Tải bản đầy đủ (.doc) (111 trang)

Đảng lãnh đạo công tác dân số – kế hoạch hoá gia đình từ năm 2001 đến năm 2010

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (385.74 KB, 111 trang )

đại học quốc gia hà nội
TRờng đại học khoa học xã hội và nhân văn



NGUYễN THị NHUNG

ĐảNG LãNH ĐạO CÔNG TáC DÂN Số - Kế HOạCH
HóA GIA ĐìNH Từ NĂM 2001 ĐếN NĂM 2010

LUN VN THC S LCH S

Hà Nội - 2013


đại học quốc gia hà nội
TRờng đại học khoa học xã hội và nhân văn



NGUYễN THị NHUNG

ĐảNG LãNH ĐạO CÔNG TáC DÂN Số - Kế
HOạCH HóA GIA ĐìNH Từ NĂM 2001 ĐếN NĂM
2010

LUN VN THC S LCH S

Chuyờn ngnh: Lch s ng Cng sn Vit Nam
Mó s: 60.22.56
Ngi hng dn khoa hc: PGS.TS. HONG HNG



Hà Nội - 2013


MỤC LỤC


DANH MỤC CHỮ CÁI VIẾT TẮT

BPTT:

Biện pháp tránh thai

CSSK/KHHGĐ:

Chăm sóc sức khỏe/kế hoạch hóa gia đình

DS-KHHGĐ:

Dân số-kế hoạch hóa gia đình

DSGĐTE:

Dân số, Gia đình và Trẻ em

DS,SKSS/KHHGĐ Dân số, sức khỏe sinh sản và kế hoạch hóa gia đình
KHHGĐ:

Kế hoạch hóa gia đình


KL/TW:

Kết luận Trung ương

NQ-HNTW:

Nghị quyết Hội Nghị Trung ương

NQ/TW:

Nghị quyết Trung ương

NXB:

Nhà xuất bản

SKSS:

Sức khỏe sinh sản

SKSS/KHHGĐ:

Sức khỏe sinh sản/kế hoạch hóa gia đình

UNFPA:

Quỹ dân số Liên Hợp Quốc


DANH MỤC BẢNG



MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Công tác dân số là một bộ phận quan trọng của chiến lược phát triển
đất nước, không chỉ có ý nghĩa về kinh tế mà còn có ý nghĩa về văn hóa, xã
hội, góp phần quyết định sự phát triển bền vững của mỗi quốc gia. Giữa
dân số và phát triển có mối quan hệ biện chứng với nhau, ràng buộc và hỗ
trợ lẫn nhau: muốn tăng trưởng kinh tế thì phải dựa vào nguồn lực, mà
nguồn nhân lực lại gắn với tình hình biến đổi dân số; mặt khác, mục đích
cuối cùng của phát triển kinh tế-xã hội không ngoài việc nâng cao chất
lượng cuộc sống của mỗi người dân. Mục tiêu đó chỉ có thể đạt được với
một quy mô, tốc độ gia tăng dân số, sự phân bố dân cư và nguồn nhân lực
phù hợp với nền kinh tế-xã hội của mỗi quốc gia.
Ở Việt Nam, quy mô dân số lớn và ngày càng gia tăng gây sức ép
nhiều mặt cho đời sống kinh tế-xã hội, làm chậm quá trình phát triển của
đất nước. Do sớm nhận thức được tác động to lớn của dân số, từ những
ngày đầu của thập niên 60 đến năm 2010 Đảng và Nhà Nước đã đề ra nhiều
chính sách với mục tiêu: giảm mức sinh và sớm ổn định quy mô dân số.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VII
về chính sách dân số kế hoạch hóa gia đình đã khẳng định cam kết chính trị
của Đảng đối với công tác DS-KHHGĐ. Khẳng định sự gia tăng dân số quá
nhanh là một trong những nguyên nhân cản trở tốc độ phát triển kinh tế-xã
hội, hạn chế điều kiện phát triển về mặt trí tuệ, văn hóa và thể lực của
giống nòi. Dưới sự lãnh đạo của Đảng từ năm 1994 đến năm 2000, công tác
DS-KHHGĐ đạt được những thành tựu quan trọng, mức sinh đã giảm
nhanh chóng.
Bước vào thập niên đầu tiên của thế kỷ XXI, trước những yêu cầu
phát triển của đất nước và những biến đổi của tình hình DS-KHHGĐ, sự


1


nhìn nhận của Đảng về công tác DS-KHHGĐ đã có những nét mới, bên
cạnh việc tiếp nối đà giảm sinh đã đạt được trước đó, Đảng bắt đầu quan
tâm đến chất lượng dân số, từng bước tháo gỡ những vấn đề nảy sinh trong
quá trình thực hiện, tạo điều kiện cho thực hiện mục tiêu DS-KHHGĐ. Kết
quả đạt được của DS-KHHGĐ trong 10 năm thực hiện (2001-2010) đã góp
phần vào sự phát triển kinh tế-xã hội của đất nước.
Bước sang một giai đoạn mới, khi tình hình đất nước đang biến đổi
không ngừng đòi hỏi mọi mặt công tác nói chung và lĩnh vực DS-KHHGĐ
nói riêng phải đáp ứng những yêu cầu của tình hình mới. Bên cạnh đó, khi
mức giảm sinh đã cơ bản đạt được, những vấn đề mới trong lĩnh vực DSKHHGĐ nảy sinh, việc xác định những bước đi tiếp theo của công tác đòi
hỏi cần có chủ trương, chính sách của Đảng phù hợp, đúng đắn. Việc
nghiên cứu, tổng kết lại chặng đường Đảng lãnh đạo công tác DS-KHHGĐ
và hoạt động thực tiễn phong phú từ năm 2001 đến năm 2010 là cần thiết.
Từ thực tế hoạt động của công tác rút ra những nhận xét, bài học kinh
nghiệm nhằm làm tốt hơn công tác, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao trong
hoàn cảnh lĩnh vực công tác có nhiều chuyển biến. Do đó, tôi chọn đề tài
“Đảng lãnh đạo công tác dân số-kế hoạch hóa gia đình từ năm 2001 đến
năm 2010” làm đề tài luận văn Thạc sĩ khoa học Lịch sử, chuyên ngành
Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Công tác DS-KHHGĐ đã được triển khai từ năm 1961, qua hơn 50
năm thực hiện, công tác DS-KHHGĐ được sự quan tâm của tất cả các cấp,
ban, ngành. Đặc biệt, lĩnh vực DS-KHHGĐ đã trở thành chủ đề nghiên cứu
của nhiều nhà quản lý, nhà khoa học tiếp cận ở những góc độ khác nhau.
Tác giả Lương Xuân Quỳ trong cuốn sách “Bùng nổ dân số-hậu quả
và giải pháp” (NXB. Sự thật, Hà Nội, 1992) đã nêu lên tình hình dân số thế


2


giới, dân số Việt Nam và chỉ rõ con đường lựa chọn duy nhất là kiên trì đẩy
mạnh kế hoạch hóa gia đình. Trong cuốn sách này tác giả cũng đưa ra kinh
nghiệm của một số địa phương trong thực hiện công tác kế hoạch hóa gia
đình.
Tác giả Đỗ Thịnh trong cuốn sách “Học vấn và mức sinh” NXB. Thống
kê, Hà Nội, 1997, đã phân tích mối quan hệ giữa học vấn và mức sinh trên các
phạm vi khác nhau từ cả nước đến các vùng, các tỉnh và các huyện.
Tác giả Trần Cao Sơn trong cuốn sách “Một số vấn đề về mối quan
hệ giữa dân số và sự phát triển” (NXB. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1997) đã
đề cập đến một số vấn đề như: Dân số và phát triển một số tộc người, mối
quan hệ dân số và việc làm, dân số và vấn đề nguồn nhân lực, vai trò của
nam giới trong việc giảm mức sinh, đồng thời trong cuốn sách này tác giả
cũng đề cập tới vấn đề dân số và phát triển của một số quốc gia trong khu
vực Châu Á, Thái Bình Dương.
Tác giả Lê Thi trong cuốn sách “Gia đình, phụ nữ Việt Nam với Dân
số, văn hóa và sự phát triển bền vững” (NXB. Khoa học xã hội, Hà Nội,
2004) đã phân tích vai trò của gia đình, của người mẹ với sự phát triển dân
số, văn hóa và môi trường; bên cạnh đó, các vấn đề như bình đẳng giới, lao
động nữ ở nông thôn và thành thị, gia đình truyền thống và hiện đại, tiêu
chuẩn cho người phụ nữ hiện nay, hôn nhân và hạnh phúc gia đình, công,
dung, ngôn, hạnh và một vài nét đạo lý tốt đẹp của dân tộc ta ..cũng được
tác giả bàn luận, phân tích.
“Thay đổi cấu trúc dân số và dự báo giai đoạn cơ cấu dân số
“vàng” ở Việt Nam” (kỷ yếu hội thảo quốc gia về biến đổi cơ cấu dân số,
Hà Nội, 6/2009), Tạp chí dân số và phát triển số tháng 5 năm 2010 của tác
giả Nguyễn Đình Cử, Hà Tuấn Anh đã khái quát sự biến đổi dân số theo lứa
tuổi từ tổng điều tra dân số 1979 đến năm 2009, nhận định quá trình diễn


3


biến của cơ cấu dân số “vàng”, dự báo thời điểm cơ cấu dân số “vàng” và một
số đặc điểm nhân khẩu học trong thời kỳ dân số “vàng” ở Việt Nam.
Nhân kỷ niệm 50 năm Ngày Dân số Việt Nam (26/12/196126/12/2011) GS.TS. Nguyễn Đình Cử (Viện trưởng Viện Dân số và các vấn
đề xã hội-Đại học kinh tế quốc dân) đã có chuyên khảo “50 năm chính
sách giảm sinh ở Việt Nam (1961-2011): thành tựu, tác động và bài học
kinh nghiệm” (Nxb. Đại học kinh tế quốc dân, Hà Nội.2011). Cuốn sách đã
mô tả xu hướng giảm sinh ở Việt Nam nói chung, khảo sát, phân tích chi
tiết mức sinh của từng khu vực, từng tỉnh, từng nhóm đối tượng; những hệ
quả trực tiếp của mức sinh thấp đến tình hình dân số, đến sự phát triển kinh
tế xã hội…Đồng thời, cuốn sách phát hiện những cảnh báo và thách thức
mới gay gắt do chính thành tựu giảm sinh gây ra. Qua đó, tác giả đã đúc kết
những bài học kinh nghiệm từ 55 thực hiện chính sách giảm sinh.
Tổng cục Dân số-kế hoạch hóa gia đình đã biên soạn và phát hành
cuốn sách “Công tác Dân số-kế hoạch hóa gia đình Việt Nam-50 năm xây
dựng và phát triển(1961-2011)”. Cuốn sách đã khái quát lại những chặng
đường thực hiện công tác dân số-kế hoạch hóa gia đình từ năm 1961 đến
năm 2011, dự báo tình hình dân số giai đoạn 2011-2020 và mục tiêu, giải
pháp tiếp tục thực hiện công tác.
Một số bài báo viết về DS-KHHGĐ của các chuyên gia, nhà nghiên
cứu, lãnh đạo cơ quan tổng cục dân số-kế hoạch hóa gia đình:
“Sự lãnh đạo của Đảng với công tác dân số-kế hoạch hóa gia đình:
sợi chỉ đỏ cho sự phát triển hài hòa dân số với kinh tế-xã hội-môi trường”
(Đăng trên báo Gia đình số ra ngày 29/01/2010) của TS. Dương Quốc
Trọng, Tổng cục trưởng Tổng cục DS-KHHGĐ; đã khẳng định chủ trương
nhất quán và xuyên suốt của Đảng đối với công tác DS-KHHGĐ, rút ra
những bài học kinh nghiệm trong đó sự lãnh đạo, cam kết của các cấp ủy


4


đảng và chính quyền là điều kiện tiên quyết đảm bảo sự thành công của
công tác dân số. Đồng thời tác giả cũng đã nêu bật những kết quả đã đạt
được trong công tác kế hoạch hóa gia đình: năm 2009 hoàn thành chỉ tiêu
giảm sinh do Quốc hội giao sau nhiều năm liền không đạt. Tỉ lệ gia tăng
dân số hàng năm bình quân trong 10 năm (2001-2010) là 1,2%, là mức thấp
nhất trong suốt 50 năm qua, từ năm 2006, chúng ta đã đạt mức sinh thay
thế (số con trung bình của một phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ là 2,1 con), về
đích sớm hơn 10 năm so với mục tiêu mà Nghị quyết Trung ương 4 (khóa
VII) đã đề ra.
“Một số vấn đề về dân số và phát triển hiện nay” của PGS.TS. Đặng
Nguyên Anh, Viện khoa học và xã hội Việt Nam, Tạp chí Dân số và Phát
triển số tháng 10 năm 2010, đã tập trung đánh giá tình hình dân số Việt
Nam trên một số bình diện cơ bản: quy mô, cơ cấu dân số, di dân và quản
lý dân cư, biến đổi mức sinh, phân tích những vấn đề nảy sinh cần có sự
xem xét kịp thời. Qua đó tác giả đã đề xuất một số khuyến nghị nhằm thực
hiện các mục tiêu dân số và phát triển trong giai đoạn 2011-2020.
Một số học viên cao học đã lựa chọn lĩnh vực dân số-kế hoạch hóa
gia đình làm đề tài nghiên cứu:
Luận văn Thạc sĩ triết học: “Phát huy vai trò hội phụ nữ tỉnh đối với
công tác dân số và kế hoạch hóa gia đình ở Hải Dương hiện nay”, của Vũ
Thu Hà, năm 2010, Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn Hà Nội.
Luận văn nghiên cứu cơ sở lý luận, những căn cứ khoa học về vai trò của
phụ nữ và hội phụ nữ trong công tác dân số và kế hoạch hóa gia đình.
Nghiên cứu thực trạng phát huy vai trò của hội phụ nữ tỉnh Hải Dương
trong phát triển kinh tế-xã hội nói chung, đặc biệt là trong thực hiện công
tác dân số và kế hoạch hóa gia đình nói riêng. Trên cơ sở đó, đưa ra những

giải pháp nhằm tiếp tục phát huy vai trò của Hội phụ nữ tỉnh Hải Dương

5


đối với công tác dân số và kế hoạch hóa gia đình trong giai đoạn mới. Đồng
thời, chú trọng các giải pháp nhằm nâng cao vị thế của người phụ nữ như
nâng cao dân trí, trình độ nhận thức, thực hiện bình đẳng giới, thực hiện
tuyên truyền về kế hoạch hóa gia đình ở các cấp hội....
“Nhận thức của người dân huyện Nga Sơn tỉnh Thanh Hóa về kế
hoạch hóa gia đình”, luận văn thạc sĩ tâm lý học của tác giả Mai Văn Hải,
Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn Hà Nội, năm 2009 đã nghiên
cứu thực trạng tình hình dân số và công tác DS-KHHGĐ tại huyện Nga
Sơn tỉnh Thanh Hóa trên các mặt nội dung và nhận thức của người dân về
lợi ích của việc thực hiện kế hoạch hóa gia đình và hậu quả của gia tăng
dân số đối với chất lượng cuộc sống; nhận thức về các biện pháp tránh thai,
nguồn thông tin kế hoạch hóa gia đình. Qua đó rút ra một số yếu tố tác
động tới nhận thức người dân về kế hoạch hóa gia đình, rút ra một số kết
luận, kiến nghị nhằm thực hiện tốt hơn nhận thức của người dân về kế
hoạch hóa gia đình.
Tuy đã có nhiều công trình nghiên cứu và bài viết đã công bố liên
quan đến công tác DS-KHHGĐ nhưng:
- Chưa có công trình nghiên cứu nào hệ thống đầy đủ chủ trương của
Đảng đối với công tác DS-KHHGĐ từ năm 2001 đến năm 2010
- Chưa có công trình nghiên cứu nào rút ra những nhận xét, kinh
nghiệm về sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác DS-KHHGĐ từ năm
2001 đến năm 2010.
Những vấn đề luận văn tập trung nghiên cứu:
- Chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với công tác DSKHHGĐ từ năm 2001 đến năm 2010;
- Sự hiện thực hóa chủ trương của Đảng trong thực tiễn công tác DSKHHGĐ từ năm 2001 đến năm 2010;


6


- Rút ra nhận xét và bài học kinh nghiệm về sự lãnh đạo, chỉ đạo của
Đảng đối với công tác DS-KHHGĐ từ năm 2001 đến năm 2010.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích: Làm sáng tỏ chủ trương và quá trình chỉ đạo thực hiện
công tác DS-KHHGĐ của Đảng từ năm 2001 đến năm 2010, rút ra một số
bài học kinh nghiệm.
- Nhiệm vụ nghiên cứu:
+ Những yếu tố tác động đến vấn đề DS-KHHGĐ
+ Công tác DS-KHHGĐ trước năm 2001 và những vấn đề đặt ra.
+ Trình bày và phân tích những quan điểm chủ trương và quá trình
chỉ đạo thực hiện công tác DS-KHHGĐ từ năm 2001 đến năm 2010.
+ Đánh giá những thành công, hạn chế và đúc rút kinh nghiệm lãnh
đạo của Đảng đối với công tác DS-KHHGĐ.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Chủ trương, biện pháp của Đảng Cộng sản
Việt Nam về công tác DS-KHHGĐ từ năm 2001 đến năm 2010.
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Thời gian từ năm 2001 đến năm 2010.
+ Không gian: nghiên cứu tổng quát trên địa bàn cả nước.
+ Nội dung: Chủ trương và biện pháp chính của Đảng Cộng sản Việt
Nam và công tác DS-KHHGĐ; hoạt động và kết quả chính của công tác
DS-KHHGĐ ở Việt Nam.
5. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu
- Nguồn tư liệu:
+ Các văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng lần thứ IV,V, VI,
VII,VIII, IX, X; Văn kiện Hội nghị TW 4 khóa VII (1993), Văn kiện Hội

nghị TW 2 khóa VIII (1998) những Chỉ thị, Nghị quyết, Quyết định, Nghị

7


định của Trung ương, Bộ Chính trị, Chính phủ về công tác DS-KHHGĐ; về
chăm sóc sức khỏe; về Y tế…
+ Những thông tư, hướng dẫn, báo cáo triển khai thực hiện công DSKHHGĐ của các bộ, ngành có liên quan như: Bộ Y tế, Tổng cục Dân số-kế
hoạch hóa gia đình.
+ Những công trình nghiên cứu khoa học liên quan đã được công bố.
- Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn sử dụng phương pháp lịch sử và phương pháp lô gích là
chủ yếu. Đồng thời kết hợp sử dụng một số phương pháp khác như phương
pháp thống kê, so sánh, phân tích…
6. Đóng góp của luận văn
- Trình bày có hệ thống, rõ ràng những chủ trương của Đảng, chính
sách của Nhà nước về DS-KHHGĐ và tổ chức thực hiện công tác dân số-kế
hoạch hóa gia đình từ năm 2001 đến năm 2010.
- Bước đầu nêu lên một số kinh nghiệm thực tiễn góp phần góp phần
làm tốt hơn công tác DS-KHHGĐ.
- Bổ sung thêm một nguồn tư liệu tham khảo cho nghiên cứu về lĩnh
vực DS-KHHGĐ.
7. Bố cục luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 3 chương
Chương 1. Đảng lãnh đạo công tác dân số-kế hoạch hóa gia giai đoạn
2001-2005
Chương 2. Đảng lãnh đạo công tác dân số-kế hoạch hóa gia đình giai
đoạn 2006-2010
Chương 3. Một số nhận xét và kinh nghiệm


8


CHƯƠNG 1. ĐẢNG LÃNH ĐẠO CÔNG TÁC DÂN SỐ - KẾ HOẠCH
HÓA GIA ĐÌNH GIAI ĐOẠN 2001-2005
1.1. Những yếu tố ảnh hưởng đến vấn đề DS-KHHGĐ và khái
lược tình hình DS-KHHGĐ ở Việt Nam trước năm 2001
1.1.1. Những yếu tố ảnh hưởng đến vấn đề DS-KHHGĐ
Muốn tìm hiểu công tác dân số-kế hoạch hóa gia đình, trước hết cần
phải hiểu những khái niệm: Dân số là gì, quy mô dân số, cơ cấu dân số,
chất lượng dân số, sự phân bố dân cư, kế hoạch hóa gia đình.
Dân số là một cộng đồng dân cư hay cộng đồng người chung sống
trên một lãnh thổ được xác lập tại thời điểm cụ thể.
Quy mô dân số là tổng số dân của một địa phương, một quốc gia,
một vùng lãnh thổ tại một thời điểm nhất định.
Cơ cấu dân số là sự phân loại dân số dựa trên các đặc trưng về giới tính,
độ tuổi, tình trạng hôn nhân, dân tộc, tôn giáo, học vấn, nghề nghiệp....
Chất lượng dân số là tập hợp các thuộc tính về bản chất có liên quan
đến tình trạng sức khỏe, trình độ giáo dục, văn hóa, trình độ khoa học kĩ
thuật, cơ cấu và kĩ năng nghề nghiệp, xã hội và tính năng động của dân số.
Sự phân bố dân cư: là việc phân chia tổng số dân theo khu vực, vùng
địa lí, kinh tế hoặc một đơn vị hành chính.
Chính vì vậy chúng ta có thể hiểu công tác dân số là việc quản lý và
tổ chức thực hiện các hoạt động tác động đến quy mô dân số, cơ cấu dân
số, phân bố dân cư và kiểm soát sinh sản, chăm sóc sức khỏe nhằm nâng
cao chất lượng dân số, giải quyết hài hòa lợi ích cá nhân-gia đình-xã hội,
góp phần xây dựng xã hội ổn định và phát triển bền vững.
Kế hoạch hóa gia đình
Dưới nhiều góc độ tiếp cận có nhiều quan niệm khác nhau về khái

niệm kế hoạch hóa gia đình.

9


Theo quyết định số 315/CP, ngày 24/8/1992 của Hội đồng Chính phủ
về Chiến lược truyền thông dân số và kế hoạch hóa gia đình 1992-2000,
trong phần 3 chương V viết:"Kế hoạch hóa gia đình có nghĩa là chủ động
quyết định số con của mình và khoảng cách giữa các lần sinh thông qua
việc áp dụng biện pháp tránh thai để có một gia đình ít con, khỏe mạnh,
hạnh phúc, giàu có. Kế hoạch hóa gia đình là quyền và cũng là trách
nhiệm của mỗi người, mỗi cặp vợ chồng. Họ được quyền tự do quyết định
nhưng với ý thức trách nhiệm đầy đủ về số con của mình trên cơ sở những
thông tin và những hiểu biết cần thiết để thực hiện những quyết định ấy".
Theo khoản 9 điều 3 Pháp lệnh Dân số nêu: "Kế hoạch hóa gia đình
là nỗ lực của gia đình, Nhà nước, xã hội để mỗi cá nhân, cặp vợ chồng chủ
động, tự nguyện quyết định số con, thời gian sinh con và khoảng cách giữa
các lần sinh con, nhằm bảo vệ sức khỏe, nuôi dạy con có trách nhiệm, phù
hợp với chuẩn mực xã hội và điều kiện sống của gia đình".
Tiểu ban các chuyên gia tổ chức y tế thế giới (WHO) quan niệm: kế
hoạch hóa gia đình bao gồm các vấn đề thực hiện giúp cho các cá nhân hay
cặp vợ chồng đạt được những mục tiêu sau: tránh những trường hợp sinh
không theo ý muốn, điều hòa khoảng cách giữa các lần sinh, chủ động thời
điểm sinh con cho phù hợp với tuổi bố mẹ. Đồng thời, kế hoạch hóa gia
đình còn đồng nghĩa với kiểm soát sinh sản, nó còn có ý nghĩa rộng hơn
kiểm soát sinh sản, bao gồm: hạn chế vô sinh và khoảng cách giữa các lần
sinh, tư vấn về vô sinh, phát hiện những bệnh về cơ quan sinh sản, tư vấn
hôn nhân, tư vấn tư cách làm cha, làm mẹ.
Tuy có những quan điểm khác nhau, song có thể thấy các tác giả đều
thống nhất khái niệm kế hoạch hóa gia đình ở một số điểm sau:

+ Về độ tuổi kết hôn,
+ Xây dựng quy mô gia đình hợp lý, đó là sự điều chỉnh có ý thức
của các cặp vợ chồng về số con,

10


+ Các biện pháp hạn chế sinh đẻ,
+ Tư cách làm cha, mẹ,
+ Nâng cao chất lượng cuộc sống gia đình.
Công tác DS-KHHGĐ là một vấn đề mang tính xã hội sâu sắc, khi
thực hiện nó chịu sự tác động qua lại của nhiều yếu tố. Cụ thể:
Yếu tố kinh tế:
Trong quan hệ với vấn đề DS-KHHGĐ, yếu tố kinh tế đóng vai trò là
nguyên nhân trực tiếp của quá trình biến động di cư nói chung và quá trình
sinh đẻ nói riêng, nó còn đóng vai trò như là phương tiện vật chất cần thiết
cho việc thực hiện các nhu cầu sinh đẻ, nuôi dạy con cái và chăm sóc sức
khỏe. Ngoài ra yếu tố kinh tế còn tác động gián tiếp lên quá trình dân số
như thay đổi điều kiện sinh hoạt vật chất và tinh thần, biến đổi định hướng
giá trị, lối sống và ý thức của mỗi cá nhân…Cùng với sự tăng trưởng kinh
tế thì việc chấp nhận quy mô gia đình nhỏ độc lập cũng có chiều hướng
tăng lên rõ rệt.
Thực tế cho thấy, những nơi kinh tế phát triển thì tỷ lệ gia tăng dân
số lại thấp hơn so với những nơi kinh tế chậm phát triển công tác dân số và
kế hoạch hóa gia đình ở những nơi kinh tế phát triển cũng thường thuận lợi
và đạt kết quả cao hơn. Hay nói cách khác, kinh tế phát triển tạo điều kiện
cho trình độ dân trí được nâng cao, chất lượng dân số không ngừng được
cải thiện, do đó mà con người cũng có ý thức cao hơn về tầm quan trọng
của công tác DS-KHHGĐ (thực hiện sinh đẻ có kế hoạch để nuôi dạy con
tốt, quan tâm và biết cách chăm sóc sức khỏe bản thân và gia đình…)

Yếu tố nhận thức:
Yếu tố nhận thức thể hiện sự hiểu biết của mọi thành viên trong gia
đình và toàn xã hội về sức khỏe sinh sản, chăm sóc, nuôi dạy con cái,
phòng và tránh thai ngoài ý muốn, hiểu biết và thực hiện đường lối, chủ

11


trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về vấn đề DSKHHGĐ. Yếu tố nhận thức tác động đến công tác DS-KHHGĐ ở chỗ: trình
độ học vấn có quan hệ tỷ lệ nghịch với tỷ suất sinh, tức nơi nào có trình độ
học vấn cao thì nơi đó có tỷ suất sinh thường thấp, còn nơi nào có trình độ
học vấn thấp thì tỷ suất sinh thường cao, tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng cũng
cao hơn. Những phụ nữ có trình độ học vấn cao thường có ít con, bởi lẽ,
một mặt công việc học tập và nghiên cứu mất một khoảng thời gian nhất
định trong mỗi đời người, tuổi kết hôn nâng lên thì thời gian đẻ rút ngắn đi.
Đồng thời giúp họ tránh xa những hủ tục phong kiến lạc hậu, nhìn nhận
thực tế cuộc sống để lựa chọn, tính toán phương án sinh đẻ cho phù hợp và
khoa học, hơn thế, bằng kiến thức đã có những bậc làm cha, làm mẹ có
trình độ học vấn cao, hiểu biết rộng nên việc chăm sóc con cái cũng tốt và
có điều kiện hơn, giảm thiểu mức tử vong ở trẻ sơ sinh, xóa tâm lý sinh bù,
sinh dự phòng.
Yếu tố văn hóa:
Mặc dù nhân loại đã bước sang thế kỷ XXI, các yếu tố văn hóa tốt
đẹp ngày càng được phát huy nhưng không ít yếu tố văn hóa cũ, những
phong tục tập quán cổ hủ, lạc hậu vẫn tồn tại, cản trở công tác DSKHHGĐ.
Nước Việt Nam với đặc trưng văn hóa nông nghiệp lúa nước, nông
nghiệp chưa thoát khỏi lạc hậu, mọi công việc đồng ruộng vẫn phải dựa
vào sức mạnh cơ bắp của người đàn ông, đây là một trong những lý do
khiến phần lớn các gia đình quá đề cao vai trò của người đàn ông trong gia
đình, gây ra tâm lý phải sinh bằng được con trai để gánh vác trọng trách gia

đình. Điều này đã tác động đến quy mô, tỷ lệ nam nữ trong gia đình, từ đó
ảnh hưởng đến công tác dân số và kế hoạch hóa gia đình.

12


Hiện nay ở nước ta, còn có những dân tộc thiểu số có tư tưởng lạc
hậu chưa xóa bỏ được như tình trạng tảo hôn còn cao, việc dựng vợ gả
chồng cho con do hẹn ước của các bậc làm cha mẹ, ép gả khi con cái chưa
đến tuổi trưởng thành nhằm có thêm nhân lực về giúp gia đình, để sinh con
đẻ cái. Những phong tục tập quán của chế độ phong kiến vẫn còn ăn sâu
bám rễ cho đến nay như quan niệm: “trời sinh voi, trời sinh cỏ” vẫn phổ
biến hay tư tưởng “có nếp, có tẻ” đã đè nặng lên tâm lý của nhiều gia đình,
đặc biệt là đè nặng lên người phụ nữ.
Những giáo lý, tư tưởng của nho giáo đã ăn sâu, bén rễ vào tâm thức
của người Việt Nam. Tư tưởng nho giáo đề cao con trai, hạ thấp con gái
“Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô” hình thành nên tâm lý ưa thích con
trai và khát vọng có con trai để được công nhận là có hiếu, có người nối dõi
tông đường và cũng là được thờ cúng khi về với tổ tiên. Như vậy, có con
trai không chỉ là nhu cầu cá nhân mà còn là ý thức trách nhiệm, nghĩa vụ và
tình cảm đạo đức đối với cha mẹ, tổ tiên, dòng họ. Sợi dây tâm thức xã hội
vô hình nhưng có sức mạnh vô biên đã trói chặt cuộc đời của người Việt
vào mục tiêu “phải có con trai” tạo thành một áp lực suốt đời không chỉ là
của bản thân mà còn là của gia đình, nhất là người phụ nữ.
Ở Việt Nam, tín ngưỡng tôn giáo chiếm một vị trí quan trọng trong
đời sống tâm lý xã hội của cộng đồng, nó có khả năng chi phối hành vi,
hoạt động và tình cảm của con người. Tại một số vùng dân cư theo đạo
Thiên chúa việc thực hiện công tác dân số và kế hoạch hóa gia đình gặp
không ít khó khăn, luân lý lên án phụ nữ phá thai, những cuộc vận động
sinh đẻ có kế hoạch, khuyến khích áp dụng các biện pháp tránh thai, mổ và

triệt sản đều không có kết quả do quan niệm của những người Công giáo
cho rằng đây là những biện pháp “bất bình thường” hay là “giết người” và
không thể chấp nhận.

13


Yếu tố chính trị:
Quá trình tái sản xuất dân số, trong đó có mức sinh, chẳng những
chịu sự tác động của các yếu tố tự nhiên, kinh tế-xã hội mang tính chất
khách quan, mà còn chịu sự tác động mạnh mẽ của chính sách dân số-một
yếu tố mang tính chủ quan của con người. Ở nhiều nước trên thế giới, chính
sách dân số đã trở thành một công cụ quan trọng của Chính phủ để điều tiết
quá trình tái sản xuất dân số, nhằm tạo ra một chính sách dân số hợp lý.
Đặc biệt, ở các nước đang phát triển, nơi mà trình độ kinh tế còn kém
nhưng thường có quy mô dân số lớn, tốc độ phát triển nhanh, việc xây
dựng và thực thi một chính sách dân số rõ ràng, phù hợp đã giúp nhiều
nước thành công trong việc kiềm giữ tốc độ gia tăng dân số, từ đó góp phần
thúc đẩy xã hội phát triển.
Chính sách dân số được quan niệm theo nghĩa rộng hẹp khác nhau tùy
theo từng mục tiêu cần đạt được trong từng giai đoạn nhất định ở mỗi nước.
Song dù quan niệm theo nghĩa nào thì khi nói đến chính sách dân số, người ta
nhấn mạnh đến 3 đặc trưng mà chính sách dân số cần phải có đó là:
+ Phải do Chính phủ đưa ra dưới dạng tuyên bố, lập trường, quan
điểm, đạo luật, sắc lệnh hoặc các chương trình quản lý. Chính sách dân số
cũng có thể được nghiên cứu và đưa ra cho những bộ phận dân cư lớn, nhỏ
khác nhau, phù hợp với điều kiện cụ thể từng quốc gia chủ quyền, từng
nhóm dân hoặc từng cộng đồng tôn giáo.
+ Chính sách dân số bao giờ cùng bao trùm các sự kiện dân số nghĩa
là nó phải gắn liền với các vấn đề: Sinh, tử và di cư.

+ Chính sách dân số phải có mục tiêu, nó phải làm thay đổi các sự
kiện dân số hoặc các sự kiện dân số buộc nội dung chính sách dân số phải
thay đổi

14


Có nhiều yếu tố liên quan đến chính sách dân số nhưng quan trọng
nhất là: Sinh, tử và di cư vì tất cả sự biến đổi nhân khẩu chỉ bị ảnh hưởng
thông qua 3 yếu tố đó. Trong đó yếu tố sinh được quan tâm nhiều nhất đặc
biệt là ở các nước đang duy trì mục tiêu giảm mạnh dân số.
Ở Việt Nam với đặc điểm là quy mô dân số lớn, tốc độ gia tăng dân
số cao, chính sách dân số gắn với KHHGĐ nhằm mục tiêu giảm và ổn định
mức sinh. KHHGĐ bao gồm những thực hành giúp cho cá nhân hay những
cặp vợ chồng đạt được những mục tiêu sau:
- Tránh được những lần sinh con không mong muốn.
- Đạt được những lần sinh con theo ý muốn.
- Điều hòa khoảng cách giữa các lần sinh.
- Kiểm soát được thời điểm sinh con trong mối quan hệ với độ tuổi
của bố mẹ.
- Định được số con trong gia đình.
Để đảm bảo cho mọi các nhân đều được hưởng cơ hội phát triển đầy
đủ tiềm năng của mình, mọi thành viên trong gia đình và cộng đồng có
quyền được hưởng một cuộc sống ấm no, các quốc gia đã xây dựng chính
sách dân số để tác động đến con người về cả số lượng, chất lượng cuộc
sống và các mối quan hệ của họ. Với quan niệm như vậy, chính sách dân số
có một phạm vi rất rộng lớn, bao trùm cả phạm vi của chính sách kinh tế-xã
hội. Do đó, những chính sách và mục tiêu dân số là một bộ phận không
tách rời của sự phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội với mục đích cơ bản là
nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân.

Là một bộ phận hữu cơ của hệ thống chính sách kinh tế-xã hội, chính
sách dân số có những nhiệm vụ sau:
Điều tiết sự phát triển dân số hợp lý, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh
tế xã hội thông qua việc điều tiết mức sinh đẻ của dân cư.

15


Cùng với các bộ phận khác của hệ thống chính sách kinh tế-xã hội,
chính sách dân số phải có nhiệm vụ góp phần quan tâm đầy đủ hơn đối với
các bà mẹ, trẻ em và người già, tạo ra những điều kiện tối ưu cần thiết củng
cố gia đình, tác động hiệu quả nhằm nâng cao sức khỏe, giảm bệnh tật,
giảm tỉ lệ tử vong, nâng cao tuổi thọ của dân cư.
Phối hợp với nhiều chính sách và biện pháp khác, chính sách dân số
còn có nhiệm vụ tác động tính cực, nâng cao không ngừng trình độ văn
hóa, giáo dục, trình độ chuyên môn, nghề nghiệp cho dân cư, góp phần thúc
đẩy sự phát triển con người một cách toàn diện.
1.1.2. Khái lược về công tác DS-KHHGĐ ở Việt Nam trước năm 2001
Từ năm 1961 đến trước năm 1975
Năm 1960, với dân số 30,2 triệu người, trong đó 16,1 triệu người ở
miền Bắc và 14,1 triệu người ở miền Nam, Việt Nam cơ bản là nước nông
nghiệp, 85% dân số ở nông thôn. Tỷ lệ gia tăng dân số tại thời điểm này rất
cao 3,8%/năm, hệ quả của mức sinh rất cao. Tổng tỷ suất sinh hay số con
trung bình của một phụ nữ vào đầu những năm 1960 khoảng 6,3 con. Đây
là thời điểm toàn Đảng, toàn dân tiếp tục công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở miền Bắc và đấu tranh giải phóng miền Nam thống nhất đất nước.
Kinh tế - xã hội của đất nước lạc hậu với trình độ học vấn thấp, tuổi thọ
trung bình thấp, tử vong trẻ em dưới 1 tuổi và tử vong mẹ cao. Cuộc sống
của nhân dân vô cùng khó khăn.
Nhận thức được tác động của gia tăng dân số nhanh ảnh hưởng tới

phát triển kinh tế-xã hội, ngày 26/12/1961 Hội đồng Chính phủ đã ra Quyết
định 216-CP về việc sinh đẻ có hướng dẫn. Quyết định này là mốc lịch sử
quan trọng về công tác DS-KHHGĐ ở Việt Nam. Theo đó, cuộc vận động
Sinh đẻ có kế hoạch chính thức được phát động “vì sức khỏe của người mẹ,
vì hạnh phúc và hòa thuận của gia đình vì để cho việc nuôi dạy con cái

16


được chu đáo.” Trong thời gian này, DS-KHHGĐ chủ yếu chỉ triển khai
thực hiện ở miền Bắc với tên gọi là cuộc vận động “Hướng dẫn sinh đẻ” và
sau đó là “Sinh đẻ có kế hoạch”. Mục tiêu của cuộc vận động hướng tới
quy mô gia đình 3 con, đẻ thưa, đẻ muộn, bảo vệ sức khỏe bà mẹ, nuôi dạy
con cái chu đáo, đảm bảo hạnh phúc và sự hòa thuận của gia đình. Đối
tượng của cuộc vận động chủ yếu là phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ đã đông
con, những người đẻ quá dày, sức khỏe kém, đời sống gặp nhiều khó khăn
và trước hết là nữ công nhân viên chức nhà nước, phụ nữ trong các lực
lượng vũ trang và phụ nữ ở các vùng đồng bằng đông dân. Phạm vi cuộc
vận động tập trung chủ yếu ở thành thị, vùng nông thôn đồng bằng đông
dân và giới hạn vào chỉ tiêu, số lượng người thực hiện biện pháp tránh thai.
Các giải pháp cơ bản là cung cấp dịch vụ KHHGĐ (chủ yếu là vòng
tránh thai), tuyên truyền vận động (hình thức chủ yếu là nói chuyện, đèn
chiếu và tranh ảnh), và chế độ khuyến khích phụ nữ đặt vòng tránh thai.
Nhà nước cho phép các công ty, đơn vị, hợp tác xã sử dụng quỹ phúc lợi để
khen thưởng các đối tượng sử dụng vòng tránh thai. Tổ chức bộ máy là một
Ban phối hợp; thời gian đầu Ban này do Bộ Y tế và từ năm 1970 do Ủy ban
bảo vệ bà mẹ và trẻ em, là cơ quan thường trực đảm nhận các dịch vụ
KHHGĐ. Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Tổng công đoàn Việt Nam đảm
nhận chức năng tuyên truyền vận động. Năm 1975, do yêu cầu thay đổi về
tổ chức, Ủy ban bảo vệ bà mẹ trẻ em giải thể, công tác sinh đẻ có kế hoạch

được bàn giao về Bộ Y tế.
Kết quả đạt được của công tác dân số trong thời gian này chịu sự tác
động của nhiều yếu tố: chính trị, kinh tế, xã hội. Vào đầu những năm 1960,
tỷ lệ tăng dân số là 3,8 %, 15 năm sau (1975) mức tăng này đã giảm hơn
một phần ba, xuống còn 2,4%. Riêng ở miền Bắc tỷ lệ gia tăng dân số giảm
từ 3,4% năm 1960 xuống còn 2,5% năm 1971 [14, tr.29]. Cuộc vận động

17


sinh đẻ kế hoạch được khởi xướng từ sớm nhưng chưa đạt được mục tiêu
mong muốn, mức tăng dân số vẫn rất cao, năm 1975 dân số Việt Nam đạt
47,6 triệu người, trung bình mỗi năm tăng 1,16 triệu người. Bài học thành
công nhất mới dừng lại ở sự quyết tâm của Chính phủ muốn thực hiện sinh
đẻ kế hoạch làm tiền đề cho sự phát triển kinh tế, xã hội nhưng bị gián đoạn
bởi chiến tranh. Công tác dân số chưa có sự quan tâm lãnh đạo sâu sát của
cấp ủy Đảng và chính quyền các cấp đến công tác sinh đẻ kế hoạch do chú
trọng đến 2 nhiệm vụ chiến lược: xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và
giải phóng miền Nam thống nhất đất nước. Chưa có bộ máy chuyên trách
và hệ thống tổ chức sinh đẻ kế hoạch đến cơ sở, nguồn lực đầu tư cho công
tác còn hạn chế.
Từ năm 1976 đến năm 1990
Sau ngày thống nhất đất nước, công tác DS-KHHGĐ được triển khai
trên phạm vi cả nước trong bối cảnh khó khăn, tỷ lệ gia tăng dân số ở miền
Nam rất cao 3,2% (theo kết quả điều tra dân số ở các tỉnh miền Nam ngày
5/2/1976) do hiện tượng dân số tăng bù sau chiến tranh, di cư Bắc-Nam và
chính sách khuyến khích sinh của chế độ Việt Nam Cộng hòa ở những năm
trước đó. Sau đó, cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc
đã làm hạn chế cuộc vận động sinh đẻ có kế hoạch.
Công tác DS-KHHGĐ được triển khai trong phạm vi cả nước, với

mục tiêu xác định cụ thể tại Đại hội Đảng lần thứ IV (1976) là “Đẩy mạnh
hơn nữa cuộc vận động sinh đẻ có kế hoạch, kiên quyết giảm dần tốc độ
tăng dân số hàng năm, phấn đấu đến năm 1980 tỷ lệ gia tăng dân số là trên
2% một ít” [29, tr.72].. Tại Đại hội V năm 1982 mục tiêu được xác định là:
“Giảm tốc độ tăng dân số bình quân của cả nước từ 2,4% hàng năm xuống
1,7% vào năm 1985”[30, tr.72] và được nhắc lại tại Đại hội VI (1986) là:
“Giảm tỷ lệ phát triển dân số từ 2,2% hiện nay xuống 1,7% vào năm

18


1990”[31, tr.185]. Năm 1978, Hội đồng Chính phủ đã thông qua Chỉ thị về
việc đẩy mạnh cuộc vận động sinh đẻ có kế hoạch (Chỉ thị số 265/CP ngày
19 tháng 10 năm 1978). Ba chỉ tiêu của cuộc vận động sinh đẻ có kế hoạch
là đẻ ít (2 đến 3 con), đẻ muộn (từ 22 tuổi trở lên) và đẻ thưa (cách nhau từ
3 đến 5 năm) và thông qua yêu cầu tăng số người sử dụng vòng tránh thai.
Đối tượng của cuộc vận động được mở rộng đến với toàn phụ nữ trong độ
tuổi sinh đẻ và cả nam giới có vợ trong tuổi sinh đẻ. Phạm vi thực hiện mở
rộng trong toàn quốc, khu vực thành thị, nông thôn và đồng bằng đông dân,
có nhấn mạnh đối với công nhân viên chức Nhà nước và lực lượng vũ
trang. Trong cuộc vận động, đối tượng được chú trọng quan tâm là các dân
tộc thiểu số, đối với các đối tượng khác cuộc vận động sinh đẻ có kế hoạch
là nhằm hạ thấp mức sinh nhưng đối với dân tộc thiểu số vấn đề đặt ra là
bảo vệ bà mẹ trẻ em.
Các giải pháp thực hiện là cung cấp dịch vụ KHHGĐ (chủ yếu vẫn là
vòng tránh thai), tuyên truyền vận động (đã được mở rộng ra các phương
tiện thông tin đại chúng, hình thức vận động chủ đạo là tuyên truyền, vận
động trực tiếp) và có chính sách khuyến khích mạnh hơn, rộng hơn đối với
phụ nữ đình sản, đặt vòng tránh thai (kể cả sử dụng hình thức phạt và đóng
góp). Công tác sinh đẻ kế hoạch do Bộ Y tế chịu trách nhiệm về mặt

chuyên môn kỹ thuật, cung cấp dụng cụ, thuốc men, đào tạo, cung cấp cán
bộ chuyên môn cho địa phương, giao cho Viện Bảo vệ bà mẹ và trẻ em sơ
sinh chỉ đạo công tác sinh đẻ có kế hoạch và bảo vệ bà mẹ trẻ em. Năm
1984, thành lập Ủy ban Quốc gia dân số và sinh đẻ có kế hoạch nhưng
người đứng đầu chỉ giữ vai trò kiêm nhiệm và cơ quan chuyên trách chỉ là
một Ban thư ký thường trực bộ Y tế. Ủy ban có nhiệm vụ giúp Hội đồng bộ
trưởng chỉ đạo về công tác dân số và sinh đẻ có kế hoạch, chủ trì việc phối
hợp giữa các cơ quan, các đoàn thể quần chúng tổ chức thực hiện công tác
19


dân số và sinh đẻ có kế hoạch trong cả nước. Ngày 6/02/1985, Ủy ban dân
số và sinh đẻ có kế hoạch được đổi tên thành Ủy ban Quốc gia dân số và kế
hoạch hóa gia đình.
Trong các năm 1976-1990, dân số Việt Nam tăng trung bình mỗi
năm 1,13 triệu người từ 49,2 triệu năm 1976 lên 66 triệu năm 1990. Tỷ lệ
gia tăng dân số tiếp tục giảm từ 2,5% xuống 1,9% trong thời gian tương
ứng do những nỗ lực của chương trình DS-KHHGĐ. Kết quả đạt được góp
phần quan trọng qóp phần hạ thấp tỷ lệ tăng dân số, tuy nhiên không đạt
chỉ tiêu theo quyết tâm và kỳ vọng đặt ra. Tỷ lệ sinh giảm từ 33,2‰ năm
1975 xuống còn 31‰ năm 1989. Tổng tỷ suất sinh tính cho 1 người phụ nữ
trong độ tuổi sinh đẻ giảm từ 5,25 con năm 1975 xuống còn 3,95 con năm
1986 và 3,8 con năm 1989. Tỷ lệ chết gần như không giảm 7,5‰ năm 1975
và 7,3‰ năm 1989 [14, tr.47]. Mục tiêu về giảm tỷ lệ dân số được đề ra tại
các kỳ Đại hội Đảng lần thứ IV, V, VI đều không đạt được. Cuộc vận động
sinh đẻ có kế hoạch mặc dù đã có chỉ thị của Chính phủ cho các ngành, các
cấp tham gia nhưng trên thực tế chỉ có ngành Y tế, phụ nữ và công đoàn
trực tiếp thực hiện, các ngành khác hầu như đứng ngoài, nên cuộc vận động
không đạt được kết quả như mong muốn. Bên cạnh những kết quả đạt
được, chương trình DS-KHHGĐ là chương trình có ý nghĩa lớn đối với

chiến lược con người và chiến lược phát triển kinh tế-xã hội nhưng chưa
được chỉ đạo đầu tư tương xứng. Mặt khác, sự phát triển kinh tế-văn hóa sẽ
tạo điều kiện cho nhân dân chấp nhận quy mô gia đình nhỏ nhưng trong
giai đoạn này tình hình kinh tế-xã hội đất nước đang trong tình trạng khủng
hoảng kéo dài. Một số chính sách kinh tế-xã hội có tác động nghịch đến
chương trình DS-KHHGĐ chậm được sửa đổi.
Từ năm 1991 đến năm 2000

20


×