Tải bản đầy đủ (.pdf) (11 trang)

SKKN Bồi dưỡng HSG ngữ văn lớp 8

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (360.43 KB, 11 trang )

13/11/2017

SKKN BDHSG ngữ văn lớp 8

lamthao
SKKN BDHSG ngữ văn lớp 8

Phần I. NHỮNG NÉT KHÁI QUÁT
A. BỐI CẢNH LỊCH SỬ.
Chia làm 4 giai đoạn:
I. Từ thế kỉ X - hết thế kỉ XIV.
- Năm 938, Ngô Quyền đánh tan quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng, mở ra một kỉ nguyên mới cho dân tộc: đất nước độc lập,
chấm dứt hơn 1000 năm phong kiến Bắc thuộc, nhà nước phong kiến Việt Nam hình thành và phát triển. Từ đây bắt đầu một giai
đoạn hào hùng với những chiến công vô cùng hiển hách của các triều đại Đinh, Tiền Lê, Lí, Trần.
II. Từ thế kỉ XV - hết thế kỉ XVII.
- Triều Trần suy vong, Hồ Quý Li chiếm ngôi nhà Trần mở ra triều đại nhà Hồ (1400-1407). Triều Minh lấy cớ phò Trần diệt Hồ
sang xâm lược nước ta. Lê Lợi sau đó dấy binh khởi nghĩa và cuộc khởi nghĩa Lam Sơn kéo dài suốt 10 năm (1418-1428). Lê Lợi
lên ngôi mở ra triều đại Hậu Lê (1428-1789). Nhà Lê đi vào xây dựng đất nước và đạt tới cực thịnh vào TK XV. Tuy nhiên bên
trong cung đình nhà hậu Lê không tránh khỏi xung đột. Sau đó cuộc chiến Lê- Mạc, Trịnh- Nguyễn phần nào cản trở quá trình phát
triển của đất nước.
III. Từ đầu thế kỉ XVIII - hết nửa đầu TK XIX.
- Chế độ phong kiến Việt Nam khủng hoảng trầm trọng. Các tập đoàn phong kiến tranh giành quyền lực, đấu đá, tiêu diệt lẫn
nhau... Các cuộc khởi nghĩa nông dân nổ ra khắp nơi mà đỉnh cao là khởi nghĩa Tây Sơn diệt Trịnh Nguyễn, đánh đuổi quân Xiêm,
quân Thanh, thống nhất đất nước. Vua Quang Trung lên ngôi. Nguyễn Ánh không thể chống lại vua Quang Trung bèn cầu cứu thực
dân Pháp. Cuối cùng Nguyễn Ánh có được sự trợ giúp của thực dân Pháp, đổi lại sau khi lên ngôi, Nguyễn Ánh phải để chúng buôn
bán tự do tại của biển Sơn Trà, Đà Nẵng. Không lâu sau khi thành lập, triều đại Tây Sơn bị lật đổ, Nguyễn Ánh khôi phục lại vương
triều phong kiến(1802-1945).
IV. Cuối TK XIX.
- Sau một thời gian nắm quyền, nhà Nguyễn dừng việc cho quân Pháp tự do buôn bán tại của biển Sơn Trà.. Và đến năm 1858 thực
dân Pháp xâm lược Việt Nam. Triều đình nhà Nguyễn chống cự yếu ớt rồi nhanh chóng đầu hàng. Đất nước rơi vào tay thực dân
Pháp. Từ chế độ phong kiến, Việt Nam chuyển sang chế độ thực dân nửa phong kiến và văn hóa phương Tây bắt đầu ảnh hưởng


đến xã hội Việt Nam.
B. TÌNH HÌNH VĂN HỌC.
- Từ thế kỉ X đến thế kỉ XIX, văn học trung đại phát triển trong một môi trường xã hội phong kiến với ý thức hệ nho giáo, lực
lượng sáng tác chủ yếu là tầng lớp trí thức, những người có trình độ cao, được đào tạo từ ''cửa Khổng sân Trình'' và những sáng tác
chỉ lưu truyền trong tầng lớp công chúng ấy, bên cạnh đó văn học thời kì này còn chịu ảnh hưởng bởi thi pháp văn chương cổ điển.
- Văn học Trung Đại Việt Nam phát triển qua bốn giai đoạn:
+ Giai đoạn từ thế kỉ X đến thế kỉ XV: Văn học viết Việt Nam hình thành, TK X có sự xuất hiện của văn học viết chữ Hán và đến
TK XIII đánh dấu sự ra đời của văn học viết bằng chữ Nôm. Bên cạnh đó văn học dân gian vẫn tồn tại và phát triển song song với
văn học viết. Cảm hứng chủ đạo là cảm hứng yêu nước với âm hưởng hào hùng, đặc biệt là giai đoạn nhà Trần với hào khí Đông A
sục sôi.
Các tác phẩm tiêu biểu: Thiên đô chiếu (Lí Công Uẩn), Quốc tộ (Đỗ Pháp Thuận), Nam quốc sơn hà (Lí Thường Kiệt), Hịch tướng
sĩ (Trần Quốc Tuấn) Tụng giá hoàn kinh sư (Trần Quang Khải), Thuật hoài (Phạm Ngũ Lão), Bạnh Đằng giang phú (Trương Hán
Siêu)
+ Giai đoạn từ thế kỉ XVI đến nửa đầu thế kỉ XVIII: TK XV văn học viết còn kế thừa được cảm hứng yêu nước và âm hưởng còn
sót lại của hào khí Đông A. Dần dần văn học Việt Nam chuyển sang cảm hứng thế sự, đi vào chuyện đời, chuyện người, phê phán
các tệ nạn xã hội, sự suy thoái về mặt đạo đức. Văn học viết bằng chữ Hán và văn học viết bằng chữ Nôm đều đạt được nhiều thành
tựu. Các tác phẩm chính: Bình Ngô đại cáo (Nguyễn Trãi), thơ Lê Thánh Tông, thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm, Truyền kì mạn lục
(NguyễnDữ).
+ Giai đoạn từ nửa sau thế kỉ XVIII đến nửa đầu thế kỉ XIX: Đây được xem là giai đoạn phát triển tột bậc, rực rỡ nhất của văn
học phong kiến Việt Nam. Cảm hứng xuyên suốt thời kì này là cảm hứng nhân đạo. Bởi lúc này số phận và quyền sống của con
người bị đe dọa. Văn học giai đoạn này là tiếng nói đòi quyền sống, quyền hạnh phúc, đấu tranh đòi giải phóng con người cá nhân.
Các tác phẩm tiêu biểu: Chinh phụ ngâm (Đặng Trần Côn; Đoàn Thị Điểm dịch), Cung oán ngâm khúc (Nguyễn Gia Thiều), Hoàng
Lê nhất thống chí (Ngô gia văn phái), Truyện Kiều (Nguyễn Du)... Thời kì này có sự phát triển mạnh mẽ của những sáng tác văn
học viết bằng chữ Nôm, và sự xuất hiện của nhiều thể loại văn học như tùy bút, tiểu thuyết chương hồi, kí.
+ Giai đoạn nửa sau thế kỉ XIX: Cảm hứng xuyên suốt của văn học cuối TK XIX là cảm hứng yêu nước chống giặc ngoại xâm và
mang một âm hưởng bi tráng bởi nó ghi lại một thời khổ nhục nhưng vĩ đại, thất bại nhưng vẫn hiên ngang của dân tộc Việt Nam.
/>
1/11



13/11/2017

SKKN BDHSG ngữ văn lớp 8

Các tác phẩm tiêu biểu: Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, Chạy giặc... của Nguyễn Đình Chiểu, các sáng tác của Nguyễn Khuyến, Tú
Xương...
- Văn học trung đại tồn tại và phát triển trong suốt mười thế kỉ nhưng không bao giờ tách rời khỏi cảm hứng yêu nước;
cảm hứng nhân đạo, thế sự.
+ Khi vận mệnh đất nước gặp nguy nan thì cảm hứng chủ đạo của văn học là cảm hứng yêu nước và văn học trung đại luôn bám sát
lịch sử dân tộc, phản ánh những sự kiện trọng đại liên quan đến vận mệnh đất nước. ( Văn học thời Lí – Trần)
+ Cảm hứng yêu nước luôn gắn liền với tư tưởng trung quân như là một tất yếu trong lịch sử xã hội phong kiến, bởi xã hội phong
kiến quan niệm nước là vua, vua là nước. Do đó văn học có một quan niệm: yêu nước là phải trung với vua và trung với vua là phải
yêu nước (trung quân ái quốc).
+ Khi vận mệnh cá nhân con người, quyền sống, quyền hạnh phúc của con người bị đe dọa thì cảm hứng nhân đạo lại thăng hoa rực
rỡ. Văn học trung đại Việt Nam luôn gắn bó với số phận con người.
+ Cảm hứng nhân đạo có hàm chứa cảm hứng yêu nước bởi có những bài ca yêu nước thể hiện nỗi băn khoăn, day dứt trước số
phận con người. Tư tưởng nhân đạo trong văn học trung đại Việt Nam là sự kế thừa của truyền thống tư tưởng lớn của con người
Việt Nam: thương người như thể thương thân, lá lành đùm lá rách; tư tưởng của phật giáo: từ bi bác ái, yêu thương con người rộng
rãi; và tư tưởng của nho giáo: cái nhân cái nghĩa. Điều này được thể hiện một cách đa dạng qua việc ca ngợi vẻ đẹp con người,
đồng cảm với bi kịch con người, đồng tình với ước mơ, khát vọng của con người, lên án các thế lực bạo tàn. Tư tưởng nhân đạo
được thể hiện một cách đầy đủ nhất trong nội dung của tác phẩm Truyện Kiều, đỉnh cao của tư tưởng nhân văn chủ nghĩa.
C. CÁC TÁC PHẨM MANG CHỦ NGHĨA YÊU NƯỚC TRONG VĂN HỌC TRUNG ĐẠI.
I. Khái niệm cảm hứng yêu nước.
Cảm hứng yêu nước không chỉ tồn tại dưới dạng tư tưởng, quan niệm có tính chất lí trí mà ở trạng thái cảm xúc sâu xa hơn qua
tình cảm suy tư hoài bão. Cảm hứng yêu nước biểu hiện với đủ màu vẻ và cung bậc: có buồn vui, có thương giận, có tủi hờn, có
thao thức băn khoăn, hổ thẹn, có nhức nhối, đau thương, yên vui, hoan hỉ... của con người với đất nước.
II. Các tác phẩm đã học mang cảm hứng yêu nước.
1. Sắp xếp theo chương trình học.
-


Lớp 7: + Sông núi nước Nam ( Lý Thường Kiệt )
+ Phò giá về kinh ( Trần Quang Khải )
+ Côn Sơn ca ( Nguyễn Trãi )
+ Thiên Trường vãn vọng ( Trần Nhân Tông )

-

Lớp 8: + Chiếu dời đô ( Lý Công Uẩn )
+ Hịch tướng sĩ ( Trần Quốc Tuấn )
+ Nước Đại Việt ta ( Trích Bình Ngô đại cáo – Nguyễn Trãi )

2. Sắp xếp theo thời gian triều đại phong kiến.
-

Nhà Lý: + Sông núi nước Nam ( Lý Thường Kiệt )
+ Chiếu dời đô ( Lý Công Uẩn )

-

Nhà Trần: + Phò giá về kinh ( Trần Quang Khải )
+ Hịch tướng sĩ ( Trần Quốc Tuấn )
+ Thiên Trường vãn vọng ( Trần Nhân Tông )

-

Nhà Lê: + Nước Đại Việt ta ( Trích Bình Ngô đại cáo – Nguyễn Trãi )
+ Côn Sơn ca ( Nguyễn Trãi )

PHẦN II: NỘI DUNG
A. Chủ nghĩa yêu nước qua ba tác phẩm: Chiếu dời đô, Hịch tướng sĩ, Bình Ngô đại cáo

/>
2/11


13/11/2017

SKKN BDHSG ngữ văn lớp 8

I. Những nét chính về tác giả, tác phẩm của các tác phẩm trên.
1. Chiếu dời đô – Lí Công Uẩn.
- Năm 1010 với hoài bão mang sự nghiệp lớn, Lý Công Uẩn viết Chiếu dời đô nói rõ ý định dời đô từ Hoa Lư đến thành Đại La.
Đây là sự kiện lịch sử chính trị hết sức quan trọng chứng tỏ sự trưởng thành của nhà nước phong kiến Việt Nam.
- Bài chiếu vừa là văn kiện chính trị có ý nghĩa lịch sử to lớn vừa là áng văn chương quý giá thể hiện lòng yêu nước và tự hào
dân tộc.
- Ca ngợi thế đất hùng vĩ, đẹp đẽ, giàu tiềm năng của thành Đại La, chốn địa lợi. Ông phát hiện ra vẻ đẹp muôn mặt của Đại La
có vị thế địa lí, vị thế văn hóa, đầu mối giao lưu, điều kiện dân cư và sự tốt tươi của nhân vật, ở chính nơi trung tâm “là nơi
kinh đô bậc nhất của đế vương muôn đời”.
- Việc dời đô thể hiện một tấm lòng luôn quan tâm đến sự chăm lo hạnh phúc lâu bền của muôn dân.
=> Tác phẩm phản ánh ý chí lớn lao và niềm tin của Lý Thái Tổ vào sức mạnh, tương lai phát triển của quốc gia , dân tộc.
2.Hịch tướng sĩ – Trần Quốc Tuấn.
- “Hịch tướng sĩ” là một trong những áng văn yêu nước tiêu biểu của thời đại nhà Trần nói riêng, của mọi thời đại nói chung.
Áng văn ấy được kết tinh từ một trái tim yêu nước nồng thắm của bậc anh hùng hào kiệt văn võ song toàn: Hưng Đạo Vương
Trần Quốc Tuấn.
- Hịch tướng sĩ là bài văn nghị luận bằng chữ Hán, được viết trước khi xảy ra cuộc kháng chiến chống quân Nguyên lần thứ hai
(1285).
- Trần Quốc Tuấn viết bài hịch này để thức tỉnh lòng yêu nước và căm thù giặc, đồng thời khích lệ tướng sĩ học tập Binh thư
yếu lược, cổ vũ tinh thần hăng say luyện tập quân sự, quyết chiến quyết thắng kẻ thù xâm lược.
3. Bình Ngô đại cáo – Nguyễn Trãi.
- Là bản tuyên ngôn về chủ quyền, độc lập dân tộc.
- Là bản cáo trạng tội ác kẻ thù.

- Là bản anh hùng ca của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn
II. Chủ nghĩa yêu nước qua ba tác phẩm.
1. Cảm hứng yêu nước trong Chiếu dời đô.

a. Tư tưởng yêu nước trong bài chiếu được thể hiện ở khát vọng xây dựng một đất nước hùng cường, vững bền, đời sống
nhân dân thanh bình, triều đại thịnh trị.

-

Thể hiện ở mục đích của việc dời đô: Mục đích dời đô đã được thể hiện ngay ở phần đầu bài chiếu: “ Chỉ vì muốn đóng đô ở
nơi trung tâm, mưu toan nghiệp lớn, tính kế muôn đời cho con cháu; trên vâng mệnh trời, dưới theo ý dân, nếu thấy thuận tiện
thì thay đổi” Sau mười mấy thế kỉ Bắc thuộc, sau các triều đại Ngô, Đinh, Tiền Lê, có thể nói triều Lí là triều đại đầu tiên trị vì
lâu nhất trong lịch sử phong kiến Việt Nam.

-

Ý thức độc lập, tự cường của một dân tộc vừa thức tỉnh sau đêm trường nô lệ đến thời Lí đã phát huy một cách rạng rỡ. Ý muốn
của Lí Thái Tổ tiêu biểu cho khát vọng của cả dân tộc lúc bấy giờ: xây dựng đất nước hùng cường, vững mạnh muôn đời. Đó
đâu chỉ là “nghiệp lớn” của một cá nhân, một dòng họ, mà là sự nghiệp của cả một dân tộc , bởi sự trị vì của một triều đại chỉ
vững bền khi biết “trên vâng mệnh trời, dưới theo ý dân”.
- Chính vì quan niệm như thế nên khi nhìn lại các triều đại trước, Lí Thái Tổ rất đau xót khi nhìn thấy “ triều đại không được
lâu bền, số vận ngắn ngủi, trăm họ phải hao tốn. muôn vật không được thích nghi”. Xây dựng đất nước phải theo ý dân, và phải
làm sao cho trăm họ được thái bình, đó chính là điểm cốt lõi hết sức tiến bộ trong tư tưởng yêu nước của Lí Thái Tổ. Nỗi lòng và
tình cảm của hoàng đế Thái Tổ chính là tình cảm yêu nước thương dân tha thiết, sâu nặng của ông.`

b. Tinh thần yêu nước của bài chiếu còn ở việc thể hiện khí phách của một dân tộc độc lập, tự cường, khát vọng về một đất
nước thống nhất và hùng mạnh.
/>
3/11



13/11/2017

SKKN BDHSG ngữ văn lớp 8

Ở phần cuối Lí Công Uẩn đã khẳng định: “Huống chi thành Đại La, kinh đô cũ của Cao Vương, ở vào nơi trung tâm trời đất;
được thế rồng cuộn hổ ngồi; đã đúng ngôi nam bắc đông tây, lại tiện hướng nhìn sông dựa núi; địa thế rộng mà bằng; đất đai cao
mà thoáng. Dân cư khỏi chịu cảnh khốn khổ ngập lụt; muôn vật cũng phong phú tốt tươi.. Xem khắp đất Việt ta, chỉ nơi này là
thắng địa.Thật là chốn tụ hội trọng yếu của bốn phương đất nước; cũng là nơi kinh đô bậc nhất của đế vương muôn đời”.
- . Chỉ nói về thành Đại La, nhưng lời văn sang sảng một niềm tự hào về đất nước. Tự hào vì đất nước có một vùng đất được coi là
trung tâm trời đát, là chốn tụ hội “trọng yếu”. Chọn Đại La làm nơi đóng đô, Lí Thái Tổ đã chọn được “thắng địa” của” khắp đất
Việt ta”. Khi nói đây là “chốn tụ hội trọng yếu của bốn phương đất nước”, nhà vua đã bày tỏ khát vọng thống nhất giang sơn rộng
lớn về một mối. Qua đó thể hện khát vọng và khí phách của dân tộc. Đâu chỉ người phương Bắc mới được xưng đế , người nước
Nam cũng có đế vương của mình và nước Nam sẽ bền vững đến muôn đời.
ð Giá trị của bài Chiếu dời đô trước hết và chủ yếu là tư tưởng yêu nước. Tiếng nói của Lí Thái Tổ trong bài chiếu cũng là tiếng
nói của dân tộc, của thời đại, phản ánh khát vọng của nhân dân về một đất nước độc lập, thống nhất, đồng thời phản ánh ý chí tự
cường của dân tộc Đại Việt đang trên đà lớn mạnh. Xuất hiện vào đầu thế kỉ XI, bài Chiếu dời đô của Lí Thái Tổ có thể xem là tác
phẩm mở đầu cho truyền thống tư tưởng yêu nước trong nền văn học viết Việt Nam
2. Cảm hứng yêu nước trong Hịch tướng sĩ.

a. Biểu hiện đầu tiên và mạnh mẽ nhất của tinh thần yêu nước trong Hịch tướng sĩ là lòng căm thù giặc, là thái độ thề quyết
không đội trời chung với giặc thù.

- Với lòng căm giận sục sôi, Trần Quốc Tuấn đã vạch trần bản chất và tội ác tàn bạo của kẻ thù “Huống chi ta cùng các ngươi
sinh phải thời loạn lạc, lớn gặp buổi gian nan. Ngó thấy sứ giặc đi lại nghênh ngang ngoài đường, uốn lưỡi cú diều mà sỉ mắng
triều đình, đem thân dê chó mà bắt nạt tề phụ , để thỏa lòng tham không cùng, giả hiệu Vân Nam Vương mà thu bạc vàng, để vét
của kho có hạn. Thật khác nào như đem thịt mà nuôi hổ đói, sao cho khỏi tai vạ về sau.” Tội ác và sự ngang ngược của kẻ thù
được lột tả bằng những hành động thực tế và qua cách diễn đạt bằng những hình ảnh sóng đôi nhau vừa có giá trị miêu tả vừa có
giá trị biểu cảm. Nỗi căm giận và lòng khinh bỉ của Trần Quốc Tuấn thể hiện rõ trong những cụm động từ được đặt liên tiếp
nhau với những câu văn biền ngẫu như xoáy vào tâm trí người đọc, người nghe như “ lưỡi cú diều”, “thân dê chó”, “hổ đói.

Đặt những hình tượng đó trong thế tương quan “ lưỡi cú diều” – “sỉ mắng triều đình”, “thân dê chó” – “bắt nạt tể phụ”, tác
giả đã chỉ ra nỗi nhục quốc thể bị chà đạp. Đoạn văn tố cáo kẻ thù có tác dụng đánh vào lòng tự ái dân tộc và khơi sâu nỗi căm
thù giặc ở các tướng sĩ.
=> Thái độ của Trần Quốc Tuấn đối với bọn giặc là thái độ khinh bỉ cao độ. Lòng căm giận và khinh bỉ trào ra ngòi bút khiến
ông mô tả sứ giặc như những loài cầm thú xấu xa, bỉ ổi nhất. Thái độ ấy là thái độ quyết không đội trời chung, thề sống chết
cùng quân thù.
- Bày tỏ thái độ của mình với quân giặc, Trần Quốc Tuấn muốn ba quân tướng sĩ cũng nuôi dưỡng lòng căm thù và ý chí giết
giặc như ông. ( Nhớ lại thực tế lịch sử: năm 1277 Sài Xuân đi sứ, buộc ta lên tận biên giới đón rước; năm 1281 Sài Xuân lại đi
sứ, cưỡi ngựa đi thẳng vào cổng chính của kinh thành, quân sĩ canh cổng ngăn lại, bị hắn đánh toạc cả đầu. Vua sai Thượng
tướng Trần Quang Khải ra đón tiếp, Xuân nằm khểnh không dậy). So sánh với thực tế lịch sử ta sẽ thấy tác dụng của lời hịch
như đổ thêm dầu vào ngọn lửa căm hờn của nhân dân ta.
- Sau khi vạch rõ tội ác và bản chất của kẻ thù, Trần Quốc Tuấn trực tiếp bày tỏ những tình cảm của mình: “ Ta thường tới bữa
quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa, chỉ căm tức chưa xả thịt lột da, nuốt gan uống máu quân thù.
Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng vui lòng”. Đây là đoạn văn biểu hiện tập
chung nhất, cao độ nhất cho lòng yêu nước, căm thù giặc của Trần Quốc Tuấn, cũng là đoạn văn tiêu biểu cho lòng yêu nước
của dân tộc Việt Nam. Càng đọc kĩ đoạn văn ta càng thấm thía nỗi đau xót chân thành và mãnh liệt của Trần Quốc Tuấn trước
vận mệnh Tổ quốc lâm nguy. Tất cả các trạng thái tâm lí, các khía cạnh tình cảm trong ông đều được đẩy tới cực điểm: Đau xót
đến quên ăn, nửa đêm vỗ gối, tới mức ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa, căm giận sục sôi đến độ muốn được xả thịt lột da
nuốt gan uống máu quân thù. Đoạn văn như trào ra từ trái tim thiết tha yêu nước và sôi sục căm thù như được viết lên bằng máu
và nước mắt. Càng đau xót bao nhiêu thì càng căm giận bấy nhiêu. Và càng căm giận bao nhiêu thì càng quyết tâm chiến đấu hi
sinh, xả thân vì nước bấy nhiêu, dù có phải chết trăm ngàn lần đau đớn, phơi thân ngoài nội cỏ, xác gói trong da ngựa cũng vẫn
cam lòng. Thật cao đẹp và xúc động biết bao khi tình yêu nước đốt cháy lên lòng quyết tâm hi sinh để rửa mối nhục cho đất
nước trong trái tim vị chủ tướng!
b. Yêu nước là lo lắng cho vận mệnh của đất nước.
- Càng yêu nước sâu sắc, hơn ai hết Trần Quốc Tuấn càng lo lắng cho sự an nguy của đất nước. Sáu mươi vạn quân Mông Cổ
tinh nhuệ với thế mạnh như chẻ tre, đã làm mưa làm gió khắp Á-Âu đang lăm le ngoài biên ải. Vận mệnh dân tộc đang ngàn cân
treo sợi tóc, thế mà lại có những tư tưởng hoặc dao động cầu hòa, hoặc bàng quan vô trách nhiệm, hoặc lo vun vén cá nhân.
- Trong tình thế nước sôi lửa bỏng ấy, ruột gan vị chủ tướng như có lửa đốt. Người anh hùng yêu nước đã biến hành động cho
đất nước. Ông khéo tìm cách khích lệ, động viên tướng sĩ. Ông nhắc lại ân tình sâu nặng của mình đối với tướng sĩ để nhắc nhở
họ về sự đền ơn, đáp nghĩa về trách nhiệm của kẻ làm tôi. Ông nêu gương các trung thần nghĩa sĩ để kích thích họ theo gương

người xưa mà hành động. Ông chỉ ra cho họ thấy nỗi nhục của chủ quyền đất nước bị chà đạp: Triều đình bị giặc sỉ mắng, tướng
triều đình phải hầu giặc, nhạc Thái thường thì bị đem ra để đãi yến ngụy sứ…để kích động lòng tự trọng, tự tôn dân tộc, làm cho
họ thức tỉnh.
- Đứng trên cương vị một vị chủ soái, Trần Quốc Tuấn vừa chân tình chỉ bảo vừa nghiêm khắc phê phán thái độ bàng quan, thờ
ơ của tướng sĩ: “ Nay các ngươi nhìn chủ nhục mà không biết lo, thấy nước nhục mà không biết thẹn, làm tướng triều đình phải
hầu quân giặc mà không biết tức, nghe nhạc thái thường để đãi ngụy sứ mà khôngbiếtcăm”.
- Cũng đứng trên cương vị của một vị chủ soái, Trần Quốc Tuấn vừa chân tình chỉ bảo vừa nghiêm khắc phê phán những thói ăn
chơi hưởng lạc tầm thường của tướng sĩ, vui trọi gà, cờ bạc, thích rượu ngon, mê tiếng hát, ham săn bắn, lo làm giàu, quyến
luyến vợ con… Cách phê phán của tác giả cũng rất linh hoạt. Có khi là nói thẳng gần như sỉ mắng: không biết lo, không biết
/>4/11


13/11/2017

SKKN BDHSG ngữ văn lớp 8

luyến vợ con… Cách phê phán của tác giả cũng rất linh hoạt. Có khi là nói thẳng gần như sỉ mắng: không biết lo, không biết
thẹn, không biết tức, không biết căm. Có khi là cách nói mỉa mai, chế giễu: cựa gà trống không thể đâm thủng áo giáp của giặc,
mẹo cờ bạc không thể dùng làm mưu lược nhà binh, chén rượu ngon không thể làm cho giặc say chết, tiếng hát hay không thể
làm cho giặc điếc tai. Theo quan niệm của Trần Quốc Tuấn, thái độ bàng quan không chỉ là sự thờ ơ nông cạn mà còn là sự
vong ân bội nghĩa trước mối ân tình của chủ tướng. Sự ham chơi hưởng lạc không chỉ là vấn đề nhân cách mà còn là sự vô trách
nhiệm khi vận mệnh đất nước đang ngàn cân treo sợi tóc. Trần Quốc Tuấn cũng chỉ rõ cho họ thấy hậu quả tai hại khôn lường :
nước mất nhà tan, thanh danh mai một, tiếng xấu để đời, đó là cảnh đau xót biết chừng nào.
- Sự phê phán nghiêm khắc của Trần Quốc Tuấn bắt nguồn sâu xa từ lòng yêu thương chân thành với tướng sĩ và từ tình yêu Tổ
quốc thiết tha cháy bỏng của ông. Tất cả là nhắm để đánh bạt những tư tưởng dao động, bàng quan giành thế áp đảo cho tinh
thần quyết chiến quyết thắng. Đó chính là tư tưởng chủ đạo của bài Hịch, là thước đo cao nhất, tập trung nhất tư tưởng yêu nước
trong hoàn cảnh lúc bấy giờ.
=> Có thể nói bài Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn phản ánh lòng yêu nước của nhân dân ta trong cuộc kháng chiến chống
ngoại xâm, biểu hiện cụ thể ở lòng căm thù giặc, tinh thần quyết chiến quyết thắng kẻ thù xâm lược. Đây sẽ mãi là một trong
những bài văn chính luận xuất sắc nhất của nước ta thời Trung đại.

3. Cảm hứng yêu nước trong Bình Ngô đại cáo.
a. Trước hết cảm hứng yêu nước được thể hiện ở tư tưởng nhân nghĩa, yêu nước là yêu dân, hết lòng
chăm lo cho sự bình yên hạnh phúc của nhân dân.
- Mở đầu bài cáo, tác giả nêu lên một tư tưởng lớn làm nguyên lí cho toàn bài. “Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”. Đó là tư tưởng nhân nghĩa, nhưng không phải nhân nghĩa chung chung, mà gắn
với mục đích “yên dân”, “trừ bạo”, mang nội dung yêu nước, thương dân. Nguyễn Trãi là người đầu tiên đưa chữ
dân vào phạm trù ái quốc của đạo Nho. Yêu nước là yêu dân, lo cho cuộc sống của dân, vì dân mà đánh đuổi
những kẻ bạo tàn.
b. Luôn tự hào về truyền thống, nền văn hiến của đất nước, có ý thức bảo vệ chủ quyền của đất nước.
- Đại Việt là một quốc gia có chủ quyền, có nền văn hóa lâu đời. Điều đó đã được ông khẳng định rõ trong bài cáo:
“Như nước Đại Việt ta từ trước,
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu,
Núi sông bờ cõi đã chia,
Phong tục Bắc Nam cũng khác.
Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời xây nền độc lập.
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương”
-

Lời tuyên bố, nói lên nước Việt ta có một nền văn hiến độc lập và đất nước có bờ cõi phân chia rõ ràng. Không phải
như sự đầu độc tư tưởng của phương Bắc cho rằng nước ta là do chúng dựng nên và nền văn hóa cũng như thế.
Điều này thật là phi lý. Bởi phong tục bắc nam đã cũng khác, thể hiện nước ta vốn dĩ đã được hình thành và phát
triển tự thân, trãi qua bao thăng trầm lịch sử mà vẫn thích nghi và giữ gìn được bản sắc của mình. Thế nên sao gọi
là phương Bắc truyền dạy nền văn minh.

-

Vấn đề này đã thể hiện rõ tính dân tộc và tinh thần yêu quê hương đất nước sâu sắc, bắt buộc phải giữ gìn không
một ngoại bang nào có thể xâm phạm. Đây là một văn bản chính thức của nhà nước, thì chính là để khẳng định tính
độc lập của nền văn hóa dân tộc, chính là để tự hào về nền văn hóa dân tộc. Bình Ngô đại cáo chính là bản Tuyên
ngôn độc lập lần thứ hai của dân tộc.


-

Nguyễn Trãi đã dùng cách so sánh, đối chiếu: so sánh ta với Trung quốc, đặt ta ngang hàng với Trung Quốc, ngang
hàng về trình độ chính trị, tổ chức chế độ, quản lí quốc gia (Triệu, Đinh, Lí, Trần ngang hàng với Hán, Đường, Tống,
Nguyên).
ð Những thực tế khách quan mà Nguyễn Trãi đưa ra là chân lí không thể phủ nhận.
So với quan niệm về quốc gia, dân tộc của Lí Thường Kiệt, ta thấy quan niệm này của Nguyễn Trãi phát triển
cao hơn bởi tính toàn diện và sâu sắc của nó. Toàn diện vì ý thức dân tộc trong “Nam quốc sơn hà” được xác định
chủ yếu trên 2 yếu tố: lãnh thổ và chủ quyền còn đến Bình ngô đại cáo, ba yếu tố nữa được bổ sung: văn hiến,
phong tục tập quán, lịch sử. Sâu sắc vì trong quan niệm về dân tộc của Nguyễn Trãi đã ý thức được văn hiến là yếu
tố cơ bản nhất, là hạt nhân để xác định dân tộc. Nền văn hiến ấy chính là truyền thống văn hóa tốt đẹp. Nền văn
hóa ấy kết hợp với phong tục tập quán sẽ làm nên bản sắc dân tộc. Truyền thống văn hiến đã tạo nên sức mạnh để
dân tộc ta vẫn tồn tại và phát triển trong hơn một nghìn năm Bắc thuộc.
c. Yêu nước là căm thù giặc, xót xa trước cảnh khốn cùng của người dân, cương quyết vạch mặt bọn cướp
nước.
- Nguyễn Trãi đã lột trần âm mưu thâm độc của chúng: lợi dụng nhà Hồ chính sự đổ nát, giặc Minh đã thừa cơ vào cướp nước ta:
Nhân họ Hồ chính sự phiền hà,
Để trong nước lòng dân oán hận.
Quân cuồng Minh thừa cơ gây họa.
.... Dối trời lừa dân đủ muôn nghìn kế

/>
5/11


13/11/2017

SKKN BDHSG ngữ văn lớp 8

Gây binh kết oán trải hai mươi năm.

Tác giả khẳng định đó là tội ác “Bại nhân nghĩa nát cả đất trời” và kể ra những hành động tội ác man rợ của chúng. Nào là tàn sát,
giết hại nhân dân kể cả các em nhỏ cũng không tha:
Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn,
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ.
Rồi chúng lại bóc lột dân ta bằng thuế khoá nặng nề, ra sức vơ vét tài nguyên đất nước, đẩy người dân đến chỗ đường cùng, thậm
chí tính mạng không được đảm bảo:
“Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập thuồng luồng.
Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng sâu, nước độc.”
Còn dã man, tàn bạo đến mức: “Tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ - Nheo nhóc thay kẻ goá bụa khốn cùng. - Nặng nề những
nỗi phu phen - Tan tác cả nghề canh cửi.” Hậu quả bọn chúng để lại thật là tàn khốc: gia đình tan nát, vợ mất chồng, con cái thì
nheo nhóc, muôn loài bị phá huỷ, tiêu diệt, sản xuất thì trì trệ, nhân dân khổ cực. Để nêu rõ tội ác của quân xâm lược, tác giả đã
dụng phương pháp liệt kê có chọn lọc, sử dụng những câu văn giàu hình tượng, giọng văn thay đổi linh hoạt, phù hợp với cảm
xúc. Lúc thì tỏ ra căm phẫn, tức giận đến thấu xương lũ xâm lược tàn bạo, lúc thì lại thể hiện sự xót xa, đau đớn cho nhân dân ta.
Ở phần đầu bản cáo trạng là một hình ảnh đầy ấn tượng: “Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn- Vùi con đỏ xuống dưới hầm
tai vạ”, để rồi két thúc bằng một hình ảnh có giá trị tổng kết cao: “Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội - Dơ bẩn thay,
nước Đông hải không rửa sạch mùi”. Và cuối cùng là lời phán quyết nghiêm khắc, đanh thép của nhân dân ta về tội ác của
chúng: “Lẽ nào trời đất dung tha - Ai bảo thần nhân chịu được?”
d.Tinh thần quyết chiến, quyết thắng kẻ thù xâm lược; niềm khao khát về một đất nước tự chủ, phát triển hùng mạnh.
- Lê Lợi cùng nghĩa quân dựng cờ khởi nghĩa chính lúc quân thù đang mạnh. Nhưng ông cùng mọi người đã vượt qua muôn ngàn
khó khăn, gian khổ: thiếu nhân tài, thiếu quân, thiếu lương...nhưng nhờ tinh thần chiến đấu, lòng yêu nước và ý chí quyết chiến đã
giúp cho cuộc khởi nghĩa vượt qua những khó khăn buổi đầu để đi đến tổng phản công giành thắng lợi.
- Sau khi giành chiến thắng, Nguyễn Trãi thay Lê Lợi vui mừng truyền đi tuyên bố nền độc lập tự do của dân tộc đã được lập lại.
Ông mơ ước và khao khát xây dựng một đất nước đẹp tươi và bền vững:
Xã tắc từ đây vững bền
Giang sơn từ đây đổi mới
Càn khôn bĩ mà lại thái
Nhật nguyệt hối mà lại minh
Muôn thuở nền thái bình vững chắc
Ngàn năm vết nhục nhã sạch làu.
B. KHÁI QUÁT VỀ CHỦ NGHĨA YÊU NƯỚC TRONG BA TÁC PHẨM

Tình cảm yêu nước nồng nàn của dân tộc Đại Việt trong tiến trình lịch sử oai hùng đấu tranh dựng nước và giữ nước đã chi
phối và tác động mạnh mẽ đến đời sống văn học để rồi kết tinh nên ba áng văn chương bất hủ: Chiếu dời đô của Lí Công Uẩn,
Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn, Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi.
1. Yêu nước là ý chí tự chủ, tự cường và niềm tự hào dân tộc sâu sắc.
a. Ý chí tự chủ, tự cường ( Sự khẳng định độc lập dân tộc).
-

So với thời Lý thì ở thời Trần ý thức tự chủ mang sắc thái mới: Lý Thường Kiệt quan niệm về đất nước gắn với thần
quyền, lòng tin ở trời, ở thần. Theo ông, nước Nam có lãnh thổ riêng, có cương giới rõ ràng. Tất cả là của vua, do vua cai
quản. Điều ấy được ghi ở sách trời đó là cơ sở pháp lí đúng đắn, công cụ pháp luật hữu ích, một vị quan tòa nghiêm minh
mà ai cũng phải thừa nhận. Đó là chân lí bất di, bất dịch, bất khả xâm phạm.

-

Trần Quốc Tuấn khi khẳng độc lập dân tộc không nhắc đến yếu tố thần nữa vì nước ta thật sự có chủ quyền, có triều
đình riêng. Theo Trần Quốc Tuấn, tổ quốc được cụ thể hóa bằng thái ấp, bổng lộc , xã tắc, tông miếu tổ tiên, phần mộ cha
ông, gia quyến, vợ con...( đó là những cái gắn bó thiêng liêng với mọi người).

-

Ở Bình Ngô đại cáo ý thức tự cường khác xa với thời Lý, Trần. Nguyễn Trãi đã khẳng định:
Xã tắc từ đây vững bền
Giang sơn từ đây đổi mới
Điều đó khẳng định: Nước ta thực sự có độc lập, chủ quyền nhất là khi giành được thắng lợi từ cuộc kháng chiến chống
giặc Minh. Đất nước đổi mới; hòa bình, độc lập, xây dựng và củng cố quốc gia phong kiến.

/>
6/11



13/11/2017

SKKN BDHSG ngữ văn lớp 8

b. Tự hào dân tộc.
- Ở Chiếu dời đô, Lý Công Uẩn ca ngợi thế đất hùng vĩ, đẹp đẽ, giàu tiềm năng của thành Đại La: Một mảnh đất có vẻ đẹp
muôn mặt, một nơi có vị thế địa lí, vị thế văn hóa, đầu mối giao lưu, điều kiện dân cư và sự tốt tươi của muôn vật.
- Ở Hịch tướng sĩ, Trần Quốc Tuấn tự hào về đất nước có triều đình riêng, thái ấp tông miếu tổ tiên. Xuất phát từ niềm tự
hào ấy mà ông đã chỉ rõ cho các tướng sĩ quyết tâm bảo vệ đất nước.
- Ở Bình Ngô đại cáo, Nguyễn Trãi nêu đầy đủ các mặt tự hào chân chính của dân tộc Đại Việt:
+ Tự hào về nền văn hiến được hình thành và phát triển qua một quá trình lịch sử mấy ngàn năm, có thuần phong mĩ tục
mang bản sắc riêng, có lịch sử riêng, có chế độ riêng:
Như nước Đại Việt ta từ trước,
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu,
Núi sông bờ cõi đã chia,
Phong tục Bắc Nam cũng khác.
+ Tự hào về nhà nước có mấy trăm năm độc lập ở các triều đại: Đinh, Lý, Trần...thời nào cũng có các bậc anh hùng làm rạng danh
non sông:
Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời xây nền độc lập.
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương”
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau
Song hào kiệt thời nào cũng có.
+ Tự hào về những chiến công oanh liệt, với những trang sử rực rỡ chống ngoại xâm:
Cửa Hàm tử bắt sống Toa Đô
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã.
+ Tự hào về sức mạnh kì vĩ phi thường với tốc độ tiến quân, khí thế chiến thắng như vũ bão của quân ta:
Trận Bồ Đằng sấm vang chớp giật,
Miền Trà Lân trúc chẻ tro bay.
Rồi:


Gươm mài đá, đá núi cũng mòn
Voi uống nước, nước sông phải cạn.
Đánh một trận, sạch không kình ngạc
Đánh hai trận tan tác chim muông.
Cơn gió to trút sạch lá khô,
Tổ kiến hổng sụt toang đê vỡ.
2. Yêu nước là tình cảm nồng nàn mãnh liệt nhưng ở mỗi tác phẩm lại mang một sắc thái mới mẻ.
- Ở Chiếu dời đô, yêu nước là chăm lo đến hạnh phúc lâu bền của muôn dân.
+ Việc dời đô là khó khăn nhưng để đem lại lợi ích cho muôn dân, Lya Công Uẩn đã không quản ngại.
+ Ông hỏi han, nghe ngóng chứ không ra chiếu bắt dân phải theo. Vì muốn dự định của mình được dân ủng hộ, có như vậy
việc cai quản dân mới gặp nhiều thuận lợi.
- Hịch tướng sĩ: + Yêu nước không chỉ là yêu vua mà còn là tình cảm gắn bó yêu thương giữa chủ tướng và tì tướng. Sự gắn bó
ấy được Trần Quốc Tuấn chỉ rõ: “ Các ngươi...kém gì”. Điều đó thể hiện sự thống nhất chặt chẽ giữa lợi ích của chủ tướng và
tì tướng, sự quan tâm, săn sóc chu đáo từ vật chất đến tinh thần rất ân cần, chu đáo.
+ Yêu nước còn là sự đau xót trước cảnh nước mất nhà tan. Triều đình quốc thể bị làm nhục: “ Ngó thấy...tể phụ”
+ Yêu nước là lòng căm thù giặc sôi sục: “ Ta thường... vui lòng”.
- Bình Ngô đại cáo: Nội dung yêu nước sâu sắc, toàn diện và cụ thể hơn

/>
7/11


13/11/2017

SKKN BDHSG ngữ văn lớp 8

+ Yêu nước là thương dân, diệt hết bọn bạo tàn đem lại ấm no hạnh phúc cho dân, lấy dân làm gốc: “Việc nhân nghĩa...trừ
bạo.”
+ Vì thương dân nên ông đã tố cáo giặc Minh, kể ra nỗi khổ của dân:
Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn,

Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ.
Dối trời lừa dân đủ muôn ngàn kế,
Gây binh kết oán trải hai mươi năm.
Bại nhân nghĩa nát cả đất trời,
Nặng thuế khoá sạch không đầm núi.
Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập thuồng luồng.
Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng sâu, nước độc.
Vét sản vật, bắt chim trả, chốn chốn lưới chăng,
Nhiễu nhân dân, bẫy hươu đen, nơi nơi cạm đặt.
Tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ,
3. Yêu nước là ý chí quyết tâm đánh giặc, ý chí quyết chiến, quyết thắng.
- Trần Quốc Tuấn kêu gọi tướng sĩ của mình hãy từ bỏ thái độ bàng quan, thờ ơ vô trách nhiệm, từ bỏ thói ăn chơi hưởng lạc
khi đất nước lâm nguy bằng một quyết tâm: “ Huấn luyện quân sĩ...Cảo Nhai”. Chỉ có cách đó mới bảo vệ thái ấp mãi mãi
vững bền, xây dựng cuộc sống hạnh phúc ấm no cho cả dân tộc.
- Những ngày đầu nghĩa quân Lam Sơn gặp bao khó khăn:
Tuấn kiệt như sao buổi sớm,
Nhân tài như lá mùa thu,
Rồi:
Khi Linh Sơn lương hết mấy tuần,
Lúc Khôi Huyện quân không một đội.
- Bao khó khăn thử thách chồng chất nặng nề, nhưng nhờ có tinh thần đoàn kết, đồng cam cộng khổ:
Nhân dân bốn cõi một nhà, dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới
Tướng sĩ một lòng phụ tử, hoà nước sông chén rượu ngọt ngào.
Ý chí quyết tâm khắc phục khó khăn, gian nan cho nên nghĩa quân càng đánh mạnh, càng đánh càng thắng to, chiến công nối tiếp
chiến công.

Trận Bồ Đằng sấm vang chớp giật,
Miền Trà Lân trúc chẻ tro bay.
Rồi:


Gươm mài đá, đá núi cũng mòn
Voi uống nước, nước sông phải cạn.
Đánh một trận, sạch không kình ngạc
Đánh hai trận tan tác chim muông.
Cơn gió to trút sạch lá khô,
Tổ kiến hổng sụt toang đê vỡ.
4.Yêu nước là khát vọng về một đất nước độc lập, thống nhất và hùng cường.
-Lý công Uẩn quyết tâm dời đô về vùng đất thiêng Đại La nhằm làm cho nước cường dân thịnh, dân cư khỏi phải chịu cảnh
khốn khổ, muôn vật phong phú tốt tươi.
- Trần Quốc Tuấn: đó là ý chí sẵn sàng xả thân vì nước Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da
ngựa, ta cũng vui lòng để có được đất nước độc lập, hùng mạnh.

-Còn đối với Nguyễn Trãi khát vọng ấy đã trở thành chân lí độc lập dân tộc:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo
Như nước Đại Việt ta từ trước
/>
8/11


13/11/2017

SKKN BDHSG ngữ văn lớp 8

Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chìa
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương
Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau

Song hào kiệt thời nào cũng có
ð Ra đời ở trong những thời điểm lịch sử khác nhau. khoảng thời gian khác nhau nhưng ba tác phẩm lại gặp nhau ở chỗ cùng
thể hiện tư tưởng yêu nước của các tác giả cũng như nhân dân Đại Việt lúc bấy giờ. Tinh thần yêu nước bất khuất của cha
ông trong ba áng văn chương cổ này sẽ còn nồng nàn mãi mãi trong tim mỗi người dân Việt Nam.

*Sự phát triển của chủ nghĩa yêu nước trong văn học Trung đại

Qua ba tác phẩm có thể thấy chủ nghĩa yêu nước trong văn học Trung đại có sự phát triển qua các thời kì:
+ Thời Lí – Trần chủ nghĩa yêu nước gắn liền với tư tưởng trung quân ái quốc, yêu nước là yêu vua, trung thành tuyệt đối với
vua.
+ Thời nhà Hậu Lê chủ nghĩa yêu nước đã được mở rộng hơn. Lần đầu tiên chữ “dân” được đưa vào phạm trù “ái quốc” của
tư tưởng Nho giáo: yêu nước không chỉ là yêu vua nữa mà yêu nước còn là yêu dân được thể hiện rõ trong tư tưởng của
Nguyễn Trãi “Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân – Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”

* So sánh chủ nghĩa yêu nước trong thời Trung Đại và hiện đại.
Trung đại:

Hiện đại

+ Tư tưởng yêu nước chịu ảnh hưởng của
tư tưởng Nho giáo.
+ Chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa Mác Lê-nin,
+ Yêu nước gắn liền với tư tưởng trung tư tưởng HCM
quân ái quốc mãi đến thời Hậu Lê mới gắn
liền với yêu dân.
+Yêu nước là trung thành với nước, yêu dân
vì nhân dân vì nước đứng lên giải phóng
+ Yêu nước luôn gắn liền với cái ta, tầng giành lại độc lập , tự do.
lớp, giai cấp nhất định. ( Yêu nước trong
Hịch tướng sĩ mang tư tưởng trung nghĩa

của giai cấp quý tộc phong kiến).
+ Yêu nước luôn gắn liền với công cuộc +Không chỉ gắn với cái ta mà lại thường gắn
đấu tranh dựng nước và giữ nước.
liền với cái tôi cá nhân.

+ Không chỉ gắn liền với công cuộc đấu tranh
chống ngoại xâm mà còn gắn liền với công
cuộc lao động sản xuất.

PHẦN III. KẾT LUẬN CHUÊN ĐỀ
Văn học là dòng chảy không ngừng của thời gian, các nhà văn nhà thơ là thư kí trung thành của thời đại. Ta bắt
gặp được những bản tuyên ngôn độc lập với giọng đọc hào sảng của Nước Việt Nam qua “Nam quốc sơn hà”hay một
bài hịch vang núi sông ngỡ còn đâu đây trong “Hịch tướng sĩ” của Trần quốc Tuấn…và đó chính là những biểu hiện
đẹp về trào lưu chủ nghĩa yêu nước tô đậm trong nền văn học trung đại.
Dân tộc Việt Nam trải qua bốn nghìn năm dựng nước và giữ nước, những chiến tích oanh liệt của các vua hùng,
tướng sĩ được tạc trên sổ vàng của lịch sử. Văn học phản ánh chân thực và rõ nét qua các tác phẩm văn chương.
Từ thế kỉ X đến thế kỉ XIX, nước ta tồn tại dưới các triều đại phong kiến từ hưng thịnh đến suy vong. Văn học trung
đại với nhiều nguồn cảm hứng khác nhau, trong đó yêu nước và nhân đạo là hai trong bốn nguồn cảm hứng chi phối
ngòi bút của nhà thơ, nhà văn. Chủ nghĩa yêu nước tồn tại với những biểu hiện rõ nét, dưới nhiều cung bậc, màu vẻ
khác nhau. Đó sẽ mãi là nguồn cảm hứng vô tận không chỉ trong giai đoạn văn học Trung đại mà nó còn là cơ sở hình
thành chủ nghĩa yêu nước trong văn học hiện đại.

PHẦN IV: LUYỆN TẬP
Đề 1: Nước Đại Việt ta ( trích Bình Ngô đại cáo của
/>
Nguyễn Trãi) – Bản tuyên ngôn độc lập bất hủ của dân tộc Đại
9/11


13/11/2017


SKKN BDHSG ngữ văn lớp 8

Đề 1: Nước Đại Việt ta ( trích Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi) – Bản tuyên ngôn độc lập bất hủ của dân tộc Đại
Việt.
Đề 2: Tình cảm yêu nước qua ba văn bản: Chiếu dời đô (Lí Công Uẩn), Hịch tướng sĩ (Trần quốc Tuấn), và Nước
Đại Việt ta ( trích Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi).
Đề 3: Khát vọng độc lập và khí phách Đại Việt qua ba văn bản: Chiếu dời đô (Lí Công Uẩn), Hịch tướng sĩ (Trần
quốc Tuấn), và Nước Đại Việt ta ( trích Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi)
Đề 4: Sự phát triển của chủ nghĩa yêu nước qua ba tác phẩm: Nam quốc sơn hà( Lí Thường Kiệt ), Hịch tướng sĩ
(Trần Quốc Tuấn), Bình Ngô đại cáo (Nguyễn Trãi).
Đề 5: Chiếu dời đô – Khát vọng về một đất nước độc lập, thống nhất, hùng cường và khí phách của dân tộc
Đại Việt đang trên đà lớn mạnh.
Dàn bài gợi ý.
Đề 2: Tình cảm yêu nước qua ba văn bản: Chiếu dời đô (Lí Công Uẩn), Hịch tướng sĩ (Trần quốc Tuấn), và Nước
Đại Việt ta ( trích Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi).
Mở bài:
-

Giới thiệu cảm hứng chủ đạo của văn học từ thế kỉ X đến thế kỉ XV là cảm hứng yêu nước.

-

Giới thiệu nội dung nghị luận.

-

Phạm vi dẫn chứng: Ba văn bản Chiếu dời đô, Hịch tướng sĩ, đoạn trích Nước Đại Việt ta.

Thân bài:

a. Yêu nước là ý chí tự chủ, tự cường và niềm tự hào dân tộc sâu sắc.
-

Ý chí tự chủ, tự cường
+ Trần Quốc Tuấn khẳng độc lập dân tộc không nhắc đến yếu tố thần như Lí Thường Kiệt nữa vì nước ta thật sự có chủ
quyền, có triều đình riêng. Theo Trần Quốc Tuấn, tổ quốc được cụ thể hóa bằng thái ấp, bổng lộc , xã tắc, tông miếu tổ tiên,
phần mộ cha ông, gia quyến, vợ con...( đó là những cái gắn bó thiêng liêng với mọi người).

-

Ở Bình Ngô đại cáo: Nguyễn Trãi đã khẳng định:
Xã tắc từ đây vững bền
Giang sơn từ đây đổi mới
Điều đó khẳng định: Nước ta thực sự có độc lập, chủ quyền nhất là khi giành được thắng lợi từ cuộc kháng chiến chống
giặc Minh. Đất nước đổi mới; hòa bình, độc lập, xây dựng và củng cố quốc gia phong kiến.

+ Tự hào dân tộc.
- Ở Chiếu dời đô, Lý Công Uẩn ca ngợi thế đất hùng vĩ, đẹp đẽ, giàu tiềm năng của thành Đại La: Một mảnh đất có vẻ đẹp
muôn mặt, một nơi có vị thế địa lí, vị thế văn hóa, đầu mối giao lưu, điều kiện dân cư và sự tốt tươi của muôn vật.
- Ở Hịch tướng sĩ, Trần Quốc Tuấn tự hào về đất nước có triều đình riêng, thái ấp tông miếu tổ tiên. Xuất phát từ niềm tự
hào ấy mà ông đã chỉ rõ cho các tướng sĩ quyết tâm bảo vệ đất nước.
- Ở Bình Ngô đại cáo, Nguyễn Trãi nêu đầy đủ các mặt tự hào chân chính của dân tộc Đại Việt:
+ Tự hào về nền văn hiến được hình thành và phát triển qua một quá trình lịch sử mấy ngàn năm, có thuần phong mĩ tục
mang bản sắc riêng, có lịch sử riêng, có chế độ riêng:
Như nước Đại Việt ta từ trước,
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu,
Núi sông bờ cõi đã chia,
Phong tục Bắc Nam cũng khác.
+ Tự hào về nhà nước có mấy trăm năm độc lập ở các triều đại: Đinh, Lý, Trần...thời nào cũng có các bậc anh hùng làm rạng danh
non sông:

Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời xây nền độc lập.
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương”
/>
10/11


13/11/2017

SKKN BDHSG ngữ văn lớp 8

Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau
Song hào kiệt thời nào cũng có.
+ Tự hào về những chiến công oanh liệt, với những trang sử rực rỡ chống ngoại xâm:
Cửa Hàm tử bắt sống Toa Đô
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã.
+ Tự hào về sức mạnh kì vĩ phi thường với tốc độ tiến quân, khí thế chiến thắng như vũ bão của quân ta:
b. Yêu nước là ý chí quyết tâm đánh giặc, ý chí quyết chiến, quyết thắng.
- Trần Quốc Tuấn kêu gọi tướng sĩ của mình hãy từ bỏ thái độ bàng quan, thờ ơ vô trách nhiệm, từ bỏ thói ăn chơi hưởng lạc
khi đất nước lâm nguy bằng một quyết tâm: “ Huấn luyện quân sĩ...Cảo Nhai”. Chỉ có cách đó mới bảo vệ thái ấp mãi mãi
vững bền, xây dựng cuộc sống hạnh phúc ấm no cho cả dân tộc.
- Những ngày đầu nghĩa quân Lam Sơn gặp bao khó khăn:
Tuấn kiệt như sao buổi sớm,
Nhân tài như lá mùa thu,
Rồi:
Khi Linh Sơn lương hết mấy tuần,
Lúc Khôi Huyện quân không một đội.
- Bao khó khăn thử thách chồng chất nặng nề, nhưng nhờ có tinh thần đoàn kết, đồng cam cộng khổ:
Nhân dân bốn cõi một nhà, dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới
Tướng sĩ một lòng phụ tử, hoà nước sông chén rượu ngọt ngào.
Ý chí quyết tâm khắc phục khó khăn, gian nan cho nên nghĩa quân càng đánh mạnh, càng đánh càng thắng to, chiến công nối tiếp

chiến công.

c. Yêu nước là khát vọng về một đất nước độc lập, thống nhất và hùng cường.
-Lý công Uẩn quyết tâm dời đô về vùng đất thiêng Đại La nhằm làm cho nước cường dân thịnh, dân cư khỏi phải chịu cảnh
khốn khổ, muôn vật phong phú tốt tươi.
- Trần Quốc Tuấn: đó là ý chí sẵn sàng xả thân vì nước Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da
ngựa, ta cũng vui lòng để có được đất nước độc lập, hùng mạnh.
-Còn đối với Nguyễn Trãi khát vọng ấy đã trở thành chân lí độc lập dân tộc:
3. Kết bài:
-

Khẳng định lại sức sống của cảm hứng yêu nước trong ba văn bản

-

Liên hệ với trách nhiệm của bản thân trong việc phát huy truyền thống yêu nước của dân tộc.

06/11/2014 |

Xem in

Bình luận
Thông tin đã đăng

/>
11/11




×