Tải bản đầy đủ (.pdf) (26 trang)

Pháp luật bồi thường khi nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn tỉnh quảng nam (tt)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (608.75 KB, 26 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LÊ THANH LONG

PHÁP LUẬT BỒI THƯỜNG KHI NHÀ NƯỚC
THU HỒI ĐẤT TỪ THỰC TIỄN
TỈNH QUẢNG NAM

Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 60 38 01 07

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI, năm 2017


Công trình được hoàn thành tại
Học viện Khoa học Xã hội

Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN LINH GIANG

Phản biện 1: .............................................................
Phản biện 2: ..............................................................

Luận văn sẽ được bảo vệ trước hội đồng chấm luận văn
thạc sĩ họp tại Học viện khoa học xã hội ....... giờ ...... ngày ......
tháng ..... năm 2017.

Có thể tìm hiểu luận văn tại


Thư viện Học viện Khoa học Xã hội


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đất đai là tài nguyên vô cùng quý giá của mỗi quốc gia, là
điều kiện tồn tại, phát triển của mỗi con người và các sinh vật khác
trên trái đất, là yếu tố đầu vào không thể thiếu trong quá trình phát
triển kinh tế-xã hội, do đó nhà nước cần phải THĐ và thực hiện việc
BT, GPMB cho các đối tượng sử dụng đất để phục vụ cho mục tiêu
phát triển kinh tế-xã hội. Công tác THĐ, BT, GPMB là vấn đề hết
sức nhạy cảm và phức tạp, ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng đất, tác
động đến mọi mặt đời sống kinh tế, xã hội và cộng đồng dân cư, ảnh
hưởng trực tiếp đến lợi ích của Nhà nước, chủ đầu tư, đặc biệt với hộ
gia đình, cá nhân có đất bị thu hồi. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng
này, ngoài đơn giá BT chưa hợp lý, còn do chế độ chính sách về
THĐ, BT, HT và TĐC còn nhiều bất cập, chưa đảm bảo hài hòa giữa
quyền và nghĩa vụ của các đối tượng liên quan.
Tỉnh Quảng Nam được tái lập năm 1997, với xuất phát điểm là
một trong những tỉnh nghèo của cả nước nhưng có điều kiện tự nhiên
khá thuận lợi, nền kinh tế được xác định có cơ cấu thương mại dịch
vụ, công nghiệp. Trong thời gian qua, nhiều dự án phát triển kết cấu
hạ tầng, khu công nghiệp, thương mại, dịch vụ đã được đầu tư như:
Khu công nghiệp Điện Nam-Điện Ngọc, Khu Kinh tế mở Chu Lai,
Các khu du lịch ven biển, tuyến Cao tốc Đà Nẵng- Quang Ngãi... đã
góp phần làm thay đổi căn bản về cơ sở hạ tầng kỹ thuật, tạo điều
kiện thuận lợi thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội của tỉnh. Tuy nhiên,
bên cạnh những thành tựu đã đạt được vẫn còn nhiều dự án chưa
được triển khai hoặc triển khai chậm tiến độ, mà nguyên nhân căn
bản là công tác THĐ, BT, HT và TĐC còn nhiều bất cập, những

vướng mắc phát sinh trong quá trình thực hiện ảnh hưởng đến các
yếu tố xã hội như: người lao động mất đất sản xuất, chuyển đổi nghề
1


nghiệp, việc làm cho nhân dân, tái định cư,...chưa được giải quyết
triệt để, làm chậm tiến độ bàn giao mặt bằng để thi công các công
trình. Do vậy, vấn đề đặt ra hiện nay là làm thế nào để giải quyết
những bất cập nêu trên, vừa đảm bảo hài hòa quyền lợi của các bên
liên quan vừa đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật.
Tìm hiểu, đánh giá đúng thực trạng công tác này là việc làm
cần thiết, nhằm kịp thời đề xuất các giải pháp khắc phục những tồn
tại, làm cho công tác quản lý nhà nước về đất đai ngày càng tốt hơn,
đẩy nhanh công tác BT, GPMB và củng cố lòng tin của người nhân
dân vào chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của
nhà nước, tôi chọn đề tài: “Pháp luật bồi thường khi Nhà nước thu
hồi đất từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam” để nghiên cứu tìm hiểu trong
khuôn khổ luận văn thạc sĩ luật.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trên cơ sở tiếp thu, kế thừa kết quả từ các công trình khoa học
đã nghiên cứu. Tác giả cho rằng, đây là vấn đề khá phức tạp trong
thực tiễn áp dụng và cũng vô cùng nhạy cảm. Vì vậy, Luận văn sẽ
tiếp tục nghiên cứu, giải quyết những vấn đề về BT khi NNTHĐ mà
chưa được các nhà nghiên cứu tiếp cận hoặc đã được tiếp cận nhưng
chỉ ở mức độ khái quát: những nguyên tắc, điều kiện của việc BT khi
NNTHĐ; việc điều tiết công bằng, hợp lý lợi ích trong quá trình
THĐ nhằm tạo nguồn thu cho Nhà nước để tái đầu tư, xây dựng đất
nước. Luận văn sẽ nghiên cứu một cách hệ thống và sâu sắc, toàn
diện hơn vấn đề BT đất, tài sản trên đất khi NNTHĐ trong đó đặc
biệt chú trọng đến giá đất BT vì đây là trọng tâm của vấn đề BT. Mặt

khác, khi nói đến giá đất BT, đa số các công trình đã có mới chỉ phân
tích theo hướng: giá BT của Nhà nước thấp, chênh lệch quá xa so với
giá thị trường hay là mức hỗ trợ chưa thỏa đáng, chưa đảm bảo ổn
định cuộc sống, việc làm của người bị THĐ,…mà chưa có sự tư duy
ngược trở lại để chia sẻ với những khó khăn mà doanh nghiệp và
2


Nhà nước gặp phải trong quá trình BT; nghiên cứu phân tích cơ chế
hỗ trợ khi THĐ nông nghiệp đảm bảo quyền lợi chính đáng cho
người nông dân khi bị THĐ, từ đó có nhìn nhận một cách khách
quan để đánh giá đúng thực trạng của vấn đề này, làm cơ sở để đề
xuất các định hướng và giải pháp hoàn thiện, nâng cao hiệu quả áp
dụng pháp luật về BT khi NNTHĐ trong thời gian đến.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu đề tài là làm sáng tỏ những vấn đề lý
luận và thực tiễn (qua thực tiễn tại tỉnh Quảng Nam) của pháp luật về
bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất. Trên cơ sở đó, đề xuất các giải
pháp hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về bồi
thường khi Nhà nước thu hồi đất.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu.
Để đạt được mục đích nghiên cứu trên đây, Luận văn xác định
những nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể sau đây:
- Phân tích khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của BT khi NNTHĐ;
khái niệm, đặc điểm và yêu cầu của pháp luật về BT khi NNTHĐ.
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận, làm rõ khái niệm, đặc
điểm, các yếu tố chi phối pháp luật về BT khi NNTHĐ, lịch sử hình
thành và phát triển của pháp luật cũng như cơ cấu pháp luật điều
chỉnh về BT khi NNTHĐ ở Việt Nam.

- Đánh giá thực trạng pháp luật về BT khi NNTHĐ trên địa
bàn tỉnh Quảng Nam nhằm chỉ ra những thành tựu, hạn chế và
nguyên nhân của những hạn chế; trên cơ sở đó, Luận văn đưa ra định
hướng và các giải pháp tiếp tục hoàn thiện nâng cao hiệu quả thực
hiện pháp luật về BT khi NNTHĐ ở Việt Nam.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài bao gồm:
3


- Hệ thống quan điểm, đường lối, chính sách và pháp luật của
Đảng và Nhà nước về BT khi NNTHĐ.
- Nội dung của Luật đất đai qua các giai đoạn, Luật Đất đai
năm 2013 và các văn bản hướng dẫn thi hành về BT khi NNTHĐ.
- Các thông tin, số liệu, vụ việc từ thực tiễn về áp dụng các
quy định của pháp luật về BT khi NNTHĐ tại tỉnh Quảng Nam
- Các công trình khoa học về pháp luật BT khi NNTHĐ đã
công bố trong và ngoài nước thời gian qua.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
BT khi NNTHĐ ở tỉnh Quảng Nam là đề tài có phạm vi
nghiên cứu rộng, phức tạp liên quan đến nhiều lĩnh vực khác nhau.
Tuy nhiên, trong khuôn khổ có hạn của một bản luận văn thạc sĩ luật
học, Luận văn không kỳ vọng tìm hiểu toàn diện và giải quyết thấu
đáo các yêu cầu của vấn đề BT khi NNTHĐ dưới góc độ pháp lý, mà
giới hạn phạm vi nghiên cứu ở việc nghiên cứu những vấn đề lý luận
và thực tiễn của pháp luật về BT khi NNTHĐ ở tỉnh Quảng Nam,
thông qua việc tìm hiểu, đánh giá nội dung Luật Đất đai năm 2013.
Luận văn đi sâu tập trung nghiên cứu, tìm hiểu vấn đề BT khi
NNTHĐ của hộ gia đình, cá nhân, vì đây là chủ thể sử dụng đất phổ

biến và những bất cập nổi cộm trong BT chủ yếu xảy ra đối với chủ
thể này.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Để đạt được mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài,
Luận văn đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau đây:
5.1. Phương pháp luận
- Phương pháp duy vật biện chứng và phương pháp duy vật
lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lê nin nhằm nghiên cứu vấn đề trong
trạng thái vận động biến đổi không ngừng và trong mối quan hệ tổng
thể tác động qua lại giữa hiện tượng nghiên cứu với các hiện tượng
khác, đồng thời các hiện tượng nghiên cứu luôn được xem xét trong
4


quá trình từ hình thành đến phát triển qua các giai đoạn lịch sử khác
nhau. Bên cạnh đó, tôi cũng dựa trên tư tưởng Hồ Chí Minh, quan
điểm, đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước
trong điều kiện xây dựng kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa (XHCN) để làm sáng tỏ nội dung nghiên cứu của luận văn.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Cùng với những phương pháp trên, tôi đã sử dụng các phương
pháp nghiên cứu cụ thể sau đây:
- Phương pháp thu thập thông tin thứ cấp: Thông tin thứ cấp
được thu thập chủ yếu là các quy định của cơ quan nhà nước ở tỉnh
Quảng Nam và các cơ quan liên ngành về BT, HT và TĐC khi
NNTHĐ. Nguồn thông tin này được thu thập chủ yếu qua báo cáo,
văn bản chỉ đạo, điều hành của UBND tỉnh Quảng Nam, các cơ quan
liên ngành và thông qua các công trình, bài viết, tạp chí, internet…để
lấy thông tin, số liệu liên quan đến thực trạng áp dụng pháp luật về
BT khi NNTHĐ tại tỉnh Quảng Nam.

- Phương pháp tổng hợp, phân tích: được sử dụng để tổng hợp
và phân tích các quy định của pháp luật về BT khi NNTHĐ, cũng
như các thông tin về thực tiễn áp dụng. Phương pháp này còn được
sử dụng để nhận xét, đánh giá trong luận văn.
- Phương pháp thống kê: Phương pháp này được sử dụng
nhằm xử lý các tài liệu, các số liệu mà tôi thu thập từ thực tiễn áp
dụng pháp luật về BT khi NNTHĐ. Qua đó, tôi có được các số liệu,
thông tin tin cậy trình bày trong luận văn. …
Bên cạnh đó, tôi còn sử dụng các phương pháp: diễn dịch, quy
nạp, so sánh, logic...để nghiên cứu và làm sáng tỏ nội dung của luận
văn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn thạc sĩ luật học với đề tài “Pháp luật bồi thường khi
nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam” có những đóng
5


góp chủ yếu sau đây:
6.1. Ý nghĩa lý luận của luận văn: Luận văn đã hệ thống hoá
và góp phần phát triển, bổ sung cơ sở lý luận của pháp luật về BT khi
NNTHĐ và làm rõ cơ chế điều chỉnh của pháp luật về BT khi
NNTHĐ ở Việt Nam.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn của luận văn: Luận văn là tài liệu tham
khảo bổ ích không chỉ đối với các nhà hoạch định chính sách, pháp
luật đất đai, các nhà quản lý đất đai mà còn là tài liệu chuyên khảo
cho công tác giảng dạy, học tập và nghiên cứu khoa học về pháp luật
đất đai ở các cơ sở đào tạo, nghiên cứu về luật học ở nước ta.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo thì
nội dung chính của Luận văn, bao gồm 3 chương:

Chương 1. Những vấn đề lý luận về pháp luật bồi thường khi
Nhà nước thu hồi đất.
Chương 2. Thực trạng pháp luật và thực tiễn thực hiện pháp
luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất tại tỉnh Quảng Nam.
Chương 3. Định hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật và
nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về bồi thường khi Nhà nước
thu hồi đất từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam.
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT BỒI THƯỜNG
KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT
1.1. Bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của bồi thường khi Nhà nước
thu hồi đất
Bồi thường khi NNTHĐ chỉ diễn ra khi Nhà nước thu hồi một
diện tích đất nào đó vì lợi ích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia,
6


lợi ích công cộng và phát triển kinh tế. Thực chất, đây chính là việc
giải quyết mối quan hệ kinh tế giữa Nhà nước với người bị THĐ và
NĐT. Do đó, việc BT khi NNTHĐ phải thực hiện theo quy định của
Nhà nước về giá đất; về điều kiện, trình tự, thủ tục và nguyên tắc
thực hiện BT, HT và TĐC...Cũng cần phải nhấn mạnh rằng, việc BT
khi NNTHĐ không giống với việc BT thiệt hại trong lĩnh vực pháp
luật dân sự, hình sự, lao động. Bởi lẽ, nó không những phải đảm bảo
lợi ích của người bị THĐ, mà còn phải đảm bảo lợi ích của Nhà
nước, của xã hội và của người nhận lại quyền SDĐ sau khi thu hồi.
1.1.2. Phân biệt giữa hỗ trợ, tái định cư với bồi thường khi
Nhà nước thu hồi đất
Khi nghiên cứu pháp luật về BT khi NNTHĐ, ta thấy giữa BT

với HT và TĐC có quan hệ mật thiết với nhau. Tuy nhiên, giữa
chúng cũng thể hiện những điểm khác biệt cơ bản, đó là:
Về nguyên tắc, BT khi NNTHĐ thực hiện theo nguyên tắc là BT
toàn bộ giá trị quyền SDĐ đối với diện tích đất bị thu hồi khi thỏa mãn
điều kiện được BT, BT toàn bộ thiệt hại về tài sản gắn liền với đất.
Về nội dung, khi NNTHĐ sẽ BT giá trị quyền SDĐ đối với
diện tích đất bị thu hồi (là quyền tài sản quan trọng của người SDĐ),
các tài sản gắn liền với đất, các chi phí đầu tư vào đất, các thiệt hại
do ngừng việc hoặc bị ngưng trệ quá trình sản xuất và các thiệt hại
vô hình khác.
Về vị trí, vai trò, BT khi NNTHĐ đóng vai trò trung tâm và có
tính chất quyết định trực tiếp đến quyền và lợi ích của người bị THĐ,
Nhà nước có nghĩa vụ BT ngang giá và sát với giá thị trường về
những thiệt hại hữu hình và vô hình phát sinh trực tiếp từ hoạt động
THĐ.
1.1.3. Ý nghĩa của việc bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất
Để sử dụng hợp lý và có hiệu quả tài nguyên đất đai, nhất là
trong giai đoạn thực hiện CNH-HĐH, tốc độ đô thị hóa nhanh đã gây
7


áp lực rất lớn cho việc SDĐ. Điều này đòi hỏi việc phân bổ quỹ đất
quốc gia nói chung và ở mỗi địa phương nói riêng phải chi tiết, mang
tính khoa học và có tầm nhìn chiến lược. Để hoàn thành mục tiêu
này, không thể tránh khỏi việc NNTHĐ của các chủ thể đang sử
dụng. Do đó, việc BT khi NNTHĐ đóng vai trò hết sức quan trọng.
1.2. Khái niệm, các yêu cầu của pháp luật về bồi thường
khi Nhà nước thu hồi đất
1.2.1. Khái niệm, đặc điểm của pháp luật về bồi thường khi
Nhà nước thu hồi đất

1.2.1.1. Khái niệm pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu
hồi đất
1.2.1.2. Đặc điểm pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu
hồi đất
1.2.2. Các yêu cầu của pháp luật về bồi thường khi Nhà
nước thu hồi đất
1.2.2.1. Các thiệt hại cần xem xét, xác định khi Nhà nước thu
hồi đất để bồi thường
1.2.2.2. Giải quyết hài hòa về lợi ích giữa Nhà nước, người bị
thu hồi đất và người được hưởng lợi từ việc thu hồi đất của Nhà
nước
1.3. Nội dung của pháp luật về bồi thường khi Nhà nước
thu hồi đất
1.3.1. Bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất
Khi nhà nước thực hiện THĐ, các cơ quan thực thi công tác
BT sẽ căn cứ vào các nội dung, đối chiếu với điều kiện, yếu tố theo
quy định để thực hiện việc BT. Tùy vào những trường hợp cụ thể mà
người bị THĐ có thể được xem xét BT hoặc không BT khi NNTHĐ.
Giá đất được áp dụng để tính BT khi NNTHĐ là giá đất cụ thể
được xây dựng theo nguyên tắc sát với giá thị trường, theo đúng mục
đích và tại thời điểm, thời hạn sử dụng đất.
8


Đối với đất nông nghiệp và đất phi nông nghiệp mà không
phải là đất ở, khi NNTHĐ tùy vào thời gian sử dụng, điều kiện
nguồn gốc đất và diện tích đất bị thu hồi, tổ chức, cá nhân có đất bị
thu hồi sẽ được xem xét BT về đất, chi phí đầu tư vào đất còn lại và
các chế độ chính sách, hỗ trợ khác như đào tạo nghề, chuyển đổi
nghề theo quy định của pháp luật. Việc quy định xem xét BT, HT đối

với đất nông nghiệp góp phần để người bị THĐ sớm ổn định đời
sống, sản xuất, kinh doanh, hạn chế thấp nhất những biến động, thiệt
hại khi NNTHĐ.
1.3.2. Bồi thường về tài sản khi nhà nước thu hồi đất
Khi NNTHĐ thì tài sản trên đất của người có đất bị thu hồi
bao gồm nhà cửa, vật kiến trúc, cây cối, hoa màu, vật nuôi, mồ mã
trên đất sẽ được xem xét BT. Tuy vào mức độ thiệt hại khi
NNTHĐ, người bị THĐ sẽ được xem xét BT, HT hợp lý, người bị
THĐ có thể được hỗ trợ toàn bộ công trình bị thiệt hại, hoặc có
thể được hỗ trợ phần bị thiệt hại và chi phí sửa chữa, hoàn thiện
phần còn lại theo tiêu chuẩn kỹ thuật tương đương của nhà, công
trình trước khi phá dỡ. Mức BT nhà, công trình = giá trị hiện có
của nhà, công trình bị thiệt hại + một khoản tiền tính bằng tỷ lệ
phần trăm theo giá trị hiện có của nhà, công trình.
Pháp luật về BT khi NNTHĐ cũng đã quy định việc BT đối với
hoa màu khi THĐ nông nghiệp, mức BT đối với cây hàng năm được
tính theo năng suất của vụ cao nhất trong 3 năm trước liền kề của cây
trồng chính tại địa phương và giá trị trung bình tại thời điểm THĐ.
1.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến pháp luật về bồi thường khi
Nhà nước thu hồi đất
1.4.1. Yếu tố chính trị
Thứ nhất, quan điểm, đường lối của Đảng về xây dựng, hoàn
thiện chính sách, pháp luật đất đai nói chung và chính sách, pháp
luật về BT khi NNTHĐ nói riêng.
9


Thứ hai, chế độ sở hữu toàn dân về đất đai
1.4.2. Yếu tố kinh tế
1.4.3. Yếu tố tâm lý xã hội, nhận thức xã hội

1.4.4. Yếu tố hội nhập quốc tế
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG
PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI
ĐẤT TẠI TỈNH QUẢNG NAM
2.1. Thực trạng pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu
hồi đất
Nhằm khắc phục những bất cập, đảm bảo tốt hơn quyền và lợi
ích hợp pháp giữa Nhà nước, người bị THĐ và nhà đầu tư, Luật Đất
đai 2013 vừa tiếp tục kế thừa, sửa đổi và bổ sung một số quy định
mới so với LĐĐ 2003 nhằm đưa chính sách về BT, HT, TĐC trong
Nghị quyết số 19/NQ-TW ngày 31/10/2012 Hội nghị trung ương 6
khóa XI đi vào cuộc sống.
2.1.1. Quy định về điều kiện để được bồi thường về đất
Khi NNTHĐ, điều kiện để được BT về đất là một nội dung
quan trọng để thực hiện BT cho người bị THĐ. Thực tế cho thấy, rất
nhiều khiếu kiện của người bị THĐ phát sinh xung quanh vấn đề
này. Chính vì vậy pháp luật hiện hành đã mở rộng đối tượng và quy
định cụ thể điều kiện, các loại giấy tờ được coi là hợp pháp, các
trường hợp khác không có giấy tờ hợp pháp nhưng vẫn được coi là
đủ điều kiện để được BT nhằm hoàn thiện hơn nữa những quy định
của pháp luật về điều kiện để được bồi thường khi NNTHĐ.
Những quy định mới này của Luật Đất đai 2013 có phần ngắn
gọn hơn rất nhiều so với trước đây. Do đó, khi thực hiện những quy
định này người dân cũng như các cấp có thẩm quyền cần linh động
10


xem xét, dẫn chiếu theo những trường hợp cụ thể trong luật để thi
hành pháp luật được thuận lợi, tránh hiểu sai dẫn đến khiếu kiện.

2.1.2. Quy định về thu hồi đất không được Nhà nước bồi
thường
Trên thực tế, không phải mọi trường hợp bị THĐ đều được
nhà nước BT. Có những trường hợp bị THĐ không được BT do
không thỏa mãn các điều kiện về BT mà pháp luật quy định. Các
trường hợp này được quy định cụ thể tại Điều 82, Luật Đất đai 2013,
bao gồm:
Tóm lại, người bị THĐ thuộc một trong các trường hợp trên sẽ
không được BT khi NNTHĐ. Tùy từng trường hợp cụ thể nhà nước
sẽ xem xét để HT cho người bị THĐ, đảm bảo theo nguyên tắc khách
quan, công bằng, kịp thời, công khai và đúng quy định của pháp luật.
2.1.3. Quy định về giá đất tính bồi thường và chi phí đầu tư
vào đất
Một trong những vấn đề quan trọng trong BT khi THĐ chính
là giá đất để tính BT. Bởi lẽ, nó là căn cứ quan trọng để thực hiện BT
cho người THĐ, đồng thời là cơ sở để giải quyết lợi ích về kinh tế
giữa nhà nước với người bị THĐ. Thực tế cho thấy, phần lớn các
trường hợp tranh chấp, khiếu kiện liên quan đến BT khi NNTHĐ đều
bắt nguồn từ việc người bị THĐ không chấp nhận giá đất BT. Để
khắc phục tồn tại này, sau khi ban hành Luật Đất đai 2013 ngày
15/5/2014 chính phủ đã ban hành Nghị định 44/2014/NĐ-CP về quy
định giá đất, so với các văn bản trước thì các quy định hiện hành về
giá đất liên quan đến BT về đất có những sửa đổi, bổ sung.
2.1.4. Quy định về các trường hợp được nhà nước BT khi
thu hồi đất
2.1.4.1. Quy định về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất của
hộ gia đình cá nhân
2.1.4.2. Quy định về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất của
11



tổ chức
2.1.4.3. Quy định về những trường hợp được BT khác
2.1.5. Quy định của pháp luật bồi thường về tài sản
2.1.5.1. Quy định bồi thường về nhà, công trình xây dựng trên
đất.
2.1.5.2. Quy định về bồi thường đối với cây trồng, vật nuôi
2.2. Thực tiễn thực hiện pháp luật về bồi thường khi Nhà
nước thu hồi đất tại tỉnh Quảng Nam
2.2.1. Khái quát về điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội của
tỉnh Quảng Nam ảnh hưởng đến việc thực hiện pháp luật về thu
hồi đất
2.2.2. Tình hình thực hiện công tác bồi thường tại tỉnh
Quảng Nam
Thời gian qua công tác BT khi NNTHĐ trên địa bàn tỉnh
Quảng Nam cơ bản đã đáp ứng được yêu cầu sử dụng đất của tỉnh.
Số lượng các dự án phải THĐ hàng năm lớn, số hộ bị ảnh hưởng, chi
phí chi trả công tác BT lớn. Nếu trong năm 2010 thực hiện 242 dự
án, với tổng diện tích thu hồi 3.252,9 ha, với 5.986 tổ chức, cá nhân
hộ gia đình bị ảnh hưởng, tổng chi phí là 1.498,2 tỷ đồng, thì đến
năm 2015 đã thực hiện 385 dự án, tổng diện tích thu hồi 639,6ha, số
tổ chức, cá nhân hộ gia đình bị ảnh hưởng 11.931 với tổng chi phí
1.240 tỷ đồng [62, tr. 1].
2.2.3. Những kết quả đạt được trong thực hiện công tác bồi
thường khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn tỉnh Quảng Nam
Chính sách BT khi NNTHĐ để sử dụng vào mục đích an ninh
quốc phòng, lợi ích quốc gia và phát triển kinh tế được thể chế trong
Luật Đất đai 2013 và quy định tại các văn bản pháp luật có liên quan
của Chính phủ như: Nghị định 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014,
Nghị định 44/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014, Nghị định 47/2014/NĐCP, Nghị định 01/2017/NĐ-CP ngày 01/6/2017 và các thông tư

12


hướng dẫn đã tạo khung pháp lý trong BT, HT&TĐC khi NNTHĐ,
làm cơ sở để các bộ, ngành, địa phương, các đơn vị thực hiện việc
BT khi NNTHĐ.
Trong 5,5 năm qua, tỉnh Quảng Nam đã tổ chức GPMB để
thực hiện 1.215 dự án, đây là số lượng dự án khá lớn trong tiến trình
đô thị hóa, công nghiệp hóa, phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế - xã
hội chung trên địa bàn của tỉnh; trong đó, số lượng hộ gia đình bị ảnh
hưởng bởi dự án khá nhiều: 68.612 hộ cho thấy là thành công, kết
quả đáng ghi nhận trong công tác BT, HT & TĐC của tỉnh để thực
hiện nhiều các dự án, công trình trọng điểm, làm thay đổi cơ bản
diện mạo tỉnh nhà, tạo động lực kết nối, phát triển với các tỉnh bạn,
khu vực. (Xem phần Phụ lục)
2.3.4. Những hạn chế, vướng mắc trong việc thực hiện bồi
thường khi nhà nước thu hồi đất tại tỉnh Quảng Nam
Thực tiễn triển khai công tác BT khi NNTHĐ trong những
năm qua gặp không ít khó khăn, phức tạp; việc khiếu kiện liên quan
đến giá đất khi BT từ phía người dân đang có xu hướng gia tăng.
Theo đánh giá của cơ quan thanh tra tỉnh Quảng Nam hằng năm có
trên 70% vụ KN, TC liên quan đến đất đai, trong đó nguyên nhân
chủ yếu là do việc BT thiệt hại cho người có đất bị thu hồi chưa thỏa
đáng.
Thứ nhất, về điều kiện BT khi NNTHĐ.
Thứ hai, về xác định giá đất để tính BT
Thứ ba, việc chênh lệch giá đất trước và sau khi thu hồi
Thứ tư, vấn đề liên quan đến trách nhiệm của cơ quan nhà
nước có thẩm quyền.
2.3.5. Nguyên nhân hạn chế, thiếu sót, vướng mắc

2.3.5.1. Nguyên nhân khách quan
2.3.5.2. Nguyên nhân chủ quan

13


CHƯƠNG 3
ĐỊNH HƯỚNG, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ
NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ BỒI
THƯỜNG KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT TỪ THỰC TIỄN
TỈNH QUẢNG NAM
3.1 Định hướng hoàn thiện các quy định thực thi pháp luật
về bồi thường khi nhà nước thu hồi đất
Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận và đánh giá thực
trạng pháp luật về BT khi NNTHĐ ở tỉnh Quảng Nam tại Chương 1
và Chương 2, tôi cho rằng việc hoàn thiện lĩnh vực pháp luật này cần
dựa trên những định hướng chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, việc hoàn thiện pháp luật về BT khi NNTHĐ phải
căn cứ vào quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng về tiếp tục
đổi mới chính sách, pháp luật đất đai trong thời kỳ đẩy mạnh toàn
diện công cuộc đổi mới, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ
bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Xét về mặt lý luận pháp luật là sự thể chế hóa quan điểm,
đường lối, chính sách của Đảng. Việc hoàn thiện pháp luật nói chung
và pháp luật về BT khi NNTHĐ nói riêng phải dựa trên quan điểm,
đường lối của Đảng nhằm đảm bảo sự định hướng chính trị trong xây
dựng pháp luật. Quan điểm, đường lối của Đảng về đổi mới chính
sách, pháp luật đất đai nói chung và chính sách, pháp luật về BT khi
NNTHĐ nói riêng được thể hiện rõ tại Nghị quyết số 19-NQ/TW
ngày 06/11/2012 của Hội nghị lần thứ VI Ban chấp hành Trung ương

Đảng khóa XI. Để đảm bảo định hướng này, pháp luật về BT khi
NNTHĐ cần phải chú trọng những vấn đề sau:
Một là, Nhà nước chủ động THĐ theo kế hoạch sử dụng đất
của giai đoạn và hàng năm đã được xét duyệt. Quy định rõ ràng và
cụ thể hơn các trường hợp Nhà nước thực hiện việc THĐ để sử dụng
14


vào các mục đích quốc phòng, an ninh, phục vụ lợi ích quốc gia, lợi
ích công cộng và các dự án phát triển kinh tế, xã hội, không có phân
biệt dự án đó thuộc thành phần kinh tế nào.
Hai là, việc BT khi NNTHĐ phải bảo đảm công khai, minh
bạch, dân chủ, khách quan, và công bằng. Đây là những giá trị phổ
quát được pháp luật và thực tiễn pháp lý kiểm chứng trong quá trình
thực thi pháp luật đất đai ở nước ta. Nếu các quy định của pháp luật
thiếu công khai, minh bạch sẽ tạo điều kiện phát sinh tham nhũng,
tiêu cực; thiếu dân chủ, khách quan sẽ làm cho người bị THĐ không
đồng thuận và phát sinh tranh chấp, khiếu kiện kéo dài.
Ba là, trong công tác BT khi NNTHĐ, cần chú ý đến việc thực
hiện có hiệu quả phương án đào tạo nghề, tạo việc làm, tổ chức lại
sản xuất và bảo đảm đời sống của nhân dân ở khu vực có đất bị thu
hồi, bởi đất trong đó có đất nông nghiệp là tư liệu sản xuất chủ yếu
của người nông dân.
Thứ hai, hoàn thiện pháp luật về BT khi NNTHĐ phải dựa
trên nguyên tắc giải quyết hài hòa lợi ích của Nhà nước, của doanh
nghiệp và lợi ích của người bị THĐ.
Khi NNTHĐ sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh; lợi
ích quốc gia; lợi ích công cộng và vào mục đích kinh tế (gọi chung là
các mục đích chung) đã để lại những hậu quả rất khác nhau đối với
các bên có liên quan: người bị THĐ không chỉ mất đi chỗ ở, nhà cửa

vật kiến trúc trên đất bị thu hồi mà nếu đất thu hồi là đất nông nghiệp
thì họ còn bị mất tư liệu sản xuất, không có “công ăn việc làm” đời
sống gặp nhiều khó khăn; Nhà nước có được diện tích đất để sử dụng
cho các mục đích chung; doanh nghiệp hoặc chủ đầu tư có đất để sử
dụng vào mục đích sản xuất - kinh doanh, thương mại. Thực tiễn cho
thấy, thiệt hại hay ảnh hưởng tiêu cực thường rơi về phía người bị
THĐ và dường như tác động tích cực hay lợi ích lại nằm ở phía
những đối tượng được tiếp cận đất đai (doanh nghiệp, chủ đầu tư).
15


Thứ ba, hoàn thiện pháp luật về BT khi NNTHĐ phải đặt
trong mối quan hệ với việc hoàn thiện pháp luật đất đai nói chung và
các đạo luật khác có liên quan.
Chế định BT khi NNTHĐ là một chế định cơ bản của pháp
luật đất đai. Chế định này có mối quan hệ mật thiết với các quy định
khác của pháp luật đất đai như quy định về những trường hợp THĐ.
Thứ tư, hoàn thiện pháp luật về BT khi NNTHĐ phải gắn liền
với việc hoàn thành dứt điểm cấp GCNQSDĐ đi đôi với hiện đại hoá
hệ thống bản đồ, hồ sơ địa chính.
Ở nước ta do tính chất đặc thù của chế độ sở hữu đất đai nên
QSDĐ được pháp luật thừa nhận là một loại tài sản đặc biệt được
phép trao đổi trên thị trường. Tuy nhiên, khác với các loại hàng hoá
khác, QSDĐ “cần được “đóng gói” để dễ dàng cầm nắm, trao đổi,
nghĩa là chúng cần được đo đạc, lập hồ sơ, đánh số, cấp giấy chứng
nhận để dễ dàng lưu chuyển”. Khi người sử dụng đất được Nhà nước
cấp GCNQSDĐ, họ sẽ được pháp luật bảo hộ quyền và lợi ích hợp
pháp trong sử dụng đất đai. Để thực hiện tốt chức năng quản lý đất
đai thì toàn bộ quỹ đất tự nhiên trên cả nước phải được “lập hồ sơ ô
thửa, đánh số, cấp giấy chứng nhận”. Khi người sử dụng đất đã được

cấp GCNQSDĐ thì việc BT về đất khi NNTHĐ sẽ trở nên thuận lợi
hơn rất nhiều. Thực tế cho thấy, những khó khăn, phức tạp, khiếu nại
nẩy sinh trong công tác BT khi NNTHĐ chủ yếu phát sinh từ các
trường hợp không có hoặc thiếu các giấy tờ về QSDĐ. Trong trường
hợp này, khi NNTHĐ để thực hiện BT phải dựa trên việc xác nhận
nguồn gốc, thời gian, mục đích sử dụng đất của UBND cấp xã làm
căn cứ lập phương án BT. Việc xác nhận nguồn gốc, thời gian, mục
đích sử dụng đất gặp rất nhiều khó khăn, phức tạp do hồ sơ, tài liệu
về đất đai lưu giữ của chính quyền cấp xã có nhiều biến động, chưa
cập nhật thường xuyên,... Để khắc phục những tồn tại này, việc hoàn
thiện pháp luật về BT khi NNTHĐ phải hướng tới việc hoàn thành
16


dứt điểm công tác cấp GCNQSDĐ đi đôi với hiện đại hoá hệ thống
bản đồ địa chính, hồ sơ địa chính [40, tr.129].
3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả
thực hiện pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất
3.2.1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về bồi thường khi Nhà
nước thu hồi đất
3.2.1.1. Hoàn thiện quy định pháp luật về nguyên tắc bồi
thường khi Nhà nước thu hồi đất
3.2.1.2. Hoàn thiện quy định pháp luật về cơ chế xác định giá
đất bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất
3.2.1.3. Hoàn thiện các quy định pháp luật liên quan đến điều
kiện bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất
3.2.1.4. Hoàn thiện quy định pháp luật về việc Nhà nước điều
tiết một phần lợi ích từ việc thu hồi, chuyển mục đích sử dụng đất để
thực hiện các khoản hỗ trợ cho người sử dụng đất
3.2.1.5. Hoàn thiện các quy định pháp luật về trình tự, thủ tục

thu hồi và bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất
3.2.1.6. Hoàn thiện các quy định pháp luật về giải quyết khiếu
nại, tố cáo về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất
3.2.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về
bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất
Ban hành một hệ thống pháp luật đồng bộ, hoàn chỉnh, điều
chỉnh có hiệu quả các quan hệ đất đai đã là điều không dễ, song việc
tổ chức thực thi trên thực tế một cách nghiêm minh, khách quan và
minh bạch là một công việc còn khó hơn nhiều. Để có thể nâng cao
hiệu quả áp dụng pháp luật trong lĩnh vực BT, Nhà nước cần tập
trung vào một số giải pháp cơ bản sau
3.2.2.1. Đẩy mạnh việc công khai hóa, minh bạch hóa quá
trình thực thi pháp luật về BT khi Nhà nước thu hồi
Thực tiễn cho thấy rằng, trong nhiều trường hợp, nguyên nhân
17


chủ yếu phát sinh các tranh chấp, khiếu kiện về BT khi NNTHĐ là
do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền không công khai, minh bạch
việc BT nên không nhận được sự đồng thuận của người dân. Ở nhiều
nơi, việc thu hồi, BT đối với đất diễn ra không rõ ràng, minh bạch.
Cơ quan nhà nước có thẩm quyền không thực hiện đúng các quy
định, quy trình về thông báo cho người sử dụng đất biết lý do thu
hồi, thời gian và kế hoạch di chuyển, phương án tổng thể về BT, hỗ
trợ. Không những thế, việc công khai, dân chủ trong công tác lập
phương án BT chưa sâu sát đến từng người dân, làm hạn chế quyền
được đề xuất, được thể hiện tâm tư nguyện vọng của người bị THĐ.
Chính những điều này đã gây nên những nghi ngờ trong nhân dân về
sự không công tâm của các cán bộ thực thi việc BT, hỗ trợ khi
NNTHĐ. Việc BT không công khai và thiếu sự minh bạch cũng là

nguyên nhân làm phát sinh tham nhũng, tiêu cực trong công tác BT.
Vì vậy, cần lưu ý rằng, minh bạch, công khai về BT phải đảm bảo ở
tất cả các khâu, các công đoạn của quá trình THĐ, BT, HT và GPMB
3.2.2.2. Đẩy nhanh tiến độ và nâng cao chất lượng của công
tác cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
Khi người sử dụng đất được cấp GCNQSDĐ, họ sẽ được pháp
luật bảo hộ các quyền và lợi ích hợp pháp trong quá trình sử dụng
đất. GCNQSDĐ cũng là cơ sở pháp lý để người sử dụng đất được BT
khi bị THĐ, việc tính toán BT cho người sử dụng đất sẽ thuận lợi
hơn rất nhiều khi họ đã được cấp giấy chứng nhận. Có thể nói,
GCNQSDĐ có ý nghĩa quan trọng trong công tác quản lý Nhà nước
về đất đai nói chung và trong công tác BT nói riêng. Vì vậy, cần phải
đẩy nhanh tiến độ và hoàn thành dứt điểm việc cấp GCNQSDĐ. Để
làm được điều này cần rà soát kỹ càng hiện trạng sử dụng đất ở địa
phương, thực hiện khẩn trương việc đăng ký sử dụng đất, tiến hành
kê khai, đo đạc đất đai một cách đồng bộ, điều này cần phải được
thực hiện với sự chỉ đạo quyết liệt của các cấp chính quyền; Cải cách
18


thủ tục hành chính trong việc cấp GCNQSDĐ, để hạn chế thời gian
và thủ tục phiền hà khi được cấp giấy; Đầu tư cơ sở vật chất, ứng
dụng công nghệ thông tin, xây dựng cơ sở dữ liệu điện tử để phục vụ
cho việc quản lý thuận tiện, thống nhất đối với hồ sơ địa chính trên
phạm vi cả nước [40,tr.154].
3.2.2.3. Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục
pháp luật đất đai nói chung, cũng như pháp luật về bồi thường khi
Nhà nước thu hồi đất nói riêng cho cán bộ và nhân dân, từ đó tạo ra
sự đồng thuận của người dân khi Nhà nước thu hồi đất
Trong thực tiễn thi hành, việc tuyên truyền phổ biến pháp luật

sâu rộng đến người dân là hết sức cần thiết. Thực tế cho thấy, địa
phương nào làm tốt công tác vận động, tuyên truyền người dân hiểu
về chủ trương, chính sách của Nhà nước, thấy được những lợi ích do
việc THĐ mang lại cho xã hội, thì việc THĐ ở địa phương đó dễ
nhận được sự đồng thuận của người dân. Họ sẽ tích cực chủ động di
dời, bàn giao mặt bằng cho Nhà nước trong một thời gian ngắn, thậm
chí có nơi, người dân còn tự giác phá dỡ nhà ở và các công trình xây
dựng để bàn giao mặt bằng cho Nhà nước mở rộng đường quốc lộ,
mà không nhận tiền BT. Điều đó cho thấy, người dân luôn đồng hành
với Nhà nước trên con đường xây dựng và phát triển đất nước, nếu
chúng ta có những quyết sách đúng đắn.
3.2.2.4. Tăng cường thanh tra, kiểm tra, giám sát và xử lý vi
phạm trong quá trình thực hiện các quy định về trình tự, thủ tục thu
hồi đất, bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất
Trình tự thủ tục về THĐ, BT khi NNTHĐ kể từ khi có Luật Đất
đai 2003 đến nay, đã được quy định theo hướng đơn giản hóa, nhằm
giải quyết nhanh chóng những vướng mắc, tồn tại trong quá trình thực
hiện; rút ngắn thời gian và quy trình thực hiện thủ tục. Tuy nhiên, thực
tiễn áp dụng các quy định này vẫn còn tồn tại những vướng mắc, bất
cập; nếu không được giải quyết một cách thỏa đáng và triệt để, sẽ ảnh
19


hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng đất, gây thiệt
hại đến Nhà nước, nhà đầu tư và xã hội, làm giảm lòng tin của người
dân đối với pháp luật và Nhà nước, đồng thời tác động không tốt đến
an ninh, chính trị và trật tự an toàn xã hội. Để góp phần nâng cao hiệu
quả của việc thực hiện quy trình THĐ và BT, chúng ta cần thực hiện
một số giải pháp cơ bản sau:
Thứ nhất, tăng cường thanh tra, kiểm tra (định kỳ hoặc đột

xuất) các cơ quan có thẩm quyền THĐ, Tổ chức làm nhiệm vụ BT.
Thứ hai, thực hiện việc giám sát thi hành thông qua Hội đồng
nhân dân, Mặt trận Tổ quốc các cấp, nhất là vai trò giám sát xã hội
của các cơ quan truyền thông, các tổ chức xã hội và người dân.
Thứ ba, thanh tra, kiểm tra việc giải quyết các KN, TC về BT
khi NNTHĐ và các KN, TC liên quan đến trình tự thủ tục THĐ, BT,
hỗ trợ khi THĐ của các cơ quan, cá nhân có thẩm quyền khi thực thi
nhiệm vụ.
3.2.2.5. Thực hiện nghiêm túc công tác lập quy hoạch, kế
hoạch sử dụng đất; tăng cường thanh tra, kiểm tra, giám sát việc
thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất
Muốn quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đảm bảo tính khả thi,
tính thống nhất, tính đồng bộ và tránh tình trạng quy hoạch “treo”.
Thiết nghĩ, cần phải thực hiện một số giải pháp cơ bản sau:
Thứ nhất, xác định rõ ràng mối quan hệ giữa quy hoạch sử
dụng đất với quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội và quy hoạch xây
dựng đô thị nhằm tránh hiện tượng mâu thuẫn, chồng chéo giữa các
loại quy hoạch.
Thứ hai, khi lập quy hoạch, cần có cái nhìn tổng thể và dài
hạn, chắc chắn về nhu cầu sử dụng đất (từ 10 năm trở lên) vì quy
hoạch chính là việc dự đoán khả năng ứng dụng trong tương lai, trên
cơ sở đó sẽ giúp Nhà nước chuẩn bị được quỹ đất để chủ động trong
việc phân phối lại đất đai. Việc lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất
20


phải tính đến các yếu tố KTXH, môi trường, các yếu tố liên kết đa
ngành, đa lĩnh vực tại địa bàn thực hiện.
Thứ ba, thực hiện việc công bố công khai và đảm bảo tính
khách quan, minh bạch của quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch xây

dựng đô thị, quy hoạch chi tiết các dự án chuẩn bị triển khai thực
hiện trên các phương tiện thông tin truyền thông hoặc niêm yết công
khai (tại trụ sở cơ quan, đơn vị lập quy hoạch, UBND cấp xã nơi có
đất, trừ trường hợp quy hoạch liên quan đến an ninh, quốc phòng) và
tiến hành cắm mốc giới theo quy hoạch, xác định đường chỉ giới xây
dựng trên thực địa một cách rõ ràng, cụ thể.
Thứ tư, thực hiện thanh tra, kiểm tra và giám sát việc lập quy
hoạch, kế hoạch sử dụng đất tại các địa phương một cách thường
xuyên nhằm thực hiện nghiêm túc và đảm bảo tính thống nhất về quy
hoạch giữa cấp trên và cấp dưới, giữa trung ương và địa phương.
Trong trường hợp thực sự cần thiết phải điều chỉnh quy hoạch, kế
hoạch sử dụng đất thì phải kiểm tra lại kỹ càng lý do điều chỉnh và
giám sát chặt chẽ quá trình thực hiện, nhằm tránh hiện tượng điều
chỉnh nhiều lần hoặc “quy hoạch một đằng, làm một nẻo” hoặc quy
hoạch khập khiễng, chắp vá. Trong quá trình thực hiện dự án, phải
thường xuyên thanh tra, kiểm tra và giám sát việc thực hiện quy
hoạch, kế hoạch sử dụng đất của cấp cơ sở, của chủ dự án đầu tư,
nhằm đảm bảo việc khai thác và sử dụng đất đạt hiệu quả cao, tránh
tình trạng dự án sử dụng sai mục đích hoặc dự án không thực hiện.
Đối với những trường hợp vi phạm, cần phải chấn chỉnh kịp thời và
xử lý nghiêm minh bằng việc áp dụng các chế tài thích đáng.
Thứ năm, chuẩn bị những điều kiện cần thiết cho việc tiến tới
xây dựng Luật quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất nhằm đảm bảo tính
thống nhất, tính khả thi, tính đồng bộ và ổn định trong công tác lập
quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất cũng như triển khai thực hiện quy
hoạch, kế hoạch sử dụng đất; bởi quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất
21


thực sự là một công cụ quan trọng không thể thiếu trong quá trình Nhà

nước thực hiện chức năng quản lý nhà nước về đất đai [40, tr.159].
KẾT LUẬN
Bồi thường khi NNTHĐ là vấn đề phức tạp và mang tính thời
sự nóng bỏng, thu hút sự quan tâm của toàn xã hội; có ảnh hưởng
trực tiếp đến cuộc sống, tâm lý của người dân và tác động không nhỏ
đến sự ổn định chính trị. Với mục tiêu đẩy mạnh toàn diện công cuộc
đổi mới, tạo nền tảng đến năm 2020, nước ta cơ bản trở thành nước
công nghiệp phát triển theo hướng hiện đại thì chúng ta không thể
không thực hiện CNH - HĐH đất nước. Để giải quyết bài toán đất
đai đáp ứng yêu cầu CNH - HĐH đất nước thì việc THĐ là việc làm
tất yếu. Tuy nhiên, việc làm này gây ra nhiều hậu quả mà nếu không
giải quyết dứt điểm, kịp thời sẽ phát sinh tranh chấp, khiếu nại kéo
dài và tiềm ẩn nguy cơ mất ổn định chính trị. Pháp luật về BT khi
NNTHĐ ra đời nhằm tạo cơ sở pháp lý cho việc thực hiện THĐ và
giải quyết hài hoà lợi ích của các bên liên quan: Lợi ích của Nhà
nước, lợi ích của người bị THĐ và lợi ích của người sử dụng đất sau
thu hồi. Trên cơ sở các kết quả nghiên cứu những vấn đề lý luận về
pháp luật BT khi NNTHĐ ở Chương 1; đánh giá thực trạng pháp luật
và thực tiễn áp dụng pháp luật về BT khi NNTHĐ tại tỉnh Quảng
Nam ở Chương 2 và đề xuất định hướng, giải pháp hoàn thiện pháp
luật về BT khi NNTHĐ tại Chương 3 của Luận văn, tôi rút ra một số
kết luận chủ yếu sau đây:
1. Việc THĐ được thực hiện để sử dụng vào mục đích quốc
phòng, an ninh, để phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công
cộng là một tất yêu khách quan trong quá trình xây dựng phát triển
xã hội, được quy định tại Luật Đất đai 2013 và các văn bản hướng
dẫn thi hành có liên quan.
2. Việc NNTHĐ sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh,
22



để phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng của đất
nước không do lỗi của người sử dụng đất gây ra mà xuất phát từ nhu
cầu khách quan của xã hội. Do đó, Nhà nước với tư cách là tổ chức
chính trị quyền lực do xã hội thiết lập nên thay mặt xã hội có trách
nhiệm BT cho người bị THĐ. Đây không chỉ là trách nhiệm pháp lý
mà còn là trách nhiệm xã hội của Nhà nước.
3. Việc NNTHĐ gây ra những hậu quả năng nề cho người sử
dụng đất. Cuộc sống của nhân dân bị đảo lộn do phải thay đổi nơi ở,
thay đổi thói quen sinh hoạt, đối với người dân bị THĐ nông nghiệp,
họ còn bị mất tư liệu sản xuất, trở thành những người không có công
ăn việc làm, thu nhập bị giảm sút, cuộc sống rơi vào khó khăn. Để
đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của người bị THĐ, pháp luật về
BT khi NNTHĐ ở Việt Nam không chỉ đề cập đến việc BT về đất
(BT diện tích đất thực tế bị thu hồi), BT thiệt hại về tài sản gắn liền
với đất bị thu hồi mà còn có các quy định về hỗ trợ cho người trực
tiếp sản xuất nông nghiệp bị mất đất sản xuất, hỗ trợ việc đào tạo,
chuyển đổi nghề nghiệp, hỗ trợ đời sống gặp khó khăn do việc bị mất
đất sản xuất gây ra.
4. Pháp luật về BT khi NNTHĐ được chú tâm nhiều từ khi
Luật đất đai năm 1993 và các văn bản hướng dẫn thi hành. Lĩnh vực
pháp luật này thường xuyên được rà soát, sửa đổi, bổ sung và hoàn
thiện nhằm phù hợp với thực tiễn. Hệ thống các văn bản pháp luật
đất đai hiện hành, Luật Đất đai năm 2013, Nghị định 43/2014/NĐCP, 44/2014/NĐ-CP, 01/2017/NĐ-CP…đã tạo cơ sở pháp lý cho
việc BT khi NNTHĐ.
5. Đánh giá thực trạng pháp luật về BT khi NNTHĐ trên địa
bàn tỉnh Quảng Nam cho thấy bên cạnh những kết quả đạt được, việc
thực thi còn bộc lộ một số hạn chế: (i) Việc xác định điều kiện để
được xem xét BT khi NNTHĐ chưa phù hợp; (ii) việc xác định giá
đất cụ thể để BT khi NNTHĐ còn bất cập, khó khăn (iii) chênh lệch

23


×