Tải bản đầy đủ (.pdf) (16 trang)

Hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với tên thương mại theo luật sở hữu trí tuệ năm 2005 (tt)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (350.95 KB, 16 trang )

I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

HONG MINH THY

HàNH VI XÂM PHạM QUYềN Sở HữU CÔNG NGHIệP
ĐốI VớI TÊN THƯƠNG MạI
THEO LUậT Sở HữU TRí TUệ NĂM 2005

LUN VN THC S LUT HC

H NI - 2015


I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

HONG MINH THY

HàNH VI XÂM PHạM QUYềN Sở HữU CÔNG NGHIệP
ĐốI VớI TÊN THƯƠNG MạI
THEO LUậT Sở HữU TRí TUệ NĂM 2005

Chuyờn ngnh: Lut Dõn s v T tng dõn s
Mó s: 60 38 01 03

LUN VN THC S LUT HC

Cỏn b hng dn khoa hc: TS. NGUYN TH QU ANH

H NI - 2015




MỤC LỤC

Trang
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
Danh mục bảng
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 3
Chƣơng 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ QUYỀN SỞ HỮU CÔNG
NGHIỆP ĐỐI VỚI TÊN THƢƠNG MẠI VÀ HÀNH VI
XÂM PHẠM QUYỀN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP ĐỐI VỚI
TÊN THƢƠNG MẠI ....................................................................... 9
1.1.

Khái quát chung về quyền sở hữu công nghiệp đối với tên
thƣơng mại........................................................................................ 9

1.1.1.

Khái niệm tên thương mại ................................................................. 9

1.1.2.

Khái niệm quyền sở hữu công nghiệp đối với tên thương mạiError! Bookmark

1.1.3.

Nội dung quyền sở hữu công nghiệp đối với tên thương mạiError! Bookmark


1.2.

Khái quát chung về hành vi xâm phạm quyền sở hữu công
nghiệp đối với tên thƣơng mại ...... Error! Bookmark not defined.

1.2.1.

Khái niệm hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối
với tên thương mại ........................... Error! Bookmark not defined.

1.2.2.

Các yếu tố tạo thành hành vi xâm phạm quyền SHCN đối với
TTM ................................................. Error! Bookmark not defined.

1.2.3.

Quy định về hành vi xâm phạm quyền SHCN đối với TTM trong

pháp luật Việt Nam từ trước khi ban hành Luật SHTT 2005Error! Bookmark no
1.2.4.

Ý nghĩa của việc xác định hành vi xâm phạm quyền sở hữu
công nghiệp đối với tên thương mại Error! Bookmark not defined.

Kết luận Chƣơng 1 ........................................ Error! Bookmark not defined.

1



Chƣơng 2: NHỮNG QUY ĐỊNH VỀ HÀNH VI XÂM PHẠM QUYỀN
SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP ĐỐI VỚI TÊN THƢƠNG MẠI
THEO LUẬT SỞ HỮU TRÍ TUỆ NĂM 2005Error! Bookmark not defined.
2.1.

Các dạng xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với tên
thƣơng mại...................................... Error! Bookmark not defined.

2.1.1.

Hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với tên
thương mại ....................................... Error! Bookmark not defined.

2.1.2.

Hành vi cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến tên thương mạiError! Bookmar

2.2.

Căn cứ xác định hành vi xâm phạm quyền sở hữu công
nghiệp đối với tên thƣơng mại ...... Error! Bookmark not defined.

2.2.1.

Căn cứ xác định TTM được bảo hộ . Error! Bookmark not defined.

2.2.2.

Yếu tố xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với TTMError! Bookmark n


2.2.3.

Chủ thể thực hiện hành vi ................ Error! Bookmark not defined.

2.2.4.

Địa điểm thực hiện hành vi .............. Error! Bookmark not defined.

Kết luận Chƣơng 2 ........................................ Error! Bookmark not defined.
Chƣơng 3: THỰC TRẠNG XÂM PHẠM QUYỀN SỞ HỮU CÔNG
NGHIỆP ĐỐI VỚI TÊN THƢƠNG MẠI TẠI VIỆT NAM
VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ
HÀNH VI XÂM PHẠM QUYỀN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP
ĐỐI VỚI TÊN THƢƠNG MẠI ..... Error! Bookmark not defined.
3.1.

Thực trạng xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với
TTM tại Việt Nam ......................... Error! Bookmark not defined.

3.2.

Nguyên nhân tồn tại hành vi xâm phạm quyền sở hữu công
nghiệp đối với TTM ....................... Error! Bookmark not defined.

3.3.

Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về hành vi xâm

phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với TTMError! Bookmark not define

Kết luận Chƣơng 3 ........................................ Error! Bookmark not defined.
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ...................... Error! Bookmark not defined.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 11

2


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong bối cảnh nền kinh tế thị trường với đặc trưng cơ bản là cạnh
tranh, việc thiết lập một môi trường cạnh tranh lành mạnh không còn là nhiệm
vụ của Nhà nước – với tư cách là chủ thể quản lý mà còn là nhiệm vụ của
chính các doanh nghiệp – với tư cách là chủ thể trực tiếp thực hiện các hoạt
động kinh doanh trong nền kinh tế đó. Trong môi trường cạnh tranh khốc liệt
ấy, để trụ vững và quan trọng hơn là phát triển, các chủ thể kinh doanh buộc
phải khẳng định được uy tín, vị thế của mình trên thị trường thông qua vô vàn
cách thức, trong đó, tiên quyết nhất là cách thức cá thể hóa hoạt động kinh
doanh của mình và một trong những công cụ pháp lý hữu hiệu nhất phục vụ
cho việc cá thể hóa hoạt động kinh doanh của các chủ thể được pháp luật quy
định chính là tên thương mại.
Có thể khẳng định: tên thương mại là dấu hiệu đầu tiên để phân biệt
giữa chủ thể kinh doanh này với chủ thể kinh doanh khác trong cùng một lĩnh
vực và khu vực kinh doanh. Tuy nhiên, cùng với quá trình hội nhập, hoạt
động kinh doanh của các chủ thể không còn bó hẹp trong phạm vi một khu
vực, giới hạn trong phạm vi một lĩnh vực nhất định mà mở rộng ra phạm vi
liên khu vực và đa lĩnh vực kinh doanh. Điều đó đặt ra nhiều đòi hỏi, thách
thức cho doanh nghiệp, không chỉ là nỗ lực trong sự vận động tự thân của
chính doanh nghiệp mà còn trong việc đối phó, ngăn chặn những hành vi trục
lợi thông qua việc sử dụng tên tuổi của doanh nghiệp từ các đối thủ cạnh
tranh, thậm chí là từ chính bạn hàng của doanh nghiệp.

Tình trạng doanh nghiệp bị “nhái”, bị “bắt chước” tên gọi, bị lợi dụng
danh tiếng, uy tín, thương hiệu thông qua việc sử dụng các chỉ dẫn thương

3


mại, trong đó, điển hình là sử dụng tên thương mại gây nhầm lẫn nhằm mục
đích trục lợi đã không còn xa lạ đối với các doanh nghiệp chân chính, thậm
chí là đối với cả người tiêu dùng. Những vụ việc nổi cộm về hành vi xâm
phạm quyền SHCN đối với tên thương mại như: vụ việc Công ty TNHH Sản
xuất kinh doanh nước mắm Hưng Thịnh bị Cơ sở nước mắm Hưng Thịnh
xâm phạm quyền SHCN đối với tên thương mại Hưng Thịnh diễn ra vào
khoảng cuối năm 2007; vụ việc CTCP Nhựa Bình Minh bị Công ty TNHH
Thương mại Dịch vụ và Sản xuất nhựa Ống Bình Minh (cùng trên địa bàn TP.
Hồ Chí Minh) xâm phạm quyền SHCN đối với tên thương mại và nhãn hiệu
“Bình Minh” diễn ra vào đầu năm 2008; vụ tranh chấp TTM “Winco” và
“Winlaw” giữa Công ty TNHH SHTT Winco và Công ty Luật TNHH Winlaw
diễn ra vào cuối năm 2008; vụ việc CTCP Vincom và CTCP Đầu tư Tài
Chính Bất động sản Vincon tranh chấp TTM “Vincom” và “Vincon” diễn ra
vào cuối năm 2010.....
Trên đây chỉ là những vụ việc nổi cộm được phơi bày trước công chúng
mà trong thực tế, còn rất nhiều hành vi xâm phạm quyền SHCN đối với tên
thương mại được biến tướng dưới nhiều hình thức phức tạp khác mà doanh
nghiệp không thể lường trước hết được. Điều này cho thấy vấn nạn đáng báo
động và phải loại bỏ trong nền kinh tế thị trường mà các doanh nghiệp chân
chính muốn tồn tại, đứng vững và phát triển; Nhà nước, muốn tạo ra một môi
trường cạnh tranh lành mạnh thu hút sự đầu tư từ các doanh nghiệp trong và
ngoài nước thì buộc phải đẩy mạnh việc thực thi pháp luật về bảo hộ quyền
SHCN đối với tên thương mại, như nhiệm vụ mà Ban chấp hành Trung ương
Đảng đã nhấn mạnh trong Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 05/02/2007 về một

số chủ trương, chính sách lớn để nền kinh tế Việt Nam phát triển nhanh và
bền vững khi Việt Nam là thành viên của WTO, đó là: “đẩy mạnh thực thi
pháp luật bảo vệ sở hữu trí tuệ, tạo môi trương thuận lợi cho sáng tạo các

4


giá trị tinh thần xã hội”.
Không thể phủ nhận sự ra đời của đạo luật độc lập về sở hữu trí tuệ –
Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 (được Quốc hội thông qua ngày 29/11/2005, có
hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2006, được sửa đổi, bổ sung một số điều năm
2009, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2010), trong đó quy định chế độ
pháp lý đối với các đối tượng của quyền SHTT, trong đó có tên thương mại –
là một trong những bước đột phá trong việc tạo ra công cụ pháp lý để bảo vệ
quyền và lợi ích chính đáng của doanh nghiệp trong việc xưng danh trong
hoạt động kinh doanh của mình. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy, hệ thống pháp
luật thực thi quyền SHTT nói chung và thực thi quyền SHCN đối với tên
thương mại nói riêng, dường như còn tồn tại nhiều bất cập và hạn chế. Cùng
với sự bất cập trong nội tại pháp luật SHTT điều chỉnh tên thương mại là sự
nhập nhằng, mâu thuẫn trong các văn bản pháp luật khác cùng điều chỉnh chế
độ pháp lý đối với việc xưng danh trong quá trình hoạt động kinh doanh của
các chủ thể kinh doanh mà điển hình là: Luật Cạnh tranh (được Quốc hội
thông qua ngày 03/12/2004, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/07/2005) và Luật
Doanh nghiệp (được Quốc hội thông qua ngày 29/11/2005, có hiệu lực thi
hành từ ngày 01/07/2006). Sự chồng chéo không chỉ trong hệ thống văn bản
pháp luật mà còn tồn tại trong cách thức quản lý, cách thức phân cấp, phân
ngành quản lý của các cơ quan Nhà nước đối với tên của chủ thể kinh doanh.
Chính những bất cập đó đã phần nào tạo ra rào cản trong việc bảo vệ
quyền SHCN đối với tên thương mại của các chủ thể kinh doanh, đặc biệt là
trong việc xác định hành vi xâm phạm quyền SHCN đối với tên thương mại –

một trong những nội dung quan trọng của việc thực thi quyền SHCN đối với
tên thương mại; một trong những căn cứ quan trọng để áp dụng các biện pháp
xử lý hành vi xâm phạm quyền SHCN đối với tên thương mại một cách phù
hợp, để áp dụng các biện pháp khắc phục thiệt hại về vật chất cũng như tổn
hại về uy tín do hành vi xâm phạm quyền SHCN đối với tên thương mại gây
5


ra cho chủ thể quyền một cách kịp thời.
Nhận thức được tính cấp thiết từ thực tiễn xâm phạm cũng như tầm
quan trọng của việc xác định hành vi xâm phạm quyền SHCN đối với tên
thương mại trong việc thực thi quyền SHCN đối với tên thương mại cùng với
đòi hỏi đặt ra là: phải hoàn thiện hơn nữa hệ thống pháp luật về bảo hộ quyền
SHTT nói chung và bảo hộ quyền SHCN đối với tên thương mại nói riêng, tác
giả quyết định chọn đề tài: “Hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp
đối với tên thương mại theo Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005” để nghiên cứu.
2. Mục đích, nhiệm vụ của Luận văn
 Mục đích nghiên cứu của Luận văn là:
- Phân tích và làm rõ những vần đề lý luận và thực tiễn về hành vi xâm
phạm quyền SHCN đối với TTM;
- Phân tích thực trạng pháp luật Việt Nam về hành vi xâm phạm quyền
SHCN đối với TTM và thực tiễn áp dụng các quy định này;
- Nêu bật những vướng mắc còn tồn tại từ đó đưa ra những giải pháp
nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả của hoạt động áp dụng pháp
luật về hành vi xâm phạm quyền SHCN đối với TTM
 Nhiệm vụ:
- Tìm hiểu một cách khái quát về tên thương mại và quyền SHCN đối
với tên thương mại;
- Tìm hiểu về các loại hành vi và cách thức xác định hành vi xâm phạm
quyền SHCN đối với tên thương mại;

- Liên hệ đối chiếu giữa Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 và một số văn
bản luật khác cùng điều chỉnh tên của chủ thể trong hoạt động kinh doanh;
- Từ thực tiễn áp dụng luật, tìm ra những điểm còn hạn chế, đưa ra một
số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về hành vi xâm phạm quyền SHCN
đối với tên thương mại, góp phần giải quyết tốt tình trạng xâm phạm quyền

6


SHCN đối với tên thương mại trên thực tế.
3. Đối tƣợng, phạm vi và phƣơng pháp nghiên cứu
Bằng các phương pháp nghiên cứu gồm phương pháp thu thập thông
tin, thống kê, so sánh, phân tích, tổng hợp, đánh giá, luận văn tập trung
nghiên cứu về hành vi xâm phạm quyền SHCN đối với tên thương mại ở
Việt Nam đặt trong tương quan các quy định của Luật Sở hữu trí tuệ năm
2005, đồng thời, có sự liên hệ, đối chiếu với quy định của một số ngành luật
khác cùng điều chỉnh về hành vi xâm phạm đối với tên của chủ thể kinh
doanh, bên cạnh đó, có sự so sánh với quy định tương tự trong pháp luật của
một số quốc gia và một số Điều ước Quốc tế trong lĩnh vực này. Ngoài ra,
luận văn cũng đề cập đến thực trạng xâm phạm quyền SHCN đối với tên
thương mại ở nước ta hiện nay để thấy được mặt tích cực cũng như phát hiện
mặt hạn chế còn tồn tại. Thông qua đó, luận văn đề xuất một số giải pháp
nhằm hoàn thiện hơn pháp luật về hành vi xâm phạm quyền SHCN đối với
tên thương mại trong thời gian tới.
4. Tính mới và những đóng góp của đề tài
Vấn đề thực thi quyền SHTT, nhìn chung, là một vấn đề tương đối mới
mẻ trong hệ thống pháp luật Việt Nam, do đó, SHTT nói chung và quyền
SHCN nói riêng hiện nay dành được rất nhiều sự quân tâm của nhiều nhà
nghiên cứu và các chuyên gia. Vấn đề thực thi quyền SHCN đối với tên
thương mại được nghiên cứu ở các mức độ khác nhau, và được thể hiện dưới

các hình thức như các bài báo, tạp chí, sách, công trình nghiên cứu khoa học,
luận văn… Tuy nhiên, số lượng các bài nghiên cứu về hành vi xâm phạm
quyền SHCN đối với tên thương mại một cách chuyên sâu và toàn diện thì
chưa có, các tác phẩm hiện nay chủ yếu tập trung vào vấn đề xác lập quyền,
vấn đề về bảo hộ quyền; hành vi xâm phạm quyền được đề cập đến dưới hình
thức các tình huống, các vụ án thực tế mà không được phân tích, bình luận

7


chuyên sâu, dưới góc độ khoa học; hành vi xâm phạm quyền SHCN đối với
tên thương mại nếu được phân tích thì chỉ dừng lại ở mức đối chiếu với văn
bản pháp luật. Chính vì thế, đề tài này hoàn toàn bảo đảm về tính mới và là đề
tài nghiên cứu đầu tiên ở cấp luận văn thạc sỹ.
Với đề tài “Hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với tên
thương mại theo Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005”, tác giả hy vọng đây sẽ trở
thành một tài liệu tham khảo có giá trị, một tài liệu nghiên cứu hữu ích và
toàn diện về hành vi xâm phạm quyền SHCN đối với tên thương mại trong hệ
thống thực thi quyền SHTT theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành.
5. Bố cục của Luận văn
Luận văn được chia làm 3 phần với nội dung gồm 3 chương, cụ thể
như sau:
Mở đầu
Nội dung
Chương 1: Khái quát chung về Quyền sở hữu công nghiệp đối với
Tên thương mại và hành vi xâm phạm Quyền sở hữu công
nghiệp đối với Tên thương mại.
Chương 2: Những quy định về hành vi xâm phạm Quyền sở hữu công
nghiệp đối với Tên thương mại theo Luật Sở hữu trí tuệ
năm 2005.

Chương 3: Thực trạng xâm phạm Quyền sở hữu công nghiệp đối với
Tên thương mại tại Việt Nam và một số giải pháp hoàn
thiện pháp luật về hành vi xâm phạm Quyền sở hữu công
nghiệp đối với Tên thương mại.
Kết luận

8


Chương 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ QUYỀN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP ĐỐI VỚI
TÊN THƢƠNG MẠI VÀ HÀNH VI XÂM PHẠM QUYỀN SỞ HỮU
CÔNG NGHIỆP ĐỐI VỚI TÊN THƢƠNG MẠI
1.1. Khái quát chung về quyền sở hữu công nghiệp đối với tên
thƣơng mại
1.1.1. Khái niệm tên thương mại
So với các đối tượng SHTT truyền thống khác như Nhãn hiệu, Sáng
chế, KDCN, chỉ dẫn địa lý... thì TTM là đối tượng SHTT tương đối mới. Mặc
dù ra đời sau, nhưng vai trò của việc bảo hộ quyền SHCN đối với TTM cũng
quan trọng không kém so với các đối tượng SHTT khác, đặc biệt là trong nền
kinh tế thị trường hiện nay, khi sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trên
thương trường trong nước và quốc tế ngày càng trở nên ngày càng khốc liệt.
Để bảo vệ sự trong sáng trong hoạt động kinh doanh, đồng thời, tạo ra sự lành
mạnh trong môi trường kinh doanh – nơi mà mình là chủ thể chính, chủ sở
hữu TTM buộc phải nắm vững các vấn đề pháp lý liên quan đến TTM và biết
được các đặc quyền mà pháp luật dành cho.
Để có cái nhìn tổng quan hơn về khái niệm TTM theo quy định của
pháp luật Việt Nam, trước tiên, cần điểm qua một số khải niệm TTM theo quy
định pháp luật của một số nước trên thế giới, như sau:
- Pháp luật của Philippines: “TTM là tên để xác định hoặc phân biệt

một doanh nghiệp” [34, Đ 121.3]. Theo quy định này, TTM là tên của
doanh nghiệp được sử dụng nhằm xác định và phân biệt doanh nghiệp
mang TTM đó với các doanh nghiệp khác. Việc quy định chung chung này
dường như cho phép chủ việc xác định khả năng phân biệt TTM của doanh
nghiệp trong phạm vi quốc gia không giới hạn khu vực địa lý, ngành nghề

9


kinh doanh miễn sao cái tên đó phải bảo đảm yếu tố đặc định chủ thể có
hoạt động kinh doanh và phân biệt chủ thể kinh doanh đó trong môi trường
kinh doanh, thị trường tiêu dùng.
- Thỏa ước Trung Mỹ:
TTM là tên để xác định một doanh nghiệp/ tổ chức thương
mại cụ thể, một doanh nghiệp/ tổ chức công nghiệp ngay cả khi nó là
tham gia vào các hoạt động liên quan đến nông nghiệp, chăn nuôi,
lâm nghiệp, khai thác khoáng sản, săn bắn, câu cá, xây dựng, giao
thông vận tải hoặc trong bất kỳ hoạt động tương tự khác [35, Đ 47].
Tương tự quy định của pháp luật Philippines, theo Thỏa ước Trung
Mỹ, TTM là một cái tên để xác định cụ thể doanh nghiệp, tổ chức. Tuy
nhiên, khác với các quy định trên, Thỏa ước Trung Mỹ quy định về phạm
vi/ lĩnh vực hoạt động của các doanh nghiệp, tổ chức bao gồm thương mại,
công nghiệp, nông nghiệp, chăn nuôi, khoáng sản.... và mọi hoạt động của
doanh nghiệp, tổ chức mang TTM đó chứ không chỉ giới hạn trong hoạt
động kinh doanh.
Qua một số quy định trên, có thể thấy, nhìn chung, theo các ĐƯQT và
luật pháp của một số quốc gia, khái niệm TTM đều thể hiện một số nội dung
cơ bản sau:
- TTM là một tên gọi của một doanh nghiệp (việc xác định thế nào là
doanh nghiệp phụ thuộc vào pháp luật của từng quốc gia – tuy nhiên, doanh

nghiệp là một thực thể được hình thành và hoạt động trên cơ sở các quy định
của pháp luật và không phải là con người – thực thể tự nhiên)
- TTM là tên gọi của doanh nghiệp nhưng không phải là tên doanh
nghiệp – yếu tố/ nội dung bắt buộc phải đăng ký trong các văn bản, tài liệu,
hồ sơ đăng ký doanh nghiệp.
- TTM được doanh nghiệp sử dụng trong các hoạt động kinh doanh

10


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

Nguyễn Thị Quế Anh (2002), “Bảo hộ tên thương mại ở Việt Nam và
một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về bảo hộ tên thương mại”, Tạp
chí Khoa học, Đại học Quốc gia Hà Nội, Chuyên san Kinh tế - Luật, (4).

2.

Nguyễn Thị Quế Anh (2002), “Một số vấn đề về bảo hộ quyền sở hữu
công nghiệp đối với tên thương mại trên thế giới”, Tạp chí Khoa học,
Đại học Quốc gia Hà Nội, Chuyên san Kinh tế - Luật, (2).

3.

Nguyễn Thị Quế Anh (2002), Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp theo
Hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ, Sách chuyên khảo: Về việc
thực thi Hiệp định Việt Nam – Hoa Kỳ, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

4.


Nguyễn Thị Quế Anh (2004), “Pháp luật về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ
ở Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế”, Kỷ yếu Hội thảo,
quốc tế về Việt Nam học lần thứ 2 tại TP.Hồ Chí Minh.

5.

Nguyễn Thị Quế Anh (2005), “Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các
quy định về xác lập quyền sở hữu công nghiệp”, Tạp chí Dân chủ và
pháp luật, Chuyên đề về sở hữu trí tuệ, (3).

6.

Nguyễn Thị Quế Anh (2009), “Một số nhìn nhận về xu hướng phát
triển của hệ thống pháp luật bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ trong tiến trình
hội nhập kinh tế quốc tế”, Tạp chí Khoa học pháp lý, (2).

7.

Nguyễn Bá Bình (2005), “Sự giao thoa giữa các đối tượng quyền của
sở hữu trí tuệ”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, (10), tr.42-45.

8.

Bộ khoa học và Công nghệ (2011), Thông tư số 37/2011/TT-BKHCN
ngày 27/12/2011 hướng dẫn thi hành một số điều của Nghị định số
97/2010/NĐ-CP ngày 21/9/2010 của Chính Phủ quy định xử phạt vi
phạm hành chính trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp, Hà Nội.

9.


Chính phủ (2000), Nghị định số 54/2000/NĐ-CP ngày 03/10/2000 về bảo
hộ quyền SHCN đối với bí mật kinh doanh, chỉ dẫn địa lý, TTM và bảo hộ
quyền chống cạnh tranh không lành mạnh liên quan tới SHCN, Hà Nội.

11


10.

Chính phủ (2006), Nghị định số 105/NĐ-CP ngày 22/9/2006, quy định chi
tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ về bảo vệ
quyền sở hữu trí tuệ và quản lý nhà nước về sở hữu trí tuệ, Hà Nội.

11.

Chính phủ (2006), Nghị định số 35/2006/NĐ-CP ngày 31/3/2006 quy định
chi tiết Luật Thương mại về hoạt động nhượng quyền thương mại, Hà Nội.

12.

Trần Văn Hải (2008), “Một số phân tích về tình trạng xâm phạm và
tranh chấp quyền sở hữu trí tuệ ở Việt Nam”, Tạp chí Thông tin và dự
báo kinh tế - xã hội, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, (31).

13.

Trần Văn Hải (2010), “Thấy gì qua việc nhãn hiệu do các doanh nghiệp
Nghệ An đề nghị được bảo hộ hoặc bị từ chối bảo hộ?”, Tạp chí Thông
tin Khoa học và Công nghệ Nghệ An, (3).


14.

Trần Văn Hải (2011), “Những lỗi doanh nghiệp thường gặp trong quá
trình yêu cầu bảo hộ nhãn hiệu”, Tạp chí Thông tin Khoa học và Công
nghệ Nghệ An, (4).

15.

Bùi Huyền (2014), “Pháp luật về bảo hộ tên thương mại của một số
nước trên thế giới và kinh nghiệm đối với Việt Nam”, Tạp chí Dân chủ
và Pháp luật, (tháng 10).

16.

Nguyễn Hữu Huyên (2008), Phân biệt giữa hành vi cạnh tranh không
lành mạnh và vi phạm quyền sở hữu trí tuệ, trang điện tử của Bộ tư pháp
( />
17.

Lê Văn Kiều (2009), “Tên thương mại và nhãn hiệu”, Tạp chí Hoạt
động khoa học, (tháng 5).

18.

Lê Văn Kiều (2009), “Thực tiễn áp dụng Luật Sở hữu trí tuệ: Công ty
và Nhà hàng, ai là “Phố Hội”, Tạp chí Hoạt động khoa học, (603).

19.


Trần Hải Linh (2010), “Mối quan hệ giữa nhãn hiệu và tên thương
mại”, Tạp chí Thông tin Khoa học và Công nghệ Nghệ An, (3).

20.

Lê Việt Long (2005), “Xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp – những
vấn đề đặt ra từ thực tiễn”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, (5), tr.60-63.

12


21.

Lê Việt Long (2008), “Các quy định của Bộ luật Hình sự về xâm phạm
quyền sở hữu trí tuệ”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, (9), tr.63-68.

22.

Lê Việt Long (2008), “Xâm phạm sở hữu trí tuệ: thực trạng, nguyên
nhân, giải pháp”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, (10), tr.49-53.

23.

Lê Nết (2006), Quyền sở hữu trí tuệ, NXB Đại học quốc gia Thành phố
Hồ Chí Minh.

24.

Đinh Thị Mai Phương (2009), Về bồi thường thiệt hại do hành vi trái
pháp luật xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp theo pháp luật Việt

Nam, NXB. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

25.

Nguyễn Xuân Quang (2015), “Thực trạng về bảo vệ quyền sở hữu công
nghiệp đối với nhãn hiệu bằng biện pháp hành chính và giải pháp hoàn
thiện pháp luật”, Tạp chí dân chủ và pháp luật (Tạp chí điện tử).

26.

Quốc hội (2005), Luật Thương mại số 36/2005/QH11 ngày 14/6/2005,
Hà Nội.

27.

Quốc hội (2015), Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005, được sửa đổi, bổ sung
năm 2009, NXB Chính trị Quốc gia.

28.

Hoàng Tú (2008), Tranh chấp tên thương mại và nhãn hiệu: hai doanh
nghiệp cùng mang nhãn hiệu Bình Minh, Báo Pháp luật, Thành phố Hồ
Chí Minh (Báo điện tử).

29.

Lê Tùng (2007), “Tên thương mại và nhãn hiệu – từ cách định nghĩa
đến tình huống pháp lý có thể phát sinh”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp,
điện tử.


30.

Thanh tra Bộ Khoa học và Công nghệ (2013), Báo cáo tại “Hội thảo sở
hữu trí tuệ, cạnh tranh và thực thi quyền sở hữu trí tuệ: kinh nghiệm của
Việt Nam, Lào và Cam-pu-chia” diễn ra ngày 4-5/6/2013 tại Hà Nội.

31.

Thanh tra Bộ khoa học và Công nghệ (2013), Báo cáo tình hình thực
hiện Chương trình phối hợp hành động phòng và chống xâm phạm
quyền sở hữu trí tuệ giai đoạn II (2012 – 2015) năm 2013 và nhiệm vụ
công tác năm 2014.

13


32.

Hoàng Vân (2011), “Ngăn chặn xâm phạm tên miền”, Tạp chí Thế
giới, vi tính online.

33.

Hải Yến (2008), Hai hãng nước mắm cùng tranh chấp cái tên, Báo
Pháp luật Thành phố Hồ Chí Minh (Báo điện tử).

Trang Web
34.

/>Bộ luật Sở hữu trí tuệ của Philippines.


35.

,
Thỏa ước Trung Mỹ.

36.

Luật Nhãn
hiệu liên bang của Mỹ.

14



×