Các ưu tiên phát triển trong cơ chế thực hiện và thúc đẩy QCN ở VN
MỤC LỤC
A.
MỞ ĐẦU
Trong chiến lược cải cách tư pháp ở nước ta, “Quyền con người” được
quy định toàn diện và sâu sắc nhất trong bản Hiến pháp 2013. Đảm bảo thực
hiện các quyền được hiến định trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền
của dân, do dân, vì dân có ý nghĩa rất to lớn. Thực tiễn Việt Nam và kinh
nghiệm của thế giới cho rằng, bên cạnh hệ thống pháp luật tiến bộ ghi nhận ngày
càng nhiều các quyền con người thì việc lập ra một cơ chế bảo vệ các quyền đó
cũng là một đòi hỏi vô cùng quan trọng. Quyền con người sẽ được tôn trọng,
bảo vệ, đảm bảo thực hiện nếu có một cơ chế phối hợp đồng bộ giữa các chủ thể
có trách nhiệm bảo vệ quyền con người. Trong bài tiểu luận này, em xin tìm hiểu
về đề tài “Các ưu tiên phát triển trong cơ chế thực hiện và thúc đẩy quyền con
người ở Việt Nam và nội dung cần tập trung để bảo vệ quyền con người một
cách hiệu quả nhất”. Do kiến thức còn hạn chế nên bài tiểu luận của em còn
nhiều thiếu sót, mong quý thầy (cô) góp ý để bài của em được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
B.
I.
1.
NỘI DUNG
MỘT SỐ KHÁI NIỆM
Khái niệm “Quyền con người”
Quyền con người là một phạm trù đa diện, do vậy, có rất nhiều định nghĩa
về quyền con người. Mỗi định nghĩa tiếp cận vấn đề từ một góc độ khác nhau,
khó có thể bao quát đầy đủ các thuộc tính của nó. Theo Văn phòng Cao ủy Liên
hợp quốc về quyền con người: “Quyền con người là những bảo đảm pháp lý
toàn cầu có tác dụng bảo vệ các cá nhân và các nhóm chống lại những hành
động hoặc sự bỏ mặc mà làm tổn hại đến nhân phẩm, những sự được phép và tự
do cơ bản của con người.”
Ngoài ra, khái niệm “Quyền con người” còn có thể được hiểu là “ những
nhu cầu, lợi ích tự nhiên, vốn có và khách quan của con người được ghi nhận và
bảo vệ trong pháp luật quốc gia và các thỏa thuận pháp lý quốc tế”.
Bài tiểu luận cá nhân
1
Các ưu tiên phát triển trong cơ chế thực hiện và thúc đẩy QCN ở VN
2.
Khái niệm “cơ chế”
Khái niệm “cơ chế” theo cuốn Đại từ điển Tiếng Việt là “cách thức sắp
xếp tổ chức để làm đường hướng, cơ sở theo đó mà thực hiện”. Trên lĩnh vực
quyền con người, cơ chế của Liên Hợp Quốc về quyền con người để chỉ bộ máy
các cơ quan chuyên trách và hệ thống các quy tắc, thủ tục có liên quan do Liên
Hợp Quốc thiết lập và thủ tục để thúc đẩy và bảo vệ quyền con người.
II.
THỰC TRẠNG THỰC HIỆN VÀ THÚC ĐẨY QUYỀN CON
NGƯỜI Ở VIỆT NAM
1. Đánh giá thực tiễn và mức độ hoàn thiện
Cũng như nhiều quốc gia khác, ở Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam và
Nhà nước đã xác định những tư tưởng và đường lối chỉ đạo về nhân quyền làm
cơ sở cho việc thực hiện và thúc đẩy các quyền con người trên thực tế. Nhìn
chung, có thể thấy các quan điểm, chính sách của Đảng, Nhà nước Việt Nam về
nhân quyền được hình thành, đúc rút từ các yếu tố: (i) lịch sử đấu tranh chống
ngoại xâm của dân tộc; (ii) truyền thống, bản sắc văn hóa Việt Nam; (iii) nền
tảng lý luận của Chủ nghĩa Mác – Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh; (iv) những
nguyên tắc và tiêu chuẩn quốc tế về nhân quyền được hầu hết các dân tộc trên
thế giới thừa nhận; (v) thực tiễn và những yêu cầu đặt ra trong công cuộc Đổi
mới, hội nhập quốc tế và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
dân, do dân và vì dân.
Kể từ khi Đổi mới, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã có những nỗ lực lớn
trong việc bảo vệ và thúc đẩy quyền con người, thể hiện trước hết qua việc hoàn
thiện các thể chế, chính sách, hệ thống pháp luật. Trong thực tế, Nhà nước Việt
Nam nhất quán coi con người là mục tiêu và động lực của mọi chính sách phát
triển kinh tế - xã hội, xác định việc đảm bảo và thúc đẩy các quyền con người là
một yêu cầu và điều kiện cho sự phát triển mọi mặt của đất nước. Hiến pháp
1992 vừa được sửa đổi, bổ sung năm 2013 tiếp tục ghi nhận và đảm bảo mọi
công dân có quyền bình đẳng về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, bình đẳng
trước pháp luật; quyền tham gia quản lý công việc của Nhà nước và xã hội;
quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; quyền tự do đi lại và cư trú trên đất nước Việt
Nam; quyền khiếu nại và tố cáo; quyền lao động, học tập, chăm sóc sức khỏe...
không phân biệt giới tính, sắc tộc, tôn giáo... ; thể hiện cụ thể như sau: quyền
sống được quy định tại Điều 19; quyền không bị tra tấn, đối xử hay trừng phạt
tàn ác, vô nhân đạo hay bị hạ nhục được quy định tại khoản 1 Điều 20; quyền
Bài tiểu luận cá nhân
2
Các ưu tiên phát triển trong cơ chế thực hiện và thúc đẩy QCN ở VN
được suy đoán vô tội được quy định tại khoản 1 Điều 31; quyền được bào chữa
và được sự trợ giúp của luật sư ngay khi bị bắt và giam giữ được quy định tại
khoản 4 Điều 31; quyền được xét xử công bằng và công khai bởi một tòa án có
thẩm quyền, độc lập và không thiên vị được quy định tại khoản 2 Điều 31;
quyền được xét xử trong thời gian hợp lý và không bị trì hoãn cũng được quy
định tại khoản 2 Điều 31; quyền bình đẳng trước pháp luật và được pháp luật
bảo vệ một cách bình đẳng được quy định tại Điều 16; quyền không bị bắt làm
nô lệ, nô dịch hay bị cưỡng bức lao động được quy định tại Điều 20; quyền tự
do đi lại được quy định tại Điều 22 và Điều 23; quyền tự do tư tưởng, tín
ngưỡng và tôn giáo được quy định tại Điều 24; quyền tự do ngôn luận, báo chí
và thông tin và quyền tự do hội họp, lập hội cùng được quy định tại Điều 25;
quyền được bầu cử, ứng cử và tham gia quản lý nhà nước được quy định tại
Điều 27. Trên cơ sở Hiến pháp, pháp luật Việt Nam tiếp tục cụ thể hóa các
quyền này. Cụ thể, quyền sống được quy định tại khoản 1 Điều 33 BLDS năm
2015, Chương XIV BLHS năm 2015; quyền không bị tra tấn, đối xử hay trừng
phạt tàn ác, vô nhân đạo hay bị hạ nhục được quy định tại Điều 10 BLTTHS
năm 2015, quyền được suy đoán vô tội được quy định tại Điều 13 BLTTHS năm
2015, quyền được thông báo lời buộc tội không chậm trễ, được sử dụng và hỗ
trợ sử dụng ngôn ngữ thích hợp trong tố tụng được quy định tại Điều 29
BLTTHS năm 2015, quyền được bào chữa và được sự trợ giúp của luật sư ngay
khi bị bắt hoặc bị giam giữ được quy định tại Điều 16 BLTTHS năm 2015,
quyền không bị buộc phải chứng minh chống lại chính mình được quy định tại
Điều 58, Điều 61 BLTTHS năm 2015, quyền được xét xử công bằng và công
khai bởi một tòa án có thẩm quyền, độc lập và không thiên vị, được lập ra theo
pháp luật được quy định tại Điều 25 BLTTHS năm 2015, quyền được xét xử
trong thời gian hợp lý và không bị trì hoãn được quy định tại Điều 25 BLTTHS
năm 2015, quyền bình đẳng trước pháp luật được quy định tại khoản 1 Điều 3
BLDS năm 2015, điểm b khoản 1 Điều 3 BLHS năm 2015, Điều 9 BLTTHS năm
2015, quyền không bị bắt làm nô lệ, nô dịch hay cưỡng bức lao động được quy
định tại Điều 8 BLLĐ năm 2012, quyền tự do tư tưởng, tín ngưỡng và tôn giáo
được quy định tại Điều 164 BLHS năm 2015, quyền tự do ngôn luận, tự do báo
chí và thông tin được quy định tại Điều 167 BLHS năm 2015, quyền tự do hội
họp, lập hội được quy định tại Điều 163 BLHS năm 2015, quyền được bầu cử,
ứng cử và tham gia quản lý nhà nước được quy định tại Điều 160 BLHS năm
2015.
Bài tiểu luận cá nhân
3
Các ưu tiên phát triển trong cơ chế thực hiện và thúc đẩy QCN ở VN
Các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa cũng được quy định khá hoàn chỉnh.
Quyền làm việc và được bảo đảm các điều kiện lao động thích đáng được quy
định tại Điều 35 Hiến pháp năm 2013; quyền học tập được quy định tại Điều
39; quyền được chăm sóc sức khỏe được quy định tại Điều 38. Các quyền này
cũng được cụ thể hoá tại các luật chuyên ngành như BLLĐ năm 2012, Luật
Giáo dục năm 2005. Nhìn chung, hệ thống pháp luật Việt Nam hiện nay đã
tương thích với những nguyên tắc và tiêu chuẩn quốc tế cơ bản về nhân quyền.
Kể từ khi Đổi mới, bằng những điều chỉnh vĩ mô và các chương trình kinh
tế - xã hội, nhà nước đã đảm bảo ngày càng tốt hơn đời sống vật chất và tinh
thần cho người dân. Những kết quả này đã tạo tiền đề cần thiết cho việc thực
hiện các quyền của người dân trên mọi lĩnh vực. Việt Nam được cộng đồng quốc
tế ghi nhận là một trong những quốc gia đi đầu về xóa đói giảm nghèo. Đây là
ưu tiên hàng đầu của Chính phủ Việt Nam trong việc thúc đẩy các quyền con
người, phù hợp với hoàn cảnh của đất nước và các Mục tiêu Thiên niên kỷ
(MTTNK) của Liên Hợp quốc. Việc thực hiện “Chiến lược Toàn diện về Tăng
trưởng và Xoá đói Giảm nghèo” được Chính phủ thông qua vào tháng 5/2002
trên cơ sở Chiến lược Phát triển Kinh tế Xã hội giai đoạn 2001-2010 đã góp
phần giảm tỷ lệ hộ nghèo (theo chuẩn nghèo quốc gia) trên toàn quốc từ 58,1%
năm 1993 xuống còn 14,82% năm 2007 và giúp Việt Nam trở thành một trong
những quốc gia đầu tiên đạt Mục tiêu Thiên niên kỷ về xóa đói giảm nghèo. Việt
Nam cũng tập trung thực hiện mạnh mẽ và đồng bộ các Chiến lược Cải cách Tư
pháp đến năm 2020, Xây dựng và Hoàn thiện Hệ thống Pháp luật đến năm 2010
(định hướng đến 2020) và Chiến lược Phát triển Kinh tế Xã hội đến năm 2010
(lồng ghép các Mục tiêu Thiên niên kỷ) kết hợp với cải cách hành chính sâu
rộng, tăng cường triển khai quy chế dân chủ, thúc đẩy công bằng và an sinh xã
hội... nhằm thúc đẩy đồng thời và hài hòa các quyền dân sự, chính trị, kinh tế, xã
hội, văn hóa của mọi người dân, phù hợp với lợi ích chung của dân tộc, của cộng
đồng và những điều kiện đặc thù của đất nước. Bên cạnh đó, Việt Nam đặc biệt
quan tâm đến các nhóm dễ bị tổn thương như phụ nữ, trẻ em, người dân tộc
thiểu số, người khuyết tật (trong đó có các nạn nhân chiến tranh) và người
nhiễm HIV/AIDS. Với mỗi nhóm đối tượng, Nhà nước đều có cơ chế, chính
sách và ưu tiên cụ thể nhằm bảo vệ, hỗ trợ, tạo cơ hội cho từng nhóm phát triển
và hòa nhập với đời sống xã hội. Luật Phòng chống HIV/AIDS 2006, Luật Bình
đẳng giới 2006 và Luật Phòng chống Bạo lực Gia đình 2007… là những điển
hình về nỗ lực của Việt Nam trong lĩnh vực này. Hiện tại, Việt Nam đã phê
Bài tiểu luận cá nhân
4
Các ưu tiên phát triển trong cơ chế thực hiện và thúc đẩy QCN ở VN
chuẩn và gia nhập hầu hết các công ước nhân quyền quốc tế chủ chốt, trong đó
có ICCPR, ICESCR; Công ước về Xoá bỏ mọi Hình thức Phân biệt Chủng tộc,
Công ước về Xoá bỏ mọi Hình thức Phân biệt Đối xử với Phụ nữ; Công ước về
Quyền Trẻ em. Việt Nam cũng đã gia nhập 17 công ước của Tổ chức Lao động
Quốc tế, trong đó có những công ước quan trọng với nhân quyền như Công ước
về chống lao động cưỡng bức; Công ước về tuổi lao động tối thiểu; Công ước
về hành động ngay lập tức để xóa bỏ những hình thức lao động trẻ em tồi tệ
nhất... Ngày 22/10/2007, Việt Nam đã ký Công ước Quốc tế về Quyền của
Người khuyết tật và vào ngày 7/11/2013 đã ký Công ước chống Tra tấn. Các văn
bản pháp luật trong nước được ban hành hoặc sửa đổi theo hướng nội luật hóa
các công ước quốc tế mà Việt Nam tham gia, đồng thời không làm cản trở việc
thực hiện các công ước này (Điều 3 và Điều 82 Luật Ban hành Văn bản Quy
phạm Pháp luật 2008). Việt Nam ủng hộ hoạt động của Hội đồng Nhân quyền
Liên hợp quốc và hợp tác đầy đủ với các cơ chế nhân quyền Liên Hợp quốc.
Việt Nam đã hoàn thành báo cáo định kỳ toàn thể (UPR) chu kỳ 1 và đang chuẩn
bị bảo vệ báo cáo UPR chu kỳ 2. Nhà nước đã đón nhiều Báo cáo viên Đặc biệt
(BCVĐB) về nhân quyền của Liên hợp quốc, trong đó có Báo cáo viên đặc biệt
về Giam giữ Độc đoán và về Tự do Tôn giáo hoặc Tín ngưỡng (1998), về Quyền
Giáo dục, về Quyền được Chăm sóc Sức khoẻ và về Đói nghèo Cùng cực... Việt
Nam cũng tham gia tích cực vào quá trình thảo luận và thành lập cơ chế nhân
quyền khu vực ASEAN. Việt Nam đã thiết lập cơ chế đối thoại với nhiều nước
và đối tác như Mỹ, EU, Úc, Na Uy, Thuỵ Sỹ... trong những năm qua.
Bên cạnh đó, quá trình bảo vệ và thúc đẩy nhân quyền còn có sự tham gia
của Đảng Cộng sản Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp. Có thể nêu một số tổ chức cơ bản như Mặt trận Tổ quốc Việt Nam,
Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Hội Nông
dân Việt Nam, Hội Bảo trợ người tàn tật, Liên minh các Hợp tác xã Việt Nam
v.v..
2.
Hạn chế
Tuy nhiên, nếu chỉ dừng lại ở việc ghi nhận các quyền trong các văn bản
luật thì cơ chế thực thi quyền chưa thật sự đầy đủ. Để các quyền được bảo vệ
toàn vẹn, cần có cơ quan bảo vệ và thực thi các quyền. Cho đến nay, chúng ta
vẫn chưa có một cơ quan chuyên trách nào thực hiện chức năng bảo vệ QCN. Ở
Việt Nam hiện nay, các cơ quan bảo vệ và thúc đẩy nhân quyền chưa tập trung
Bài tiểu luận cá nhân
5
Các ưu tiên phát triển trong cơ chế thực hiện và thúc đẩy QCN ở VN
vào một cơ quan cụ thể mà nhiệm vụ này được quy định cho nhiều cơ quan khác
nhau thuộc bộ máy nhà nước, bao gồm Quốc hội, Chính phủ, Tòa án nhân dân
và Viện Kiểm sát nhân dân. Việc giao chức năng bảo vệ QCN cho nhiều cơ quan
nhà nước có ưu điểm là giúp bảo vệ toàn diện QCN, nhưng lại gây ra hạn chế
cho việc xác định đầu mối có nhiệm vụ chính trong các cơ quan này và cũng gây
khó khăn khi một cá nhân muốn khiếu nại về các vi phạm nhân quyền.
III.
CÁC ƯU TIÊN PHÁT TRIỂN TRONG CƠ CHẾ THỰC HIỆN
VÀ THÚC ĐẨY QUYỀN CON NGƯỜI Ở VIỆT NAM
Từ thực trạng trên, việc bảo đảm thực hiện quyền con người được đặt ra
trước hết xuất phát từ mục tiêu, bản chất của chế độ; đó cũng là một trong những
nội dung và đặc trưng rất cơ bản và quan trọng của Nhà nước pháp quyền
XHCN mà chúng ta đang xây dựng; đồng thời, trước xu thế dân chủ hóa, giao
lưu và hội nhập quốc tế ngày càng gia tăng, đòi hỏi quyền con người và các
quyền tự do cơ bản của cá nhân công dân phải được tôn trọng và tăng cường hơn
nữa. Trước yêu cầu đó, trong điều kiện nước ta hiện nay, bảo đảm hiện thực hóa
quyền con người cần phải thực hiện một số ưu tiên quốc gia trong cơ chế thực
hiện và thúc đẩy quyền con người ở Việt Nam. Cụ thể như sau:
1.
Tăng trưởng kinh tế phải đi liền với công bằng, bình đẳng.
Phát triển kinh tế thị trường phải gắn bó chặt chẽ với tiến bộ xã hội, phát
triển đất nước giàu mạnh đồng thời xóa đói giảm nghèo tiến tới không còn hộ
nghèo là một trong các ưu tiên hàng đầu để thực hiện và phát triển quyền con
người. Việt Nam là một trong những quốc gia đầu tiên đạt Mục tiêu Thiên niên
kỷ về xóa đói giảm nghèo trước thời hạn 10 so với hạn đề ra của Tuyên bố Thiên
niên kỷ, song những kết quả đạt được chưa thực sự bền vững. Vì thế, với ưu tiên
“tăng trưởng kinh tế phải đi liền với công bằng, bình đẳng”, nước ta cần phải
thực hiện nhanh chóng và có hiệu quả các giải pháp sau: Đẩy nhanh tốc độ giảm
nghèo; củng cố thành quả giảm nghèo; nâng cao chất lượng cuộc sống và điều
kiện sản xuất của nhóm hộ nghèo; tiến tới xóa nghèo trong toàn quốc. Cần hạn
chế tốc độ gia tăng khoảng cách về thu nhập, khoảng cách về mức sống giữa
thành thị và nông thôn, giữa đồng bằng và miền núi, tạo cơ hội để thực hiện mục
tiêu “dân giàu” là một hướng ưu tiên của cơ chế đảm bảo thực hiện và phát triển
quyền con người.
Bài tiểu luận cá nhân
6
Các ưu tiên phát triển trong cơ chế thực hiện và thúc đẩy QCN ở VN
Về lĩnh vực giảm nghèo, Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội đã tập
trung triển khai thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững
giai đoạn 2016-2020.Theo đó, tỷ lệ hộ nghèo cả nước giảm khoảng 1,3-1,5% so
với cuối năm 2015 (còn khoảng 8,58 - 8,38%); tỷ lệ hộ nghèo các huyện nghèo
giảm khoảng 4% (còn khoảng 46,4%), đạt chỉ tiêu Quốc hội giao.
Vấn đề giải quyết lao động và việc làm
Vấn đề giải quyết lao động và việc làm cần tiếp tục là một hướng ưu tiên
quốc gia, không chỉ để giải quyết những vấn đề bức xúc hiện tại về dân số và
phân công lao động xã hội mà có ý nghĩa cơ bản trong chiến lược phát triển con
người. Năm 2017 Quốc hội, Chính phủ giao ngành Lao động-Thương binh và
Xã hội thực hiện chỉ tiêu chủ yếu sau: Tỷ lệ thất nghiệp khu vực thành thị dưới
4%, tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 55-57% (trong đó có bằng cấp, chứng chỉ là
22,5%); giải quyết việc làm cho 1,6 triệu người lao động. Để đạt được các chỉ
tiêu trên, Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội xác định, năm 2017 sẽ tập trung
vào những hoạt động chủ yếu là mở rộng, ổn định thị trường lao động trong
nước; phát triển thị trường lao động ngoài nước; hoàn thiện chính sách tiền
lương theo nguyên tắc thị trường gắn với tăng năng suất lao động và hiệu quả
sản xuất kinh doanh; thực hiện điều chỉnh lương tối thiểu vùng theo lộ trình phù
hợp với điều kiện kinh tế-xã hội, bảo đảm mức sống tối thiểu của người lao
động, hài hòa lợi ích của người lao động và người sử dụng lao động.
2.
Tuy nhiên, thực hiện ưu tiên quốc gia này vừa đòi hỏi phải nâng cao trình
độ nguồn lực lao động đáp ứng nhu cầu hội nhập kinh tế thế giới vừa đòi hỏi các
giá trị lao động của con người Việt Nam cần phải được tôn trọng và bảo vệ, bảo
đảm thực hiện và phát triển quyền con người.
Tiếp tục đẩy mạnh các chương trình cải cách pháp luật, cải cách
hành chính và cải cách tư pháp.
Các chương trình cải cách pháp luật, cải cách hành chính và cải cách tư
pháp cần tiếp tục được đẩy mạnh hướng tới xây dựng Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa Việt Nam, nâng cao năng lực quản lý nhà nước, ngăn chặn và đẩy
lùi tệ nạn quan liêu, tham nhũng, lãng phí, phát huy dân chủ, đảm bảo thực hiện
và phát triển quyền con người.
Thứ nhất, về chiến lược hoàn thiện Hệ thống pháp luật. Chiến lược này
thực hiện nhiệm vụ xây dựng một hệ thống pháp luật đồng bộ, thống nhất, khả
3.
Bài tiểu luận cá nhân
7
Các ưu tiên phát triển trong cơ chế thực hiện và thúc đẩy QCN ở VN
thi, công khai, minh bạch, một hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa của dân, do
dân, vì dân. Trọng tâm của chiến lược này là củng cố cơ sở pháp lý về trách
nhiệm của các cơ quan nhà nước trong việc thực thi các điều ước quốc tế nhân
quyền mà Việt Nam tham gia; hoàn thiện chế độ bảo hộ của Nhà nước đối với
các quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, chế độ trách nhiệm của cơ quan nhà
nước; hoàn thiện pháp luật về quyền giám sát của cơ quan dân cử, quyền trực
tiếp giám sát, kiểm tra của công dân với các hoạt động của các cơ quan, cán bộ,
công chức nhà nước; thể chế hóa các chính sách về công bằng xã hội để bảo
đảm mọi công dân được tiếp cận và hưởng thụ các loại dịch vụ công về văn hóa,
giáo dục, bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội, cứu trợ xã hội, xóa đói giảm nghèo.
Thứ hai, về chương trình cải cách hành chính. Cải cách hành chính có
trọng tâm là cải cách thủ tục hành chính theo hướng đơn giản hóa và công khai,
minh bạch các thủ tục hành chính, đồng thời đổi mới tổ chức bộ máy nhà nước
và hoạt động của chính phủ, hệ thống cơ quan hành pháp và cơ quan hành chính
nhà nước theo hướng thống nhất, tinh giản, gọn nhẹ, hiện đại, phục vụ nhân dân.
Luật hóa cơ cấu tổ chức và hoạt động của chính phủ, tổ chức bộ máy quản lý
theo hướng quản lý đa ngành, đa lĩnh vực, đồng thời quản lý chuyên sâu và phân
công hợp lý, phân cấp và giao quyền mạnh hơn cho chính quyền địa phương,
nhất là trong việc quyết định về ngân sách, tài chính, đầu tư, nguồn nhân lực,
thực hiện nghĩa vụ tài chính. Đổi mới tổ chức và nâng cao chất lượng hoạt động
của HĐND và UBND các cấp, bảo đảm tính tự chủ và tự chịu trách nhiệm của
chính quyền địa phương theo quy định của pháp luật. Cải cách hành chính của
Nhà nước phải bảo đảm vai trò giám sát của Quốc hội, HĐND và quyền giám
sát trực tiếp của nhân dân đối với toàn bộ hệ thống cơ quan hành pháp; bảo đảm
bộ máy thông suốt và có hiệu lực, hiệu quả; bảo đảm có đội ngũ cán bộ, công
chức có trách nhiệm công vụ cao và tận tụy phục vụ nhân dân.
Thứ ba, về chiến lược Cải cách tư pháp. Chiến lược Cải cách tư pháp
đến năm 2020 thực hiện nhiệm vụ xây dựng một nền tư pháp trong sạch, vững
mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, độc lập xét xử và có hiệu quả,
hiệu lực cao. Các trọng tâm Chiến lược Cải cách tư pháp bao gồm: Xây dựng và
hoàn thiện hệ thống pháp luật về hỗ trợ tư pháp theo hướng đáp ứng ngày càng
đầy đủ, thuận lợi các nhu cầu đa dạng về hỗ trợ pháp lý của nhân dân; Cải cách
thủ tục tố tụng tư pháp theo hướng dân chủ, bình đẳng, công khai, minh bạch,
chặt chẽ, bảo đảm sự tham gia đúng luật và có chất lượng cao của các chủ thể
quan hệ tố tụng; bảo đảm chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa xét xử, không
Bài tiểu luận cá nhân
8
Các ưu tiên phát triển trong cơ chế thực hiện và thúc đẩy QCN ở VN
để lọt tội phạm và không làm oan người vô tội; Hoàn thiện pháp luật về hình sự
theo hướng hạn chế áp dụng hình phạt tử hình, chỉ áp dụng đối với một số ít loại
tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, tiến tới xóa bỏ hình phạt tử hình; quy định trách
nhiệm hình sự và áp dụng hình phạt nghiêm khắc hơn với những tội phạm là
người có chức vụ quyền hạn trong tổ chức bộ máy nhà nước và hệ thống chính
trị, người có thẩm quyền trong thực thi pháp luật, những người lợi dụng chức
vụ, quyền hạn để phạm tội, vi phạm các quyền và tự do cơ bản của con người.
Ưu tiên phát triển các chính sách chăm sóc sức khỏe nhân dân, bảo
đảm chất lượng quyền sống của con người.
Đẩy mạnh việc chủ động phòng, chống các bệnh xã hội, bệnh dịch nguy
hiểm, phát hiện dịch sớm, xử lý kịp thời, không để dịch bệnh lây lan trong cộng
đồng. Đề cao trách nhiệm bảo vệ, chăm sóc sức khỏe nhân dân; đảm bảo cung
cấp nước sạch, dịch vụ vệ sinh môi trường cho mọi người dân, bảo đảm vệ sinh
an toàn thực phẩm phù hợp với các tiêu chuẩn tiên tiến của khu vực và thế giới.
Ưu tiên hỗ trợ dịch vụ chăm sóc sức khỏe cho đối tượng nghèo, gia đình chính
sách, vùng đồng bào dân tộc và vùng đặc biệt khó khăn. Từng bước đẩy lùi và
xóa bỏ tệ nạn ma túy, bạo lực xã hội, bạo lực gia đình và các tệ nạn xã hội khác.
4.
Phát triển mạng lưới an sinh xã hội
Hạn chế và triệt tiêu những tác động tiêu cực của kinh tế thị trường, đảm
bảo ổn định và phát triển đời sống dân cư. Đa dạng hóa và đảm bảo chất lượng
các loại hình bảo hiểm xã hội và cung cấp các dịch vụ xã hội, quan tâm thiết
thực và có hiệu quả với chất lượng đời sống vật chất và tinh thần của các nhóm
người dễ bị tổn thương.
5.
Ưu tiên phát triển giáo dục
Thực hiện phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao dân
trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát
triển, ngân sách nhà nước giữ vai trò chủ yếu trong tổng nguồn lực đầu tư cho
giáo dục. Phát triển giáo dục hướng tới việc đào tạo con người Việt Nam phát
triển toàn diện, có đạo đức, có trí thức, sức khỏe, thẩm mĩ, hình thành và bồi
dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực công dân, đáp ứng yêu cầu xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Nhà nước ưu tiên và tạo điều kiện cho con
em các dân tộc thiểu số, con em gia đình ở vùng có điều kiện kinh tế xã hội đặc
6.
Bài tiểu luận cá nhân
9
Các ưu tiên phát triển trong cơ chế thực hiện và thúc đẩy QCN ở VN
biệt khó khăn, các đối tượng được hưởng chính sách xã hội, người tàn tật,
khuyết tật thực hiện quyền được học tập. Mọi người trong xã hội không phân
biệt dân tộc, tôn giáo, tín ngưỡng, nam nữ, nguồn gốc gia đình, địa vị xã hội,
hoàn cảnh kinh tế đều được bình đẳng về cơ hội học tập.
IV.
NỘI DUNG CẦN TẬP TRUNG ĐỂ BẢO VỆ QUYỀN CON
NGƯỜI MỘT CÁCH HIỆU QUẢ NHẤT
Trong xã hội ngày nay khi mà nhân loại càng tiến bộ, xã hội càng phát
triển thì phạm vi áp dụng hình phạt tử hình càng có xu hướng thu hẹp, tiến tới
xỏa bỏ hình phạt tử hình. Theo pháp luật các quốc gia còn lưu giữ hình phạt tử
hình, thì hình phạt này chỉ thường áp dụng cho các tội phạm có tính nguy hiểm
đặc biệt cao, xâm phạm an ninh quốc gia, ảnh hưởng hòa bình thế giới, các tội
phạm ma túy, giết người…Vậy ở Việt Nam, hình phạt tử hình, có nên tiếp tục
duy trì hay không? Theo cá nhân em, từ giải pháp thực hiện chiến lược Cải cách
tư pháp, để bảo vệ quyền con người một cách hiệu quả nhất, cần tập trung vào
nội dung “Hoàn thiện pháp luật về hình sự theo hướng hạn chế áp dụng hình
phạt tử hình và chỉ áp dụng đối với một số ít loại tội phạm đặc biệt nghiêm
trọng, tiến tới xóa bỏ hình phạt tử hình”. Bởi những lý do sau:
Thứ nhất, xóa bỏ hình phạt tử hình để bảo đảm tính nhân đạo.
Việc áp dụng hình phạt tử hình như là một sự tra tấn, vi phạm nghiêm
trọng đến thể chất, tinh thần con người, thể hiện sự phi nhân đạo. Hình phạt tử
hình mang tính chất là một sự trả thù và lặp lại hành động của người phạm tội là
sử dụng bạo lực để làm tổn hại người khác mà không thể làm cho người bị hại
sống lại. Mặt khác, nếu người phạm tội biết được tội danh mình vi phạm mà luật
quy định áp dụng hình phạt tử hình thì họ sẽ chống trả lại đến cùng bởi vì họ
nghĩ rằng đằng nào cũng chết vì vậy thiệt hại gây ra sẽ càng nghiêm trọng, tội nọ
tiếp nối tội kia. Ngoài ra, để giải thích cho lý do này, còn có những lý lẽ sau:
Một là, hành vi nguy hiểm của cá nhân có thể cải tạo được bởi: Khi một
cá nhân sinh ra, cá nhân đó chỉ có các hành vi bản năng tự nhiên không nguy
hại. Chỉ khi cá nhân tham gia vào cộng đồng, cá nhân đó mới từng bước hình
thành các hành vi có ý thức. Hành vi phạm tội của cá nhân cũng là một trong
những hành vi có ý thức. Mà tất cả hành vi có ý thức đều có thể cải tạo được vì
hành vì đó chỉ hình thành khi cá nhân tham gia vào một số mối quan hệ trong
cộng đồng khi cá nhân sống. Do đó, bất cứ hành vi phạm tội nào của cá nhân
cũng đều có thể cải tạo được. Chúng ta cần xem lại: “môi trường xã hội có tác
động gì đến hành vi nguy hiểm của cá nhân hay không?”
Bài tiểu luận cá nhân
10
Các ưu tiên phát triển trong cơ chế thực hiện và thúc đẩy QCN ở VN
Hai là, cách ly vĩnh viễn đối tượng ra ngoài xã hội còn nhiều cách khác
“êm ái” hơn. Hiện nay, bất cứ cộng đồng nào trên thế giới cũng có đủ điều kiện
và khả năng để cách ly một cá nhân nguy hiểm khỏi đời sống của nó mà vẫn
đảm bảo được các quyền con người tối thiểu. Mỗi quốc gia đều có đủ khả năng
phân biệt rõ hành vi nào là hành vi nguy hiểm, khả năng theo dõi và bắt giữ các
cá nhân nguy hiểm và khả năng kiểm soát các cá nhân nguy hiểm trong một
phạm vi địa lý nhỏ để họ không còn gây nguy hiểm cho xã hội. Vậy tại sao ta
không sử dụng những cách đó để cách ly vĩnh viễn đối tượng ra ngoài xã hội mà
không cần lấy đi quyền sống thiêng liêng của họ. Làm như vậy sẽ phù hợp với
thực tiễn đời sống xã hội, đồng thời bảo đảm được tính nhân đạo – truyền thống
nhân văn bao đời của dân tộc ta.
Thứ hai là không trái với quy luật tự nhiên.
Một quy luật bất biến của cuộc sống không ai có thể phủ nhận được đó là
sinh – lão – bệnh – tử. Con người được sinh ra do cha, mẹ nhưng suy cho cùng
đó cũng là theo quy luật tất yếu của đời sống tự nhiên theo bản năng sinh tồn và
duy trì nguồn gen mà bất cứ loài nào cũng có chứ không phải chỉ ở xã hội loài
người mới có. Và ai đã nuôi dưỡng sự sống đó, chắc chắn không phải là xã hội
mà do tự nhiên; và thực tiễn đã chứng minh được rằng sự sống đã tồn tại khi
chưa có loài người xuất hiện. Chính vì lẽ đó, mà thức ăn để nuôi sống một thực
thể con người tất cả đều từ tự nhiên mà ra; có thể đưa dinh dưỡng sẵn có trong
tự nhiên hoặc thông qua cải tạo những dinh dưỡng đó để duy trì sự sống cho cá
nhân. Tóm lại, những việc đó chỉ là phương tiện để tự nhiên duy trì sự sống cho
loài người theo bản năng chứ không phải do xã hội sản sinh và nuôi dưỡng.
Chính vì xã hội không phải là “đấng quyền lực tối cao sinh ra con người,
và chẳng có giây phút nào nuôi dưỡng con người” nên không thể có quyền từ bỏ
mạng sống ấy. Hay nói một cách chuẩn xác nhất là không ai có quyền lấy đi
mạng sống thiêng liêng của con người do tạo hóa đã ban tặng ngoại trừ thiên
nhiên mới có quyền tước bỏ. Nếu chúng ta làm trái quy luật ấy sẽ là mâu thuẫn
với đời sống tự nhiên, vi phạm quyền cơ bản của con người.
Thứ ba là để tránh “chết oan” người vô tội.
Oan sai là điều không thể tránh khỏi trong hoạt động xét xử ở bất cứ quốc
gia nào, thời đại lịch sử nào. Một điều đáng cảnh báo là tỉ lệ oan sai tại Việt Nam
hiện nay không phải là ít, bởi hoàn cảnh khách quan lẫn chủ quan. Em thiết nghĩ
giả định Tòa án đã tuyên và thi hành án tử hình một người thì làm sao khắc phục
được hậu quá đó nếu theo thời gian xuất hiện căn cứ mới chứng minh họ vô tội
Bài tiểu luận cá nhân
11
Các ưu tiên phát triển trong cơ chế thực hiện và thúc đẩy QCN ở VN
(tuyên án sai). Tôi cho rằng khi đã tuyên án tử hình và thi hành án đó thì có giải
oan được cho người đã chết thì việc giải oan cũng trở nên vô nghĩa, người chết
cũng không sống lại được. Vậy tại sao nhà làm luật không bỏ hình phạt tử hình,
đó là biện pháp hữu hiệu để tránh giết oan người vô tội, đồng thời tránh được sự
bất bình của người thân của người “tử oan” và quần chúng nhân dân. Làm cho
nhân dân tin yêu, tôn trọng và tuân thủ pháp luật hơn.
Thứ tư, xóa bỏ hình phạt tử hình để ngăn ngừa tội phạm.
Có phải duy trì án tử hình sẽ giảm được tội phạm hay không? Những tội
phạm nghiêm trọng xảy ra ở khắp mọi nơi trên thế giới và không phụ thuộc vào
việc quốc gia đó có duy trì án tử hình hay không. Nhiều kẻ tội phạm biết chắc là
cái gì sẽ chờ mình nếu bị bắt và kết án, nhưng không vì thế mà “rút tay” khi
hành động. Hay nói cách khác tử hình không phải là biện pháp ngăn chặn tội
phạm mà cũng chẳng phải là biện pháp hữu hiệu nhất thể hiện mục đích của
hình phạt.
Thứ năm, hình phạt tương đương tử hình.
Như chúng ta đã biết, mục đích của án tử hình là loại bỏ hành vi nguy
hiểm cho xã hội bằng cách tước bỏ sự sống của chủ thể hành vi nguy hiểm. Tuy
nhiên, để loại bỏ hành vi nguy hiểm không nhất thiết phải loại bỏ chủ thể của nó
bởi vì hành vi nguy hiểm có thể được loại bỏ bằng nhiều cách khác như thay đổi
ý thức của chủ thể, loại bỏ điều kiện thực hiện hành vi nguy hiểm, cách ly hoàn
toàn chủ thể nguy hiểm khỏi cộng đồng v.v. Nếu cộng đồng nhận thấy hành vi
nguy hiểm cần phải loại bỏ hoàn toàn khỏi cộng đồng thì có thể cách ly chủ thể
nguy hiểm cho đến khi người đó chết. Như vậy, việc thay thế án tử hình bằng
một chế tài khác là việc hoàn toàn có thể thực hiện được. Việc không áp dụng
hình phạt tử hình không có nghĩa bỏ qua tội ác của những người phạm tội và coi
nhẹ nỗi đau của người bị hại và gia đình họ, mà có thể áp dụng hình phạt khác
như tù chung thân không được khoan hồng.
Bởi những lý do trên mà pháp luật nước ta nên tiến tới xóa bỏ hình phạt
tử hình trong bộ luật hình sự Việt Nam để quyền con người của mỗi con người
được bảo vệ ngày càng toàn vẹn. Và việc bỏ án tử hình không chỉ là loại bỏ sự
trái ngược trong bộ luật hình sự hiện hành mà còn phù hợp với đòi hỏi chính
đáng của thực tiễn.
V.
MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VỀ CƠ CHẾ THỰC HIỆN VÀ THÚC
ĐẨY QUYỀN CON NGƯỜI Ở VIỆT NAM
Bài tiểu luận cá nhân
12
Các ưu tiên phát triển trong cơ chế thực hiện và thúc đẩy QCN ở VN
Đặt cơ chế này trong tương quan với cơ chế quốc tế và cơ chế ở các quốc
gia khác, có thể thấy cơ chế của chúng ta còn chưa toàn diện trong bảo vệ nhân
quyền. Trong khi nhận thức về tầm quan trọng của QCN đã được nâng lên một
mức đáng kể thì việc thực thi hay cụ thể là việc hình thành nên một cơ quan
chuyên trách về thực hiện và thúc đẩy nhân quyền chưa thật sự được quan tâm
đầy đủ.
Vì vậy, để xây dựng một cơ quan chuyên trách thực hiện và thúc đẩy nhân
quyền, Việt Nam cần tham khảo pháp luật và thực tiễn hoạt động về tổ chức cơ
quan nhân quyền ở các quốc gia trên thế giới. Như đã phân tích, các cơ quan
chuyên trách bảo vệ nhân quyền ở các nước thường bao gồm Ủy ban Nhân quyền,
Thanh tra Quốc hội, cơ chế Giám sát Hiến pháp, do đó chúng ta nên cân nhắc lựa
chọn để xây dựng một cơ quan phù hợp với tình hình quốc gia.
Thứ nhất, mô hình Ủy ban Nhân quyền. Mô hình này gồm đại diện các tổ
chức xã hội khác nhau, vì vậy sẽ rất thuận tiện cho việc nắm bắt kịp thời nhu cầu
được bảo vệ và thực thi quyền của các nhóm đối tượng trong xã hội. Mô hình này
được sử dụng hiệu quả tại Pháp và Ủy ban này có vai trò rất quan trọng không chỉ
trong việc thực thi mà còn trong việc xây dựng chính sách bảo vệ và thúc đẩy
QCN. Hoạt động của Ủy ban Nhân quyền mang tính tập thể và hoạt động của mỗi
cá nhân cũng mang tính đại diện cho quyết định hoặc sự ủy quyền của tập thể.
Xét về tổ chức lẫn cách thức hoạt động, mô hình này khá phù hợp với thực tế Việt
Nam hiện nay.
Thứ hai, mô hình Thanh tra Quốc hội. Thanh tra Quốc hội hoạt động với
tư cách cá nhân nên khó có thể tạo ra cái nhìn toàn diện về nhu cầu được bảo vệ
của các nhóm đối tượng trong xã hội. Bên cạnh đó, xét về tổng thể, nước ta hiện
nay ít có các tổ chức hoạt động với tư cách cá nhân. Do đó, mô hình này khó có
thể áp dụng đối với nước ta.
Thứ ba, mô hình Giám sát Hiến pháp. Mô hình này hoạt động gần như
Tòa án và có nhiệm vụ giám sát việc thực thi Hiến pháp cũng như việc chi tiết
hóa các quy định của Hiến pháp. Các nhà lập pháp Việt Nam cũng đã nghĩ đến
hướng này và mô hình Tòa án Hiến pháp đã từng được đưa vào Dự thảo Hiến
pháp năm 2013, nhưng chưa được Quốc hội thông qua.
Từ những phân tích và đánh giá trên, có thể cho rằng, mô hình Ủy ban
Nhân quyền là mô hình phù hợp nhất cho Việt Nam. Theo đó, Ủy ban này sẽ là
Bài tiểu luận cá nhân
13
Các ưu tiên phát triển trong cơ chế thực hiện và thúc đẩy QCN ở VN
cơ quan đầu mối tiếp nhận các khiếu nại hoặc yêu cầu về QCN, trực tiếp xem xét
các khiếu nại hoặc yêu cầu đó và đề nghị hướng giải quyết đến cơ quan có thẩm
quyền, và cơ quan có thẩm quyền này phải thông báo kết quả giải quyết lại cho
Ủy ban Nhân quyền. Nếu phát hiện có sai phạm thì Ủy ban tiếp tục khiếu nại đến
cơ quan có thẩm quyền cao hơn. Hoặc nếu xét thấy khiếu nại hoặc yêu cầu ngoài
khả năng giải quyết của Ủy ban thì Ủy ban chuyển cho cơ quan có thẩm quyền
xem xét và cơ quan này cũng phải thông báo kết quả lại cho Ủy ban. Trong
trường hợp Ủy ban thấy các vi phạm về nhân quyền nhưng không có khiếu nại
hoặc yêu cầu thì tự Ủy ban cũng có quyền yêu cầu cơ quan có thẩm quyền xem
xét. Bên cạnh đó, Ủy ban này nên có chức năng tư vấn về sự ảnh hưởng đến QCN
của các dự luật hoặc các văn bản khác, đồng thời cũng có quyền đề xuất các dự
thảo luật hoặc văn bản dưới luật có liên quan đến QCN.
Về tổ chức, cơ quan này nên tổ chức thành một nhánh độc lập tương tự như
hệ thống Tòa án và Viện kiểm sát và được tổ chức tương ứng với các cấp hành
chính. Đứng đầu là chủ tịch, dưới là các phó chủ tịch và ủy viên. Ủy ban Nhân
quyền có trách nhiệm báo cáo với Quốc hội về hoạt động của cơ quan này và hoạt
động vi phạm hoặc không phối hợp của các cơ quan khác trong việc bảo vệ và
thúc đẩy QCN.
KẾT LUẬN
Tóm lại, cơ chế thực hiện và thúc đẩy quyền con người ở nước ta hiện nay
góp phần thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng
văn minh; góp phần nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân; đẩy
mạnh xóa đói giảm nghèo, khuyến khích mọi người vươn lên làm giàu chính
đáng và tạo cơ hội cho mọi người thoát nghèo, tiến tới xóa nghèo; thực hiện tiến
bộ và công bằng xã hội vì sự phát triển của con người, bảo đảm thực hiện các
quyền và tự do cơ bản của con người. Vì vậy, để đạt được nhiều tiến bộ hơn nữa
trong việc nâng cao giá trị quyền con người, nước ta cần thực hiện một cách có
hiệu quả nhất các ưu tiên quốc gia trong cơ chế thực hiện và thúc đẩy quyền con
người ở những năm tiếp theo.
C.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
Giáo trình Lý luận và Pháp luật về quyền con người, NXB Đại học Quốc
gia Hà Nội.
Bài tiểu luận cá nhân
14
Các ưu tiên phát triển trong cơ chế thực hiện và thúc đẩy QCN ở VN
Hỏi đáp về Quyền con người, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2012.
/>4. />5. />6. />7. />8. />9. />10. />11. />12. />2.
3.
Bài tiểu luận cá nhân
15