Tải bản đầy đủ (.pdf) (90 trang)

Tương quan giữa nhận thức về sức khỏe tâm thần và hành vi tìm kiếm trợ giúp cho vấn đề sức khỏe tâm thần của học sinh trung học phổ thông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.38 MB, 90 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC

ĐẶNG THỊ THU TRANG

TƢƠNG QUAN GIỮA NHẬN THỨC VỀ SỨC KHỎE TÂM THẦN
VÀ HÀNH VI TÌM KIẾM SỰ TRỢ GIÚP VẤN ĐỀ SỨC KHỎE
TÂM THẦN CỦA HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC

Hà Nội – 2017


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC

ĐẶNG THỊ THU TRANG

TƢƠNG QUAN GIỮA NHẬN THỨC VỀ SỨC KHỎE TÂM THẦN
VÀ HÀNH VI TÌM KIẾM SỰ TRỢ GIÚP VẤN ĐỀ SỨC KHỎE
TÂM THẦN CỦA HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC
Chuyên ngành: Tâm lý học lâm sàng trẻ em và vị thành niên
Mã số: Thí điểm

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. Đặng Hoàng Minh

Hà Nội – 2017



LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành được chương trình Cao học và viết luận văn này, tôi đã nhận
được sự hướng dẫn, giúp đỡ và góp ý nhiệt tình của quý thầy cô trường Đại Học
Giáo dục – ĐHQGHN.
Trước hết, tôi xin chân thành cảm ơn đến Ban Giám Hiệu, Cán bộ quản lý,
quý thầy cô trường Đại Học Giáo Dục – ĐHQGHN, đặc biệt là quý thầy cô đã
tận tình truyền thụ kiến thức cho tôi trong suốt thời gian hoạc tập tại trường.
Tôi xin gửi lời biết ơn sâu sắc đến Phó Giáo sư – Tiến sĩ Đặng Hoàng Minh
đã dành rất nhiều thời gian, công sức và tâm huyết hướng dẫn tôi nghiên cứu và
giúp tôi hoàn thành luận văn tốt nghiệp này.
Qua đây, tôi xin chân thành cảm ơn những lời động viên, khích lệ từ phía
gia đình, cùng sự chia sẻ, học hỏi từ đồng nghiệp, bạn bè đã góp phần rất nhiều
cho luận văn của tôi được hoàn thành tốt hơn.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng hoàn thiện luận văn bằng tất cả sự nhiệt tình,
tâm huyết và năng lực của mình, tuy nhiên không thể tránh khỏi những thiếu
sót.Vì thế tôi rất mong nhận được những đóng góp quý báu của quý thầy cô và
các bạn để luận văn này hoàn thiện và có chất lượng tốt hơn.
Xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày… tháng… năm 2017
Tác giả
(Ký, ghi rõ họ tên)

Đặng Thị Thu Trang

i


LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.

Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai
công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Tác giả luận văn
(Ký, ghi rõ họ tên)

Đặng Thị Thu Trang

ii


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT TIẾNG VIỆT
Chữ viết tắt

Đọc là

SKTT

Sức khỏe tâm thần

TKTG

Tìm kiếm trợ giúp

HV

Hành vi

THPT

Trung học phổ thông


HS

Học sinh

VTN

Vị thành niên

BTT

Bệnh tâm thần

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT TIẾNG ANH
Chữ viết tắt
DSM-IV

Đọc là
Diagnostic and Statistical Sổ tay chẩn đoán và thống kê các
Manual of Disorder, 4th

rối loạn tâm thần (Hội tâm thần
học Hoa kỳ), lần thứ 4.

ICD-10
WHO

International Classification Phân loại bệnh quốc tế lần thứ
of Diseases, 10th


10.

Wolrd Health Organization

Tổ chức Y tế Thế giới.

iii


DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1. Kiểm định độ tin cậy thang đo nhận thức về SKTT của học sinh THPT ..... 32
Bảng 2.2. Các nhân tố của bảng hỏi hành vi tìm kiếm trợ giúp của học sinh THPT..... 37
Bảng 2.3. Phân phối mẫu thu thập được trên thực tế .......................................... 40
Bảng 3.1 Giá trị trung bình của tổng thang đo nhận thức về SKTT ................... 43
Bảng 3.2. Mức độ nhận thức về Sức khỏe tâm thần của học sinh Trung học phổ
thông .................................................................................................................... 43
Bảng 3.3 Ảnh hưởng của yếu tố nhân khẩu học đến điểm trung bình thang đo MHL 44
Bảng 3.4 Mức độ nhận thức của tiểu thang đo «Nhận diện các rối loạn tâm thần».......... 46
Bảng 3.5 Ảnh hưởng của các biến nhân khẩu học lên tiểu thang «Nhận diện rối
loạn tâm thần» ..................................................................................................... 47
Bảng 3.6. Mức độ nhận thức của tiểu thang đo «kiến thức tìm kiếm thông tin» ...... 47
Bảng 3.7 Ảnh hưởng của các biến nhân khẩu học đến điểm trung bình của nhân
tố «Kiến thức tìm kiếm thông tin» ...................................................................... 48
Bảng 3.8. Mức độ nhận thức của tiểu thang đo “thái độ tiêu cực về SKTT” ..... 50
Bảng 3.9 Ảnh hưởng của các biến nhân khẩu học đến điểm trung bình của nhân
tố «Thái độ tiêu cực về bệnh tâm thần» .............................................................. 51
Bảng 3.10. Mức độ nhận thức của tiểu thang đo “thái độ tích cực đối với SKTT”....... 52
Bảng 3.11 Ảnh hưởng của các biến nhân khẩu học đến điểm trung bình của nhân
tố “Thái độ tích cực về bệnh”.............................................................................. 53
Bảng 3.12 Giá trị trung bình của bảng hỏi hành vi tìm kiếm trợ giúp cho vấn đề SKTT........ 55

Biểu đồ 3.4. Hành vi tìm kiếm sự trợ giúp khi có vấn đề về SKTT của............. 55
học sinh THPT .................................................................................................... 55
Bảng 3.13. Điểm trung bình thang đo hành vi tìm kiếm trợ giúp của ................ 56
học sinh THPT .................................................................................................... 56
Bảng 3.14. Điểm trung bình 2 nhân tố hành vi tìm kiếm trợ giúp cho vấn đề SKTT...... 57
Bảng 3.15. Những yếu tố ảnh hưởng đến hành vi tìm kiếm nguồn trợ giúp của
học sinh THPT .................................................................................................... 59
Bảng 3.16. Tương quan giữa nhận thức và hành vi tìm kiếm trợ giúp của học
sinh THPT ........................................................................................................... 61
Bảng 3.17. Tương quan các tiểu thang đo nhận thức và hành vi tìm kiếm trợ giúp .......... 62
iv


DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
Biều đồ 3.1 Hàm phân phối tổng điểm thô thang đo nhận thức về SKTT ......... 42
Biểu đồ 3.2 Mức độ nhận thức về SKTT của học sinh THPT ............................ 43
Biểu đồ 3.3. Hàm phân phối tổng điểm thô bảng hỏi hành vi tìm kiếm trợ giúp...... 54

v


MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN ....................................................................................................... i
LỜI CAM ĐOAN ................................................................................................ ii
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT TIẾNG VIỆT ................................................ iii
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT TIẾNG ANH ................................................. iii
DANH MỤC CÁC BẢNG ................................................................................. iv
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ ............................................................................. v
MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 1
Chƣơng 1CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU ........................... 8

1.1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu ........................................................................ 8
1.1.1 Tổng quan những nghiên cứu về “nhận thức về Sức khỏe tâm thần” ......... 8
1.1.2. Tổng quan các nghiên cứu về hành vi TKTG và sử dụng nguồn trợ giúp ở
học sinh THPT .................................................................................................... 11
1.1.3 Tổng quan những nghiên cứu về tương quan giữa nhận thức về Sức khỏe
tâm thần và hành vi tìm kiếm trợ giúp của học sinh THPT ................................ 16
1.2Các khái niệm công cụ của đề tài ................................................................... 17
1.2.1. Nhận thức .................................................................................................. 17
1.2.2. Sức khỏe tâm thần ..................................................................................... 19
1.2.3. Hành vi ...................................................................................................... 26
Kết luận chƣơng 1 ............................................................................................. 29
Chƣơng 2TỔ CHỨC VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ........................ 30
2.1. Xác định biến nghiên cứu............................................................................. 30
2.2. Các phương pháp nghiên cứu....................................................................... 30
2.2.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận............................................................... 30
2.2.2. Phương pháp điều tra bảng hỏi ................................................................. 30
2.3. Mẫu nghiên cứu ............................................................................................ 38
2.3.1. Xác định địa bàn nghiên cứu ..................................................................... 38
2.3.2. Quy trình thu thập số liệu .......................................................................... 39
2.3.3. Mẫu nghiên cứu thu thập được trên thực tế: ............................................. 40
Kết luận chƣơng 2 ............................................................................................. 41
vi


CHƢƠNG 3KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU .......................................................... 42
3.1. Thực trạng mức độ nhận thức về SKTT của học sinh THPT ...................... 42
3.1.1. Nhận thức về Sức khỏe tâm thần của học sinh THPT .............................. 42
3.1.2. Những yếu tố ảnh hưởng đến thang đo nhận thức về SKTT .................... 44
3.1.3 Mức độ nhận thức của bốn tiểu thang đo về SKTT của học sinh THPT ... 46
3.2. Thực trạng hành vi tìm kiếm trợ giúp cho vấn đề SKTT của học sinh THPT ....... 54

3.2.1. Thực trạng chung về thang đo hành vi tìm kiếm trợ giúp của học sinh THPT.... 54
3.2.2. Mức độ tìm kiếm trợ giúp của các nhân tố trong nguồn tìm kiếm trợ giúp
của học sinh THPT .............................................................................................. 57
3.2.3. Yếu tố ảnh hưởng đến hành vi tìm kiếm trợ giúp của học sinh THPT ..... 59
3.3. Tương quan giữa nhận thức về SKTT và hành vi tìm kiếm trợ giúp cho vấn
đề SKTT của học sinh THPT .............................................................................. 61
3.3.1. Tương quan giữa nhận thức và hành vi tìm kiếm trợ giúp của học sinh THPT... 61
3.3.2. Tương quan giữa các tiểu thang đo nhận thức về SKTT và tiểu thang đo
hành vi tìm kiếm trợ giúp của học sinh THPT. ................................................... 62
Kết luận chƣơng 3 ............................................................................................. 64
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ ................................................................... 66
1. Kết luận ........................................................................................................... 66
2. Khuyến nghị .................................................................................................... 68
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................ 70
PHỤ LỤC ........................................................................................................... 76

vii


MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài
Trước tuổi vị thành niên (VTN), có sự phát triển cân bằng về thể chất và
tâm sinh lý, nhưng giai đoạn vị thành niên có sự tăng trưởng mạnh mẽ về thể
chất, tâm thần và xã hội, chính những sự thay đổi này dễ làm xuất hiện các vấn
đề về sức khoẻ tâm thần. Vị thành niên có sự khủng hoảng lớn về tâm lý trong
quá trình phát triển, cảm xúc giao động dễ bị tổn thương, là giai đoạn sự phát
triển mang tính kịch tính cao, được thể hiện qua những biểu hiện mới về hành vi
và tự ý thức về bản thân.
Các rối loạn sức khoẻ tâm thần ở trẻ em và vị thành niên có tỷ lệ khá cao
[3] khảo sát ở 1525 trẻ 4-18 tuổi ở hai phường Kim Liên và Trung Tự (Hà Nội),

cho thấy 18,56% trẻ trai và 17,22% trẻ gái tuổi 4-18 có các rối loạn hành vi và
cảm xúc; 22,40% trẻ trai và 20,94% trẻ gái tuổi 12 – 18 có các rối loạn hành vi
và cảm xúc nói chung (trung bình là 19,67%).
Theo khảo sát về sức khỏe tâm thần ở học sinh trên địa bàn Hà Nội được
tiến hành giữa Bệnh viện Tâm thần ban ngày Mai Hương với Đại học
Melbourne (Australia) về “Chăm sóc sức khỏe tâm thần học sinh trường học tại
Hà Nội” là dự án hợp tác quốc tế giữa Sở Y tế Hà Nội, bằng bộ công cụ SDQ
của Tổ chức Y tế Thế giới ở 1.202 học sinh tiểu học và trung học cơ sở (10-16
tuổi) cho thấy tỷ lệ học sinh có các vấn đề về sức khỏe tâm thần chung là
19,46%, không khác biệt về nam, nữ, học sinh tiểu học hay trung học cơ sở,
trong đó lạm dụng chất gây nghiện đang tăng nhanh chóng. Nghiên cứu trên
21.960 thanh thiếu niên Hà Nội phát hiện 3,7% em có rối loạn hành vi. Tỷ lệ này
giữa nội thành, ngoại thành không có gì khác biệt.Theo khảo sát của dự án, quận
Hai Bà Trưng có tỷ lệ học sinh gặp khó khăn về ứng xử cao nhất, với 44,2% so
với các quận còn lại là Hoàng Mai (28,8%), Từ Liêm (26,9%). Điều này cho
thấy ảnh hưởng của điều kiện sống, môi trường sống tác động hành vi ứng xử
của các em
1


Tại hội thảo quốc gia “Sức khỏe tâm thần trong trường học” do Quỹ Tài
năng Trẻ tâm lý học - giáo dục học (Hội Khoa học Tâm lý Giáo dục Việt Nam)
tổ chức tại Đồng Nai, nhiều chuyên gia tâm lý, sức khỏe tâm thần đã lên tiếng
cảnh báo về tình trạng ngày càng sa sút của học sinh. Tâm lý lo sợ không hoàn
thành bài vở mới là nỗi ám ảnh với các học sinh lứa tuổi THPT, nhất là các em
lớp 12.Từ đó, học sinh cảm thấy căng thẳng trong việc học. Chiếm 13,6% học
sinh khá cảm thấy ăn không ngon, 17,6% chỉ muốn uống nước hoặc sữa và gần
20% thường xuyên bỏ bữa. Thậm chí, một số em tâm sự đang đối mặt với kỳ thi
quan trọng, sợ làm bài không tốt, sợ gia đình thất vọng và khi nghĩ đến những
điều đó thì các em chỉ muốn... 'nổ tung'.

Nghiên cứu dịch tễ học về SKTT của trẻ em Việt Nam ở 10 tỉnh đại diện ở Việt
Nam của Đặng Hoàng Minh, Weiss, Cao Minh Nguyễn (2013) chỉ ra có từ 1213% trẻ em Việt Nam (trong độ tuổi 6-16) gặp phải những vấn đề SKTT một
cách rõ rệt. Điều này có nghĩa là có khoảng 2.7 triệu trẻ em và vị thành niên trên
toàn quốc gặp phải vấn đề SKTT [1].
Trước những con số nhiều nghiên cứu đã chỉ ra thực trạng về vấn đề sức
khỏe tâm thần của học sinh luôn biến động và ngày càng tăng. Điều đó cho thấy
thực trạng vấn đề SKTT ở trẻ VTN đang trong tình trạng đáng báo động. Tuy
nhiên, tại Việt Nam chưa có nghiên cứu nào chỉ ra thực trạng hiểu biết của trẻ
VTN về các vấn đề Sức khỏe tâm thần cũng như chưa tìm được nghiên cứu nào
chỉ ra thực trạng hành vi tìm kiếm trợ giúp cho vấn đề SKTT ở trẻ VTN. Trong
khi tuổi VTN là giai đoạn phát triển tâm lý, với những nét nhân cách còn chưa
định hình rõ rệt, dễ thay đổi tâm tánh.Ở giai đoạn này khả năng tự khẳng định
bản thân rất lớn, tò mò và ham tìm kiếm khá phá những điều mới lạ nhưng tự
kiềm chế cảm xúc và khả năng làm chủ hành động của bản thân chưa cao.Mặt
khác các em chưa có cái nhìn độc lập, khả năng phân định đúng sai và hậu quả
trước mỗi hành động của các hoạt động tham gia. Do đó các em dễ bị lôi cuốn
vào các hoạt động mới lạ và muốn tự trải nghiệm, phần lớn các em muốn độc
lập trên quyết định của mình mà không có sự tham gia cùng của người lớn, đặc
biệt ở học sinh Trung Học Phổ Thông. Điều đó khiến các em say mê với hoạt
2


động hoặc tự ý ra quyết định khi ở tuổi suy nghĩ còn chưa chín muồi, nhận thức
còn nhiều hạn chế khi đối mặt với những khó khăn, vướng mắc trong cuộc sống
và các mối quan hệ các em loay hoay giải quyết, có nhiều em vướng mắc vào
những căng thẳng, lo âu và những vấn đề về sức khỏe tâm thần ở các mức độ
nặng nhẹ khác nhau. Điều đáng lo ngại hơn là phần lớn các em học sinh không ý
thức được tầm nghiêm trọng của sức khỏe tâm thần nên không thực hiện hành vi
tìm kiếm trợ giúp từ những người xung quanh hoặc tìm kiếm sự trợ giúp không
phù hợp dẫn đến những hệ lụy nghiêm trọng: tự ý sử dụng thuốc ngủ không theo

chỉ dẫn của bác sĩ; hút thuốc lá hoặc chơi games để giảm căng thẳng; tự ý nạo phá
thai tại các cơ sở y tế không đảm bảo; lạm dụng cafe trong những ngày thi cử…
Bên cạnh những nghiên cứu về SKTT của giới trẻ, đã có nhiều nghiên cứu
chỉ ra có khoảng 18-34% thanh niên với mức độ cao của những triệu chứng trầm
cảm hoặc lo âu tìm sự giúp đỡ chuyên nghiệp. Những người bị bệnh tâm thần và
đặc biệt là những người bị trầm cảm có xu hướng trì hoãn điều trị vì nhiều lý do
khác nhau. Bên cạnh đó, nghiên cứu cũng đưa ra kết luận rằng có một sự phụ
thuộc cao vào “tự để giải quyết vấn đề, giới trẻ thiếu thẩm quyền tình cảm và có
thái độ tiêu cực về việc tìm kiếm trợ giúp chuyên nghiệp” đó là những rào cản
khiến giới trẻ và thanh niên ít tìm kiếm giúp đỡ từ các chuyên gia trên Thế giới.
Bên cạnh đó, kết quả cũng chỉ ra, ở những người trẻ tuổi và thiếu niên, họ chỉ
tìm sự giúp đỡ chuyên nghiệp khi nó là cần thiết, thường bạn bè và gia đình là
những nguồn tìm kiếm giúp đỡ ưa thích của họ [39].
Một nghiên cứu về Trầm cảm, Tìm kiếm Sự trợ giúp và Tự nhận thức về
Trầm cảm giữa người nhập cư Dominican, Ecuador và Colombian ở Đông Bắc
Hoa Kỳ, nghiên cứu được thực hiện trên 177 người Mỹ Latino, kết quả nghiên
cứu chỉ ra có 25% người có biểu hiện của rối loạn trầm cảm theo Bảng hỏi Điều
tra Y tế Bệnh nhân (PHQ-9). Các yếu tố có thể có liên quan đến rối loạn này là:
nghèo đói; Khó khăn trong hoạt động; Các triệu chứng soma lớn hơn, cảm giác
căng thẳng và kỳ thị; Số bệnh mãn tính. Năm mươi bốn người đã xác nhận sự
giúp đỡ tìm kiếm và nghiên cứu chỉ ra các yếu tố liên quan đến việc tìm kiếm trợ
giúp là: giới tính nữ, khó vận động, mức độ nặng nhẹ của trầm cảm [47].Điều đó
3


cho thấy, các yếu tố liên quan đến rối loạn tâm thần liên quan đến vấn đề tinh
thần và sự nghèo đói về vật chất là những yếu tố góp phần thúc đẩy hình thành
rối loạn tâm thần và hành vi tìm kiếm trợ giúp chịu ảnh hưởng của một số yếu tố
liên quan đến tình trạng rối loạn, giới tính cũng ảnh hưởng đến hành vi tìm kiếm
trợ giúp.

Nhìn nhận thực trạng sức khỏe tâm thần của giới trẻ Việt Nam nói riêng và
trên thế giới nói chung qua tổng quan một số nghiên cứu, cho thấy tỉ lệ trẻ VTN
có vấn đề về SKTT đang trong tình trạng báo động là rất rõ rệt. Tuy nhiên, thực
tế giới trẻ, đặc biệt là trẻ VTN có vấn đề về SKTT tại Việt Nam đã thực hiện
hành vi tìm kiếm trợ giúp như thế nào?, bằng cách nào? Hành vi tìm kiếm các
dịch vụ chăm sóc SKTT chuyên nghiệp như thế nào? vẫn là điều chưa được biết
đến. Trong khi đó, trên thế giới đã có nhiều nghiên cứu báo cáo về hành vi
TKTG vấn đề SKTT ở cộng đồng và giới trẻ. Do đó, với mong muốn hiểu và
nắm bắt được nhận thức của học sinh THPT về SKTT và xu hướng thực hiện
hành vi TKTG khi có vấn đề SKTT chúng tôi quan tâm và hướng đến chủ điểm
nghiên cứu này, với tên đề tài “Tương quan giữa nhận thức về Sức khỏe tâm
thần và hành vi tìm kiếm sự trợ giúp vấn đề Sức khỏe tâm thần ở Học sinh
Trung học Phổ thông”, với mục đích nghiên cứu của đề tài, chúng tôi kỳ vọng
sẽ đem lại những ý nghĩa quan trọng trong việc đưa ra con số thể hiện sự hiểu
biết của học sinh THPT về SKTT và thực trạng hành vi tìm kiếm trợ giúp cho
vấn đề SKTT qua đó chỉ ra mối tương quan giữa nhận thức về SKTT và hành vi
TKTG cho vấn đề SKTT của học sinh THPT.Vì khả năng nghiên cứu có hạn
nên chúng tôi giới hạn phạm vi nghiên cứu và khách thể nghiên cứu tại một số
Trường trên địa bàn Hà Nội và tỉnh Hưng Yên.
2. Câu hỏi nghiên cứu
- Có hay không mối tương quan giữa nhận thức về SKTT và hành vi tìm kiếm
sự trợ giúp cho vấn đề SKTT ở học sinh THPT?
3. Mục đích nghiên cứu
- Chỉ ra mối tương quan có thể có giữa nhận thức và hành vi tìm kiếm trợ giúp
cho vấn đề SKTT của học sinh THPT. Có những yếu tố nào ảnh hưởng đến mối
4


tương quan này? Từ đó đưa ra các giải pháp và các kiến nghị đối với nhóm
nghiên cứu; trường học và cha mẹ.

4. Đối tƣợng và khách thể nghiên cứu
4.1.1. Khách thể nghiên cứu:
- Học sinh trong độ tuổi từ 16 – 18 tuổi đang theo học tại 2 trường THPT
trên địa bàn Hà Nội (THPT FPT, THPT Nhân Chính), 2 trường tại tỉnh Hưng
Yên (THPT Yên Mĩ, THPT Hồng Bàng).
- Số lượng khách thể nghiên cứu 271 Học sinh THPT.
4.1.2. Đối tượng nghiên cứu:
Nghiên cứu mối tương quan giữa nhận thức về SKTT và hành vi tìm kiếm
sự trợ giúp vấn đề SKTT ở học sinh THPT.
5. Giả thuyết nghiên cứu
- Mức độ nhận thức của học sinh THPT về SKTT ở mức trung bình.
- Nguồn tìm kiếm trợ giúp được lựa chọn nhiều nhất cho vấn đề SKTT của
học sinh THPT là nguồn trợ giúp không chính thức.
- Có tương quan thuận giữa nhận thức về SKTT và hành vi tìm kiếm sự trợ
giúp cho vấn đề SKTT ở học sinh THPT.
6. Nhiệm vụ nghiên cứu
6.1. Nhiệm vụ nghiên cứu lý luận:
- Thu thập tài liệu đã được nghiên cứu và công bố trên tạp chí, bài báo, nghiên
cứu khoa học trong nước và thế giới nhằm làm rõ cơ sở lý luận cho đề tài nghiên
cứu nhằm làm rõ khái niệm nhận thức; SKTT; hành vi tìm kiếm trợ giúp.
- Tổng kết, khái quát tài liệu, điểm luận những tài liệu thu thập được để làm
sáng rõ ý định nghiên cứu.
6.1.

Nhiệm vụ nghiên cứu thực tiễn:
- Nghiên cứu, xây dựng cơ sở lý luận của đề tài.
- Tìm hiểu thực trạng nhận thức về SKTT và hành vi TKTT cho vấn đề

SKTT của học sinh THPT.
- Chỉ ra tương quan giữa nhận thức về SKTT và hành vi TKTT cho vấn đề

SKTT của học sinh THPT.
5


- Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao nhận nhức về SKTT và thực
hiện hành vi TKTG cho vấn đề SKTT ở học sinh THPT.
7. Phạm vi nghiên cứu
7.1.

Phạm vi về nội dung nghiên cứu: Nhận thức và hành vi tìm kiếm trợ

giúp vấn đề SKTT của học sinh THPT.
7.2.

Phạm vi về thời gian nghiên cứu: 5 tháng kể từ thời điểm bắt đầu nghiên

cứu đến khi hoàn thành nghiên cứu (tháng 01 – tháng 05/2017).
7.3.

Phạm vi về không gian nghiên cứu: 271 học sinh đang theo học tại 4 trường

THPT trên địa bàn Hà Nội (Trường THPT FPT; Trường THPT Nhân Chính) và tỉnh
Hưng Yên (Trường THPT Yên Mỹ; Trường THPT dân lập Hồng Bàng).
8. Phƣơng pháp nghiên cứu
8.1. Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Nghiên cứu các báo cáo khoa học, tạp
trí, bài đăng trên Hội thảo khoa học đã được công bố có liên quan đến đề tài
nghiên cứu.
8.2. Phương pháp điều tra bảng hỏi:
- Thang đo nhận thức về SKTT của Matt O’Conner: Đánh giá nhận thức
của học sinh về SKTT.

- Bảng hỏi tự xây dựng nhằm tìm hiểu hành vi tìm kiếm trợ giúp cho vấn đề
SKTT của học sinh THPT.
- Thang đo Likert: Đánh giá mức độ nhận thức và mức độ thực hiện hành vi
tìm kiếm trợ giúp vấn đề SKTT của học sinh THPT.
8.3.

Phương pháp xử lý số liệu: Phần mềm xử lý số liệu SPSS.

9. Đóng góp mới của luận văn
Hiện nay tại Việt Nam, chưa có nghiên cứu về mối tương quan giữa nhận
thức về SKTT và hành vi tìm kiếm trợ giúp cho vấn đề SKTT ở học sinh THPT.
Do vậy, đề tài nghiên cứu này sẽ đi sâu vào nghiên cứu thực trạng nhận thức về
SKTT và thực trạng tìm kiếm trợ giúp và mối tương quan giữa 2 biến nhằm chỉ
ra. Từ đó, đưa ra kiến nghị nhằm giúp các dịch vụ chăm sóc sức khỏe tâm thần
thúc đẩy những chiến lực nâng cao nhận thức về SKTT và hành vi TKTG ở học
sinh THPT.
6


10.

Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, nội dung chính

của luận văn được trình bày thành 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận
Chương 2: Tổ chức nghiên cứu
Chương 3: Kết quả nghiên cứu

7



Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU
1.1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu
1.1.1 Tổng quan những nghiên cứu về “nhận thức về Sức khỏe tâm thần”
Trên thế giới, đặc biệt ở các nước Châu Âu đã thực hiện nhiều nghiên cứu về
vấn đề nhận thức của công dân, giới trẻ về SKTT hoặc những kỳ thị về SKTT.
Trong một nghiên cứu ở Úc về "Nhận thức về Sức khoẻ tâm thần trong trường
Đại học" của nhóm tác giả Nicola J. Reavley và cộng sự (2012), đã nghiên cứu
trên 774 (65%) là sinh viên và 422 (35%) là giảng viên. Kết quả nghiên cứu chỉ
ra có hơn 70% sinh viên và nhân viên có thể xác định trầm cảm với một số dấu
hiệu nhận biết liên quan đến tuổi già, phụ nữ và tình dục dễ dàng nhận biết hơn.
Hơn 80% người được hỏi cho biết họ sẽ tìm kiếm sự trợ giúp nếu họ gặp vấn đề
tương tự. Tuy nhiên, tỷ lệ ý định giúp đỡ, tìm kiếm một cách cụ thể của sinh
viên là tương đối thấp, chỉ có 26% đề cử một chuyên gia thực hành và chỉ có
10% là đề cử một cố vấn sinh viên. Những nhân tố liên quan đến sự kỳ thị bao
gồm nam giới, thanh thiếu niên, trình độ học vấn thấp, sinh ra ngoài nước Úc và
thiếu nhận thức về trầm cảm.[36].
Trong một nghiên cứu ở Úc trên nhóm nghiên cứu nằm trong độ tuổi từ
15 đến 24, rối loạn tâm thần được mẫu nghiên cứu nhìn nhận như một gánh nặng
bệnh tật [16] và một nghiên cứu gần đây cho thấy rằng tần suất sinh viên đại học
mắc bệnh tâm thần cao hơn so với dân số nói chung [46].
Trong công cuộc xây dựng thang đo nhận thức về sức khỏe tâm thần
(MHLS) của Matt O’Connor, Leanne Casey năm 2014, nghiên cứu tại Úc, với
mẫu nghiên cứu gồm 372 người từ 17 -55 tuổi, có 94 nam và 278 nữ chủ yếu là
người da trắng, trong đó tuổi trung bình là 21.5. Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng,
điểm trung bình của thang đo là 127.38 với độ lệch chuẩn là 12.63, điểm thấp
nhất là 92 và cao nhất là 155 với kết luận là thang đo phân phối ở mức độ trung
bình. Kết quả nghiên cứu cũng chỉ ra nhóm bác sĩ tâm thần có nhận thức về

SKTT cao hơn nhóm cộng đồng. Trong một nghiên cứu khác của Jorm và cộng
8


sự(2005),cho biết mức độ hiểu biết của cộng đồng về sức khỏe tâm thần là rất
thấp, trong đó có nhiều cá nhân không nhận biết được những triệu chứng của rối
loạn tâm thần, đặc biệt là trầm cảm, thái độ tích cực sẽ kéo theo khả năng nhận
thức về sức khỏetâm thần là tốt hơn. [35, tr.515].
Một cuộc khảo sát nhận thức về SKTT của hộ gia đình người Malaysia
được tiến hành từ cuối tháng 8 năm 2007 đến đầu tháng 10 năm 2007, sau khi
được sự đồng ý của Ủy ban Đạo đức trường Đại học Malaya Medical. Các hộ
gia đình được tiếp xúc chủ yếu vào cuối tuần và buổi trưa các ngày trong tuần
(từ 1500 đến 1930 giờ). Sau khi giải thích các mục tiêu của cuộc điều tra, người
trả lời cũng được đảm bảo rằng sự tham gia của họ vẫn còn ẩn danh. Một lá thư
đồng ý đã được ký bởi mỗi người trả lời trước buổi phỏng vấn. Người phỏng
vấn kiểm tra bằng tay bản câu hỏi sau mỗi cuộc phỏng vấn trước khi tiếp tục gia
đình kế tiếp. Cuộc khảo sát gồm tổng cộng 651 người trả lời phỏng vấn, 69
người phiếu loại và chỉ còn 587 câu hỏi hoàn thành đã được trả lại, đạt tỷ lệ
phản hồi chung là 90,2%. Trong số 587 người trả lời, 321 (54,7%) là nam giới
và 266 (45,3%) là nữ, tuổi từ 18 đến 60 (trung bình và độ lệch chuẩn [SD] 33,9
± 12,13) năm. Phần lớn người được hỏi là người Mã Lai (70,9%), trong khi 118
(20,1%) là người Trung Quốc và 51 (8,7%) là người Ấn Độ. Phần lớn người
được hỏi là người Hồi giáo (71,2%), tiếp theo là Phật tử (9,0%), Hindu (7,3%)
và Kitô hữu (11,1%). Có hơn một phần tư số người được hỏi đã hoàn thành giáo
dục sau trung học, trong khi 57,8% số người đã hoàn thành bậc trung học,
13,7% chỉ có trình độ tiểu học và không có bằng cấp chính thức. Tuy nhiên kết
quả chỉ ra, có ít hơn 5% số người được hỏi (n = 29) cho biết bản thân họ, hoặc
những người mà họ biết có vấn đề về sức khoẻ tâm thần [53, tr.1171].
Đồng thời,kết quả nghiên cứu cũng chỉ ra phần lớn những người trả lời
không có kiến thức về sức khoẻ tâm thần. Tuy nhiên, tất cả những người trả lời

đều có thái độ trung lập đối với các vấn đề về sức khoẻ tâm thần. Người ta nhận
thấy rằng dân tộc, tôn giáo, trình độ giáo dục và địa điểm cư trú là một vài đặc
điểm nhân khẩu học có liên quan đáng kể đến kiến thức hoặc thái độ của người
trả lời về các vấn đề sức khoẻ tâm thần [53].
9


Tại Việt Nam có nhiều nghiên cứu bàn về nhận thức của cộng đồng hay
một nhóm người, nhóm bệnh cụ thể về sức khỏe tâm thần. Một vài nghiên cứu
về sức khỏe tâm thần ở Việt Nam đã được công bố về sự phổ biến của rối loạn
tâm thần. Một nghiên cứu của nhóm tác giả Wright và cộng sự năm 2007 phát
hiện ra rằng vị thành niên và thanh thiếu niên (từ 12 đến 25 tuổi) có thể gãn
nhãn một rối loạn được miêu tả một cách châm biếm, cũng có nhiều khả năng
họ đánh giá các nguồn trợ giúp chuyên nghiệp thích hợp cho rối loạn đó là có
ích. Nhưng nó không cung cấp thông tin về ý định giúp đỡ của giới trẻ nếu họ
phát triển một vấn đề tương tự [49].
Qua phần tổng quan một số nghiên cứu về nhận thức về SKTT của cộng
đồng trên thế giới nói chung, phần lớn cộng đồng nhận thức còn hạn chế về các
rối loạn tâm thần [33], co nhiều nhận thức sai lệch về rối loạn tầm thần [49],
niềm tin vào khả năng của bản thân để thực hiện hành vi tìm kiến trợ giúp có
nhiều rào cản [36].
Tại Việt Nam nhận thức về SKTT cũng đã được nhiều nghiên cứu đề cập
đến. Hầu hết các nghiên cứu đều tập trung lý giải nhận thức về SKTT trên khía
cạnh nhận biết các rối loạn tâm thần như trầm cảm, lo âu, tâm thần phân liệt…
hoặc nhận thức về tìm kiếm thông tin về SKTT, những nguồn trợ giúp sẵn có,
các dịch vụ trợ giúp chuyên nghiệp…mẫu lựa chọn nghiên cứu là một nhóm
bệnh nhân, một nhóm tuổivà cộng đồng. Đông thời chỉ ra những yếu tố ảnh
hưởng đến nhận thức về SKTT tập trung chủ yếu vào nhóm yếu tố như niềm tin
vào nguồn trợ giúp và bản thân, khả năng nhận biết rối loạn, khả năng tiếp cận
các dịch vụ và thái độ đối với bệnh tâm thần.

Phần lớn nhận thức và hành vi TKTG về SKTT của người Việt Nam bị
ảnh hưởng bởi các khái niệm Việt về bệnh tâm thần và gắn với nhiều tên gọi
định kiến như: điên, thần kinh, dở… nên tâm lý miệt thị và mặc cảm có ảnh
hưởng nhiều đến việc cá nhân thực hiện tìm kiếm trợ giúp chủ động [28].
Qua đó những nghiên cứu trên thế giới và trong nước về nhận thức về
SKTT đã đánh giá phần nào thực trạng nhận thức của cộng đồng về SKTT, từ đó
cho thấy cộng đồng còn nhận thức thấp về SKTT[34, tr.515], đặc biệt còn nhiều
10


kỳ thị và định kiến đối với vấn đề SKTT[36]. Do đó, tại Việt Nam, việc thực
hiện nghiên cứu về nhận thức về SKTT của cộng đồng nói chung được nhiều
nghiên cứu đề cập. Tuy nhiên sự mới mẻ của đề tài ở chỗ, tập trung chỉ ra thực
trạng nhận thức về SKTT trên đối tượng là học sinh THPT, tức các em học sinh
nằm trong độ tuổi từ 15 – 18 tuổi. Bởi đây làgiai đoạn phát triển và thay đổi
mạnh mẽ về đặc điểm tâm sinh lý, nên tồn tại nhiều mâu thuẫn giữa hiện thực
khách quan và mong muốn chủ quan, cùng với nhiều áp lực trong học tập để
hoàn thành kỳ thi tốt nghiệp và hướng nghiệp sắp tới (bước ngoặt lớn trong cuộc
đời). Chính vì thế, bản thân các em sẽ có nhiều trải nghiệm để cảm nhận rõ nét
về SKTT của bản thân và/hoặc quan sát từ những người xung quanh. Qua đó,
nghiên cứu sẽ tìm hiểu được nhiều điều có ý nghĩa khi nghiên cứu SKTT trong
độ tuổi này, góp phần đề xuất chiến lược phòng ngừa với những cơ sở đào tạo
và chăm sóc SKTT nhằm giúp các em dễ dàng vượt qua giai đoạn nhạy cảm
này. Do đó, với đề tài “Tương quan giữa nhận thức về Sức khỏe tâm thần và
hành vi tìm kiếm trợ giúp của học sinh THPT” là đề tài nghiên cứu khả mới mẻ
tại Việt nam và sẽ hướng đến làm rõ hơn thực trạng nhận thức về SKTT và hành
vi tìm kiếm trợ giúp của học sinh THPT và mối quan hệ giữa chúng.
1.1.2. Tổng quan các nghiên cứu về hành vi TKTG và sử dụng nguồn trợ giúp
ở học sinh THPT
Trên thế giới đã có nhiều công trình nghiên cứu về ý định, hành vi tìm

kiếm sự trợ giúp về sức khỏe tâm thần ở giới trẻ và cộng đồng. Tuy nhiên tại
Việt Nam những nghiên cứu tượng tự còn rất ít và chưa có nghiên cứu nào tìm
hiểu về ý định, hành vi TKTG của học sinh THPT về vấn đề SKTT.
Trong số những nghiên cứu đã được biết đến, cần kể đến một nghiên cứu
tại trường học thanh thiếu niên của Đức trong độ tuổi từ 12-17 tuổi chỉ ra có
18,2% những người bị rối loạn lo âu có thể chẩn đoán và chiếm 23% những
người bị rối loạn trầm cảm đã từng sử dụng dịch vụ chăm sóc sức khỏe tâm thần
[22]. Một nghiên cứu khác được thực hiện trên hơn 11.000 vị thành niên từ 15
đến 16 tuổi ở trường học của Na Uy cho thấy, chỉ có 34% những người có mức
độ của các triệu chứng trầm cảm và lo âu đã tìm kiếm sự giúp đỡ chuyên nghiệp
11


so với những năm trước đó [17]. Tương tự như vậy, trong một điều tra Quốc gia
về sức khỏe tâm thần và An sinh điều tra tại Úc chỉ ra, chỉ có 29% trẻ em và
thanh thiếu niên với một vấn đề sức khỏe tâm thần đã liên lạc với dịch vụ
chuyên nghiệp trong khoảng thời gian 12 tháng, về vấn đề sức khỏe, sức khỏe
tâm thần và các dịch vụ giáo dục [42].
Hầu hết các nghiên cứu đều chỉ ra có khoảng 18-34% thanh niên với mức
độ cao của những triệu chứng trầm cảm hoặc lo âu tìm sự giúp đỡ chuyên
nghiệp. Những người bị bệnh tâm thần và đặc biệt là những người bị trầm cảm
có xu hướng trì hoãn điều trị vì nhiều lý do khác nhau. Bên cạnh đó, nghiên cứu
cũng đưa ra kết luận rằng có một sự phụ thuộc cao vào “tự để giải quyết vấn đề,
giới trẻ thiếu thẩm quyền tình cảm và có thái độ tiêu cực về việc tìm kiếm trợ
giúp chuyên nghiệp” đó là những rào cản khiến giới trẻ và thanh niên ít tìm kiếm
giúp đỡ từ các chuyên gia trên Thế giới. Bên cạnh đó, kết quả cũng chỉ ra, ở
những người trẻ tuổi và thiếu niên, họ chỉ tìm sự giúp đỡ chuyên nghiệp khi nó
là cần thiết, thường bạn bè và gia đình là những nguồn tìm kiếm giúp đỡ ưa
thích của họ [40].
Trong nghiên cứu của Jang và cộng sự thực hiện năm 2007, đã đưa ra

nhiều lý do để giải thích tại sao người lớn trong dân số chung không tìm kiếm sự
trợ giúp chuyên nghiệp cho các rối loạn tâm thần phổ biến. Chúng bao gồm thái
độ tiêu cực đối với tìm kiếm sự giúp đỡ [29], những lo ngại về chi phí, sự di
chuyển bất tiện, bảo mật, lo lắng những người khác phát hiện ra vấn đề của họ,
cảm giác như họ có thể xử lý các vấn đề của riêng mình, niềm tin rằng việc điều
trị sẽ không giúp giải quyết được vấn đề của họ [37]. Mối quan tâm tương tự đã
được tìm thấy trong một dân số nông thôn, đã bổ sung thêm những lo lắng rằng
việc chăm sóc sẽ không có sẵn khi cần thiết và không biết đi đâu để tìm kiếm trợ
giúp [24].
Một trong những nghiên cứu được thực hiện mới đây của nhóm tác giả Ho
Dung và cộng sự thực hiện nghiên cứu định lượng bàn về những nhân tố ảnh
hưởng đến hành vi tìm kiếm trợ giúp trong dịch vụ sức khỏe tâm thần của người
bị trầm cảm tại Thừa Thiên Huế (11/2015), chỉ ra tỷ lệ thực hiện hành vi tìm
12


kiếm trợ giúp tại dịch vụ y tế địa phương chiếm 24%, thực hiện hành vi tìm
kiếm trợ giúp từ nguồn tôn giáo (thầy lang, thầy bói) chiếm 26%, trong khi đó
dịch vụ y tế chuyên sâu chiếm 28%. Đặc biệt, trong nhóm các bệnh nhân đang
được điều trị tại khoa tâm thần học của một bệnh viện đa khoa và bệnh viện tâm
thần tỉnh đã chỉ ra tỷ lệ người tìm cách giúp đỡ chữa bệnh tinh thần là 22,2% (8
trường hợp) và 38,5% (10 trường hợp). Điều này cho thấy rằng mô hình phổ
biến mà bệnh nhân tiếp cận để tìm kiếm sự giúp đỡ là nhiều nguồn lực hỗ trợ
khác trước khi điều trị chính thức (một bệnh nhân nam bệnh nhân nói, "... lần
đầu tiên tôi sử dụng y học cổ truyền với các loại thảo mộc như đồ uống ...) Phần
lớn hành vi tìm kiếm trợ giúp cho vấn đề SKTT của người Việt Nam bị ảnh
hưởng bởi các khái niệm Việt về bệnh tâm thần và gắn với nhiều tên gọi định
kiến như: điên, thần kinh, dở… nên tâm lý miệt thị và mặc cảm có ảnh hưởng
nhiều đến việc cá nhân thực hiện tìm kiếm trợ giúp chủ động [28, tr.34].
Nhìn chung, những nghiên cứu về hành vi tìm kiếm sự trợ giúp trên thế

giới chỉ ra hầu hết hành vi TKTG là chưa chủ động và chỉ có một tỷ lệ nhỏ có xu
hướng tìm kiếm sự giúp đỡ từ các nguồn chuyên nghiệp [2, tr.790-791].
TKTG được nhìn nhận như một hành vi thích nghi, con người có rất nhiều
cách đương đầu với khó khăn và TKTG chỉ là một cách, theo dạng “tiếp cận”
mà ở đó, cá nhân nhận diện ra vấn đề và chủ động giải quyết vấn đề theo cách
nào đó [25].
Trong lĩnh vực liên quan đến sức khỏe, Mô hình niềm tin sức khỏe (Health
Belief Model) của Rosenstock (1966) được sử dụng nhiều, như là nền tảng để
giải thích TKTG. Theo đó, TKTG là quá trình nhiều bước: (1) cá nhân nhận
thức được về các vấn đề của bản thân và nhận thức được sự nguy hiểm; (2) bộc
lộ, chia sẻ các triệu chứng và nhu cầu được trợ giúp; (3) sự sẵn có của các nguồn
lực; (4) sự tự nguyện của cá nhân vào việc tìm kiếm trợ giúp [40].
Cuối cùng, lý thuyết về hành vi lập kế hoạch (theory of planned behaviorTPA, Ajzen, 1991) hiện nay được sử dụng rộng rãi vì nó cho phép kết nối giữa
tâm lý học và các khoa học sức khỏe. Lý thuyết này chỉ ra rằng hành vi được
quyết định bởi dự định. Dự định lại chịu tác động của ba biến số: thái độ về hệ
13


quả hoặc tính chất của của hành vi, chuẩn mực/mong đợi của xã hội và người
khác về hành vi đó, sự cảm nhận về kiểm soát hành vi. Gần đây, lý thuyết này
được ứng dụng trong nhiều nghiên cứu về TKTG liên quan đến sức khỏe thể
chất như tập thể dục, xét nghiệm ung thư, và sức khỏe tâm thần như trầm cảm,
lạm dụng rượu; cũng như liên quan đến nghề nghiệp (định hướng nghề) hay
công việc [46].
Qua đó nhận thấy, những quan điểm lý thuyết trên đều đưa ra hướng lý giải
cho việc thực hiện hành vi tìm kiếm trợ giúp cho vấn đề SKTT trong cộng đồng
và cá nhân chịu sự tác động nhiều của yếu tố tâm lý và ngoại cảnh.
 Tính chất tìm kiếm trợ giúp
-VTN và TN có xu hướng không tìm giúp đỡ từ các nguồn chuyên nghiệp;
- VTN và TN có xu hướng TKTG từ nguồn không chính thống hơn là các

nguồn chính thống, trong đó bạn bè và gia đình là những nguồn chính của sự
giúp đỡ. Bạn bè thường là những nguồn giúp đỡ ưa thích cho vấn đề của giới trẻ,
trong khi cha mẹ thường được xếp hạng thứ hai sau bạn bè [17]. Hình thức
TKTG qua tổng đài cũng là hình thức ưa thích của VTN. Điều này cho thấy rằng
những người trẻ có thể thích sử dụng hình thức vô danh hơn và ít TKTG từ mối
quan hệ thân thiết khi trải qua ý nghĩ tự tử.
- Các em gái và phụ nữ có nhiều khả năng để tìm sự giúp đỡ hơn trẻ trai và
nam giới [26]. Ngược lại, một người đàn ông có xu hướng tự dựa vào chính
mình hơn là tìm kiếm trợ giúp từ những người khác [37].
- Một số dạng vấn đề thúc đẩy TKTG hơn các vấn đề khác cũng như các
nguồn trợ giúp cho một số vấn đề sẵn có hơn vấn đề khác. Chẳng hạn các vấn đề
về quan hệ bạn bè có TKTG ở bạn bè, quan hệ cá nhân có TKTG ở bố mẹ, và
các vấn đề học tập có TKTG ở giáo viên.
Với số liệu điều tra cho thấy, có rất ít người trẻ tuổi tìm kiếm sự trợ giúp
chuyên nghiệp cho vấn đề SKTT, đặc biệt ở nam giới. Những nguồn trợ giúp ưa
thích của giới trẻ thường là nguồn trợ giúp không chính thức và qua các dịch vụ
tư vấn gián tiếp.
14


 Rào cản tìm kiếm trợ giúp
Có nhiều lý do được đưa ra để giải thích tại sao giới trẻ không tìm kiếm trợ
giúp chuyên nghiệp cho các rối loạn tâm thần phổ biến. Tại mỗi thời điểm, có
những nhân tố cản trở cá nhân thực hiện hành vi tìm kiếm trợ giúp như không
xác định được nhu cầu cần trợ giúp; khi có nhu cầu lại không thể vạch ra ý định
triển khai; và ý định triển khai không phải luôn dẫn đến hành vi thực hiện ý định
đó [38].
Ngay cả khi đã xác định được nhu cầu nhưng thái độ không phù hợp đối
với các vấn đề về SKTT, dịch vụ chăm sóc cũng có thể cản trở việc thực hiện
TKTG [26], chẳng hạn như họ tin rằng việc điều trị sẽ không được giúp đỡ như

mong đợi của họ; bi quan về hiệu quả của phương pháp điều trị; về việc bị đối
xử lạnh lùng và không biết đi đâu [24]. Bên cạnh đó, điều kiện vật chất cũng gây
cản trở tới việc thực hiện TKTG ở cá nhân hay như những rào cản về tài chính
[34] và sự di chuyển bất tiện hoặc không có khả năng sắp xếp một cuộc hẹn tư
vấn, trị liệu [41]. Các yếu tố cá nhân cũng là rào cản như thiếu nhận thức, thiếu
hiểu biết về dịch vụ điều trị [57], cảm giác như họ có thể xử lý các vấn đề của
riêng mình, khó khăn để bộc lộ bí mật vấn đề của bản thân hoặc những lo lắng
về việc dịch vụ chăm sóc sẽ không có sẵn khi cần thiết [38].
Một trong số những rào cản trên được nhắc đến trong một nghiên cứu điều
tra Quốc gia về sức khỏe tâm thần và An sinh ở Úc, chỉ ra những rào cản thường
gặp nhất được mô tả bởi khoảng 50% các bậc cha mẹ cho biết phí trợ giúp quá
đắt; có khoảng 48% nói rằng họ không biết nơi nào để được giúp đỡ; những đứa
trẻ không muốn tham gia dịch vụ (25%) [42].
Trong hai nghiên cứu về tìm kiếm sự giúp đỡ được Rickwood và cộng sự
năm 2007 đã đưa ra kết luận rằng đa phần những người được nghiên cứu không
thực hiện TKTG do họ thiếu năng lực về tình cảm và thái độ tiêu cực về tìm sự
giúp đỡ chuyên nghiệp là những rào cản cho việc thực hiện hành vi tìm kiếm sự
giúp đỡ. Đồng thời, các tác giả cũng đưa ra nhận định nếu một cá nhân có những
năng lực về tình cảm, kiến thức về SKTT, thái độ tích cực đối với hành vi tìm
kiếm trợ giúp chuyên nghiệp, sự khuyến khích của xã hội, thiết lập tốt với những
15


mối quan hệ sẵn có của bản thân và có sự tin cậy với các chuyên gia về lĩnh vực
chăm sóc SKTT sẽ là những yếu tố thúc đẩy một cá nhân thực hiện TKTG phù hợp.
Như vậy, qua phần tổng quan những nghiên cứu vềsử dụng dịch vụ chăm
sóc SKTT và hành vi TKTG của cộng đồng và giới trẻ cho thấy, hầu hết cộng
đồng và đặc biệt là giới trẻ chưa chủ động trong việc tìm kiếm trợ giúp, tỷ lệ
những người thực hiện hành vi tìm kiếm trợ giúp là rất thấp và chỉ thực hiện khi
có sự thúc đẩy của người khác hoặc vấn đề trở nên trầm trọng. Việc tìm kiếm trợ

giúp từ các dịch vụ chỉ được thực hiện khi thực sự cần thiết và thường có xu
hướng tìm kiếm trợ giúp từ những nguồn trợ giúp không chính thức trước khi
tìm kiếm từ nguồn trợ giúp chuyên nghiệp. Trong khi đó, nam giới có xu hương
tự giải quyết vấn đề của chính mình hơn là chia sẻ hoặc tìm kiếm trợ giúp từ
người khác. Bên cạnh đó, nhiều nghiên cứu đã chỉ ra những rào cản cho việc
thực hiện hành vi tìm kiếm trợ giúp thường bị ảnh hưởng từ những yếu tố như
niềm tin vào dịch vụ hoặc khả năng của chuyên gia không như mong muốn, các
vấn đề về chi phí là quá cao hoặc thiếu năng lực nhận thức ra mức độ trầm trọng
của vấn đề.
1.1.3 Tổng quan những nghiên cứu về tương quan giữa nhận thức về Sức
khỏe tâm thần và hành vi tìm kiếm trợ giúp của học sinh THPT
Trên thế giới chưa có nhiều nghiên cứu về tương quan giữa nhận thức về
SKTT và hành vi tìm kiếm trợ giúp cho vấn đề SKTT, chỉ mới gần đây khía
cạnh này được Matt O’Conner đề cập đến trong nghiên cứu của mình khi xây
dựng thang đo mức độ nhận thức về SKTT (MHLS). Trong đó, O’Conner chỉ ra
rằng, nhận thức về SKTT và ý định tìm kiếm trợ giúp của mẫu cộng đồng được
nghiên cứu có tương quan thuận khá lớn khi kết hợp thang đo MHLS và bảng
câu hỏi hành vi tìm kiếm trợ giúp chung (GHSQ). Kết quả nghiên cứu cũng chỉ
ra rằng những cá nhân có nhận thức về SKTT cao hơn sẽ có xu hướng tìm kiếm
giúp đỡ nhiều hơn đối với cả nguồn trợ giúp chính thống và không chính thống.
Tuy nhiên, không có mối quan hệ nào giữa mức độ nhận thức về SKTT và sự
đau buồn về mặt tâm lý [34, Tr.515].

16


×