Tải bản đầy đủ (.doc) (55 trang)

Giáo trình pháp luật hợp đồng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (285.55 KB, 55 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO TỪ XA
Chủ biên: Nguyễn Thị Thanh

GIÁO TRÌNH
PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG

Vinh - 2011
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
1


TRUNG TÂM ĐÀO TẠO TỪ XA
Chủ biên: Nguyễn Thị Thanh

GIÁO TRÌNH
PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG
(Giáo trình đào tạo từ xa)

Vinh - 2011

2


Phân công biên soạn:
- Chủ biên: Nguyễn Thị Thanh
- Các tác giả:
ThS.Nguyễn Thị Thanh: Chương 1, 3
ThS.Phạm Thị Thúy Liễu: Chương 2, 4
CN. Hà Thị Thúy: Chương 5, 6


3


MỤC LỤC
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ HỢP ĐỒNG

1. Các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh quan hệ hợp đồng
2. Khái niệm hợp đồng
3. Đặc điểm của hợp đồng
4. Phân loại hợp đồng dân sự
5. Nội dung của hợp dồng dân sự
6. Hình thức và thời điểm có hiệu lực của hợp đồng dân sự
CHƯƠNG 2: CÁC ĐIỀU KIỆN CÓ HIỆU LỰC CỦA HỢP ĐỒNG

1. Các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng
2. Hợp đồng vô hiệu và các trường hợp hợp đồng vô hiệu
3. Phân loại
4. Hậu quả pháp lý:
CHƯƠNG 3 TRÁCH NHIỆM DÂN SỰ DO VI PHẠM HỢP ĐỒNG

1. Trách nhiệm dân sự
2. Khái niệm trách nhiệm do vi phạm hợp đồng
CHƯƠNG 4: MỘT SỐ LOẠI HỢP ĐỒNG THÔNG DỤNG

1. Hợp đồng mua bán nhà ở
2. Hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ
3. Hợp đồng cầm cố - dạng hợp đồng có mục đích bảo đảm thực hiện nghĩa vụ
4. Hợp đồng thế chấp tài sản
5. Một số mẫu hợp đồng cầm cố và thế chấp:
CHƯƠNG 5: CÁC PHƯƠNG THỨC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG


1. Thương lượng
2. Hòa giải
3. Trọng tài
CHƯƠNG 6: KỸ THUẬT SOẠN THẢO HỢP ĐỒNG DÂN SỰ

1. Lý do vì sao phải soạn thảo hợp đồng
2. Kỹ thuật soạn thảo hợp đồng
3. Yêu cầu đối với việc soạn thảo một số hợp đồng để tranh hậu quả gây vô hiệu phổ
biến tại Việt Nam
4. Các bước soạn thảo hợp đồng

4


CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ HỢP ĐỒNG
1. Các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh quan hệ hợp đồng
Các văn bản pháp luật điều chỉnh về quan hệ hợp đồng rất nhiều, bao gồm: Bộ
luật dân sự năm 2005; Luật Thương mại năm 2005; Bộ luật hàng hải năm 2005; Luật
Hàng không dân dụng Việt Nam năm 2006; Luật Các tổ chức tín dụng năm 1997 (sửa
đổi, bổ sung năm 2004); Luật Xây dựng năm 2004; Luật Kinh doanh bảo hiểm; Luật
Đất đai năm 2003 sửa đổi năm 2009; Luật Kinh doanh bất động sản năm 2006; Luật
Nhà ở năm 2005; Luật chuyển giao công nghệ năm 2006....
Có thể phân biệt thành hai nhóm như sau;
Nhóm 1: các quy định chung về hợp đồng: Bộ luật dân sự năm 2005...
- Đối tượng điều chỉnh của Luật Dân sự là những nhóm quan hệ về nhân thân và tài sản
trong quan hệ dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động. Các
quan hệ này diễn ra giữa các chủ thể là cá nhân, pháp nhân và các chủ thể khác có vị trí
độc lập, bình đẳng, tự nguyện, tự định đoạt, tự gánh chịu rủi ro cà tự chịu trách nhiệm
trong các giao lưu dân sự.

- Phương pháp điều chỉnh của Luật Dân sự là những cách thức, biện pháp tác động của
ngành luật đó lên các quan hệ tài sản, quan hệ nhân thân làm cho các quan hệ này phát
sinh, thay đổi, chấm dứt theo ý chí của nhà nước phù hợp với ý chí của các chủ thể
tham gia quan hệ nhưng tôn trọng lợi ích của nhà nước, của tập thể và các chủ thể khác
Nhóm 2: các quy định chuyên ngành: pháp luật về tín dụng, ngân hàng, bảo hiểm,
xây dựng, vận chuyển, đầu tư chuyển giao công nghệ, thương mại và bất động sản...
Nhóm các văn bản pháp luật chuyên ngành có đối tượng điều chỉnh rộng trong đó có
điều chỉnh các quan hệ hợp đồng đặc thù trong các lĩnh vực chuyên ngành đó.
2.
Khái niệm hợp đồng
2.1
Lịch sử chế định hợp đồng:
Xuất hiện đầu tiên trong Luật Lamã (TK V –IV trc CN), sau đó du nhập vào Tây
âu theo phong trào phục hưng
Ở Việt nam, có hai nguyên nhân làm cho chế định này không hình thành phát
triển được, đó là do: chính sách ức thương của triều đình phong kiến. Mặt khác luật lệ
phong kiến lúc bấy giờ là xử theo quan (không có luật thành văn) nên tâm lý người dân
không thiện chí với luật và lánh xa quan toà. Do vậy khái niệm hợp đồng không được
nhắc trong Luật Hồng Đức hay Luật Gia Long. thể hiện không thật rõ nét qua các tình
huống cụ thể như việc mua, bán, vay nợ, thuê mướn, bảo lãnh. Nói chung không có tính
khái quát cao và áp dụng chung cho mọi trường hợp.
Thời kỳ pháp thuộc: Bộ Dân Luật giản yêu Nam kỳ (1883, Bộ Dân luật Trung kỳ
(1936 và bộ Dân luật bắc kỳ (1931): các quy định của pháp luật về hợp đồng có sự ảnh
hưởng theo tư tưởng và pháp luật của Pháp.
Thời kỳ Việt Nam dân chủ cộng hoà: Miền bẮc có: áo dụng luật cũ để giải
quyết. Miền Nam có Bộ Luật dân sự Sài Gòn (1972) và bộ luật thương mại (1973)
- Sau 1975: Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế 1989 và Pháp lệnh hợp đồng dân sự 1991. Việc
ban hành hai văn bản pháp luật về hợp đồng tạo nên sự hạn chế: hợp đồng vẫn bị cắt
thành hai chế định tồn tại song song độc lập với nhau


5


- BLDS 1995 ra đời nhưng pháp lệnh kinh tế vẫn có hiệu lực. Sau đó Luật Thương mại
ra đời (1997) dẫn tới tình trạng tách rời chế định hợp đồng này vẫn tồn tại dài lâu và
việc áp dụng các nguyên tắc của dân luật để giải quyết các tranh chấp phát sinh không
có (khác với các nước trên thế giới theo truyền thống civil law
Đến năm 2005, BLDS 2005 ra đời là đạo luật chung điều chỉnh quan hệ nhân
thân và quan hệ tài sản và cũng chấm dứt tình trạng chế định hợp đồng tác biệt. Đối với
một số loại hợp đồng đặc thù ngành luật thương mại sẽ áp dụng luật chuyên ngành
trước khi áp dụng nguyên tắc của luật chung để giải quyết.
2.2. Khái niệm:
Khái niệm hợp đồng theo luật La Mã: Theo tiếng latinh là: contractus nghĩa là
ràng buộc. Các luật gia La Mã định nghĩa hợp đồng là căn cứ làm phát sinh, thay đổi
hoặc chấm dứt quan hệ pháp luật với hai dấu hiệu đặc trưng không thể thiếu: phải có sự
thỏa thuận và phải có mục đích (mục đích pháp lý nhất định). Mục đích pháp lý này có
thể là mong muốn tặng cho tiếp nhận một nghĩa vụ hoặc bảo đảm thực hiện nghĩa vụ
nói chung. Ảnh hưởng khái niệm hợp đồng trong luật La Mã lan rộng trong các bộ dân
luật Châu Âu, bắt đầu từ BLDS Pháp 1804, sau đó các nước khác: Ý, Nhật, Ai Cập,
Nga...
BLDS Pháp quy định: ”HĐ là sự thỏa thuận giữa hai hay nhiều bên về việc
chuyển giao một vật, làm hay không làm một công việc”
BLDS Nga 1994: ”HĐ là sự thỏa thuận giữa hai hay nhiều bên về việc xác lập
thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự”
BLDS Đức không định nghĩa về HĐ mà quy định theo hướng HĐ được hình
thành như thế nào ”người đưa ra đề nghị giao kết hợp đồng với người khác phải chịu
ràng buộc bởi đề nghị của mình, trừ trường hợp người đưa ra đề nghị thể hiện rõ ràng
rằng anh ta không bị ràng buộc bởi đề nghị đó.
Ở Việt Nam quy định hợp đồng có sự thay đổi theo thời kỳ. Do bối cảnh kinh tế xã hội, pháp luật phong kiến không quy định khái niệm hợp đồng. Đến tân sau này,
những năm 90 có khái niệm hợp đồng kinh tế, hợp đồng dân sự. Đến BLDS 1995 có

quy định hợp đồng và khái niệm đó không thay đổi cho đến BLDS 2005.
Khái niệm hợp đồng theo phương diện khách quan: là các quy phạm do Nhà
nước ban hành nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình dịch
chuyển các lợi ích vật chất giữa các chủ thể với nhau.
Khái niệm hợp đồng theo phương diện chủ quan: hợp đồng dân sự là một giao
dịch dân sự mà trong đó các bên tự trao đổi ý chí với nhau nhằm đi đến sự thoả thuận
để cùng nhau làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ dân sự nhất định.
BLDS 2005 chỉ rõ: ”hợp đồng dân sự là sự thoả thuận giữa các bên về việc chấm dứt,
thay đổi các quỳên và nghĩa vụ dân sự” (Đ388). Khái niệm hợp đồng dân sự ở đây được
hiểu theo nghĩa rộng bao gồm trong các lĩnh vực: dân sự theo nghĩa hẹp, hôn nhân và
gai đình, thương mại kinh doanh và lao động.
Có thể thấy hợp đồng chiếm vị trí quan trọng trong BLDS: Trong tổng số 777 điều có
trên dưới 250 điều quy định trực tiếp về hợp đồng
3.
Đặc điểm của hợp đồng
Là sự thỏa thuận thống nhất ý chí của hai hoặc nhiều chủ thể dân sự:

6


+

Các bên trong hợp đồng có sự khác biệt về lợi ích thỏa thuận để hướng tới mục
tiêu cao nhất là hai bên cùng có lợi;
+
Các chủ thể phải bày tỏ ý chí của mình dưới một hình thức nhất định;
+
Quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng (bao gồm cả trách nhiệm dân sự)
do các bên thỏa thuận (Trừ các quyền, nghĩa vụ được qui định bởi pháp luật);
+

Thỏa thuận có hiệu lực là luật đối với các bên trong hợp đồng;
Mục đích của hợp đồng là nhằm làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt các quyền dân
sự, nghĩa vụ dân sự:
+
Sự thỏa thuận giữa các chủ thể là điều kiện cần nhưng chưa đủ nếu không có
mục đích làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt các quyền dân sự, nghĩa vụ dân sự;
+
Mục đích của thỏa thuận không được trái pháp luật và đạo đức xã hội
4.
Phân loại hợp đồng dân sự
Căn cứ vào các tiêu chí khác nhau mà phân loại thành các hợp đồng khác nhau:
Theo hình thức của hợp đồng: hợp đồng được phân chia thành hợp đồng miệng,
hợp đồng bằng văn bản, hợp đồng bằng hành vi…
Theo mối liên hệ quyền và nghĩa vụ giữa các bên chủ thể: hợp đồng song vụ và
hợp đồng đơn vụ. Hợp đồng bảo lãnh là hợp đồng đơn vụ (chỉ có người bảo lãnh
có nghĩa vụ)
Hợp đồng song vụ là hợp đồng mà các bên đều có nghĩa vụ đối với nhau. Tức là
mỗi bên hợp đồng vừa có quyền và vừa có nghĩa vụ. Ví dụ: Hợp đồng mua bán, hợp
đồng thuê tài sản.
Hợp đồng đơn vụ là hợp đồng mà chỉ có bên có nghĩa vụ nhưng không có quyền
đối với bên kia và bên kia có quyền nhưng không phải thực hiện nghĩa vụ nào cả.
Trong luật thực định Việt Nam, quan hệ giữa các bên trong hợp đồng song vụ
chịu sự chi phối của một số quy tắc không được áp dụng cho hợp đồng đơn vụ: nếu một
bên trong hợp đồng song vụ không thể thực hiện nghĩa vụ do lỗi của bên kia, thì có
quyền hủy bỏ hợp đồng và yêu cầu bồi thường thiệt hại.
Căn cứ vào sự phụ thuộc về hiệu lực: hợp đồng chính và hợp đồng phụ.
Hợp đồng chính là hợp đồng mà hiệu lực không phụ thuộc vào hiệu lực của hợp
đồng khác
Hợp đồng phụ là hợp đồng mà hiệu lực của hợp đồng phụ thuộc vào hợp đồng chính
Căn cứ về mối liên hệ về lợi ích giữa các chủ thể: hợp đồng có đền bù và hợp

đồng không có đền bù
Hợp đồng có đền bù: Là hợp đồng mà mỗi bên đều nhận được lợi ích từ phía bên kia.
Tuy nhiên, không phải mọi trường hợp đều là lợi ích vật chất mà có thể cũng là lợi ích
tinh thần.
Đa phần các hợp đồng dân sự đều là hợp đồng có đền bù vì xuất phát từ đặc
điểm cơ bản của quan hệ dân sự (chủ yếu là quan hệ tài sản) mang tính chất ngang giá,
đền bù tương đương.
Hầu hết các hợp đồng mang tính chất đền bù là hợp đồng song vụ và ngược lại.
Nhưng cũng có nhiều hợp đồng có đền bù nhưng lại là hợp đồng đơn vụ . Mặt khác,
nhiều hợp đồng song vụ nhưng không mang tính đền bù.
Hợp đồng không có đền bù là hợp đồng chỉ có một bên được nhận lợi ích từ phía
bên kia và ngược lại.

7


Căn cứ vào thời điểm phát sinh hiệu lực của hợp đồng: Hợp đồng ưng thuận và
hợp đồng thực tế:
Hợp đồng ưng thuận: Là những hợp đồng mà thời điểm có hiệu lực của nó được
xác định vào thời điểm giao kết như hợp đồng mua bán…
Hợp đồng thực tế: là những hợp đồng mà sau khi thỏa thuận, hiệu lực của nó chỉ phát
sinh tại thời điểm các bên đã chuyển giao cho nhau đối tượng của hợp đồng.
Các hợp đồng đặc biệt:
+
Hợp đồng có điều kiện: Là những hợp đồng mà khi giao kết, bên cạnh việc thỏa
thuận nội dung của hợp đồng, các bên còn thỏa thuận các điều kiện như khi xảy
ra sự kiện nào thì hợp đồng mới phải thực hiện hoặc chấm dứt…
+
Hợp đồng hỗn hợp: Là hợp đồng mà các bên giao kết hợp đồng đều phải có
nghĩa vụ và người thứ ba là người được hưởng lợi ích từ việc thực hiện nghĩa vụ

đó.
Ví dụ: Hợp đồng bảo hiểm, hợp đồng thuê người chăm sóc người khác…
+
Hợp đồng mẫu: Là những hợp đồng mà khi cùng một lúc làm phát sinh những
quyền, nghĩa vụ dân sự với nội dung của hai hay nhiều hợp đồng thông thường khác.
Trong thực tiễn, có hợp đồng mà nội dung được một bên chuẩn bị sẵn, được công bố
rộng rãi cho mọi người và người đối tác chỉ có thể lựa chọn giữa chấp nhận và không
chấp nhận giao kết chứ hầu như không có cơ hội thảo luận. Ðiển hình của loại thứ hai
này là các hợp đồng vận chuyển đường sắt, đường không, hợp đồng cung ứng điện,
nước, hợp đồng bảo hiểm, hợp đồng mua bán hàng hóa trong siêu thị. Loại hợp đồng
này càng lúc càng trở nên thông dụng, theo sự phát triển của xã hội tiêu thụ
5.
Nội dung của hợp dồng dân sự
Nội dung của hợp đồng dân sự là tổng hợp các điều khoản mà các chủ thể tham
gia giao kết hợp đồng đã thỏa thuận xác định quyền và nghĩa vụ dân sự cụ thể của các
bên trong hợp đồng.
Nội dung của hợp đồng dân sự bao gồm các điều khoản sau: điều khoản cơ bản
(được gọi là nội dung chủ yếu của hợp đồng), các điều khoản tùy nghi và các điều
khoản thông thường.
Điều khoản cơ bản: là những điều khỏan bắt buộc các bên phải thỏa thuận nếu
thiếu những điều khỏan này thì hợp đồng không thể giao kết được. Điều khỏan cơ bản
của mỗi loại hợp đồng có thể do pháp luật quy định và các bên thỏa thuận.
Điều khoản thông thường: là những điều khoản được pháp luật quy định trước.
Nếu khi giao kết hợp đồng, các bên không thỏa thuận điều khoản này thì vẫn coi như
hai bên đã mặc nhiên thỏa thuận và được thực hiện như pháp luật quy định. Khi có
tranh chấp thì sẽ căn cứ vào quy định pháp luật để giải quyết.
Điều khỏan tùy nghi: là những điều khoản mà các bên tham gia giao kết hợp đồng tự ý
lựa chọn và thỏa thuận với nhau để xác định quyền và nghĩa vụ dân sự của các bên.
Việc phân nội dung hợp đồng thành 3 nhóm điều khoản trên chỉ mang tính chất
tương đối. Tự thân một điều khoản có thể bao hàm cả 3 loại điều khỏan cơ bản, thông

thường và tùy nghi.
6.
Hình thức và thời điểm có hiệu lực của hợp đồng dân sự
6.1. Hình thức của hợp đồng:

8


Hình thức được xem là phương tiện ghi nhận nội dung mà các chủ thể đã thoả
thuận. Hình thức của hợp đồng được Bộ luật dân sự quy định tại Điều 401.
Các hình thức cụ thể của hợp đồng bao gồm:

Hình thức miệng (bằng lời nói): Hình thức này được áp dụng trong những trường
hợp các bên đã có độ tin cậy lẫn nhau hoặc đối với những hợp đồng mà ngay sau khi
giao kết sẽ được thực hiện và chấm dứt. Đối với hình thức này, các bên giao kết hợp
đồng chỉ cần thỏa thuận miệng với nhau về nội dung cơ bản của hợp đồng và thực hiện
những hành vi nhất định đối với nhau. Hợp đồng này thường có hiệu lực pháp luật ngay
tại thời điểm giao kết.

Hình thức viết (bằng văn bản) áp dụng đối với những hợp đồng mà việc thực
hiện và giao kết thường không xảy ra cùng một lúc. Đối với một số loại hợp đồng nhất
định, pháp luật quy định phải lập thành văn bản như: hợp đồng thuê nhà có thời hạn
dưới 6 tháng (Đ489 BLDS)…Đối với các hình thức hợp đồng được lập bằng văn bản,
các bên phải ghi đầy đủ những nội dung cơ bản của hợp đồng và cùng ký tên xác nhận
vào văn bản. Hợp đồng được ký kết thành nhiều văn bản và mỗi bên giữ 1 bản. Khi
tranh chấp hợp đồng xảy ra, hợp đồng được ký kết bằng văn bản là căn cứ pháp lý để
giải quyết tranh chấp.

Hình thức văn bản có công chứng, chứng thực của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền: Hợp đồng có hình thức này là hợp đồng có giá trị chứng cứ cao nhất, được áp

dụng đối với những đối tượng tài sản có tính chất quan trọng như bất động sản, tàu bay,
tàu biển…và thường do pháp luật quy định trong các văn bản pháp luật chuyên ngành.

Hình thức bằng hành vi: thường được áp dụng đối với hợp đồng chỉ cần có một
bên. Ví dụ: Mua vé tàu, mua nước ngọt tự động, hợp đồng tặng cho tài sản (công đức)

6.2. Thời điểm có hiệu lực của hợp đồng dân sự

Thời điểm có hiệu lực của hợp đồng là thời điểm làm phát sinh quyền và nghĩa
vụ của các bên.
Về nguyên tắc, thời điểm có hiệu lực bắt buộc các bên tham gia giao kết chính là
thời điểm có hiệu lực của hợp đồng. Tuy nhiên, tùy thuộc vào bản chất pháp lý, tính
chất đặc trưng của các loại hợp đồng khác nhau mà thời điểm có hiệu lực của hợp đồng
cũng khác nhau.
Điều 404 BLDS quy định thời điểm giao kết hợp đồng thì theo đó thời điểm có
hiệu lực của hợp đồng được xác định như sau:
o Là thời điểm bên đề nghị nhận được trả lời chấp nhận giao kết.
o Hợp đồng cũng được xem như được giao kết khi hết thời hạn trả lời mà
các bên được đề nghị vẫn im lặng, nếu có thỏa thuận im lặng là sự trả lời
chấp nhận giao kết.
o Hợp đồng miệng có hiệu lực từ thời điểm các bên đã thỏa thuận với nhau
về những nội dung của hợp đồng.
o Hợp đồng bằng văn bản thường: có hiệu lực tại thời điểm bên sau cùng ký
vào hợp đồng bằng văn bản.

9


o Hợp đồng bằng văn bản được công chứng, chứng thực của cơ quan nhà
nước có thẩm quyền, đăng ký và xin phép: có hiệu lực tại thời điểm hợp

đồng được chứng nhận, công chứng, đăng ký và cho phép.
o Ngoài ra, hợp đồng còn có thể có hiệu lực sau và trư
o ớc các thời điểm trên nếu các bên thỏa thuận và trong trường hợp pháp
luật có quy định cụ thể.
Hợp đồng được giao kết hợp pháp có hiệu lực pháp luật từ thời điểm giao kết,
trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác
CÂU HỎI ÔN TẬP VÀ THẢO LUẬN
1. Khái niệm, đặc điểm của hợp đồng?
2. Phân loại hợp đồng?
3. Hình thức của hợp đồng?
4. Những điểm mới của Bộ luật Dân sự 2005 so với Bộ luật Dân sự 1995 về quy định
hợp đồng?
5. Thời điểm có hiệu lực của hợp đồng?

10


CHƯƠNG 2
CÁC ĐIỀU KIỆN CÓ HIỆU LỰC CỦA HỢP ĐỒNG
1.
Các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng
1.1
Điều kiện về chủ thể
Để bảo vệ trật tự xã hội, bảo vệ quyền lợi của các bên tham gia hợp đồng, pháp
luật dân sự căn cứ vào khả năng nhận thức, địa vị pháp lý của các cá nhân cũng như tổ
chức đặt ra điều kiện cho phép chủ thể tham gia với tư cách là các bên tham gia ký kết
hợp đồng.
Năng lực chủ thể là một thuộc tính đặc biệt của chủ thể pháp luật được Nhà nước
quy định. Thông thường năng lực của chủ thể bao gồm NLPL và NLHV. NLPL là khả
năng mà tổ chức, cá nhân được hưởng các quyền và nghĩa vụ pháp lý do Nhà nước trao

cho. Các quyền và nghĩa vụ này được Nhà nước quy định trong các văn bản pháp luật
hiện hành. NLPL của cá nhân có từ lúc sinh ra và chỉ mất đi khi cá nhân đó chết. Với
chủ thể là tổ chức thì NLPL có từ khi thành lập và mất đi khi tổ chức đó bị giải thể hoặc
phá sản. NLPL là quyền khách quan, song để quyền khách quan này biến thành quyền
chủ quan thì đòi hỏi chủ thể tham gia giao kết hợp đồng phải có NLHV.
NLHV là khả năng của cá nhân bằng hành vi của mình xác lập, thực hiện quyền,
nghĩa vụ dân sự. Khác với NLPL, ở cá nhân, NLHV chỉ xuất hiện khi đạt đến độ tuổi do
pháp luật quy định và không bị mắc các khuyết tật về tinh thần. Còn đối với tổ chức thì
NLHV xuất hiện cùng lúc với NLPL và bị chi phối bởi các giấy tờ làm bằng chứng liên
quan tới việc thành lập tổ chức đó (ví dụ như: quyết định thành lập hoặc giấy chứng
nhận đăng ký kinh doanh).
Như vậy, năng lực chủ thể được cấu thành bởi hai yếu tố là NLPL và NLHV. Hai
yếu tố có mối quan hệ mật thiết với nhau và tạo nên năng lực chủ thể. Một người được
coi là có năng lực chủ thể thì đồng thời phải có NLPL và NLHV.
Về nguyên tắc, pháp luật chỉ cho phép các đương sự có đủ NLPL và NLHV mới
có thể tự mình tham gia vào các quan hệ pháp luật. Nếu không đủ năng lực chủ thể, bắt
buộc phải có người đại diện hoặc người giám hộ hợp pháp cho các bên tham gia giao
kết hợp đồng.
Trong quan hệ dân sự, các chủ thể có thể tự mình tham gia giao kết hợp đồng
hoặc thông qua người đại diện. Trong trường hợp thông qua đại diện, nội dung giao kết
hợp đồng không được vượt quá thẩm quyền, phạm vi người đại diện được phép quyết
định. Đại diện thường phân chia ra làm hai nhóm: đại diện theo thẩm quyền và đại diện
theo ủy quyền.
- Đại diện theo thẩm quyền là đại diện được pháp luật quy định hoặc cơ quan
nhà nước có thẩm quyền quyết định. Đối với cá nhân, Tòa án hoặc cơ quan nhà nước cử
hoặc đại diện đương nhiên theo quy định của pháp luật, như cha mẹ đương nhiên là
người đại diện cho con trong trường hợp người con đó không đủ NLHV dân sự.
- Đại diện theo ủy quyền là đại diện dược xác lập theo sự ủy quyền của người đại
diện và người được đại diện. Nếu cá nhân hoặc tổ chức có đủ năng lực chủ thể để tham
gia giao kết hợp đồng nhưng uỷ quyền cho người khác đại diện tư cách chủ thể thì cần

xem xét phạm vi và nội dung uỷ quyền của người đại diện. Việc giao kết hợp đồng

11


không được trái với thẩm quyền được uỷ quyền. Nếu không thoả mãn điều kiện này,
hợp đồng cũng bị tuyên bố vô hiệu.
1.2. Điều kiện về mục đích và nội dung của hợp đồng
Nội dung thỏa thuận chính là các điều khoản của hợp đồng đã được các bên
thống nhất. Những điều khoản này phản ảnh các quyền và nghĩa vụ của các bên phát
sinh trong hợp đồng.
Trước đây theo các luật gia đại diện cho thuyết tự do lập ước cho rằng các bên
tham gia giao dịch hợp đồng có quyền thỏa thuận bất cứ điều khoản nào mà họ muốn.
Tuy nhiên, trong một xã hội dân chủ văn minh và công bằng, pháp luật không thừa
nhận những điều khoản nào được thỏa thuận trái với pháp luật hay đạo đức xã hội.
Điều cấm của pháp luật được hiểu là những quy định của pháp luật không cho
phép chủ thể thực hiện những hành vi nhất định. Ví dụ như mục đích, nội dung mà các
bên thoả thuận khi giao kết hợp đồng không được xâm phạm tới lợi ích chung của cộng
đồng, của Nhà nước.
Đạo đức xã hội được hiểu là những chuẩn mực ứng xử chung giữa người với
người trong xã hội, được cộng đồng thừa nhận và tôn trọng. Nói cách khác các bên có
quyền thỏa thuận những điều mà pháp luật không cấm và làm những việc mà pháp luật
cho phép, không trái với quy tắc đạo đức.
Như vậy, để hợp đồng phát sinh hiệu lực thì các bên phải thỏa thuận phù hợp với
pháp luật và đạo đức xã hội. Theo đó tất cả những hợp đồng được ký kết mà có căn cứ
chứng minh rằng thỏa thuận là trái pháp luật và không phù hợp với chuẩn mực xã hội
thì hợp đồng đó sẽ vô hiệu.
1.3
Điều kiện về thể hiện ý chí trong thỏa thuận
Sự tự nguyện trong thỏa thuận chính là nội dung của nguyên tắc “tự do ý chí”

khi giao kết hợp đồng. Nguyên tắc này được thể hiện bằng sự đồng thuận của những
người tham gia ký kết. Điều 4 BLDS 2005 quy định: “Trong quan hệ dân sự, các bên
hoàn toàn tự nguyện, không bên nào được áp đặt, cấm đoán, cưỡng ép, đe doạ, ngăn cản
bên nào”.
Bên cạnh đó, pháp luật cũng dự liệu các trường hợp vi phạm tới nguyên tắc “tự do
ý chí” trong giao kết hợp đồng. Chúng ta có thể gọi đó là các khiếm khuyết của sự thống
nhất ý chí, đó là sự nhầm lẫn, sự lừa dối và đe dọa khi giao kết hợp đồng.
Sự nhầm lẫn: Sự nhầm lẫn được hiểu là “sự đánh giá sai về thực tế khách quan”
tồn tại vào thời điểm giao kết hợp đồng. Có thể nói nhầm lẫn là điều thường xảy ra,
song để được xem là yếu tố để khẳng định hợp đồng vô hiệu lại cần có đặc điểm riêng.
Chỉ khi nhầm lẫn về bẩn chất của vật hoặc sự việc là đối tượng hợp đồng hoặc khi
nhầm lẫn về tư cách chủ thể mà theo tính chất của nghĩa vụ hoặc theo sự thỏa thuận thì
nhân thân của đối tác là điều kiện quan trọng cho việc giao kết hợp đồng thì hợp đồng
mới bị tuyên bố vô hiệu.
Sự lừa dối: Tuy sự nhầm lẫn và lừa dối trong giao dịch đều có điểm chung là
bên bị nhầm lẫn và bên bị lừa dối do hiểu sai lệch về tính chất của đối tượng nên đã xác
lập hợp đồng. Nhưng giữa chúng có điểm khác nhau cơ bản đó là: sự nhầm lẫn có thể
gây ra bởi lỗi cẩu thả, sơ suất, kém hiểu biết của bên bị nhầm lẫn hoặc do lỗi vô ý của
bên kia hay bên thứ ba. Còn trong trường hợp xác lập giao dịch do lừa dối, sự nhầm lẫn
lại được gây ra bởi hành vi mang tính chất cố ý của bên kia hoặc của người thứ ba.

12


Lua doi la hành vi cố ý của một bên hoặc của người thứ ba nhằm làm cho bên
kia hiểu sai lệch về chủ thể, tính chất của đối tượng hoặc nội dung của giao dịch nên đã
xác lập giao dịch đó
Sự đe dọa: Đe dọa là hành vi cố ý tác động vào ý chí của một người làm cho
người đó khiếp sợ, buộc phải xác lập, thực hiện hợp đồng nhằm tránh thiệt hại về tính
mạng, sức khỏe, danh dự, uy tín, nhân phẩm, tài sản của mình hoặc của người thân. Rõ

ràng, khi người bị đe dọa do khiếp sợ mà phải xác lập, thực hiện hợp đồng ngoài ý
muốn của họ thì tất nhiên, ý chí được thể hiện trong giao dịch không phải là ý chí đích
thực của họ. Do đó, hợp đồng được giao kết do bị đe dọa sẽ vô hiệu.
“Đe dọa trong giao dịch dân sự là hành vi cố ý của một bên hoặc người thứ ba
làm cho bên kia buộc phải thực hiện giao dịch nhằm tránh thiệt hại về tính mạng, sức
khỏe, danh dự, uy tín, nhân phẩm, tài sản của mình hoặc của cha, mẹ, vợ, chồng, con
của mình”
Xét về mặt hình thức, đe dọa thể hiện dưới hai dạng thức: sự tác động về thể chất
mang tính cưỡng bức như dùng vũ lực gây đau đớn về thể xác cho bên đối tác…hoặc
gây áp lực về mặt tinh thần như đe dọa làm cho bên đối tác mất danh dự, uy tín…
1.4. Điều kiện đối tượng hợp đồng: phải thực hiện được
Yếu tố thứ ba không thể thiếu của hợp đồng chính là đối tượng. Sự thống nhất ý
chí của các bên phải nhằm vào một đối tượng cụ thể. Đối tượng của hợp đồng phải
được xác định rõ rệt và được phép giao dịch. Chẳng hạn, đối tượng của hợp đồng mua
bán tài sản là vật thì vật phải được xác định rõ, không bị pháp luật cấm lưu thông trong
giao dịch dân sự - kinh tế.
Theo quy định tại Điều 411 BLDS, hợp đồng có đối tượng vì lý do khách quan
không thể thực hiện được thì hợp đồng đó vô hiệu.
1.5. Điều kiện về hình thức của hợp đồng
Yêu cầu về hình thức của pháp luật hợp đồng do pháp luật quy định. Không có một
quốc gia nào không có yêu cầu về hình thức. Mục đích yêu cầu về hình thức là:
+ Tái xác lập ý chí tham gia hợp đồng của các bên trong các giao dịch tặng cho, bảo
lãnh, hôn nhân…(Có thể thấy điều này tại BLDS Đức điều 518 và 766)
+ Là bằng chứng trong giao dịch có giá trị lớn, trong BLDS Pháp, Luật Anh – Mỹ đều
yêu cầu giao dịch có giá trị lớn hơn 5.000 Fr hay 500USD phải được lập thành văn bản.
+ Để công khai quyền sở hữu với bên thứ ba trong giao dịch có đăng ký như mua bán
nhà đất. Đây là trường hợp Pháp, Nhật bản.
+ Để bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng. Luật Pháp và Nhật quy định: hợp đồng
cung cấp điện, gas, nước, chuyển phát nhanh, bảo hiểm giữa nhà cung cấp và người tiêu
dùng phải được cơ quan nhà nước phê chuẩn hợp đồng mẫu trước khi giao kết với công

chúng
Sự thỏa thuận giữa các bên tham gia hợp đồng phải được thể hiện dưới một hình
thức nhất định. Đề bảo vệ lợi ích của Nhà nước, lợi ích của cộng đồng và sự an toàn của
các bên, pháp luật đã quy định việc tuân thủ các quy định về hình thức đối với một số
hợp đồng nhất định.
Việc quy định một số hợp đồng phải tuân thủ các quy định về hình thức như
việc: phải được thể hiện bằng văn bản, được công chứng, chứng thực hoặc đăng ký tại
cơ quan nhà nước có thẩm quyền dựa trên cơ sở đối tượng của hợp đồng có giá trị lớn

13


hoặc có tính năng đặc biệt, ví dụ như: hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ phải được công
chứng, chứng thực tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Những quy định này còn là cơ
sở để cơ quan nhà nước có thẩm quyền kiểm tra, giám sát việc dịch chuyển tài sản trong
giao lưu dân sự.
Có thể khẳng định bằng quy định về hình thức hợp đồng được Nhà nước quy
định nhằm ngăn chặn các chủ thể trốn tránh, vi phạm nghĩa vụ với Nhà nước. Ví dụ như
nghĩa vụ nộp thuế, nghĩa vụ tôn trọng sự kiểm soát của Nhà nước đối với giao dịch liên
quan đến các loại tài sản đặc biệt. Tuy nhiên, quy định hình thức là điều kiện có hiệu
lực của hợp đồng cần được quy định một cách thận trọng bởi điều đó chứng tỏ sự can
thiệp của Nhà nước vào tự do hợp đồng của các bên chủ thể.
Theo quy định pháp luật dân sự Việt Nam, điều kiện về hình thức có sự thay đổi
đáng ghi nhận. Tại Điều 122 BLDS 2005 chỉ quy định ba điều kiện có hiệu lực của giao
dịch dân sự (hợp đồng) chứ không quy định bốn điều kiện như BLDS 1995. Cụ thể là
BLDS 2005 đã bỏ điều kiện về hình thức của giao dịch. BLDS 2005 quy định hình
thức của hợp đồng là điều kiện có hiệu lực của hợp đồng trong trường hợp pháp luật có
quy định.
2.
Hợp đồng vô hiệu và các trường hợp hợp đồng vô hiệu

2.1. Khái niệm
Hợp đồng vô hiệu được hiểu là giao dịch có sự thể hiện ý chí của các bên tham
gia, nhưng có sự vi phạm điều kiện có hiệu lực của hợp đồng đã được quy định trong
BLDS
Hợp đồng vô hiệu có đặc điểm:
- Hợp đồng không thỏa mãn một trong các điều kiện hợp pháp theo quy định của
pháp luật về hợp đồng.
- Các bên tham gia hợp đồng phải chịu hậu quả pháp lý nhất định
2.2
Các trường hợp hợp đồng dân sự vô hiệu (4 tiết)
Các trường hợp hợp đồng vô hiệu sẽ áp dụng các quy định của giao dịch dân sự
vô hiệu, được quy định từ điều 128 đến điều 134 BLDS 2005.
2.2.1 Hợp đồng vô hiệu do vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội
Điều 128 BLDS 2005 đã quy định: “Giao dịch dân sự có mục đích và nội dung
vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội thì vô hiệu”.
So sánh nội dung quy định này với BLDS 1995 có thể thấy rõ về hình thức và
ngôn từ tại điều 128 thì không có những quy định hoàn toàn mới, song xét về mặt tư
tưởng thì có thể thấy thay đổi cơ bản. Trước đây pháp luật quy định mà người dân thực
hiện không đúng theo quy định đó hoặc pháp luật không có quy định cho phép hay cấm
đoán nhưng người dân vẫn thực hiện giao dịch đó thì bị coi là trái pháp luật. Vì vậy,
BLDS 1995 đã phân thành hai loại với cấp độ khác nhau đó là giao dịch dân sự có mục
đích và nội dung trái pháp luật và giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm điều cấm của
pháp luật với những hậu quả pháp lý khác nhau. Hiện nay, BLDS 2005 chỉ còn quy định
giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm điều cấm của pháp luật. So sánh với BLDS 1995
có thể thấy BLDS 2005 đã sửa đổi theo hướng tăng tự do giao dịch dân sự bằng việc
giới hạn những hạn chế tự do giao dịch.
2.2.2 Hợp đồng vô hiệu do người tham gia ký kết hợp đồng không có NLHV dân
sự, hạn chế NLHV dân sự

14



Theo Khoản 1, Điều 122 BLDS 2005, người xác lập, thực hiện hợp đồng dân sự
có thể là cá nhân, pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác và trong một số trường hợp đặc
biệt là Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Pháp luật dân sự Việt Nam quy định NLHV với các căn cứ xác định, phân chia
thành các mức độ NLHV để phân biệt khả năng nhận thức và làm chủ hành vi của cá
nhân. Theo đó dựa theo độ tuổi và khả năng phát triển nhận thức mà pháp luật phân biệt
NLHV dân sự thành các cấp độ khác nhau như:
+
NLHV dân sự đầy đủ: là cá nhân đủ 18 tuổi trở lên, không bị Toà án tuyên bố
mất NLHV hoặc hạn chế NLHV. Người có NLHVDS đầy đủ được tự do giao kết hợp
đồng theo quy định của pháp luật [4, Điều 19].
+
NLHV dân sự một phần: là những người chỉ có thể xác lập, thực hiện quyền,
nghĩa vụ và trách nhiệm trong một giới hạn nhất định do pháp luật dân sự quy định. Đối
tượng là những người đủ 6 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi. Những cá nhân này khi xác lập
giao dịch phải có sự đồng ý của người đại diện hoặc người giám hộ trừ những giao dịch
nhỏ nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt hằng ngày phù hợp với lứa tuổi.
Người từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi có tài sản riêng được thực hiện giao dịch và
phải chịu trách nhiệm trong phạm vi tài sản họ có, trừ trường hợp pháp luật quy định
khác.
+
Không có NLHV dân sự: đối tượng là người chưa đủ 6 tuổi. Mọi giao dịch của
họ phải do người đại diện theo pháp luật xác lập, thực hiện.
+
Mất NLHV dân sự và hạn chế NLHV dân sự
Người bị tuyên bố mất NLHV là người mắc tâm thần hoặc các bệnh khác mà
không thể nhận thức và làm chủ hành vi của mình. Toà án ra quyết định tuyên bố mất
năng lực hành vi dân sự trên cơ sở có kết luận của tổ chức giám định có thẩm quyền.

Hạn chế NLHV dân sự là người nghiện ma túy, nghiện các chất kích thích khác
dẫn đến phá tán tài sản gia đình.
Với các cấp độ trên BLDS 2005 quy định: những hợp đồng dân sự do người mất
NLHV, người không có NLHV xác lập; những hợp đồng dân sự do người chưa thành
niên, người bị hạn chế NLHV xác lập vượt quá khả năng của mình thì vô hiệu. Để đáp
ứng các lợi ích của những đối tượng này trong các quan hệ xã hội, pháp luật qui định
hợp đồng dân sự của họ phải do người đại diện theo pháp luật xác lập và thực hiện.
Ngoài ra, pháp luật cũng qui định cá nhân có NLHV đầy đủ có thể ủy quyền cho
người khác xác lập, thực hiện hợp đồng dân sự vì lợi ích của mình (đại diện theo ủy
quyền). Pháp nhân và các chủ thể còn lại của pháp luật dân sự giao kết, thực hiện hợp
đồng phải thông qua vai trò của người đại diện.
2.2.3 Hợp đồng vô hiệu do người xác lập không nhận thức và làm chủ được hành
vi của mình khi xác lập hợp đồng
Người có NLHV dân sự nhưng đã xác lập giao dịch vào đúng thời điểm không
nhận thức và làm chủ được hành vi của mình thì có quyền yêu cầu Toà án tuyên bố giao
dịch dân sự đó là vô hiệu. Ví dụ, một người có NLHV bình thường nhưng đã ký hợp
đồng mua bán tài sản trong lúc say rượu, không nhận thức được hành vi của họ thì
trong trường hợp này hợp đồng bị coi là vô hiệu nếu người đó yêu cầu Toà án tuyên hợp
đồng đó là vô hiệu.
2.2.4 Hợp đồng vô hiệu do giả tạo

15


BLDS đã quy định tại Điều 129: “Giao dịch dân sự giả tạo là giao dịch được
thiết lập giữa các bên nhằm mục đích che dấu một giao dịch khác hoặc trốn tránh việc
thực hiện nghĩa vụ”. Trong trường hợp này, giao dịch giả tạo bị vô hiệu tuy nhiên giao
dịch bị che giấu vẫn có hiệu lực trừ khi nó cũng bị vô hiệu theo các quy định khác của
BLDS.
Ví dụ như A ký kết hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ với B nhưng thiết lập hợp

đồng thứ hai với giá bán thấp hơn giá thực tế các bên thỏa thuận nhằm trốn tránh nghĩa
vụ đóng thuế với Nhà nước.
2.2.5. Hợp đồng vô hiệu do nhầm lẫn
Điều 131 BLDS 2005 về giao dịch dân sự vô hiệu do bị nhầm lẫn quy định: “Khi
một bên có lỗi vô ý làm cho bên kia nhầm lẫn về nội dung của giao dịch dân sự mà xác
lập giao dịch thì bên bị nhầm lẫn có quyền yêu cầu bên kia thay đổi nội dung của giao
dịch đó, nếu bên kia không chấp nhận thì bên bị nhầm lẫn có quyền yêu cầu Tòa án
tuyên bố giao dịch vô hiệu. Trong trường hợp một bên do lỗi cố ý làm cho bên kia
nhầm lẫn về nội dung của giao dịch thì được giải quyết theo quy định tại Điều 132 của
Bộ luật này”.
2.2.6. Hợp đồng vô hiệu do bị lừa dối, đe dọa
Hợp đồng vô hiệu do đe dọa:
Hợp đồng vô hiệu do đe dọa cũng được quy định trong BLDS nhiều nước trên
thế giới cũng như tại BLDS Việt Nam. Điều 132 BLDS 2005 đã ghi nhận khái niệm đe
dọa: “Đe dọa trong giao dịch là hành vi cố ý của một bên hoặc người thứ ba làm cho
bên kia buộc phải thực hiện giao dịch nhằm tránh thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ,
danh dự, uy tín, nhân phẩm, tài sản của mình hoặc của cha, mẹ, vợ, chồng, con của
mình”. So sánh với Điều 142 BLDS 1995, Điều 132 BLDS 2005 đã cụ thể hóa “người
thân thích” thành: “cha, mẹ, vợ, chồng, con” của người bị đe dọa..
Hợp đồng vô hiệu do lừa dối
Lừa dối trong giao dịch dân sự là hành vi cố ý của một bên hoặc của người thứ
ba nhằm làm cho bên kia hiểu sai lệch về chủ thể, tính chất của đối tượng hoặc nội
dung của giao dịch nên đã xác lập giao dịch đó.
Có thể thấy để được coi là lừa dối phải đảm bảo hai yếu tố: một là, một bên phải
sử dụng thủ đoạn để lừa người khác và hai là, người kia phải nghe theo, làm theo một
việc nào đó như giao kết hợp đồng.
2.2.7 Hợp đồng vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức
Theo quy định tại Điều 124 BLDS 2005 thì giao dịch dân sự được thể hiện bằng
lời nói, bằng văn bản và bằng hành vi cụ thể. Giao dịch dân sự thông qua phương tiện
điện tử dưới hình thức thông điệp dữ liệu được xem là giao dịch bằng văn bản.

Tùy theo tính chất của đối tượng giao dịch và nhu cầu quản lý của Nhà nước mà
pháp luật dân sự có những yêu cầu khác nhau về hình thức giao dịch của hợp đồng. Đối
với những hợp đồng được thiết lập nhằm thỏa mãn nhu cầu vật chất và tinh thần hằng
ngày của cuộc sống và giá trị tài sản không lớn thì các bên có thể giao kết dưới hình
thức miệng, có sự tự nguyện và thống nhất ý chí của các bên. Có những loại giao dịch
pháp luật bắt buộc các bên phải thể hiện bằng văn bản và có trường hợp yêu cầu cao
hơn là phải có công chứng chứng thực của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Chẳng hạn
như đối với hợp đồng liên quan đến tài sản lớn hoặc bất động sản như hợp đồng mua

16


bán nhà ở: “Hợp đồng mua bán nhà ở phải được lập thành văn bản, có công chứng
hoặc chứng thực, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác” (Luật Nhà ở năm 2005
Điều 450). Quy định đó nhằm đảm bảo lợi ích công cộng, sự quản lý của nhà nước, lợi
ích của các bên tham gia hợp đồng cũng như lợi ích của người khác.
So sánh với BLDS 1995, chúng ta có thể thấy BLDS năm 2005 đã quy định điều
kiện về hình thức của giao dịch nói chung và hợp đồng nói riêng có nhiều điểm khác.
BLDS 1995 coi vi phạm điều kiện về hình thức là rất nghiêm trọng giống như
với giao dịch dân sự cũng như hợp đồng vô hiệu do vi phạm điều cấm của pháp luật,
trái đạo đức xã hội hay vô hiệu do giả tạo…Khoản 2 Điều 145 BLDS 1995 đã quy định:
“ Đối với các giao dịch dân sự được quy định tại Điều 137, Điều 138 và Điều 139 của
Bộ luật này, thì thời gian yêu cầu Toà án tuyên bố giao dịch vô hiệu không bị hạn chế”.
Như vậy, bất cứ lúc nào các bên đương sự cũng có quyền yêu cầu Toà án tuyên bố giao
dịch dân sự vô hiệu do vi phạm điều kiện về hình thức. Còn theo quy định của BLDS
2005 thì hợp đồng vi phạm điều kiện về hình thức chỉ vô hiệu trong trường hợp pháp
luật quy định. Theo Điều 136 BLDS 2005: thời gian tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu
do vi phạm về hình thức chỉ có hai năm kể từ ngày giao dịch dân sự được xác lập, quá
thời hạn này đương sự mới yêu cầu thì Toà án không chấp nhận yêu cầu đó.
2.2.8. Hợp đồng vô hiệu do đối tượng không thực hiện được

Theo quy định tại điều 411 BLDS, hợp đồng có đối tượng vì lý do khách quan
không thể thực hiện được ngay từ khi ký kết thì vô hiệu. Khi giao kết hợp đồng nếu một
bên biết về việc hợp đồng có đối tượng không thể thực hiện được mà không thông báo
cho bên kia biết dẫn tới việc bên kia đã giao kết hợp đồng thì có nghĩa vụ bồi thường
thiệt hại cho bên kia, trử trường hợp bên kia đã biết hoặc phải biết về việc hợp đồng có
đối tượng không thể thực hiện được.
Quy định trên đây cũng được áp dụng đối với trường hợp hợp đồng có một hoặc
nhiều phần đối tượng không thể thực hiện được nhưng phần còn lại của hợp đồng vẫn
có giá trị pháp lý. Quy định trên có thể thấy quan điểm của BLDS cho rằng các thỏa
thuận trong hợp đồng phải xác định rõ ràng các đối tượng mới được coi là có giá trị.
Điều đó thể hiện qua ngôn từ: “Phải thực hiện được”.
3. Phân loại
Phân loại vô hiệu về phương diện bảo vệ quyền lợi: vô hiệu tương đối và vô hiệu tuyệt
đối
 Vô hiệu tuyệt đối
- Các điều kiện xác lập hợp đồng được xác lập nhằm tuyên bố hợp đồng vô hiệu là cần
thiết nhằm bảo vệ quyền lợi công.
- Vô hiệu tuyệt đối có thể được yêu cầu bởi bất kỳ người nào có một quyền lợi thực tế
và hiện tại trong việc yêu cầu đó, có nghĩa là bất kể ai có liên quan tới sự vô hiệu
- Sự vô hiệu này có thể được yêu cầu bởi tòa án
- Hợp đồng vô hiệu tuyệt đối không thể được xác nhận
- Do luật qui định rõ ràng
* Vô hiệu tương đối
- Các điều kiện xác lập hợp đồng được xác lập nhằm tuyên bố hợp đồng vô hiệu là cần
thiết nhằm bảo vệ quyền lợi cá nhân, như khi sự ưng thuận của các bên hoặc của một
bên có khiếm khuyết

17



- Vô hiệu tương đối có thể chỉ được yêu cầu bởi người có quyền lợi được thiết lập hoặc
bởi bên giao kết hợp đồng kia, với điều kiện người này đã hành động thiện chí và phải
gánh chịu thiệt hại nghiêm trọng từ đó.
- Tòa án không thể yêu cầu vô hiệu tương đối
- Hợp đồng vô hiệu tương đối có thể được xác nhận
Khác với trường hợp vô hiệu tuyệt đối, hợp đồng vô hiệu tương đối chỉ gây thiệt
hại cho các bên. Sự vô hiệu tương đối này không mang tính chất mặc nhiên mà chỉ trở
nên vô hiệu khi có đơn yêu cầu của những người có quyền và lợi ích liên quan và có
quyết định tuyên bố của Tòa án. Đối với hợp đồng vô hiệu tương đối thì quyết định của
Tòa án là cơ sở duy nhất làm cho hợp đồng trở nên vô hiệu. Quyết định của Tòa án
mang tính chất phán xử.
4.
Hậu quả pháp lý:
Theo Điều 137 Khoản 2 BLDS năm 2005 sự vô hiệu của hợp đồng dẫn đến hậu
quả là không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể
từ thời điểm xác lập. Hậu quả pháp lý của hợp đồng dân sự vô hiệu được quy định tại
Điều 137 BLDS 2005 bao gồm:
“1. Giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ
dân sự của các bên kể từ thời điểm xác lập.
2. Khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả
cho nhau những gì đã nhận; nếu không hoàn trả được bằng hiện vật thì phải hoàn trả
bằng tiền, trừ trường hợp tài sản giao dịch, hoa lợi, lợi tức thu được bị tịch thu theo
quy định của pháp luật. Bên có lỗi gây thiệt hại phải bồi thường”.
Việc “khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận” chỉ
có thể áp dụng khi đối tượng hợp đồng còn nguyên vẹn, chưa có hoặc ít có sự biến đổi
đáng kể . Trong trường hợp tài sản đã được chuyển giao thực tế không thể hoàn trả
được thì pháp luật tính đến khả năng hoàn trả số tiền tương đương.
Việc xử lý hậu quả của hợp đồng vô hiệu rất phức tạp trong trường hợp bên mua
tài sản đã cải tạo, sửa chữa tài sản đó hay nói cách khác làm tăng giá trị của tài sản mà
sau đó hợp đồng bị tuyên vô hiệu. Sau BLDS 1995, năm 2003, Nghị quyết số

01/2003/NQ-HĐTP của TANDTC “Về hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải
quyết một số loại tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình” được ban hành đã quy định
phương hướng giải quyết hậu quả pháp lý của hợp đồng mua bán nhà vô hiệu. Những
hướng dẫn đó là:
“Nếu trong thời gian quản lý, bên mua đã cải tạo, sửa chữa nhà làm tăng giá trị
gắn liền với giá trị QSDĐ thì khi nhận lại nhà bên bán phải thanh toán cho bên mua
phần giá trị tăng thêm đó, trừ trường hợp bên bán có phản đối hoặc cơ quan có thẩm
quyền không cho phép mà bên mua vẫn cố tình cải tạo, sửa chữa nhà”.
“Nếu các đương sự không thoả thuận được về giá nhà, giá trị QSDĐ và giá trị
thiệt hại, thì Toà án yêu cầu cơ quan chuyên môn định giá hoặc ra quyết định thành lập
hội đồng định giá. Giá nhà và giá trị QSDĐ được xác định theo giá thị trường chuyển
nhượng tại địa phương nơi có nhà, đất đang tranh chấp đối với từng loại nhà, đất vào
thời điểm xét xử sơ thẩm”. Hướng dẫn chi tiết này của Nghị quyết lại chỉ áp dụng đối
với hợp đồng mua bán nhà vô hiệu mà các hợp đồng mua bán tài sản khác không được
dẫn chiếu đến.

18


Bên có lỗi phải bồi thường thiệt hại
Có thể thấy bồi thường thiệt hại được quy định trên cơ sở xác định lỗi do chủ thể
nào gây ra và xác định được thiệt hại xảy ra trên thực tế khi hợp đồng bị tuyên bố vô
hiệu. Đối với trường hợp hợp đồng vô hiệu do vi phạm quy định về hình thức còn các
điều kiện khác đều hợp pháp, Tòa án tuyên các bên phải hoàn thiện hình thức hợp đồng,
nếu bên nào không thực hiện được xem là có lỗi và phải đền bù thiệt hại. Đây là đường
lối giải quyết rất rõ ràng trong thực tiễn xét xử.
Việc bồi thường thiệt hại được dựa trên yếu tố lỗi và xác định thiệt hại trên thực
tế. Theo Nghị quyết số 01/2003/NQ-HĐTP ngày 16/4/2003 và Nghị quyết 02/2004/NQHĐTP ngày 18/04/2004 của Hội đồng thẩm phán TANDTC thì việc xác định lỗi trong
hợp đồng mua bán nhà ở, QSDĐ căn cứ vào:
+ Một bên (bên bán) bị coi là có lỗi nếu bên đó có hành vi làm cho bên kia nhầm

tưởng là có đầy đủ điều kiện để mua nhà ở hoặc bán nhà, đất hợp pháp.
+ Trường hợp hợp đồng mua bán nhà, đất vô hiệu do lỗi của bên nào thì tùy mức
độ lỗi của mỗi bên (có thể bên bán hoặc bên mua) để buộc các bên phải chịu thiệt hại
(trừ trường hợp vi phạm điều cấm pháp luật và trái đạo đức xã hội) thì cần buộc các bên
trả lại cho nhau những gì đã nhận.
Tài sản giao dịch, hoa lợi lợi tức bị tịch thu trong trường hợp pháp luật có
quy định khác
Quy định tịch thu tài sản giao dịch, hoa lợi, lợi tức khi hợp đồng vô hiệu được
quy định nhằm xử lý những tài sản là đối tượng của hợp đồng nhưng thuộc diện tài sản
Nhà nước tịch thu, sung công quỹ.
Trước đây, điều 137 BLDS 1995 đã quy định về trường hợp tịch thu, cụ thể là
“giao dịch dân sự có nội dung vi phạm điều cấm pháp luật, trái đạo đức xã hội thì vô
hiệu; tài sản giao dịch, hoa lợi, lợi tức thu được bị tịch thu, sung quỹ nhà nước.
5. Thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng dân sự vô hiệu
BLDS 2005 đã qui định thời hiệu khởi kiện khác nhau dựa trên sự phân loại hợp
đồng vô hiệu:
Thứ nhất là: Đối với các trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu được quy định tại
các điều luật từ Điều 130 đến Điều 134, thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng
dân sự vô hiệu là hai năm bắt đầu từ thời điểm xác lập.
Thứ hai là: Đối với các trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu được quy định tại
Điều 128 và Điều 129 BLDS (giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo; giao dịch dân sự vô
hiệu do vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội), thì không bị hạn chế thời
hạn.
CÂU HỎI ÔN TẬP VÀ THẢO LUẬN
1. Các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng?
2. Thế nào là hợp đồng vô hiệu? Phân loại hợp đồng vô hiệu?
3. So sánh hợp đồng vô hiệu tương đối và hợp đồng vô hiệu tuyệt đối?
4. Những điểm mới của Bộ luật Dân sự 2005 so với Bộ luật Dân sự 1995 về quy định
hợp đồng vô hiệu?
5. Hậu quả pháp lý của hợp đồng vô hiệu?


19


CHƯƠNG 3 TRÁCH NHIỆM DÂN SỰ DO VI PHẠM HỢP ĐỒNG
1. Trách nhiệm dân sự
1.1. Khái niệm và các loại trách nhiệm dân sự
Trách nhiệm pháp lý do vi phạm nghĩa vụ là tổng hợp các quy phạm pháp luật
điều chỉnh các quan hệ nghĩa vụ phát sinh giữa các chủ thể, khi bên có quyền, lợi ích
hợp pháp bị xâm hại, do bên có nghĩa vụ không thực hiện, thực hiện không đúng, không
đầy đủ nghĩa vụ với bên có quyền
Theo nghĩa chủ quan: trách nhiệm pháp lý do vi phạm nghĩa vụ là trách nhiệm
của người có hành vi trái pháp luật do vi phạm quan hệ nghĩa vụ dân sự, phải bồi
thường thiệt hại hoặc thực hiện công việc hoặc không thực hiện công việc đối với bên
có quỳên bị xâm phạm và phải gánh chịu những hậu quả bất lợi khác về tài sản
Trách nhiệm pháp lý do vi phạm nghĩa vụ chỉ được áp dụng khi có hành vi trái
pháp luật và chỉ áp dụng đối với người có hành vi vi phạm đó. Trách nhiệm này là hình
thức cưỡng chế của Nhà nước và do cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng và luôn
mang đến hậu quả bất lợi cho người có hành vi vi phạm đó
+ Biểu hiện của hành vi ở đây là: không thực hiện, thực hiện không đúng, không đầy
đủ nghĩa vụ của người có nghĩa vụ dân sự.
+ Trách nhiệm dân sự do vi phạm nghĩa vụ bao giờ cũng liên quan trực tiếp đến tài sản.
+ Áp dụng với người có hành vi vi phạm nhưng cũng có thể áp dụng đối với người
khác (người đại diện cho người chưa thành niên)
+ Hậu quả bất lợi mà người vi phạm nghĩa vụ phải gánh là việc bắt buộc thực hiện
nghĩa vụ hoặc phải bồi thường thiệt hại nhằm thoả mãn quyền lợi của người bị vi phạm
2.
Khái niệm trách nhiệm do vi phạm hợp đồng
Vi phạm hợp đồng là hành vi đơn phương của một bên đã xử sự trái với cam kết
trong hợp đồng.

Khoản 12 Điều 3 Luật Thương mại năm 2005 quy định: “Vi phạm hợp đồng là
việc một bên không thực hiện, thực hiện không dầy đủ hoặc thực hiện không đúng
nghĩa vụ theo thỏa thuận giữa các bên hoặc theo quy định của Luật này”.
Vi phạm cơ bản hợp đồng, theo quy định tại khoản 13 Điều 3 Luật Thương mại
năm 2005, là “ sự vi phạm hợp đồng của một bên gây thiệt hại cho bên kia đến mức làm
cho bên kia không đạt được mục đích giao kết hợp đồng”. Đây là cơ sở để áp dụng chế
tài tạm ngừng thực hiện hợp đồng hoặc đình chỉ thực hiện hợp đồng hoặc hủy bỏ hợp
đồng.
Khái niệm vi phạm cơ bản hợp đồng cũng được quy định tại Điều 25 Công ước
Viên, theo đó “ một sự vi phạm hợp đồng do một bên gây ra là vi phạm cơ bản nếu sự
vi phạm đó làm cho bên kia bị thiệt hại mà người bị thiệt hại, trong một trường hợp
đáng kể bị mất cái mà họ có quyền chờ đợi trên cơ sở hợp đồng, trừ khi bên vi phạm
không tiên liệu được hậu quả đó và một người có lý trí minh mẫn cũng sẽ không tiên
liệu được nếu họ cũng ở vào hoàn cảnh tương tự”.
Từ quy định trên, xét về mặt lý thuyết, có thể thấy vi phạm hợp đồng được xác
định dựa trên các yếu tố: Phải có sự vi phạm nghĩa vụ hợp đồng; sự vi phạm nghĩa vụ
hợp đồng đó phải dẫn đến hậu quả là một bên mất đi điều mà họ chờ đợi (mong muốn
có được) từ hợp đồng; bên vi phạm hợp đồng không thể nhận thấy trước được hậu quả
của sự vi phạm đó.

20


2.1.
+

Trách nhiệm buộc phải thực hiện nghĩa vụ trong hợp đồng
Trách nhiệm do không thực hiện nghĩa vụ giao vật
Trong quá trình thực hiện hợp đồng bên có nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ
giao vật đặc định thì bên có quyền được quyền yêu cầu họ phải giao đúng vật đó, nếu

không phải thanh toán theo giá thị trường giá trị của vật. nếu bên có nghĩa vụ không
thực hiện nghĩa vụ mà gây thiệt hại cho bên có quyền thì phải bồi thường cả thiệt hại
sau khi đã thanh tóan giá trị của vật cho bên có quyền.
+
Trách nhiệm do không thực hiện nghĩa vụ phải thực hiện hoặc không thực hiện
một công việc
Khi đó bên có quyền có thể:
- Yeu cầu ben co nghĩa vụ tiếp tục thực hiện;
- Tự mình thực hiện;
- Giao cho người khác thực hiện công việc đó;
- Tất cả các chi phí phát sinh họ có quyền yêu cầu bên có nghĩa vụ phải thanh toán, nếu
phát sinh thiệt hại phải bồi thường thiệt hại. Nhưng đối với một công việc mà bên nghĩa
vụ không được thực hiện mà lại thực hiện nó thì phải chấm dứt thực hiện, khơi phục
tình trạng ban đầu và bồi thường thiệt hại.
+
Trách nhiệm dân sự do chậm thực hiện nghĩa vụ dân sự (Đ305)
Bên nghĩa vụ chưa hoàn thành nghĩa vụ khi đã quá thời hạn thì vẫn phải thực hiện nghĩa
vụ và bồi thường thiệt hại.
Bên nghĩa vụ thực hiện chậm đến mức việc thực hiện nghĩa vụ không cần thiết thì bên
có quyền từ chối tiếp nhận việc thực hiện đó và được bồi thường thiệt hại. Nếu là nghĩa
vụ chậm trả tiền thì trả lãi bằng lãi suất cơ bản tại thời điểm đó của ngân hàng nhà
nước, từ thời điểm phải thanh toán đối với số tiền chậm trả.
+
Trách nhiệm do chậm tiếp nhận việc thực hiện nghĩa vụ dân sự.
Khi bên có nghĩa vụ thực hiện xong nghĩa vụ mà bên có quyền chậm tiếp nhận làm phát
sinh thiệt hại thì họ phải bồi thường thiệt hại và chịu mọi rủi ro xảy ra từ thời điểm
chậm tiếp nhận đó.
2.2
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại
Trách nhiệm bồi thường này phát sinh khi có 4 điều kiện

- Có hành vi trái pháp luật.
- Có thiệt hại xác định được: Thiệt hại được hiểu ở đây là sự giảm bớt những lợi ích vật
chất hợp pháp của một người xác định được như: tài sản bị tiêu huỷ, hư hỏng, giảm giá
trị về tài sản những chi phí trong việc ngăn chặn hạn chế thiệt hại, những tổn thất do thu
nhập thực tế bị giảm sút của bên có quyền, những chi phí khắc phục về hậu quả về tài
sản do người vi phạm nghĩa vụ gây ra.
Có thể chia ra thành thiệt hại trực tiếp và thiệt hại gián tiếp. Thiệt hại gián tiếp:
dựa trên sự tính toán khoa học mới xác định được mức độ thiệt hại
- Mối quan hệ giữa nhân quả và hành vi vi phạm pháp luật: Mối quan hệ nhân quả được
hiểu là mối liên hệ phổ biến, biện chứng giữa các sự vật, hiện tượng được xác định trên
cở sở khách quan. Hành vi vi phạm là nguyên nhân, thiệt hại xảy ra là hậu quả.
- Người vi phạm có lỗi: lỗi vô ý hoặc cố ý
Lỗi cố ý: Một người đã nhận thức rõ hành vi của mình sẽ gây thiệt hại cho người
khác nhưng vẫn thực hiện hành ví đó. Nếu họ mong muốn hậu quả xảy ra do việc thực

21


hiện hành vi đó thì gọi là lỗi cố ý. Nếu không mong muốn thiệt hại xảy ra nhưng để
mặc cho thiệt hại xảy ra thì đó là lỗi cố ý gián tiếp.
2.3. Phạt vi phạm hợp đồng
Phạt vi phạm hợp đồng là chế tài áp dụng đối với hành vi vi phạm hợp đồng,
theo đó bên vi phạm hợp đồng phải trả cho bên bị vi phạm một khoản tiền nhất định do
pháp luật quy định hoặc do các bên thỏa thuận trên cơ sở quy định của pháp luật. Phạt
vi phạm chỉ có thể xảy ra trong trường hợp các bên đã có thỏa thuận cụ thể trong hợp
đồng. Điều này có nghĩa phạt vi phạm là sự thỏa thuận giữa các bên nên một bên không
thể yêu cầu bên kia phải chịu phạt vi phạm nếu các bên không có thỏa thuận trong hợp
đồng về vấn đề này.
Điều 300 Luật Thương mại 2005 quy định: “Phạt vi phạm là việc bên bị vi phạm
yêu cầu bên vi phạm trả một khoản tiền phạt do vi phạm hợp đồng nếu trong hợp đồng

có thoả thuận”.
Theo quy định của LTM 2005 thì việc thoả thuận về phạt vi phạm chỉ xảy ra nếu
trong hợp đồng có thỏa thuận.
Điều này có thể hiểu là phải có thỏa thuận từ trước trong hợp đồng. Nhưng quy
định như trên của pháp luật là chưa thỏa đáng. Bởi lẽ, hợp đồng là sự thỏa thuận của các
bên, nếu như các bên chưa quy định về phạt vi phạm trong hợp đồng thì họ vẫn có
quyền quy định một điều khoản ngoài hợp đồng, độc lập với hợp đồng và có thể giao
kết sau khi hợp đồng được ký kết thì vẫn có hiệu lực thi hành bình thường như đã được
quy định trong hợp đồng từ trước. Quy định trên của pháp luật đã làm hạn chế quyền tự
thỏa thuận của các bên trong các quan hệ hợp tác.
Phạt vi phạm hợp đồng là một thỏa thuận mang tính “mở”. Có nghĩa là không ai
bắt buộc các bên phải thỏa thuận và ghi vào hợp đồng về việc này. Nhưng nếu các bên
muốn thì có thể thỏa thuận và ghi vào hợp đồng. Và nếu đã ghi vào hợp đồng thì phải
thực hiện đúng như vậy.
+ Vi phạm hợp đồng để có thể phạt vi phạm là những vi phạm cơ bản, ảnh hưởng
nghiêm trọng đến quyền và lợi ích của một bên trong quan hệ hợp đồng.
Đó là “sự vi phạm hợp đồng của một bên gây thiệt hại cho bên kia đến mức làm
cho bên kia không đạt được mục đích của việc giao kết hợp đồng”. Tuy nhiên, cũng cần
phải nhấn mạnh rằng, việc vi phạm hợp đồng này có thể đã hoặc chưa gây ra thiệt hại
thực tế thì bên bị vi phạm đều có quyền yêu cầu bên vi phạm hợp đồng chịu phạt vi
phạm
+. Có hành vi thiệt hại thực tế xảy ra.
+. Hành vi vi phạm pháp luật hợp đồng là nguyên nhân trực tiếp gây ra thiệt hại.
+. Vi phạm hợp đồng là việc một bên không thực hiện, thực hiện không đầy đủ
hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ theo thoả thuận giữa các bên hoặc theo quy định
của LTM.
Vì vậy, để chế định phạt vi phạm có thể phát huy hết khả năng trong việc bảo vệ
quyền lợi hợp pháp trong hợp đồng thì khi soạn thảo các thỏa thuận trong hợp đồng, các
bên cần có quy định về các trường hợp phạt vi phạm cũng như điều kiện để tiến hành
phạt vi phạm một cách chi tiết và cụ thể nhất. Để khi có vi phạm xảy ra, các bên không

phải lúng túng trong việc xác định tính đúng sai của sự việc, cũng như xảy ra các tranh

22


chấp không đáng có trong quan hệ hợp tác, dẫn đến những hậu quả không mong muốn
trong quan hệ làm ăn hiện tại cũng như trong tương lai.
+ Chủ thể vi phạm không rơi vào các trường hợp miễn trách được quy định của
pháp luật thương mại. Theo đó, phạt vi phạm phải được thỏa thuận trong hợp đồng. Do
bản chất của phạt vi phạm là phải có thỏa thuận trong hợp đồng, nên khi có vi phạm xảy
ra mà các bên không có thỏa thuận phạt vi phạm thì các bên chỉ có thể yêu cầu bồi
thường thiệt hại mà thôi. Trong trường hợp các bên có thỏa thuận phạt vi phạm thì bên
bị vi phạm có quyền áp dụng cả chế tài phạt vi phạm và buộc bồi thường thiệt hại.Chế
định phạt vi phạm nhằm ngăn ngừa các vi phạm có thể xảy ra trong hợp đồng,là chế
định xuất phát từ sự dự liệu về quan hệ của các bên khi tiến hành ký kết hợp đồng. Vì
thế, chế tài phạt vi phạm có thể áp dụng cho dù chưa có thiệt hại xảy ra hoặc thiệt hại
nhỏ hơn mức phạt vi phạm. Các bên khi tham gia vào quan hệ hợp đồng, tùy thuộc vào
vị trí pháp lý của mình để có thể thỏa thuận những điều khoản hợp lý nhất. Nhưng ở
đây có sự không thống nhất giữa quy định về chế tài phạt vi phạm theo quy định của
LTM 2005 và chế tài phạt vi phạm trong BLDS 2005.
Điều 294 Luật Thương mại: “Các trường hợp miễn trách nhiệm đối với hành vi
vi phạm:
1. Bên vi phạm hợp đồng được miễn trách nhiệm trong các trường hợp sau đây:
a) Xảy ra trường hợp miễn trách nhiệm mà các bên đó thoả thuận;
b) Xảy ra sự kiện bất khả khỏng;
c) Hành vi vi phạm của một bờn hoàn toàn do lỗi của bên kia;
d) Hành vi vi phạm của một bên do thực hiện quyết định của cơ quan
quản lý nhà nước có thẩm quyền mà các bên không thể biết được vào thời điểm giao kết
hợp đồng.
2. Bên vi phạm hợp đồng có nghĩa vụ chứng minh các trường hợp miễn trách nhiệm.”

- Mức phạt vi phạm hợp đồng
Theo quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam, có hai văn bản pháp luật có
giá trị điều chỉnh quan hệ về chế tài phạt vi phạm là Bộ luật Dân sự 2005 và Luật
Thương mại 2005.
- Bộ luật dân sự 2005 quy định :
+ Mức phạt vi phạm do các bên thỏa thuận. (Khoản 2 điều 422 Bộ luật dân sự ).
+ Các bên có thể thỏa thuận về việc bên vi phạm nghĩa vụ chỉ phải nộp tiền phạt
vi phạm mà không phải bồi thường thiệt hại hoặc vừa phải nộp phạt vi phạm và vừa
phải bồi thường thiệt hại; nếu không có thỏa thuận trước về mức bồi thường thiệt hại thì
phải bồi thường toàn bộ thiệt hại.
Trong trường hợp các bên không có thỏa thuận về bồi thường thiệt hại thì bên vi
phạm nghĩa vụ chỉ phải nộp tiền phạt vi phạm.(Khoản 3 điều 422 Bộ luật dân sự)
Điều này có thể được hiểu là các bên có quyền tự lựa chọn mức phạt vi phạm mà
không hề bị khống chế bởi quy định của pháp luật. Quy định này xuất phát từ nguyên
tắc tự do thỏa thuận theo quy định của luật dân sự.
- Luật thương mại quy định:
+ “Mức phạt vi phạm nghĩa vụ hợp đồng hoặc tổng mức phạt đối với nhiều vi
phạm do các bên thỏa thuận trong hợp đồng, nhưng không quá 8% giá trị phần nghĩa vụ

23


hợp đồng bị vi phạm, trừ trường hợp quy định tại điều 266 của Luật này” (Điều 301
Luật Thương mại).
+ Điều 266 Luật Thương mại quy định các trường hợp ngoại lệ như sau:
“Phạt vi phạm, bồi thường thiệt hại trong trường hợp kết quả giám định sai:
1. Trường hợp thương nhân kinh doanh dịch vụ giám định cấp chứng thư giám định có
kết quả sai do lỗi vô ý của mình thì phải trả tiền phạt cho khách hàng. Mức phạt do các
bên thỏa thuận, nhưng không vượt quá mười lần thù lao dịch vụ giám định.
2. Trường hợp thương nhân kinh doanh dịch vụ giám định cấp chứng thư giám định có

kết quả sai do lỗi cố ý của mình thì phải bồi thường thiệt hại phát sinh cho khách hàng
trực tiếp yêu cầu giám định.
3. Khách hàng có nghĩa vụ chứng minh kết quả giám định sai và lỗi của thương nhân
kinh doanh dịch vụ giám định.”
1.2 Các nguyên tắc của trách nhiệm do vi phạm hợp đồng:
Thứ nhất, bên có nghĩa vụ mà không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa
vụ thì phải chịu trách nhiệm dân sự đối với bên có quyền.
Thứ hai, trong trường hợp bên có nghĩa vụ không thể thực hiện được nghĩa vụ
dân sự do sự kiện bất khả kháng thì không phải chịu trách nhiệm dân sự, trừ trưởng hợp
có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác.
Thứ ba, bên có nghĩa vụ không phải chịu trách nhiệm dân sự nếu chứng minh
được nghĩa vụ không thực hiện được là hịên do lỗi của bên có quyền.
CÂU HỎI ÔN TẬP VÀ THẢO LUẬN
1. Điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo hợp đồng?
2. Khái niệm, đặc điểm phạt hợp đồng? Căn cứ áp dụng và mức phạt?
3. Các nguyên tắc của áp dụng trách nhiệm do vi phạm hợp đồng?

24


CHƯƠNG 4: MỘT SỐ LOẠI HỢP ĐỒNG THÔNG DỤNG
1.
1.1.

Hợp đồng mua bán nhà ở
Khái niệm
Hợp đồng mua bán nhà ở là sự thỏa thuận bằng văn bản giữa bên bán và bên
mua theo đó bên bán có nghĩa vụ chuyển giao nhà ở và quyền sở hữu cho bên mua. Bên
mua có nghĩa vụ trả tiền cho bên bán đúng thời hạn, địa điểm theo phương thức mà các
bên đã thỏa thuận trong hợp đồng mua bán nhà ở.

1.2. Đặc điểm
Là hợp đồng song vụ
Là hợp đồng có đền bù (phân biệt với HĐ tặng cho nhà)
là hợp đồng có chuyển giao quyền sở hữu đối với nhà ở của bên bán cho bên
mua (phân biệt HĐ thuê nhà ở)
1.3. Đối tượng của hợp đồng mua bán nhà ở
Là ngôi nhà hoặc diện tích nhà được dùng vào mục đích ở
Nhà ở đây có thể tồn tại hiện tại hoặc sẽ hinh thành trong tương lai
1.4. Hình thức, thủ tục của HĐ
Trình tự thủ tục mua bán nhà quy định tại LDS và Luật Nhà ở.
1.5
Chủ thể của hợp đồng
Được quy định chi tiết tại Luật Nhà ở năm 2005, cụ thể là
Điều 92. Điều kiện của các bên tham gia giao dịch về nhà ở
1. Bên bán, cho thuê, cho thuê mua, tặng cho, đổi, thế chấp, cho mượn, cho ở nhờ, uỷ
quyền quản lý nhà ở phải có các điều kiện sau đây:
a) Là chủ sở hữu nhà ở hoặc người đại diện theo quy định của pháp luật về dân sự;
b) Cá nhân có năng lực hành vi dân sự; tổ chức bán, cho thuê nhà ở phải có chức năng
kinh doanh nhà ở, trừ trường hợp tổ chức bán nhà ở không nhằm mục đích kinh doanh.
2. Bên mua, thuê, thuê mua, đổi, nhận tặng cho, mượn, ở nhờ, được uỷ quyền quản lý
nhà ở là tổ chức, cá nhân; nếu là cá nhân trong nước thì không phụ thuộc vào nơi đăng
ký hộ khẩu thường trú và phải có năng lực hành vi dân sự; nếu là người Việt Nam định
cư ở nước ngoài thì phải thuộc diện được sở hữu, được thuê nhà ở tại Việt Nam theo
quy định của Luật này; nếu là tổ chức thì không phụ thuộc vào nơi đăng ký kinh doanh.
Điều 126. Quyền sở hữu nhà ở tại Việt Nam của người Việt Nam định cư ở nước ngoài
1. Người Việt Nam định cư ở nước ngoài về đầu tư lâu dài tại Việt Nam, người
có công đóng góp với đất nước, nhà hoạt động văn hoá, nhà khoa học có nhu cầu về
hoạt động thường xuyên tại Việt Nam nhằm phục vụ sự nghiệp xây dựng đất nước,
người được phép về sống ổn định tại Việt Nam và các đối tượng khác do Uỷ ban
thường vụ Quốc hội quy định được sở hữu nhà ở tại Việt Nam.

2. Người Việt Nam định cư ở nước ngoài không thuộc diện quy định tại khoản 1
Điều này đã về Việt Nam cư trú với thời hạn được phép từ sáu tháng trở lên được sở
hữu một nhà ở riêng lẻ hoặc một căn hộ.
1.6
Lưu ý khi ký kết hợp đồng
a,
Xác định chủ thể tham gia giao kết hợp đồng

25


×