Mục tiêu cụ thể là “Mỗ i gia đình chỉ có một hoặc hai con, để tới năm 2015
bình quân trong toàn xã hội mỗi gia đình (một cặp vợ chồng) có 2 con, tiến tới ổn
định quy mô dân số từ giữa thế kỷ 21.

+ Chiến lược DS-KHHGÐ đến năm 2000 đã cụ thể hóa thông qua việc
xác định mục tiêu c ụ thể cho giai đoạn này là: Giảm nhanh tỉ lệ sinh con thứ ba
trở lên để đến năm 2000, tổng tỉ suất sinh ( số con trung bình của một phụ nữ
trong độ tuổi sinh đẻ ) đạt mức 2,9 hoặc thấp hơn và quy mô dân số dưới 82
triệu người .
Thực tế, nhờ triển khai đồng bộ các giải pháp của chiến lược này chúng
ta đã đạt vượt mức mục tiêu cụ thể đã đề ra trong chiến lược DS -KHHGÐ đến
năm 2000. Theo tổng điều tra dân số 1/4/1999, dân số nước ta là 76,3 triệu
người, tổng tỉ suất sinh là 2,3 con, thấp hơn nhiều so với mức dự k iến.
- Giai đoạn 2001-2010:
+ Quyết định số 147/2000/QĐ -TTg ngày 22/12/2000 của Thủ tướng Chính
phủ về việc phê duyệt Chiến lược Dân số Việt Nam giai đoạn 2001 -2010 xác
định, mục tiêu cụ thể là “Duy trì xu thế giảm sinh một cách vững chắc để đạt mức
sinh thay thế bình quân trong toàn quốc chậm nhất vào năm 2005, ở vùng sâu,
vùng xa và vùng nghèo chậm nhất vào năm 2010 để quy mô dân số, cơ cấu dân số
và phân bố dân cư phù hợp với sự phát triển kinh tế - xã hội vào năm 2010…”.

+ Nghị quyết số 47-NQ/TW ngày 22/3/2005 của Bộ Chính trị về tiếp tục
đẩy mạnh thực hiện chính sách DS-KHHGĐ, nêu rõ mục tiêu về quy mô dân số:
16


“Nhanh chóng đạt mức sinh thay thế, tiến tới ổn định quy mô dân số ở mức
115-120 triệu người vào giữa thế kỷ 21”.
Với các chỉ tiêu cụ thể về quy mô dân số phải đạt được vào năm 2010:
Tổng tỉ suất sinh đạt mức thay thế, giảm tỉ lệ phát triển dân số tự nhiên xuống
1,1%, dân số cả nước không quá 88 triệu người.
Kết quả tổng điều tra dân số 1/4/2009 cho thấy, quy mô dân số là 85,759
triệu người, tỉ lệ phát triển dân số bình quân giai đoạn 10 năm 1999 -2009 là
1,2%, số dân tăng thêm trung bình mỗi năm là 947 ngàn người. Từ kết quả này
suy ra, chúng ta đã đạt và vượt các mục tiêu về dân số đã đề ra cho giai đoạn
10 năm 2001-2010. Nếu tiếp tục duy trì nỗ l ực, trong những năm tiếp theo,
cộng với tác động thuận chiều của những yếu tố KT-XH của những năm tới,
chúng ta hoàn toàn có khả năng đạt được mục tiêu về quy mô dân số là ổn định
quy mô dân số ở mức thấp hơn đáng kể so với mức 115 -120 triệu mà Nghị
quyết số 47 -NQ/TƯ đã đề ra.
4.3.2. Về cơ cấu dân số
- Giai đoạn 1961 -2000: Các mục tiêu cụ thể về cơ cấu dân số là tạo điều
kiện phát triển dân số của các dân tộc thiểu số có nguy cơ suy giảm (người
Rục, người Brâu); phát triển giáo dục, đào tạo nghề, tạo công ă n việc làm để sử
dụng có hiệu quả lực lượng dân số trong độ tuổi lao động.
- Giai đoạn 2001 đến nay : Bên cạnh việc tiếp tục giải quyết những mục
tiêu như các giai đoạn trước, sau năm 2005, mục tiêu về cơ cấu dân số được
mở rộng thêm nội dung :
+ Kiểm soát tỷ số giới tính khi sinh (TSGTKS) nhằm hạn chế dần việc
mất cân bằng giới tính khi sinh, tiến tới đưa tỉ số này trở lại mức cân bằng
(105-106 trẻ sơ sinh trai/100 trẻ sơ sinh gái) vào năm 2025. Tỷ số giới tính khi

sinh ở nước ta tăng liên tục từ mức 109 bé trai/100 bé gái năm 2005 lên
111,2/100 năm 2010 và 111,9/100 năm 2011. Mất cân bằng giới tính khi sinh
trở thành vấn đề ”nóng” và dự kiến sẽ tiếp tục tăng .
+ Tăng cường chăm sóc sức khỏe người cao tuổi thông qua việc tăng tỷ
lệ các cơ sở y tế tuyến huyện t rở lên có điểm cung cấp dịch vụ chăm sóc sức
khỏe người cao tuổi; tăng tỷ lệ người cao tuổi được tiếp cận dịch vụ chăm sóc
sức khỏe dựa vào cộng đồng . Tỷ trọng dân số người cao tuổi (NCT – 60+) ngày
càng tăng từ 7,2% năm 1989 lên 8,1% năm 1999 và 8,68% năm 2009; đến năm
2010 đã là 9,4%. Tỷ trọng NCT 65 + cũng tăng nhanh từ 4,7% năm 1989 lên
5,8% năm 1999 và 6,4 năm 2009; đến năm 2010 đã là 6,8%.
17


4.3.3. Về phân bố dân số
- Giai đoạn 1961 -1986: Các mục tiêu chủ yếu về phân bố dân số được
tập trung quan tâm gi ải quyết bao gồm phân bố lại dân cư giữa các vùng thông
qua chương trình đưa lao động từ các vùng đồng bằng, đô thị quá đông dân,
thừa lao động lên khu vực trung du, miền núi phía Bắc (trước 1975), Tây
nguyên, miền Đông Nam Bộ và Đồng bằng Sông Cửu Long (từ sau 1975) để
khai hoang và xây dựng các vùng kinh tế mới ; đồng thời hạn chế di dân vào
các thành phố lớn. Các cuộc di dân phân bố lại dân cư đó đều được thực hiện
theo các kế hoạch với các mục tiêu, chỉ tiêu cụ thể trong các kế hoạch phát
triển kinh tế – xã hội 5 năm và hàng năm.
- Giai đoạn từ 1986 đến nay: Dưới tác động của những thay đổi căn bản
của cơ chế quản lý , thực hiện cơ chế thị trường và nền kinh tế nhiều thành phần
các chính sách và mục tiêu phân bố dân cư thông qua di dân của nhà nước ta
cũng có những chuyển hướng nhằm nâng cao hiệu quả của việc phân bố lại dân
cư phù hợp với sự phát triển KT -XH đất nước trong giai đoạn mới. Các mục tiêu
chủ yếu về phân bố dân cư trong giai đoạn này gồm:
+ Đảm bảo di cư đáp ứng nhu cầu lao động của sự phát tri ển công nghiệp.

+ Thực hiện bố trí, sắp xếp lại dân cư vùng khó khăn, vùng đặc biệt khó
khăn về đời sống, vùng biên giới, hải đảo, vùng suy yếu và rất suy yếu của
rừng phòng hộ, khu bảo vệ nghiê m ngặt của rừng đặc dụng.
+ Thực hiện định canh, định cư, phấn đấu đến năm 2010, hoàn thành cơ
bản việc định canh, định cư cho các hộ đồng bào dân tộc thiểu số còn du canh,
du cư trên phạm vi cả nước; 70% số điểm định canh, định cư tập trung (thôn,
bản) có đủ các công trình cơ sở hạ tầng thiết yếu phù hợp với quy hoạ ch chung
(đường giao thông, điện, lớp học, nhà sinh hoạt cộng đồng v..v… ). 100% số hộ
đồng bào dân tộc thiểu số du canh, du cư được tổ chức định canh, định cư theo
qui hoạch có nhà ở, đất ở, đất sản xuất, nước sinh hoạt ; trong đó, trên 70% số
hộ được sử dụ ng điện, nước sinh hoạt hợp vệ sinh.
4.3.4. Về chất lượng dân số
Trước năm 2000, mục tiêu về chất lượng dân số không được đặt ra rõ
ràng, cụ thể.
Giai đoạn 2001-2010, mục tiêu về chất lượng dân số được xác định rõ,
cụ thể là: “Nâng cao chất lượng dân số v ề thể chất, trí tuệ và tinh thần đáp ứng
nhu cầu về nguồn nhân lực chất lượng cao cho sự nghiệp công nghiệp hoá,
18


hiện đại hoá đất nước , phấn đấu đạt chỉ số phát triển con người (HDI) ở mức
trung bình tiên tiến thế giới vào năm 2010” 1 .
Bảng 1: Một số chỉ t iêu chính về chất lượng dân số Việt nam
Chỉ báo kiểm định mục tiêu

TT

Mục tiêu của
Chiến lược
đến năm 2010


Kết quả
đạt được đến
năm 2009

0.70 – 0.75

0.725

1

Chỉ số phát triển con người (HDI – điểm)

2

Tuổi thọ trung bình (tuổi)

71

72,8

3

1,1

1,09

4

Tỷ lệ phát triển dân số tự nhiên (%)

Tỷ suất chết trẻ em dưới 1 tuổi (‰)

25

16

5

GDP đầu người (% so với hiện nay)

200

350

6

Tuổi thọ trung bình (tuổi)

71

72,8

7

Số năm học trung bình (năm) – năm 2006*

9

9,6 *


8

Tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi (%)

25

18,9

9

Tỷ lệ hiện nhiễm HIV (%)

0,3

0,276

10

5,0

4,6

11

Tỷ lệ thất nghiệp thành thị (%)
Tỷ lệ lao động đã qua đào tạo (%)

40

40


12

Tỷ số giới tính khi sinh (số bé trai/100 bé gái)

110,5/100

Nguồn: Kết quả TĐT Dân số và nhà ở năm 2009 - TCTK
5. Nguyên tắc quản lý nhà nước về DS -KHHGĐ
5.1. Khái niệm
Các nguyên tắc quản lý nhà nước về DS -KHHGĐ là các quy tắc chỉ đạo,
những tiêu chuẩn hành vi mà các cơ quan quản lý Nhà nước phải tuân thủ
trong quá trình quản lý lĩnh vực DS -KHHGĐ.
Để thực hiện tốt các chức năng quản lý nhà nước về DS -KHHGĐ, đòi hỏi
trong quá trình quản lý các nguyên tắc cần phải đáp ứng các yêu cầu cơ bản sau:
- Phù hợp với mục tiêu quản lý về DS -KHHGĐ;
- Phản ánh đúng tính chất và các quan hệ quản lý trong lĩnh vực DS KHHGĐ, bao gồm cả tính chất và quan hệ chung, phổ biến của quản lý nhà
nước nói chung và tính chất, quan hệ đặc thù riêng biệt của quản lý nhà nước
về DS-KHHGĐ;
1

quyết định số 147/2000/QĐ -TTg ngày 22/12/2000 của Thủ tướng Chính phủ Chiến lược Dân số
Việt Nam giai đoạn 2001-2010

19


- Phải đảm bảo tính hệ thống nhất quán và được đảm bảo bằng pháp luật
nhà nước;
- Phải phù hợp môi trường toà n cầu hoá và hội nhập ngày càng sâu, rộng

vào đời sống chính trị - kinh tế quốc tế.
5.2. Các nguyên tắc quản lý DS-KHHGĐ của nhà nước ta
5.2.1. Đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác DS -KHHGĐ
Đảng ta là Đảng cầm quyền. Đảng lãnh đạo toàn diện sự nghi ệp xây
dựng và bảo vệ tổ quốc. Sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định sự tồn tại
của nhà nước cũng như sự ổn định và phát triển đất nước. Công tác DSKHHGĐ là công tác khó khăn, phức tạp và lâu dài. Để đảm bảo thành công, và
thành công vững chắc trong lĩnh vực DS-KHHGĐ nhất thiết phải tăng cường
vai trò lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp uỷ Đảng.
Nguyên tắc này đòi hỏi trong quá trình tổ chức và hoạt động quản lý nhà
nước về DS-KHHGĐ ở các cấp phải thừa nhận và chịu sự lãnh đạo của Đảng.
Nội dung lãnh đạo củ a Đảng đối với quản lý nhà nước về DS -KHHGĐ thể hiện
tập trung ở những nội dung chủ yếu sau:
- Lãnh đạo, chỉ đạo việc xây dựng, ban hành và tổ chức thực hiện các
chính sách, pháp luật, chiến lược, chương trình, kế hoạch về DS -KHHGĐ;
- Lãnh đạo, chỉ đạo việc xây dựng tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về
DS-KHHGĐ, bố trí cán bộ chủ trì các cơ quan quản lý này;
- Lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện công tác kiểm tra, thanh tra thực hiện
chính sách, pháp luật, kiểm tra đánh giá việc thực hiện các mục tiêu DS KHHGĐ;
- Đảm bảo cán bộ, Đảng viên gương mẫu thực hiện chính sách, pháp luật
về DS -KHHGĐ, đồng thời tích cực vận động nhân dân tham gia, thực hiện.
Hình thức thực hiện sự lãnh đạo của Đảng là ban hành các Nghị quyết
đại hội, Nghị quyết Ban chấp hành, cấp uỷ Đảng các cấp; phổ biến triển khai,
kiểm điểm đánh giá việc thực hiện các Nghị quyết đối với các tổ chức Đảng,
cơ quan chính quyền nhà nước, tổ chức chính trị-xã hội, tổ chức xã hội và đoàn
thể quần chúng.
5.2.2. Tôn trọng quy luật khách quan
Mọi sự vật và hiên tượng trong tự nhiên và xã hội bao gồm cả các yếu tố
và quá trình dân số đều tồn tại và vận động theo các quy luật khách quan.

20



Các quy luật dân số là mối liên hệ bản chất, tất nhiên phổ biến, bền
vững, lặp đi, lặp lại của các hiện tượng dân số, trong những điều kiện nhất
định. Ví dụ: Quy luật quá độ dân số, quy luật “bùng nổ dân số” sau chiến tranh,
quy luật hút, đẩy chi phối quá trình di dân…
Để có thể quản lý được các yếu tố quy mô, cơ cấu , phân bố và chất
lượng dân số trên cơ sở tác động đến các hành vi của c ác cá nhân, đòi hỏi phải
nhận thức được các quy luật về dân số.
Tôn trọng và vận dụng đúng đắn các quy luật khách quan trong quản lý
nhà nước về DS-KHHGĐ đòi hỏi cán bộ, công chức trong các cơ quan quản lý
nhà nước phải có trình độ lý luận, kiến thức về DS -KHHGĐ và các lĩnh vực
liên quan, có bản lĩnh vững vàng cả về chính trị, chuyên môn và phải có quan
điểm lịch sử cụ thể trong xử lý các tình huống quản lý.
5.2.3. Nguyên tắc tập trung dân chủ
Tập trung dân chủ là nguyên tắc quản lý nhà nước nói chung và qu ản lý
nhà nước từng lĩnh vực nói riêng, trong đó có lĩnh vực DS -KHHGĐ. Đó là
phải đảm bảo mối quan hệ chặt chẽ và tối ưu giữa tập trung và dân chủ trong
quản lý nhà nước về DS-KHHGĐ. Tập trung phải trên cơ sở dân chủ, dân chủ
phải thể hiện trong khuôn khổ tập trung.
a) Biểu hiện của tập trung trong quản lý nhà nước về DS -KHHGĐ là:
- Thông qua hệ thống pháp luật, chính sách về DS-KHHGĐ.
- Thông qua công tác kế hoạch hoá (tuân thủ nghiêm ngặt quy trình xây
dựng và chế độ thực hiện các chiến lược, quy hoạch, c hương trình, kế hoạch
dài hạn, trung hạn, ngắn hạn…).
- Thực hiện chế độ một thủ trưởng ở cơ quan quản lý nhà nước về DS KHHGĐ ở tất cả các cấp.
b) Biểu hiện của dân chủ:
- Mở rộng và quy định rõ trách nhiệm, quyền hạn quản lý nhà nước về
DS-KHHGĐ của các cấp. Kết hợp chặt chẽ quản lý theo ngành, quản lý theo
lãnh thổ và địa phương.

- Phát huy đầy đủ quyền chủ động của các địa phương, đơn vị.
Để đảm bảo thực hiện tốt công tác quản lý nhà nước về DS -KHHGĐ
cần phân cấp một cách hợp lý giữa trung ương và địa phương nhằm tăng cường
tính chủ động sáng tạo của chính quyền địa phương và cơ sở. Tránh cả hai
khuynh hướng tập trung quá mức cũng như dân chủ quá trớn.
21


5.2.4. Nguyên tắc tiết kiệm và hiệu quả
Tiết kiệm và hiệu quả là vấn đề mang tính quy luật của mọi tổ chức kinh
tế -xã hội, không riêng gì đối với các cơ quan quản lý nhà nước về DS KHHGĐ.
Tiết kiệm và hiệu quả là hai mặt của một vấn đề . Với nguồn lực có hạn
về nhân lực, vật lực, tài lực và thời gian cần tạo ra được kết quả tốt nhất, nhiều
nhất, nhanh nhất, theo hướng đạt được các mục tiêu về DS -KHHGĐ đã đề ra.
Trong điều kiện các nguồn lực đảm bảo cho công tác DS-KHHGĐ có hạn,
việc đảm bảo tiết kiệm và hiệu quả trong triển khai thực hiện các hoạt động quản
lý nhà nước có ý nghĩa hết sức quan trọng. Để thục hiện nguyên tắc này trong
hoạt động quản lý nhà nước về DS-KHHGĐ cần chú ý một số điểm sau:
- Lựa chọn các giải pháp với các chi phí thấp nhưng mang lại kết quả tốt,
hiệu quả cao, chẳng hạn như sủ dụng trong chương trình KHHGĐ các biện
pháp giá thấp như vòng tránh thai, triệt sản, thuốc uống, thuốc tiêm, bao cao
su... Nhưng vẫn đảm bảo đáp ứng yêu cầu về tính đa dạng, an toàn, thuận tiện
và chất lượng cao; Lồng ghép các hoạt động truyền thông vào các sinh hoạt
văn hóa dân gian, các sản phẩm tiêu dùng phổ b iến…
- Khuyến khích việc nghiên cứu, phát huy s áng kiến trong tổ chức các
hoạt động về DS-KHHGĐ.
- Thực hiện tốt các quy định về mua sắm và quản lý tài sản công (kinh
phí, vật tư, trang thiết bị chuyên dụng và làm việc).
- Thực hiện tốt công tác phòng chốn g tham nhũng, lãng phí trong hệ
thống các cơ quan quản lý nhà nước về DS -KHHGĐ các cấp.

Tuy nhiên cần lưu ý, đảm bảo tiết kiệm và hiệu quả không đồng nghĩa
với hạn chế chi tiêu mà là chi tiêu đúng mức, đúng việc, đúng lúc. Khi cần thiết
phải tăng chi phí mới đủ mức tạo ra sự thay đổi hoặc để đạt kết quả nhanh hơn,
nhiều hơn, cũng có lúc thực hiện sớm (ví dụ: tổ chức chiến dịch lồng ghép
truyền thông và dịch vụ vào tháng đầu, quý đầu) sẽ có hiệu quả cao hơn.
5.2.5. Nguyên tắc kết hợp hài hoà các lợi ích
Lợi ích là linh hồn của mọi quá trình quản lý. Lợi ích vừa là mục tiêu
vừa là động lực thúc đẩy mọi hoạt động của cá nhân, các nhóm xã hội. Do đó,
trong quản lý nhà nước về DS-KHHGĐ phải chú ý đến lợi ích về vật chất và
tinh thần của con người, để khuyến khích có hiệu quả tính tích cực và sáng tạo
của họ.

22


Nội dung của nguyên tắc: Phải kết hợp hài hoà các lợi ích của các cá
nhân, xã hội và Nhà nước nhằm tạo ra động lực mạnh mẽ thúc đẩy phong trào
nhân dân thực hiện công tác DS-KHHGĐ, đạt được mục tiêu nhanh chón g và
bền vững.
Lợi ích của các bên liên quan trong công tác dân số:
- Lợi ích của nhà nước: Kiểm soát được quy mô, cơ cấu dân số, thực
hiện phân bố dân cư hợp lý, nâng cao chất lượng dân số cho phù hợp với chiến
lược phát triển kinh tế-xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân.
- Lợi ích của các cá nhân và gia đình : Đảm bảo các quyền tự do cá
nhân, đồng thời có được cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho mỗi cá nhân và gia
đình, đạt đư ợc sự phát triển toàn diện của cá nhân.
- Lợi ích của các cộng đồng, xã hội: Đời sống vật chất và tinh thần của
các thành viên trong cộng đồng, tổ chức được nâng cao, đời sống và sinh hoạt
của cộng đồng phát triển hài hoà.
Đảng và Nhà nước ta hết sức quan tâm đến việc đảm bảo kết hợp hài hoà

lợi ích của nhà nước, lợi ích của cộng đồng, xã hội và cá nhân trong công tác
DS-KHHGĐ bằng hệ thống các giải pháp về tuyên truyền, giáo dục kết hợp với
cung cấp dịch vụ và có chính sách đưa lại lợi ích trực tiếp cho các cá nhân và gia
đình. Đảng ta khẳng định “giải pháp cơ bản để thực hiệ n công tác DS-KHHGĐ
là vận động, tuyên truyền và giáo dục gắn liền đưa dịch vụ KHHGĐ đến tận
người dân; có chính sách mang lại lợi ích trực tiếp cho người chấp nhận gia đình
ít con, tạo động lực thúc đẩy phong trào quần chúng thực hiện KHHGĐ” 2. Nội
dung này cũng được nêu trong Pháp lệnh dân số “Kết hợp giữa quyền và lợi ích
của cá nhân, gia đình và lợi ích của cộng đồng và toàn xã hội” 3.
Thực tiễn công tác DS -KHHGĐ trong thời gian qua, nguyên tắc này đã
được thực hiện tốt. Đó là một trong những nguyên nhân quan trọng đảm bảo
công tác DS-KHHGĐ đạt được kết quả nhanh và bền vững.
5.2.6. Đảm bảo nhân quyền
Trong quản lý nhà nước về DS -KHHGĐ, nhà nước ta luôn luôn thực
hiện đúng cam kết của mình trong các điều ước, công ước quốc tế mà nhà nước
đã ký kết, gia nhập như công ước về quyền con người, trong đó xác định các cá
nhân có quyền trong sinh sản và cư trú. Do đó, một trong những nguyên tắc
căn bản của quản lý nhà nước về DS-KHHGĐ là phải đảm bảo nhân quyền.
2
3

Nghị quyết BCHTW 4, khoá VII về chính sách DS-KHHGĐ.
Pháp lệnh dân số: khoản 3, điều 2.

23


Nội dung của nguyên tắc là “đảm bảo việc chủ động, tự nguyện và bình
đẳng của mỗi cá nhân, gia đình trong kiểm soát sinh sản, chăm sóc sức khoẻ
sinh sản, lựa chọn nơi cư trú và thực hiện các biện pháp nâng cao chất lượng

dân số”4 .
Biện pháp chủ yếu mà các cơ quan Nhà nước sử dụng để quản lý là tiến
hành các hoạt động tuyên truyền, vận động, giáo dục các gia đình, cá nhân và
cộng đồng nhằm làm chuyển biến về nhận thức và thái độ của cá nhân, cộng
đồng và toàn xã hội, trên cơ sở đó chủ động và tự nguyện thực hiện các hành vi
về DS-KHHGĐ vì lợi ích của chính bả n thân, gia đình và lợi ích của cộng
đồng, xã hội.
Mặt khác, Nhà nước cũng sử dụng quyền lực để trấn áp bất kỳ tổ chức,
cá nhân nào cản trở hoặc xâm hại đến quyền chủ động, tự nguyện, bình đẳng
của các cá nhân, gia đình trong kiểm soát sinh sản, chăm sóc s ức khoẻ sinh sản
và thực hiện các biện pháp nâng cao chất lượng dân số. Điều này thể hiện bản
chất tốt đẹp, tính chất của dân, do dân và vì dân của Nhà nước ta.
5.2.7. Quán triệt vận dụng các nguyên tắc
Các nguyên tắc quản lý Nhà nước về DS -KHHGĐ cơ bản trên đây mang
tính quy luật. Nó định hướng cho hoạt động của các cơ quan quản lý Nhà nước
về DS -KHHGĐ ở các cấp. Để quán triệt và vận dụng các nguyên tắc nêu trên
một cách đúng đắn và có hiệu quả, cần chú ý một số vấn đề sau:
- Coi trọng đúng mức việc hoàn t hiện hệ thống nguyên tắc quản lý nhà
nước về DS-KHHGĐ. Các nguyên tắc vừa mang tính khách quan vừa có tính
chủ quan. Nhận thức của các cơ quan quản lý luôn có hạn, trong khi các quá
trình DS-KHHGĐ luôn vận động và biến đổi trong mối tương tác qua lại với
môi trường kinh tế-xã hội cũng biến động không ngừng, vì vậy phải tích cực
nghiên cứư lý luận và tổng kết kinh nghiệm thực tiễn công tác DS -KHHGĐ
nhằm hoàn thiện các nguyên tắc quản lý phù hợp.
- Vận dụng tổng hợp các nguyên tắc. Mỗi nguyên tắc quản lý nêu trên
đều có mục đích, nội dung và yêu cầu riêng đối với quá trình quản lý nhà nước
về DS-KHHGĐ, đồng thời chúng lại tạo thành một hệ thống thống nhất. Trong
thực tiễn quản lý nhà nước về DS -KHHGĐ phải nắm vững từng nguyên tắc
cũng như cả hệ thống nguyên tắ c, quán triệt đầy đủ các nguyên tắc này trong
quá trình thực hiện các chức năng, nhiệm vụ quản lý của cơ quan quản lý nhà

4

Pháp lệnh dân số, khoản 2, điều 2.

24


nước về DS-KHHGĐ xây dựng pháp luật chính sách, lựa chọn sử dụng các
công cụ và phương pháp quản lý.
- Lựa chọn hình thức và phương ph áp vận dụng, nguyên tắc cho phù hợp
với đối tượng quản lý, cấp quản lý và những điều kiện kinh tế -xã hội cụ thể,
tạo cơ sở nâng cao chất lượng và hiệu quả quản lý nhà nước về DS -KHHGĐ.
6. Phương pháp quản lý nhà nước về DS-KHHGĐ
Các mục tiêu quản lý, các q uy luật, các nguyên tắc quản lý đã giúp cho
chủ thể quản lý trả lời được câu hỏi “phải làm gì ”, “làm như thế nào ”. Để trả
lời được câu hỏi này, chủ thể quản lý cần có các phương pháp quản lý thích
hợp. Các phương pháp quản lý có liên quan chặt chẽ với mục tiêu quản lý và
nguyên tắc quản lý. Chúng xác định con đường, cách thức và biện pháp cụ thể
để đạt được mục tiêu quản lý.

Mục tiêu
quản lý
Các nguyên
tắc quản lý

Các phương
pháp quản


Nghệ thuật

quản lý

Đòi hỏi
của các
quy luật

Sơ đồ 2. Mối quan hệ giữa mục tiêu,
nguyên tắc và phương pháp quản lý
6.1. Khái niệm
Phương pháp quản lý Nhà nước về DS -KHHGĐ là tổng thể các cách
thức tác động có thể có và có chủ đích của Nhà nước (chủ thể quản lý) đối vối
các tổ chức, cá nhân (đối tượng quản lý) và khách thể quản lý nhằm thực hiện
các mục tiêu về DS -KHHGĐ; là biểu hiện cụ thể mối quan hệ giữa Nhà nước
và các cơ quan của nó với các đối tượng quản lý về DS -KHHGĐ.
Phương pháp quản lý có vai trò quan trọng trong hệ thống quản lý.
Trong điều kiện nhất định, nó có vai trò quyết định quan trọng đến sự thực hiện
25


×