Tải bản đầy đủ (.pdf) (89 trang)

Hoạt động của hội đồng nhân dân cấp huyện từ thực tiễn tỉnh phú yên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.05 MB, 89 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LÊ THANH NHÀN

HOẠT ĐỘNG CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN CẤP HUYỆN
TỪ THỰC TIỄN TỈNH PHÚ YÊN

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI, năm 2017


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LÊ THANH NHÀN

HOẠT ĐỘNG CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN CẤP HUYỆN
TỪ THỰC TIỄN TỈNH PHÚ YÊN

Chuyên ngành : Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số

: 60 38 01 02

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC


PGS.TS LÊ THỊ HƯƠNG

HÀ NỘI, năm 2017


LỜI CAM ĐOAN

Bản thân Tôi xin cam đoan số liệu và kết quả nghiên cứu trọng luận văn này
là hoàn toàn trung thực và không trùng lặp với các luận văn khác trong cùng lĩnh
vực. Các thông tin, tài liệu trình bày trong luận văn đã được ghi rõ nguồn gốc. Luận
văn này là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan này./.
Tác giả luận văn

Lê Thanh Nhàn


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG CỦA HỘI
ĐỒNG NHÂN DÂN CẤP HUYỆN..........................................................................6
1.1. Vị trí, tính chất, chức năng của Hội đồng nhân dân cấp huyện ...........................6
1.2. Nội dung và nguyên tắc hoạt động của Hội đồng nhân dân cấp huyện .............17
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN
CẤP HUYỆN, TỈNH PHÚ YÊN ............................................................................31
2.1. Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động của Hội đồng nhân dân cấp huyện, tỉnh
Phú Yên .....................................................................................................................31
2.2. Thực trạng hoạt động của Hội đồng nhân dân cấp huyện tỉnh Phú Yên ...........34
2.3. Đánh giá về hiệu quả hoạt động của Hội đồng nhân dân cấp huyện trong thời
gian qua tại tỉnh Phú Yên ..........................................................................................47

CHƯƠNG 3. QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT
ĐỘNG CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN CẤP HUYỆN TỪ THỰC TIỄN TỈNH
PHÚ YÊN .................................................................................................................54
3.1. Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả hoạt động của Hội đồng nhân dân cấp
huyện .........................................................................................................................54
3.2. Các quan điểm nâng cao hiệu quả hoạt động của Hội đồng nhân dân cấp huyện .57
3.3. Các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của Hội đồng nhân dân cấp huyện ....63
KẾT LUẬN ..............................................................................................................77
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...............................................................79


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
HĐND

: Hội đồng nhân dân

UBND

: Ủy ban nhân dân

UBHC

: Ủy ban hành chính

TAND

: Tòa án nhân dân

VKSND


: Viện kiểm sát nhân dân

XHCN

: Xã hội chủ nghĩa


DANH MỤC CÁC BẢNG

Số hiệu
bảng

Tên bảng

Trang

2.1

Cơ cấu đại biểu

32

2.2

Trình độ văn hóa, chuyên môn

33

2.3


Độ tuổi

33


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, do cử tri địa
phương bầu ra, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân. Hội
đồng nhân dân có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc phát huy dân chủ, đảm bảo
quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, đảm bảo hoạt động đúng đắn của các cơ quan
nhà nước ở địa phương. Hiện nay, khi toàn Đảng, toàn dân đang nỗ lực xây dựng và
hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân
dân và vì nhân dân thì vấn đề đổi mới tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân nói
chung và Hội đồng nhân dân cấp huyện nói riêng càng mang tính cấp thiết.
Trong hơn 30 năm đổi mới, chủ trương đổi mới tổ chức và hoạt động của Hội
đồng nhân dân được thể hiện rất rõ trong nhiều văn kiện của Đảng như: Cương lĩnh
năm 1991, Cương lĩnh năm 2011, Văn kiện các Đại hội Đảng lần thứ VI, VII, VIII,
IX, X, XI, XII và các văn kiện Hội nghị Trung ương Đảng các khóa. Những quan
điểm, chủ trương đổi mới tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân trong các
Văn kiện của Đảng được Nhà nước cụ thể hóa thành các văn bản pháp luật và
những mô hình thực tiễn để thực hiện.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 (khóa X) về đẩy mạnh cải cách hành
chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của bộ máy nhà nước đã đề ra chủ trương
thực hiện thí điểm không tổ chức Hội đồng nhân dân cấp quận, huyện, phường. Để
cụ thể hóa chủ trương nói trên, ngày 15/11/2008, Quốc hội khóa XII đã ban hành
Nghị quyết số 26/2008/QH12 về việc thực hiện thí điểm không tổ chức Hội đồng
nhân dân huyện, quận, phường ở một số địa phương và Ủy ban thường vụ Quốc hội
đã ban hành Nghị quyết số 724/2009/UBTVQH, ngày 16/01/2009 thực hiện thí
điểm không tổ chức Hội đồng nhân dân tại 67 huyện, 32 quận, 483 phường của 10

tỉnh, thành phố trong cả nước.
Qua tổng kết thực tiễn về mô hình thí điểm không tổ chức Hội đồng nhân dân
ở huyện, quận, phường thấy rằng việc thí điểm chỉ dừng lại ở việc điều chỉnh nhiệm

1


vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân huyện, quận, phường trước đây cho Hội đồng
nhân dân, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh và Ủy ban nhân dân cùng cấp, chưa đổi mới
đồng bộ tổ chức và hoạt động của Ủy ban nhân dân. Vì vậy, Bộ Chính trị đã có Kết
luận số 89-KL/TW, ngày 03/3/2014 về tổng kết thực hiện thí điểm không tổ chức
Hội đồng nhân dân huyện, quận, phường và Quốc hội ban hành Luật tổ chức chính
quyền địa phương ngày 19/6/2015 (thay thế cho Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân
và Ủy ban nhân dân năm 2003), trong đó quy định rõ cấp chính quyền địa phương
gồm Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân được tổ chức ở tất cả các đơn vị hành
chính. Chính quyền địa phương ở nông thôn gồm chính quyền địa phương ở tỉnh,
huyện, xã. Chính quyền địa phương ở đô thị gồm chính quyền địa phương ở thành
phố trực thuộc trung ương, quận, thị xã thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trung
ương, phường, thị trấn.
Trong thời gian qua, hoạt động Hội đồng nhân dân cấp huyện nói chung và
hoạt động Hội đồng nhân dân cấp huyện trên địa bàn tỉnh Phú Yên nói riêng đã có
những chuyển biến tích cực, đổi mới về nội dung và phương thức hoạt động để
nâng cao hiệu quả thực hiện các chức năng, nhiệm vụ theo quy định của pháp luật,
đóng góp tích cực vào sự phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo an ninh quốc phòng
của địa phương.
Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm đã đạt được, hoạt động của HĐND cấp
huyện trên địa bàn tỉnh Phú Yên vẫn còn những hạn chế, tồn tại nhất định như:
nhiều nơi hoạt động của HĐND còn mang tính hình thức; chất lượng kỳ họp HĐND
chưa cao; công tác giám sát của HĐND chưa mang lại nhiều kết quả thiết thực;
trong chất vấn và trả lời chất vấn còn tình trạng nể nang, né tránh; hoạt động tiếp

xúc cử tri, tiếp công dân, tiếp nhận kiến nghị của công dân chưa được thường
xuyên, liên tục; hiệu lực, hiệu quả hoạt động của HĐND còn thấp, chưa tương xứng
với vị trí, vai trò quan trọng mà Hiến pháp quy định và nhân dân giao phó.
Từ thực trạng nêu trên cho thấy rằng, việc nghiên cứu lý luận và thực tiễn về
hoạt động của HĐND các cấp nói chung và của HĐND cấp huyện nói riêng là đòi
hỏi khách quan, là yêu cầu cấp thiết. Đặc biệt việc đi sâu nghiên cứu thực trạng hoạt

2


động của HĐND cấp huyện trên địa bàn tỉnh Phú Yên, trên cơ sở đó, đưa ra những
quan điểm và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của Hội đồng nhân dân
cấp huyện càng có ý nghĩa thực tiễn quan trọng. Vì vậy, tác giả chọn đề tài: “Hoạt
động của Hội đồng nhân dân cấp huyện từ thực tiễn tỉnh Phú Yên” để làm luận văn
Thạc sĩ luật.
2. Tình hình nghiên cứu
Vấn đề hoạt động của Hội đồng nhân dân và nâng cao chất lượng, hiệu quả
của Hội đồng nhân dân nói chung và Hội đồng nhân dân cấp huyện nói riêng đã
được đề cập nhiều trên sách báo, tạp chí, đề tài, công trình nghiên cứu. Có thể kể ra
một số công trình nghiên cứu sau đây:
- Hiệu quả hoạt động của HĐND cấp xã ở tỉnh Thanh Hóa, luận văn Thạc sĩ
luật học Lê Thị Hương, Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội, 2012.
- Tổ chức và hoạt động của HĐND tỉnh qua thực tiễn tỉnh Nghệ An, luận văn
của Thạc sĩ Luật học Nguyễn Thị Lợi, Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội, 2014.
- Hoạt động giám sát của HĐND cấp huyện từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi,
luận văn Thạc sĩ luật học Trịnh Đình Bá, Học viện Khoa học xã hội, 2016.
- Một số ý kiến về vị trí, vai trò của HĐND và việc thành lập UBND các cấp,
Trương Đắc Linh, Tạp chí Khoa học pháp lý số 03/2001.
Các công trình trên đã tiếp cận hoạt động của Hội đồng nhân dân ở nhiều góc
độ, nhiều khía cạnh với những luận giải, đánh giá khoa học có ý nghĩa lý luận và

thực tiễn. Tuy nhiên, có thể nói cho đến nay chưa có một đề tài độc lập đi sâu
nghiên cứu hoạt động của Hội đồng nhân dân cấp huyện ở tỉnh Phú Yên để tổng kết,
đánh giá những thành tựu đạt được và những hạn chế cần khắc phục, qua đó đưa ra
những giải pháp có giá trị thực tiễn nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của HĐND
cấp huyện ở tỉnh Phú Yên. Do vậy, nghiên cứu việc nâng cao chất lượng, hiệu quả
hoạt động của HĐND cấp huyện trên địa bàn tỉnh Phú Yên là việc làm cần thiết.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu những vấn đề lý luận về hoạt động của Hội đồng nhân dân cấp

3


huyện, để từ đó đánh giá thực trạng hoạt động của Hội đồng nhân dân cấp huyện
tỉnh Phú Yên, nhằm đề xuất những quan điểm và giải pháp tăng cường hiệu quả
hoạt động của Hội đồng nhân dân cấp huyện ở nước ta hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu nghiên cứu, đề tài thực hiện các nhiệm vụ sau:
- Nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận về hoạt động của Hội đồng nhân
dân cấp huyện.
- Đánh giá thực trạng hoạt động của Hội đồng nhân dân cấp huyện tại tỉnh Phú
Yên.
- Đề xuất những quan điểm và giải pháp tăng cường hoạt động của Hội đồng
nhân dân cấp huyện ở nước ta hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Hoạt động của Hội đồng nhân dân cấp huyện trên địa bàn tỉnh Phú Yên.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về thời gian: Nhiệm kỳ Hội đồng nhân dân khóa 2011 – 2016.
- Về không gian: số liệu khảo sát tại thành phố Tuy Hòa và thị xã Sông Cầu,

tỉnh Phú Yên.
- Về nội dung: Nghiên cứu các vấn đề lý luận về hoạt động của Hội đồng nhân
dân cấp huyện, thực trạng về hoạt động của Hội đồng nhân dân cấp huyện trên địa
bàn tỉnh Phú Yên, từ đó đề xuất các quan điểm và giải pháp nhằm tăng cường hoạt
động của Hội đồng nhân dân cấp huyện ở nước ta hiện nay.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Trong quá trình nghiên cứu, dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lê nin,
tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng, Nhà nước về hoạt động của HĐND
cấp huyện.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Có rất nhiều phương pháp nghiên cứu, ở đây tác giả chủ yếu dùng các phương

4


pháp phân tích những tài liệu sẵn có; phương pháp thu thập và xử lý thông tin;
phương pháp thống kê, phân tích, tổng hợp và xử lý số liệu; phương pháp so sánh,
đánh giá; phương pháp quan sát;… để nghiên cứu
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Kết quả nghiên cứu đề tài sẽ có một số đóng góp nhất định sau:
6.1. Ý nghĩa lý luận
Qua nghiên cứu đề tài sẽ khái quát những nét cơ bản về hoạt động của Hội
đồng nhân dân cấp huyện.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả quá trình nghiên cứu của đề tài có ý nghĩa trong việc nâng cao nhận
thức pháp lý trong hoạt động của Hội đồng nhân dân cấp huyện trong cả nước nói
chung và của Hội đồng nhân dân cấp huyện trên địa bàn tỉnh Phú Yên nói riêng;
qua đó đưa ra được các giải pháp để tăng cường hoạt động của Hội đồng nhân dân
cấp huyện trên địa bàn tỉnh Phú Yên.

7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận văn
gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về hoạt động của Hội đồng nhân dân cấp
huyện.
Chương 2: Thực trạng hoạt động của Hội đồng nhân dân cấp huyện tại tỉnh
Phú Yên.
Chương 3: Quan điểm và giải pháp tăng cường hoạt động của Hội đồng nhân
dân cấp huyện nước ta hiện nay.

5


CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG CỦA
HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN CẤP HUYỆN
1.1. Vị trí, tính chất, chức năng của Hội đồng nhân dân cấp huyện
1.1.1. Vị trí của Hội đồng nhân dân cấp huyện
Điều 2 Hiến pháp năm 2013 khẳng định: "Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân
dân và vì nhân dân”; “tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân…". Với khẳng
định trên, ở nước ta nguồn gốc, bản chất quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân,
"Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp, bằng dân chủ đại
diện thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân và thông qua các cơ quan khác của
Nhà nước".
Trong suốt quá trình hình thành và phát triển, HĐND nói chung và HĐND cấp
huyện nói riêng đã khẳng định được vị trí, vai trò, trách nhiệm to lớn của mình.
HĐND thực sự trở thành diễn đàn để nhân dân lao động thực hiện quyền làm chủ
Nhà nước và xã hội. Sự hiện diện của HĐND dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Việt Nam đã thể hiện được tính chất giai cấp sâu sắc, tính nhân dân thực sự của

nhà nước, tạo niềm tin vững chắc cho nhân dân về một chính quyền của dân, do
dân, vì dân.
Hội đồng nhân dân có vị trí hết sức quan trọng được thể hiện ngày càng rõ nét
trong tiến trình phát triển của các bản Hiến pháp Việt Nam.
Hiến pháp năm 1946 quy định “Hội đồng nhân dân do đầu phiếu phổ thông và
trực tiếp bầu ra”; “Hội đồng nhân dân quyết nghị về những vấn đề thuộc địa phương
mình. Những nghị quyết ấy không được trái với chỉ thị của các cấp trên” [27, Điều
58, 59]. Trong giai đoạn này, HĐND được tổ chức theo Sắc lệnh 63/SL, ngày
22/11/1945, theo đó, HĐND chỉ được tổ chức cấp tỉnh và cấp xã là cấp chính quyền
địa phương hoàn chỉnh gồm HĐND và Ủy ban hành chính; cấp kỳ và cấp huyện là
cấp chính quyền địa phương không hoàn chỉnh, chỉ có UBHC, không có HĐND.

6


Riêng đối với đơn vị hành chính là thành phố, chính quyền địa phương được tổ
chức theo Sắc lệnh 77/SL, ngày 21/12/1945, theo đó, thành phố được tổ chức thành
hai cấp: thành phố và khu phố và chỉ có cấp thành phố mới là chính quyền hoàn
chỉnh, bao gồm HĐND và UBHC, cấp khu phố chỉ có UBHC. Đến khi có Luật Tổ
chức chính quyền địa phương năm 1958, HĐND đã được xác định là cơ quan quyền
lực nhà nước tại địa phương, nằm trong hệ thống cơ quan quyền lực nhà nước thống
nhất từ trung ương đến địa phương, với tư cách vừa đại diện cho quyền lực nhà
nước tại địa phương, vừa đại diện cho ý chí nhân dân địa phương. HĐND được ra
các quyết định rộng rãi về các vấn đề thuộc phạm vi địa phương miễn là không trái
với mệnh lệnh của cấp trên.
Đến Hiến pháp năm 1959 và Luật tổ chức HĐND và UBHC năm 1962,
HĐND được quy định là “cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương. Hội đồng
nhân dân các cấp do nhân dân địa phương bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân
dân địa phương” [28, Điều 80]. Trong giai đoạn từ 1959 đến 1980, HĐND được tổ
chức ở tất cả đơn vị hành chính địa phương: tỉnh, huyện, xã. Đến đây, tính quyền

lực nhà nước ở địa phương của HĐND chính thức được ghi nhận trong Hiến pháp
và quy định này cho đến nay vẫn được ghi nhận trong Hiến pháp hiện hành.
Hiến pháp 1980 và Luật tổ chức HĐND và UBND năm 1983, được sửa đổi,
bổ sung năm 1989, một lần nữa xác định: “Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực
Nhà nước ở địa phương, do nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước
nhân dân địa phương và chính quyền cấp trên” [30, Điều 114]. Vị trí và tính chất
pháp lý của HĐND vẫn xác định như Hiến pháp năm 1959 và Luật tổ chức HĐND
và UBHC năm 1962 nhưng có bổ sung thêm nhiệm vụ HĐND phải chịu trách
nhiệm trước chính quyền cấp trên bên cạnh chịu trách nhiệm trước nhân dân địa
phương. Về tổ chức và hoạt động của HĐND, nhấn mạnh tính quyền lực của
HĐND, thành lập Thường trực HĐND ở cấp tỉnh và cấp huyện để nâng cao vị thế
của HĐND và giảm ảnh hưởng của cơ quan hành chính đối với cơ quan quyền lực.
Về nhiệm vụ, quyền hạn của HĐND theo quy định của Luật tổ chức HĐND và
UBND năm 1983 được mở rộng ở rất nhiều lĩnh vực, đặc biệt là lĩnh vực kinh tế.

7


Hiến pháp năm 1992 được sửa đổi, bổ sung năm 2001, Luật tổ chức HĐND và
UBND năm 1994 và năm 2003 và các văn bản pháp luật có liên quan đã cố gắng
đổi mới nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của chính quyền địa phương trong đó có
HĐND. Tuy nhiên, về vị trí, vai trò của HĐND không có nhiều sự thay đổi so với
trước đây. HĐND vẫn được xác định là “cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa
phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân, do nhân
dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương và cơ quan Nhà
nước cấp trên” [33, Điều 119], trong đó làm rõ tính đại diện của HĐND, đại diện
cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân. Trong giai đoạn này,
HĐND được tổ chức đồng bộ từ tỉnh đến xã, thành lập Thường trực HĐND ở cả 03
cấp, tăng cường chức năng giám sát của HĐND, HĐND được trao thẩm quyền quan
trọng, trong đó có quyền quyết định các chủ trương, biện pháp nghiêm trọng.

Trong hoạt động của mình, HĐND nói chung và HĐND cấp huyện nói riêng
thường bị cho rằng hoạt động mang tính hình thức, chưa thực hiện tốt vai trò, chức
năng, nhiệm vụ như luật định, hiệu quả hoạt động còn thấp. Nhằm mục đích khắc
phục những hạn chế nêu trên, phát huy dân chủ, tăng cường năng lực, hiệu quả hoạt
động của HĐND, ngày 15/11/2008 Quốc hội ban hành Nghị quyết số
26/2008/QH12 về thực hiện thí điểm không tổ chức Hội đồng nhân dân huyện,
quận, phường và Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số
724/2009/UBTVQH12, ngày 16/01/2009, trong đó thực hiện thí điểm không tổ
chức Hội đồng nhân dân huyện, quận, phường tại 67 huyện, 32 quận và 483 phường
của 10 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
Tuy nhiên, qua tổng kết thực tiễn về mô hình thí điểm không tổ chức HĐND
quận, huyện, phường cho thấy rằng, việc thực hiện không tổ chức HĐND ở các đơn
vị hành chính này chưa phù hợp với tình hình thực tế của nước ta hiện nay. Vì vậy,
Quốc hội đã ban hành Luật Tổ chức chính quyền địa phương, ngày 19/6/2015 thay
thế Luật tổ chức HĐND và UBND năm 2003, chấm dứt việc thực hiện thí điểm
không tổ chức HĐND huyện, quận, phường theo Nghị quyết số 26/2008/QH12 của
Quốc hội, Nghị quyết số 724/2009/UBTVQH12 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội

8


kể từ ngày 01/01/2016 và khôi phục việc tổ chức HĐND ở cả 03 cấp là tỉnh, huyện
và xã.
Theo quy định tại Điều 113 Hiến pháp 2013 và Điều 6 Luật Tổ chức chính
quyền địa phương 2015, thì HĐND tiếp tục được khẳng định “là cơ quan quyền lực
nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của
Nhân dân, do Nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước Nhân dân địa
phương và cơ quan nhà nước cấp trên”.
Vị trí, vai trò của HĐND cấp huyện được thể hiện ở những điểm cơ bản sau:
- HĐND cấp huyện nằm trong cơ cấu quyền lực thống nhất của nhà nước, là

bộ phận cấu thành của bộ máy nhà nước, thay mặt nhà nước tổ chức thực hiện
quyền lực nhà nước trên địa bàn là tổ chức thực hiện Hiến pháp, Luật, các văn bản
của cơ quan nhà nước trung ương tới địa phương.
- HĐND cấp huyện đóng vai trò là chiếc cầu nối giữa chính quyền trung ương
và cấp trên với chính quyền địa phương, vừa đảm bảo sự thống nhất trong hoạt
động của bộ máy của nhà nước trên phạm vi toàn quốc, vừa đảm bảo tính tự chủ,
sáng tạo của địa phương.
- HĐND cấp huyện còn là chiếc cầu nối giữa nhân dân và nhà nước, HĐND
cấp huyện tiếp nhận, phổ biến các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng,
pháp luật của nhà nước ở trung ương và cấp trên đến cử tri địa phương và tiếp thu ý
kiến, kiến nghị của cử tri địa phương để phản ánh, kiến nghị đến các cơ quan, cá
nhân, tổ chức áp dụng các biện pháp cần thiết để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của công dân.
- Là cơ quan quyền lực nhà nước tại địa phương, HĐND cấp huyện quyết định
những vấn đề quan trọng trên địa bàn huyện trong khuôn khổ của Hiến pháp, pháp
luật và Nghị quyết của HĐND có tính bắt buộc đối với các cơ quan, tổ chức ở địa
phương.
- Là cơ quan đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của cử tri địa
phương, thông qua HĐND cấp huyện, nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình,
đảm bảo Nhà nước ta là nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân và do nhân
dân làm chủ.

9


- HĐND là tổ chức có khả năng tập hợp được khối đại đoàn kết toàn dân,
thống nhất ý chí và hành động của các tầng lớp nhân dân, động viên được mọi
nguồn lực vật chất và tinh thần của nhân dân địa phương đóng góp vào sự nghiệp
chung của đất nước.
Như vậy, với vị trí, vai trò của HĐND cấp huyện như đã thể hiện trên đây

chúng ta có thể nhận thấy rằng HĐND cấp huyện là cấp HĐND hết sức quan trọng
trong hệ thống cơ quan chính quyền địa phương; là cầu nối giữa chính quyền Trung
ương và cấp trên với chính quyền địa phương; trực tiếp tổ chức thực hiện đường lối,
chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước tại địa phương; là nơi để
người dân bày tỏ trực tiếp ý chí, nguyện vọng của mình, đóng góp ý kiến xây dựng
chính quyền của dân, do dân, vì dân và là nơi trực tiếp quyết định những chủ
trương, biện pháp quan trọng để xây dựng và phát triển địa phương về kinh tế - xã
hội, củng cố quốc phòng - an ninh.
1.1.2. Tính chất của Hội đồng nhân dân cấp huyện
Từ những quy định của Hiến pháp 2013, Luật Tổ chức chính quyền địa
phương 2015, ta có thể thấy Hội đồng nhân dân có 02 tính chất đặc trưng, đó là:
tính quyền lực nhà nước và tính đại điện.
1.1.2.1. Tính quyền lực nhà nước
Tính quyền lực nhà nước của HĐND cấp huyện thể hiện ở quyền đơn phương
quyết định và quyết định đó có tính bắt buộc thực hiện đối với mọi cơ quan, tổ chức
có liên quan trên địa bàn quản lý của huyện. Nhưng vì HĐND cấp huyện chỉ là cơ
quan quyền lực nhà nước ở địa phương nên một mặt, những quyết định này chỉ có
hiệu lực trong địa bàn quản lý của một huyện và chỉ giới hạn trong phạm vi thẩm
quyền được giao theo quy định của Hiến pháp và pháp luật, mặt khác những quyết
định đó không được trái với Hiến pháp, luật và các văn bản của các cơ quan nhà
nước cấp trên. Chính vì vậy, theo Điều 113 Hiến pháp năm 2013 xác định, HĐND
cấp huyện dù là cơ quan quyền lực nhà nước ở cấp cao nhất trên địa bàn huyện,
nhưng HĐND cấp huyện cũng phải căn cứ vào Hiến pháp, luật và các văn bản của
các cơ quan nhà nước cấp trên, căn cứ vào nhu cầu và điều kiện thực tế của huyện
để quyết định các chủ trương, biện pháp quan trọng nhằm bảo đảm thi hành Hiến

10


pháp và pháp luật ở địa phương, phát huy tiềm năng của huyện, xây dựng và phát

triển về kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng - an ninh, không ngừng cải thiện đời
sống vật chất và tinh thần của nhân dân, làm tròn nghĩa vụ của huyện đối với cả
nước. Các nghị quyết của HĐND cấp huyện được ban hành trong phạm vi thẩm
quyền được giao có tính bắt buộc thực hiện đối với tất cả các cơ quan, tổ chức và cá
nhân có liên quan trên địa bàn.
Cũng do tính quyền lực nhà nước của HĐND đã được Hiến pháp năm 2013 và
Luật Tổ chức Chính quyền địa phương năm 2015 xác định nên HĐND cấp huyện
còn thực hiện quyền giám sát việc tuân theo Hiến pháp, pháp luật và các nghị quyết
của HĐND huyện đối với các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội,
đơn vị vũ trang nhân dân và mọi cá nhân có liên quan trên địa bàn huyện theo quy
định của pháp luật, cũng như giám sát hoạt động công tác của Thường trực HĐND,
UBND, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp.
Tính quyền lực nhà nước của HĐND cấp huyện được thiết lập trên nguyên tắc
Hiến định “Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân”, “Nhân dân thực hiện
quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp, bằng dân chủ đại diện thông qua Quốc
hội, Hội đồng nhân dân và thông qua các cơ quan khác của Nhà nước”. HĐND là
cơ quan do nhân dân ở địa phương bầu ra và thay mặt nhân dân giải quyết các vấn
đề quan trọng của địa phương, do đó, HĐND là chủ thể mang tính quyền lực nhà
nước do được nhân dân ủy quyền.
Tính quyền lực nhà nước của HĐND cấp huyện thể hiện ở 04 quyền hạn sau đây:
(1) Quyết định những vấn đề quan trọng của địa phương.
(2) Bầu UBND là cơ quan chấp hành của HĐND; bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm,
bỏ phiếu tín nhiệm các thành viên của cơ quan này.
(3) Bãi bỏ một phần hay toàn bộ văn bản trái pháp luật của UBND, Chủ tịch
UBND cấp mình và văn bản của HĐND cấp dưới.
(4)

Giám sát việc tuân theo pháp luật ở địa phương và giám sát việc thực

hiện Nghị quyết của HĐND.


11


Tóm lại, việc khẳng định tính quyền lực Nhà nước của HĐND cấp huyện
không chỉ xác định đúng vị trí, vai trò của HĐND cấp huyện trong cơ chế thực hiện
quyền lực nhà nước thống nhất của nhân dân, mối quan hệ giữa HĐND với UBND
và các cơ quan nhà nước khác ở địa phương, mà còn xác định thẩm quyền kiểm tra,
giám sát của HĐND cấp huyện đối với các cơ quan này trong việc chấp hành Hiến
pháp và pháp luật ở địa phương.
1.1.2.2. Tính đại diện
Cùng với tính quyền lực nhà nước, HĐND cấp huyện còn là cơ quan đại diện
của nhân dân địa phương. Điều 79 Hiến pháp 2013 quy định “HĐND là cơ quan đại
diện của nhân dân địa phương và đại biểu HĐND là người đại diện cho nhân dân
địa phương, chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương”.
Với vị trí, tính chất của HĐND được quy định trong Hiến pháp năm 2013 và
Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 thì HĐND cấp huyện vừa là
một cơ quan trong bộ máy nhà nước, vừa là chủ thể quyền lực, đại diện cho nhân
dân địa phương và có quyền quyết định những vấn đề quan trọng của địa
phương, giám sát việc tuân theo pháp luật của cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế,
tổ chức xã hội, công dân ở địa phương nhằm phát huy tiềm năng của địa phương
trên mọi mặt kinh tế, xã hội.
Xuất phát từ nguyên lý quyền lực nhà nước là của nhân dân, việc tổ chức thực
thi quyền lực do nhân dân thực hiện nhưng vì một lý do nào đó, nhân dân không thể
thực thi quyền lực của mình được thì hoạt động đó được ủy quyền cho một cá nhân
hay tổ chức khác thực hiện, bao gồm cả thiết chế Hội đồng nhân dân.
Tính đại điện của HĐND cấp huyện thể hiện ở các phương diện sau đây:
- Con đường hình thành: Ở địa phương cấp huyện, HĐND là cơ quan duy
nhất được thành lập bằng một cuộc bầu cử do cử tri ở địa phương trực tiếp bầu ra
theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín. Đại biểu HĐND

cấp huyện là người đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ nhân dân,
chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền
hạn của mình.

12


- Cơ cấu đại biểu: HĐND cấp huyện có một số lượng đại biểu nhất định đại
diện cho nữ giới, người dân tộc, tôn giáo, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã
hội, tổ chức kinh tế, lực lượng vũ trang nhân dân, cơ quan nhà nước, người ngoài
Đảng… Cũng theo Luật Bầu cử 2015 thì Thường trực HĐND cấp huyện dự kiến cơ
cấu, thành phần, phân bổ số lượng người được giới thiệu để ứng cử đại biểu HĐND,
trong đó bảo đảm có ít nhất ba mươi lăm phần trăm tổng số người trong danh sách
chính thức những người ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân là phụ nữ; số lượng
người ứng cử là người dân tộc thiểu số được xác định phù hợp với tình hình cụ thể
của từng địa phương.
- Thẩm quyền: HĐND cấp huyện thay mặt nhân dân quyết định và tổ chức
thực hiện các biện pháp nhằm phát huy quyền làm chủ của Nhân dân, huy động các
nguồn lực xã hội để xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng an ninh trên địa bàn.
Từ những phương diện nêu trên, xét về mặt hình thức cũng như nội dung hoạt
động, thiết chế HĐND cấp huyện ở nước ta thực sự là người đại diện cho ý chí,
nguyện vọng của nhân dân địa phương.
Phân tích hai tính chất của HĐND cấp huyện có thể thấy, giữa tính quyền lực
nhà nước và tính đại diện của HĐND cấp huyện có mối quan hệ biện chứng với
nhau. Bởi vì, HĐND cấp huyện muốn thực hiện được vai trò, vị trí là cơ quan đại
diện cho nhân dân thì phải có quyền lực và khi có quyền lực thì sẽ làm tốt vai trò
đại diện. Nếu HĐND chỉ có một trong hai vai trò này, hoặc là cơ quan đại diện hoặc
là cơ quan quyền lực không thôi thì việc thực hiện chức năng nhiệm vụ sẽ rất khó
khăn, vai trò của HĐND khó có thể thực hiện một cách đầy đủ và có hiệu quả.
Tính chất đại diện và tính chất quyền lực của HĐND cấp huyện có quan hệ biện

chứng với nhau. Tính đại diện là tiền đề bảo đảm để HĐND cấp huyện trở thành
cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương. Và chỉ có thể là cơ quan quyền lực
nhà nước ở địa phương, HĐND cấp huyện mới có đủ quyền năng thực hiện được
tính chất đại diện cho nhân dân, thay mặt nhân dân quyết định những vấn đề
quan trọng ở địa phương.

13


1.1.3. Chức năng của Hội đồng nhân dân cấp huyện
Chức năng của HĐND cấp huyện là những phương diện hoạt động chủ yếu
của HĐND nhằm thực hiện vai trò, nhiệm vụ của HĐND.
Căn cứ Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015, HĐND các cấp có
hai chức năng cơ bản là: Chức năng quyết định và chức năng giám sát.
- Chức năng quyết định
Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 ghi nhận như sau: "HĐND
quyết định những chủ trương, biện pháp quan trọng để phát huy tiềm năng của địa
phương, xây dựng và phát triển địa phương về kinh tế, xã hội, củng cố quốc phòng
an ninh, không ngừng cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân địa
phương, làm tròn nghĩa vụ của địa phương đối với cả nước".
Chức năng quyết định của HĐND cấp huyện được thể hiện thông qua các
quyền hạn sau:
- Quyết định biện pháp thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, trật tự, an
toàn xã hội.
- Quyết định biện pháp tổ chức và bảo đảm việc thi hành pháp luật: Bãi bỏ
một phần hoặc toàn bộ văn bản trái pháp luật của UBND, Chủ tịch UBND huyện,
HĐND cấp xã.
- Quyết định biện pháp xây dựng chính quyền địa phương: Bầu, miễn nhiệm,
bãi nhiệm, lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm đối với các chức danh: Chủ tịch
HĐND, Phó Chủ tịch HĐND, Trưởng ban, Phó Trưởng ban của HĐND huyện, Chủ

tịch UBND, Phó Chủ tịch UBND và các Ủy viên UBND huyện, Hội thẩm Tòa án
nhân dân huyện.
- Quyết định biện pháp phát triển kinh tế địa phương: Quyết định dự toán thu
ngân sách nhà nước trên địa bàn; dự toán thu, chi ngân sách địa phương và phân bổ
dự toán ngân sách huyện, phê chuẩn quyết toán ngân sách địa phương. Quyết định
chủ trương đầu tư chương trình, dự án của huyện theo quy định của pháp luật.
Thông qua kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội trung hạn và hằng năm của huyện;

14


quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất của huyện trước khi trình UBND cấp tỉnh phê
duyệt;
- Quyết định biện pháp quản lý và sử dụng tài nguyên; bảo vệ và cải thiện môi
trường.
- Quyết định biện pháp phát triển hệ thống giáo dục, y tế, văn hoá, thông tin,
thể dục thể thao, chính sách xã hội.
- Quyết định biện pháp bảo đảm việc thực hiện chính sách dân tộc, tôn giáo
trên địa bàn huyện.
Với những nội dung quyết định của HĐND cấp huyện nêu trên, một lần nữa
khẳng định vị trí, vai trò, tầm quan trọng của HĐND cấp huyện. Mặt khác, đây cũng
là những căn cứ pháp lý tạo môi trường thuận lợi để chính quyền địa phương khai
thác hết mọi tiềm năng, nội lực sẵn có của mình, nhằm nâng cao đời sống vật chất,
tinh thần cho nhân dân địa phương, làm tròn mọi nhiệm vụ mà nhân dân và cấp trên
giao cho.
- Chức năng giám sát
Giám sát là một trong hai chức năng cơ bản của HĐND cấp huyện, có mối
quan hệ và tác động qua lại với chức năng quyết định của HĐND. Vì muốn thực
hiện đúng và có hiệu quả chức năng quyết định, HĐND cấp huyện phải có được đầy
đủ những thông tin về tình hình kinh tế - xã hội của địa phương, về thực tế thực

hiện Hiến pháp và pháp luật ở địa phương, về việc thực hiện các nghị quyết của
HĐND trước đó đã ban hành... Thiếu những thông tin này, HĐND cấp huyện không
thể quyết định được những chủ trương, biện pháp phù hợp và đáp ứng nhu cầu mà
cuộc sống đòi hỏi. Để có được những thông tin như thế thì một kênh rất cần thiết là
hoạt động giám sát của HĐND. Vì vậy, hoạt động giám sát của HĐND cấp huyện
được xem như một khâu không thể thiếu của quá trình ban hành các quyết định của
HĐND.
Theo Khoản 1 Điều 2 Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng
nhân dân năm 2015 quy định: “Giám sát là việc chủ thể giám sát theo dõi, xem xét,
đánh giá hoạt động của cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát trong việc tuân

15


theo Hiến pháp và pháp luật về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình, xử lý
theo thẩm quyền hoặc yêu cầu, kiến nghị cơ quan có thẩm quyền xử lý”.
HĐND cấp huyện thực hiện quyền giám sát của mình tại kỳ họp HĐND và
trên cơ sở hoạt động giám sát của Thường trực HĐND, các Ban của HĐND, các Tổ
đại biểu HĐND và đại biểu HĐND.
HĐND thực hiện quyền giám sát thông qua các hoạt động sau đây:
- Xem xét báo cáo công tác của Thường trực HĐND, Ủy ban nhân dân, Tòa án
nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp.
- Xem xét báo cáo của UBND cùng cấp về tình hình thi hành Hiến pháp, văn
bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên và nghị quyết của HĐND
cùng cấp.
- Xem xét văn bản của UBND cùng cấp có dấu hiệu trái với Hiến pháp, các
văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên và nghị quyết của
HĐND cùng cấp.
- Xem xét trả lời chất vấn của Chủ tịch UBND, Phó Chủ tịch UBND, Ủy viên
UBND, Chánh án TAND, Viện trưởng VKSND cùng cấp.

- Thành lập Đoàn giám sát về một vấn đề nhất định khi xét thấy cần thiết và
xem xét kết quả giám sát của Đoàn giám sát.
Căn cứ vào kết quả giám sát, HĐND có các quyền sau đây:
- Yêu cầu UBND, Chủ tịch UBND cùng cấp ban hành văn bản để thi hành
Hiến pháp, pháp luật và nghị quyết của HĐND.
- Bãi bỏ một phần hoặc toàn bộ văn bản của UBND, Chủ tịch UBND cùng cấp
trái với Hiến pháp, văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên và
nghị quyết của HĐND.
- Ra nghị quyết về trả lời chất vấn và trách nhiệm của người trả lời chất vấn
khi xét thấy cần thiết.
- Miễn nhiệm, bãi nhiệm Chủ tịch HĐND, Phó Chủ tịch HĐND, Trưởng ban,
Phó trưởng ban của HĐND, Chủ tịch UBND, Phó Chủ tịch UBND và Ủy viên
UBND.

16


Như vậy, chức năng giám sát của HĐND cấp huyện rất rộng, toàn diện, bao
quát toàn bộ hoạt động quản lý nhà nước trên tất cả các lĩnh vực, góp phần quan
trọng trong phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
Tóm lại, quyết định và giám sát là hai chức năng cơ bản của HĐND cấp
huyện. Hai chức năng này có quan hệ chặt chẽ, tác động trực tiếp đến nhau. Thực
hiện tốt chức năng giám sát là một trong những yếu tố quan trọng đảm bảo cho các
quyết định của HĐND cấp huyện được thực hiện nghiêm túc. Đồng thời, giám sát là
cơ sở kiểm nghiệm tính đúng đắn của các quyết định trên thực tiễn, giúp phát hiện
những điểm chưa phù hợp với tình hình thực tế để kịp thời sửa chữa, bổ sung.
Ngược lại, các quyết định của HĐND cấp huyện là cơ sở cho hoạt động giám sát
được tôn trọng trên thực tế, tạo định hướng cho hoạt động giám sát tập trung vào
các vấn đề bức xúc của địa phương.
1.2. Nội dung và nguyên tắc hoạt động của Hội đồng nhân dân cấp huyện

1.2.1. Nội dung hoạt động của Hội đồng nhân dân cấp huyện
Để nhận thức đúng bản chất, vai trò, nội dung cũng như phương thức hoạt
động của HĐND cấp huyện trước hết cần hiểu “hoạt động của HĐND cấp huyện” là
gì? Theo đó, hoạt động của HĐND cấp huyện là việc HĐND các huyện, quận, thị
xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương (gọi
chung là cấp huyện) thực hiện những chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của HĐND
theo luật định.
Hoạt động của HĐND cấp huyện được thực hiện thông qua các hoạt động tại
kỳ họp của HĐND, hoạt động của Thường trực HĐND, các ban của HĐND, đại
biểu HĐND.
* Kỳ họp Hội đồng nhân dân cấp huyện:
Kỳ họp là hình thức hoạt động chủ yếu, quan trọng nhất của HĐND cấp
huyện. Bởi vì kỳ họp là nơi tập trung đầy đủ nhất trí tuệ của cử tri địa phương, thể
hiện ý chí và nguyện vọng của nhân dân địa phương. Mặt khác, tại kỳ họp, HĐND
cấp huyện thảo luận dân chủ và quyết định theo đa số các công việc quan trọng của
địa phương thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của mình.

17


HĐND cấp huyện họp thường lệ mỗi năm hai kỳ. Ngoài kỳ họp thường lệ,
HĐND tổ chức các kỳ họp chuyên đề hoặc kỳ họp bất thường theo đề nghị của Chủ
tịch HĐND, Chủ tịch UBND cùng cấp hoặc khi có ít nhất một phần ba tổng số đại
biểu HĐND cùng cấp yêu cầu.
Kỳ họp là hình thức biểu thể hiện cụ thể hai chức năng cơ bản của HĐND là
quyết định và giám sát.
Tại kỳ họp, HĐND thảo luận và ra Nghị quyết về các vấn đề thuộc nhiệm vụ,
quyền hạn của mình. Trong kỳ họp HĐND, các đại biểu HĐND sẽ thảo luận một
cách công khai, dân chủ và biểu quyết thông qua những vấn đề quan trọng nhất về
phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng địa phương. Thông qua các đại biểu HĐND,

nhân dân thể hiện được ý chí, nguyện vọng, quyền làm chủ của mình, quyết định
những vấn đề quan trọng của địa phương.
Ngoải ra, HĐND thực hiện quyền giám sát tại kỳ họp thông qua các hoạt động sau:
- Xem xét báo cáo công tác của Thường trực HĐND, Ban của HĐND, UBND,
TAND, VKSND, cơ quan thi hành án dân sự cùng cấp. HĐND xem xét, thảo luận
báo cáo theo trình tự sau đây: Người đứng đầu cơ quan có báo cáo trình bày báo
cáo; Trưởng Ban của HĐND trình bày báo cáo thẩm tra; HĐND thảo luận và có thể
ra nghị quyết về công tác của cơ quan có báo cáo, trong đó có những nội dung cơ
bản sau đây: Đánh giá kết quả đạt được, những hạn chế, bất cập và nguyên nhân của
hạn chế, bất cập; trách nhiệm của cơ quan có báo cáo và người đứng đầu; thời hạn
khắc phục hạn chế, bất cập; trách nhiệm thi hành của cơ quan, cá nhân; trách nhiệm
báo cáo kết quả thực hiện nghị quyết.
- Chất vấn và nghe trả lời chất vấn. Chất vấn là hình thức quan trọng để
HĐND giám sát hoạt động của các cơ quan thuộc HĐND và các cơ quan, tổ chức
khác trên địa bàn. Đại biểu HĐND có quyền chất vấn về bất cứ vấn đề gì thuộc
thẩm quyền xem xét của HĐND. Người bị chất vấn phải trả lời trực tiếp, đầy đủ vào
vấn đề mà đại biểu Hội đồng nhân dân đã chất vấn, không được ủy quyền cho người
khác trả lời thay. Trường hợp đại biểu Hội đồng nhân dân không đồng ý với nội
dung trả lời chất vấn thì có quyền chất vấn lại để người bị chất vấn trả lời. Sau chất
vấn, HĐND có thể ra nghị quyết về chất vấn.

18


- Xem xét văn bản của UBND cùng cấp, nghị quyết của HĐND cấp dưới trực
tiếp có dấu hiệu trái với Hiến pháp, văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà
nước cấp trên, nghị quyết của mình. Nếu xét thấy có vi phạm, HĐND có quyền bãi
bỏ một phần hoặc toàn bộ quyết định của UBND cùng cấp, nghị quyết của HĐND
cấp dưới trực tiếp.
- Lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm đối với những người giữ chức vụ do

HĐND bầu. Người được lấy phiếu tín nhiệm có từ hai phần ba tổng số đại biểu
HĐND trở lên đánh giá tín nhiệm thấp thì Thường trực HĐND trình HĐND bỏ
phiếu tín nhiệm. Người được bỏ phiếu tín nhiệm có quá nửa tổng số đại biểu HĐND
đánh giá không tín nhiệm thì có thể xin từ chức; trường hợp không từ chức thì cơ
quan hoặc người có thẩm quyền giới thiệu người đó để HĐND bầu có trách nhiệm
trình HĐND xem xét, quyết định việc miễn nhiệm, bãi nhiệm đối với người đó.
* Hoạt động của Thường trực HĐND cấp huyện:
Thường trực HĐND là cơ quan thường trực của HĐND, thực hiện những
nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp
luật có liên quan, chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước HĐND. Chủ tịch
HĐND chỉ đạo hoạt động của Thường trực HĐND cùng cấp. Phó Chủ tịch HĐND
giúp Chủ tịch HĐND thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn heo sự phân công của Chủ tịch
HĐND. Các thành viên Thường trực HĐND chịu trách nhiệm tập thể về việc thực
hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Thường trực HĐND; chịu trách nhiệm cá nhân trước
Thường trực HĐND về nhiệm vụ, quyền hạn được Thường trực HĐND phân công.
Các hoạt động chủ yếu của Thường trực HĐND thể hiện giữa hai kỳ họp tập trung
chủ yếu vào các hoạt động hành chính nội bộ và hoạt động giám sát.
Điều 104 Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 quy định Thường
trực HĐND có các nhiệm vụ, quyền hạn sau:
- Triệu tập các kỳ họp của HĐND; phối hợp với UBND trong việc chuẩn bị kỳ
họp của HĐND.
- Đôn đốc, kiểm tra UBND và các cơ quan nhà nước khác ở địa phương thực
hiện các nghị quyết của HĐND.

19


×