Pháp luật về bồi thường khi nhà nước thu hồi
đất qua thực tiễn áp dụng tại địa bàn quận Tây
Hồ, thành phố Hà Nội
Lê Thị Yến
Khoa Luật
Luận văn ThS. ngành: Luật kinh tế; Mã số: 60 38 50
Người hướng dẫn: PGS.TS. Phạm Hữu Nghị
Năm bảo vệ: 2011
Abstract. Nghiên cứu một số vấn đề lý luận về bồi thường khi nhà nước thu hồi đất
(NNTHĐ). Phân tích, đánh giá thực tiễn áp dụng pháp luật về bồi thường khi
NNTHĐ từ khi luật đất đai (LĐĐ) năm 2003 có hiệu lực đến nay tại địa bàn quận
Tây Hồ. Qua đó, chỉ ra các quy định phù hợp, chưa phù hợp của pháp luật về bồi
thường khi NNTHĐ, cũng như những tồn tại, vướng mắc trong thực tiễn áp dụng và
nêu nguyên nhân của tình trạng này. Đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp
luật và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về bồi thường khi NNTHĐ.
Keywords. Luật kinh tế; Pháp luật Việt Nam; Bồi thường; Đất đai; Hà Nội
Content
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thực tế cho thấy, pháp luật về bồi thường (BT) khi Nhà nước thu hồi đất (NNTHĐ) và
thực tiễn áp dụng từ khi có Luật Đất đai (LĐĐ) năm 2003 đến nay, đang gặp phải rất nhiều
vướng mắc như: điều kiện được BT, hỗ trợ (HT) về đất, giá trị được BT, HT về đất, nhà ở và
các tài sản trên đất, các vấn đề về tái định cư (TĐC) và điều kiện sinh hoạt của người dân phải
di dời, các vấn đề phát sinh sau khi thực hiện các chính sách HT. Đã vậy, các cơ quan, cá nhân có
thẩm quyền khi áp dụng pháp luật về BT khi NNTHĐ vào thực tiễn tại nhiều địa phương trong
thời gian qua vẫn còn cứng nhắc, bị động và thiếu sự linh hoạt, chưa thực sự chú ý lắng nghe các
kiến đóng góp từ phía người dân bị thu hồi đất, thậm chí vi phạm pháp luật trong quá trình giải
quyết việc BT, HT và TĐC. Những tồn tại, vướng mắc nêu trên là do rất nhiều nguyên nhân, cả
khách quan lẫn chủ quan.
Do có vị trí địa lý quan trọng, quận Tây Hồ phải chủ động được quỹ đất khá lớn để đáp
ứng tốt nhu cầu sử dụng đất (SDĐ) của các dự án phát triển hạ tầng kinh tế, hạ tầng xã hội, hạ
tầng kỹ thuật. Để đạt được mục tiêu này, quận Tây Hồ phải tiến hành THĐ, đồng thời cần
thực hiện tốt việc BT khi NNTHĐ. Song thời gian vừa qua, quận Tây Hồ, thành phố Hà Nội
cũng đã và đang phải đối mặt với nhiều thách thức kể trên trong quá trình thực hiện việc BT
khi NNTHĐ.
Trong bối cảnh đó, việc nghiên cứu các quy định pháp luật về BT khi NNTHĐ trên thực
tiễn là cần thiết, nhằm góp phần tìm ra giải pháp khắc phục những tồn tại, thiếu sót nói trên
và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về BT khi NNTHĐ tại địa bàn quận Tây Hồ nói riêng
và các địa phương khác trong cả nước nói chung. Với ý nghĩa đó, tôi đã chọn đề tài “Pháp
luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất qua thực tiễn áp dụng tại địa bàn quận Tây
Hồ, thành phố Hà Nội” để làm luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Đến nay, vấn đề bồi thường khi NNTHĐ đã thu hút được sự quan tâm của nhiều tác giả
nghiên cứu dưới nhiều phương diện khác nhau. Có thể đề cập đến một số công trình, bài báo
tiêu biểu như: Nhà tái định cư: vừa ở vừa…run của tác giả Nguyễn Thiêm - Báo Công an
nhân dân, số ra ngày 21/05/2005; Pháp luật về bồi thường thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất
- Luận văn Thạc sĩ luật học của Nguyễn Vinh Diện - năm 2006; Vấn đề việc làm cho người bị
thu hồi đất ở nông thôn trong quá trình xây dựng, phát triển các khu công nghiệp của tác giả
Đỗ Đức Quân - Tạp chí Kinh tế và Dự báo, số 8 (412), tháng 8 năm 2007, tr.33-35; Pháp luật
về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất (qua thực tiễn thi hành hành tại
thành phố Hà Nội) - Luận văn Thạc sĩ luật học của Nguyễn Duy Thạch - năm 2007; Vì sao
dân chưa đồng thuận của tác giả Đức Tâm - Báo điện tử Kinh tế và Đô thị, số ra ngày
19/8/2008; Bức xúc thu hồi đất không chỉ do giá đền bù của tác giả Lan Hương - Báo điện tử
Dân trí, số ra ngày 03/10/2008; Một số ý kiến hoàn thiện pháp luật về bồi thường khi Nhà
nước thu hồi đất của tác giả Ths. Lê Ngọc Thạnh - Tạp chí Tài nguyên và Môi trường, số 11
(73), tháng 6 năm 2009, tr.40-43; Dân bức xúc vì sự vô cảm của chính quyền của nhóm
phóng viên điều tra - Báo điện tử Nhà báo và Công luận, số ra ngày 17/09/2009.
Nói chung, các công trình, bài báo nêu trên đều nghiên cứu về bồi thường khi NNTHĐ ở
mức độ và phạm vi khác nhau. Có công trình, bài báo nghiên cứu đi sâu phân tích, bình luận
một số khía cạnh pháp lý về bồi thường khi NNTHĐ; có công trình, bài báo nghiên cứu vấn
đề này ở phạm vi rộng nhằm đánh giá khái quát pháp luật và thực trạng pháp luật về bồi
thường khi NNTHĐ. Bên cạnh đó, lại có công trình nghiên cứu vấn đề này thông qua việc
đánh giá thực trạng áp dụng pháp luật tại địa bàn cụ thể của một tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương… Tuy nhiên, chưa có công trình nào nghiên cứu vấn đề này nhìn từ góc độ thực
tiễn áp dụng pháp luật về bồi thường khi NNTHĐ trên phạm vi địa bàn cấp huyện. Với mong
muốn được tiếp cận vấn đề từ góc độ thực tiễn một cách chi tiết, đồng thời bằng việc tham
chiếu giữa các quy định của pháp luật về bồi thường khi NNTHĐ với thực tiễn áp dụng qua các
vụ việc, tình huống cụ thể, một mặt học viên chỉ ra được những quy định phù hợp, không phù
hợp của pháp luật với thực tiễn cuộc sống, mặt khác cũng đưa ra những nhận xét, đánh giá việc
thực thi pháp luật về bồi thường khi NNTHĐ của các cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền ở
một địa bàn cụ thể. Trên cơ sở đó, tôi đề xuất một số giải pháp góp phần hoàn thiện pháp luật và
nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về bồi thường khi NNTHĐ cho phù hợp với đòi hỏi của
thực tiễn hiện nay và trong tương lai.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn là làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về bồi thường khi
NNTHĐ và thực tiễn áp dụng pháp luật về bồi thường khi NNTHĐ qua các vụ việc, tình
huống cụ thể tại địa bàn quận Tây Hồ - một đơn vị điển hình có tốc độ đô thị hóa nhanh và
mạnh của thành phố Hà Nội.
Để đạt được mục đích nêu trên, luận văn có nhiệm vụ giải quyết các vấn đề chủ yếu sau:
- Nghiên cứu một số vấn đề lý luận về bồi thường khi NNTHĐ;
- Phân tích, đánh giá thực tiễn áp dụng pháp luật về bồi thường khi NNTHĐ từ khi LĐĐ
năm 2003 có hiệu lực đến nay tại địa bàn quận Tây Hồ. Qua đó, chỉ ra các quy định phù hợp,
chưa phù hợp của pháp luật về bồi thường khi NNTHĐ, cũng như những tồn tại, vướng mắc
trong thực tiễn áp dụng và nêu nguyên nhân của tình trạng này;
- Đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp
luật về bồi thường khi NNTHĐ.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là:
- Một số vấn đề lý luận về bồi thường khi NNTHĐ;
- Nội dung các quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước ở Trung ương, của Ủy ban nhân
dân (UBND) thành phố Hà Nội về bồi thường khi NNTHĐ tại địa bàn quận Tây Hồ từ khi
Luật Đất đai năm 2003 có hiệu lực đến nay;
- Nghiên cứu thực tiễn áp dụng pháp luật về bồi thường khi NNTHĐ qua các vụ việc,
tình huống cụ thể tại địa bàn quận Tây Hồ, thành phố Hà Nội từ khi Luật Đất đai năm 2003
có hiệu lực đến nay.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn là:
- Về phạm vi đối tượng, luận văn chỉ tập trung nghiên cứu các quy định pháp luật về bồi
thường khi NNTHĐ mà cụ thể là các quy định về BT, HT về đất và tài sản, các chính sách
HT và các quy định về TĐC cho hộ gia đình (HGĐ), cá nhân khi NNTHĐ;
- Về phạm vi không gian và thời gian, luận văn nghiên cứu các quy định về BT, HT về
đất và tài sản, hỗ trợ và TĐC cho HGĐ, cá nhân khi NNTHĐ qua thực tiễn áp dụng tại địa
bàn quận Tây Hồ, thành phố Hà Nội từ khi LĐĐ năm 2003 có hiệu lực đến nay (2010).
5. Phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành luận văn, tôi đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu chủ yếu sau:
- Phương pháp duy vật biện chứng và phương pháp duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác -
Lênin nhằm nghiên cứu vấn đề trong trạng thái vận động biến đổi không ngừng và trong mối
quan hệ tổng thể tác động qua lại giữa hiện tượng nghiên cứu với các hiện tượng khác, đồng
thời các hiện tượng nghiên cứu luôn được xem xét trong quá trình từ hình thành đến phát
triển qua các giai đoạn lịch sử khác nhau. Bên cạnh đó, tôi cũng dựa trên tư tưởng Hồ Chí
Minh, quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước trong điều kiện
xây dựng kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN) để làm sáng tỏ nội dung
nghiên cứu của luận văn.
Cùng với những phương pháp trên, tôi đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể
sau đây:
- Phương pháp thu thập thông tin thứ cấp: Thông tin thứ cấp được thu thập chủ yếu là các
quy định của cơ quan nhà nước ở Trung ương, của UBND thành phố Hà Nội, UBND quận
Tây Hồ và các cơ quan liên ngành về BT, HT và TĐC khi NNTHĐ. Nguồn thông tin này
được thu thập chủ yếu qua Công báo, các trang web của các cơ quan nhà nước có thẩm
quyền. Đồng thời, tôi cũng thông qua các quyết định, báo cáo, ý kiến chỉ đạo của UBND
thành phố Hà Nội, các cơ quan liên ngành, Ban chỉ đạo giải phóng mặt bằng (GPMB) thành
phố, UBND quận Tây Hồ và thông qua các công trình, bài viết, tạp chí, internet…để lấy
thông tin, số liệu liên quan đến pháp luật và thực trạng áp dụng pháp luật về bồi thường khi
NNTHĐ tại địa bàn quận Tây Hồ, thành phố Hà Nội từ khi Luật Đất đai năm 2003 có hiệu
lực đến nay.
- Phương pháp tổng hợp, phân tích: Phương pháp này được được sử dụng để tổng hợp và
phân tích các quy định của pháp luật về bồi thường khi NNTHĐ, cũng như các thông tin về thực
tiễn áp dụng. Phương pháp này còn được sử dụng để có được các nhận xét, đánh giá trình bày
trong luận văn.
- Phương pháp thống kê: Phương pháp này được sử dụng nhằm xử lý các tài liệu, các số
liệu mà tôi thu thập trong quá trình khảo sát thực tiễn áp dụng pháp luật về bồi thường khi
NNTHĐ. Qua đó, tôi có được các số liệu, thông tin tin cậy trình bày trong luận văn.
- Phương pháp điều tra xã hội học: Phương pháp này chủ yếu được thực hiện bằng cách
phỏng vấn trực tiếp một số cán bộ lãnh đạo UBND quận Tây Hồ, các cán bộ tham gia trực
tiếp lập phương án BT, HT và TĐC của Tổ chức phát triển quỹ đất thuộc Ban chỉ đạo GPMB
thành phố Hà Nội và Ban BT, HT và TĐC quận Tây Hồ, một số chuyên gia trong lĩnh vực
pháp luật về bồi thường khi NNTHĐ, người bị THĐ, nhà đầu tư…
Ngoài ra, chúng tôi còn sử dụng các phương pháp: diễn dịch, quy nạp, so sánh, logic để
nghiên cứu và làm sáng tỏ nội dung của luận văn.
6. Những đóng góp mới về khoa học và thực tiễn của luận văn
Các kết quả nghiên cứu của luận văn có thể là nguồn tài liệu tham khảo cần thiết và đáng
tin cậy đối với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong hoạt động ban hành, sửa đổi, bổ
sung các quy định của pháp luật đất đai liên quan tới lĩnh vực bồi thường khi NNTHĐ. Đồng
thời, luận văn còn có giá trị tham khảo hữu ích trong công tác giảng dạy và học tập môn học
LĐĐ tại các cơ sở đào tạo cũng như trong hoạt động tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp
luật đất đai nói chung và pháp luật về bồi thường khi NNTHĐ nói riêng. Bên cạnh đó, các
giải pháp mà học viên đưa ra có thể được các cơ quan, tổ chức và cá nhân có thẩm quyền
tham khảo và ứng dụng vào thực tiễn công tác bồi thường, GPMB, hỗ trợ và TĐC.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm
3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất
Chương 2: Thực tiễn áp dụng pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất tại địa
bàn quận Tây Hồ, thành phố Hà Nội.
Chương 3: Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về
bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nhìn từ góc độ thực tiễn.
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
VỀ BỒI THƯỜNG KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT
1.1. Các vấn đề cần xác định, giải quyết trong việc xây dựng các văn bản pháp luật
về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất
1.1.1. Các thiệt hại cần xem xét, xác định khi Nhà nước thu hồi đất để bồi thường, hỗ
trợ
Thứ nhất, thiệt hại về công sức đầu tư, mất quyền khai thác và hưởng các lợi ích từ đất
đai;
Thứ hai, thiệt hại về tài sản là thành quả lao động và kết quả đầu tư vào đất;
Thứ ba, thiệt hại về chi phí đầu tư vào đất đến thời điểm NNTHĐ vẫn chưa thu hồi được;
Thứ tư, thiệt hại do ngừng việc, ngừng sản xuất kinh doanh;
Thứ năm, các thiệt hại vô hình mà người bị THĐ phải gánh chịu.
1.1.2. Giải quyết hài hòa về lợi ích giữa Nhà nước, người bị thu hồi đất và người được
hưởng lợi từ việc thu hồi đất của Nhà nước
Về phía Nhà nước: tiến hành THĐ là nhằm phân phối lại quỹ đất cho phù hợp với mục
tiêu quốc phòng, an ninh và phát triển kinh tế- xã hội, thực hiện vai trò điều tiết các lợi ích
kinh tế của các chủ thể liên quan đến việc THĐ, chủ yếu thông qua các chính sách tài chính
về đất đai.
Về phía người được hưởng lợi từ việc THĐ (nhà đẩu tư (NĐT), các tổ chức, cá nhân
khác…): NĐT có lợi ích liên quan đến chi phí lập dự án đầu tư, chi phí liên quan đến BT, HT
và TĐC cho người bị THĐ, các khoản đóng góp cho Nhà nước và xã hội. Nhà nước cần xác
lập cơ chế và có các chế tài ràng buộc trách nhiệm của NĐT để tránh hiện tượng vì lợi ích
của mình, NĐT làm phương hại đến lợi ích hợp pháp của người bị THĐ. Với người SDĐ gần
khu vực có đất bị thu hồi, Nhà nước cần có cơ chế điều tiết một phần giá trị tăng thêm từ đất
mà không phải do người SDĐ đầu tư mang lại, nhằm tăng nguồn thu ngân sách Nhà nước và
hạn chế tối đa sự bất bình đẳng giữa các chủ thể SDĐ với nhau.
Về phía người bị THĐ: cần nhận thức đầy đủ về lợi ích chung mang lại cho cộng đồng từ
việc THĐ của Nhà nước và phải có trách nhiệm bàn giao mặt bằng đúng thời hạn.
1.2. Khái niệm bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất
1.2.1. Về cách hiểu thuật ngữ “bồi thường”, cụm từ “bồi thường khi Nhà nước thu hồi
đất”
Khoản 6, Điều 4, LĐĐ năm 2003 đưa ra cách giải thích: “Bồi thường khi Nhà nước thu hồi
đất là việc Nhà nước trả lại giá trị quyền sử dụng đất đối với diện tích đất bị thu hồi cho
người bị thu hồi đất”. Có thể thấy, thuật ngữ “bồi thường” từ LĐĐ năm 2003 đến nay, thể
hiện hàm ý là quan hệ BT ngang giá và sòng phẳng.
1.2.2. Đặc điểm và tính chất của việc bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất
1.2.2.1. Đặc điểm của việc bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất
Về đối tượng được bồi thường, là những chủ thể SDĐ: HGĐ, cá nhân, tổ chức trong nước,
tổ chức nước ngoài, cộng đồng dân cư, cơ sở tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài
về đầu tư tại Việt Nam…, khi thỏa mãn các điều kiện theo quy định của pháp luật.
Về phạm vi bồi thường, chỉ khi NNTHĐ để sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi
ích quốc gia, lợi ích công cộng và phát triển kinh tế, người SDĐ mới được BT. Bên cạnh đó,
tùy từng trường hợp Nhà nước sẽ thực hiện các chính sách HT và thực hiện TĐC cho người
bị THĐ.
Về giá đất bồi thường, Nhà nước chủ động trong việc xác định giá đất BT dựa trên các
căn cứ khoa học và tôn trọng giá đất trên thị trường trong điều kiện bình thường của thửa đất.
Các phương pháp tiến hành, kết hợp phương pháp hành chính và phương pháp thỏa
thuận. Ngoài ra, cần sử dụng tổng hợp nhiều phương pháp như: phương pháp tuyên truyền,
giáo dục, thuyết phục và phương pháp kinh tế…
1.2.2.2. Tính chất của việc bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất
Tính phức tạp, đất đai thực sự đóng vai trò rất quan trọng trong đời sống kinh tế - xã hội.
Đất nông nghiệp, tập trung chủ yếu ở khu vực nông thôn và là tư liệu sản xuất không thể
thiếu được trong sản xuất nông nghiệp.
Đối với đất ở, nhất là tại khu vực đô thị, được xem là quyền tài sản có giá trị lớn, đặc biệt
là đối với các chủ thể sản xuất - kinh doanh.
Tính đa dạng, khi NNTHĐ để giao cho các dự án đầu tư có nhu cầu SDĐ được diễn ra
trên các khu vực hành chính với điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội và trình độ dân trí khác
nhau và mục đích SDĐ sau BT cũng rất khác nhau.
1.2.3. Ý nghĩa của việc bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất
Thứ nhất, đảm bảo chia sẻ lợi ích và bù đắp những thiệt hại cho các chủ thể SDĐ, đồng
thời nhanh chóng ổn định đời sống, sản xuất, tạo việc làm và thu nhập ổn định cho người bị
THĐ.
Thứ hai, nâng cao nhận thức về tầm quan trọng, ý nghĩa nhân văn cũng như tính chất
phức tạp của việc BT khi NNTHĐ của các nhà quản lý, của chính quyền địa phương. Bên
cạnh đó, thông qua thực tiễn thi hành việc BT khi NNTHĐ “đội ngũ cán bộ làm công tác bồi
thường, hỗ trợ và tái định cư có năng lực và có nhiều kinh nghiệm ngày càng đông đảo; sự
chia sẻ kinh nghiệm thực tiễn của công tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư giữa các bộ, ban,
ngành có các dự án đầu tư ngày càng được mở rộng và có hiệu quả”.
Thứ ba, tìm ra lời giải hợp lý cho bài toán “lợi ích ba bên” là Nhà nước- Người bị THĐ -
Người nhận lại quyền SDĐ đã thu hồi trong quá trình thực hiện việc BT khi NNTHĐ.
Thứ tư, BT khi NNTHĐ đã góp phần chuyển đổi cơ cấu nền kinh tế, chuyển đổi nghề
nghiệp cho người bị THĐ, nhất là đối với người nông dân.
1.3. Quan niệm về hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất
1.3.1. Hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất
Khoản 7, Điều 4, LĐĐ năm 2003 quan niệm: “Hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất là việc Nhà
nước giúp đỡ người bị thu hồi đất thông qua đào tạo nghề mới, bố trí việc làm mới, cấp kinh
phí để di dời đến địa điểm mới”.
1.3.2. Tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất
Khoản 3, Điều 42, LĐĐ năm 2003 chỉ nêu: “Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương lập và thực hiện các dự án tái định cư trước khi thu hồi đất để bồi thường bằng
nhà ở, đất ở cho người bị thu hồi đất ở phải di chuyển chỗ ở. Khu tái định cư được quy hoạch
chung cho nhiều dự án trên cùng một địa bàn và phải có điều kiện phát triển bằng hoặc tốt
hơn nơi cũ. Trường hợp không có khu tái định cư thì người bị thu hồi đất được bồi thường
bằng tiền và được ưu tiên mua hoặc thuê nhà ở thuộc sở hữu của Nhà nước đối với khu vực
đô thị; BT bằng đất ở đối với khu vực nông thôn, trường hợp giá trị quyền sử dụng đất ở bị
thu hồi lớn hơn đất ở được bồi thường thì người bị thu hồi đất được bồi thường bằng tiền đối
với phần chênh lệch đó”.
Quan niệm TĐC được hiểu: trách nhiệm của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong việc
lập và thực hiện các dự án mới về nhà ở, đất ở với điều kiện phát triển bằng hoặc tốt hơn nơi cũ
cho người bị THĐ ở phải di chuyển chỗ ở, giúp người bị THĐ nhanh chóng ổn định đời sống và
sản xuất.
1.3.2. Phân biệt giữa hỗ trợ, tái định cư với bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất
Về nguyên tắc, BT khi NNTHĐ thực hiện theo nguyên tắc BT toàn bộ giá trị quyền SDĐ
đối với diện tích đất bị thu hồi khi thỏa mãn điều kiện được BT, BT toàn bộ thiệt hại về tài
sản gắn liền với đất cho người SDĐ, BT thiệt hại về chi phí đầu tư vào đất, BT thiệt hại do
ngừng việc hoặc bị ngưng trệ quá trình sản xuất và BT các thiệt hại vô hình xảy ra khi
NNTHĐ. Còn HT và TĐC, Nhà nước lại căn cứ vào: mức độ khó khăn về đời sống và sản
xuất, vấn đề đào tạo và chuyển đổi nghề nghiệp, về điều kiện nhân khẩu, tình hình không còn
chỗ ở…để Nhà nước xem xét HT và bố trí, thực hiện TĐC cho người bị THĐ.
Về nội dung, khi NNTHĐ sẽ BT giá trị quyền SDĐ đối với diện tích đất bị thu hồi, các
tài sản gắn liền với đất, các chi phí đầu tư vào đất, các thiệt hại do ngừng việc hoặc bị ngưng
trệ quá trình sản xuất và các thiệt hại vô hình xảy ra khi NNTHĐ, các thiệt hại này phát sinh
trực tiếp từ việc THĐ của Nhà nước gây ra. Ngược lại, đối tượng của HT và TĐC lại là việc
Nhà nước giải quyết các hệ quả tiếp theo nảy sinh sau BT.
Về vị trí, vai trò, BT khi NNTHĐ đóng vai trò trung tâm và có tính chất quyết định trực
tiếp đến quyền lợi của người bị THĐ, Nhà nước có nghĩa vụ BT ngang giá và sát với giá thị
trường cho người SDĐ những thiệt hại hữu hình và vô hình phát sinh trực tiếp từ hoạt động
THĐ. Với HT lại khác, đây một giải pháp nằm trong BT, nó đóng vai trò bù đắp vào khoảng
trống mà các quy định về BT còn thiếu, chưa hoàn thiện và không vươn tới được chức năng của
BT. Còn TĐC là việc Nhà nước BT về đất, các tài sản gắn liền với đất và các chi phí di chuyển,
ổn định cuộc sống của những người bị THĐ phải di chuyển chỗ ở, do đó TĐC giữ vai trò là yếu
tố trợ giúp các quy định về BT được áp dụng triệt để và có tính khả thi cao.
Chương 2
THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI
ĐẤT TẠI ĐỊA BÀN QUẬN TÂY HỒ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
2.1. Cơ sở pháp lý thực hiện việc bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất tại địa bàn
quận Tây Hồ, thành phố Hà Nội từ khi có Luật Đất đai năm 2003 đến nay
2.1.1. Nguyên tắc thực hiện bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất
tại địa bàn quận Tây Hồ
2.1.1.1. Nguyên tắc thực hiện bồi thường, hỗ trợ về đất
2.1.1.2. Nguyên tắc thực hiện bồi thường, hỗ trợ về tài sản
2.1.1.3. Nguyên tắc thực hiện bố trí tái định cư
2.1.2. Phạm vi và đối tượng được bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất trên địa
bàn quận Tây Hồ, thành phố Hà Nội từ khi có Luật Đất đai năm 2003 đến nay
2.1.2.1. Phạm vi được bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn quận Tây
Hồ
Căn cứ vào Khoản 1, Điều 38; Điều 39 và Điều 40, LĐĐ năm 2003; Điều 36, Nghị định (NĐ) số
181/2004/NĐ-CP (trừ Điểm đ, Khoản 1 và Điểm b Khoản 2); Điều 1, NĐ số 197/2004/NĐ-CP; Điểm
đ và e, Khoản 3, Điều 2, NĐ số 17/2006/NĐ-CP; Điều 34 và Điều 35, NĐ số 84/2007/NĐ-CP thì
việc BT, HT và TĐC trong phạm vi cả nước nói chung và trên địa bàn quận Tây Hồ nói riêng chỉ
áp dụng trong trường hợp NNTHĐ để sử dụng vì mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia,
lợi ích công cộng, phát triển kinh tế.
2.1.2.2. Đối tượng được bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn quận
Tây Hồ, thành phố Hà Nội
Căn cứ Điều 2, LĐĐ năm 2003; Điều 2, NĐ số 197/2004/NĐ-CP; Điều 2, NĐ số
84/2007/NĐ-CP; Điều 2, NĐ số 69/2009/NĐ-CP và Điều 2, Quyết định (QĐ) số 108/2009/QĐ-
UBND thì đối tượng được BT, HT và TĐC khi NNTHĐ trên địa bàn quận Tây Hồ, bao gồm:
Một là, tổ chức, cộng đồng dân cư, cơ sở tôn giáo, HGĐ, cá nhân trong nước, người Việt
Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức, cá nhân nước ngoài đang SDĐ bị NNTHĐ (gọi chung là
người bị THĐ);
Hai là, người bị THĐ bị thiệt hại tài sản gắn liền với đất bị thu hồi, được BT đất, tài sản,
được HT và bố trí TĐC khi đất đang sử dụng và tài sản gắn liền với đất thuộc phạm vi thu hồi
như đã trình bày tại Mục 2.2.2.1 nêu trên.
2.2. Thực tiễn áp dụng các quy định bồi thường, hỗ trợ và tái định cư tại địa bàn
quận Tây Hồ, thành phố Hà Nội từ khi có Luật Đất đai năm 2003 đến nay
2.2.1. Thực tiễn áp dụng các quy định bồi thường, hỗ trợ về đất và những vấn đề đặt
ra
Thông qua việc nghiên cứu thực tiễn áp dụng các quy định về điều kiện được BT, HT về
đất; thực tiễn xác định căn cứ pháp lý để áp dụng BT, HT về đất; thực tiễn áp dụng các quy
định về trình tự, thủ tục THĐ, BT, HT, TĐC và giá đất tính BT, HT khi NNTHĐ qua các vụ
việc cụ thể, tôi rút ra một số nhận xét sau đây:
- Về ưu điểm: việc thực hiện BT, HT về đất tại địa bàn quận Tây Hồ, thành phố Hà Nội từ
khi LĐĐ năm 2003 có hiệu lực đến nay, về cơ bản là đúng đắn và thống nhất theo LĐĐ năm
2003, các Nghị định hướng dẫn thi hành và các văn bản hướng dẫn cụ thể của UBND thành phố
Hà Nội. Nhờ đó, việc thực hiện BT, HT về đất đạt được những kết quả tích cực như: thời gian
BT, HT được rút ngắn, dự án nhanh chóng được triển khai, các quyền và lợi ích của người bị
THĐ, lợi ích hợp pháp của NĐT cũng như lợi ích của Nhà nước ngày càng được quan tâm, bảo
vệ và đảm bảo thực hiện, giảm bớt được tình trạng khiếu nại kéo dài, khiếu nại tập thể từ phía
người bị THĐ, góp phần không nhỏ trong việc ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội, phát triển
kinh tế và góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý của Nhà nước về đất đai. Thêm
vào đó, thông qua môi trường thực tiễn, các quy định của pháp luật về BT khi NNTHĐ ngày
càng được quy định rõ ràng, chi tiết hơn, góp phần đảm bảo tính thống nhất, tính đồng bộ giữa
các văn bản quy phạm pháp luật của Trung ương với chính quyền địa phương.
- Về khó khăn, vướng mắc:
Thứ nhất, thực tiễn xác định đối tượng và điều kiện được BT, HT về đất trong thời gian
qua gặp không ít khó khăn, vướng mắc, thậm chí có trường hợp đã xác định sai đối tượng
hoặc sai điều kiện được BT, HT.
Thứ hai, hiện nay, giá đất do UBND thành phố Hà Nội quy định, công bố và áp dụng vào
ngày 1 tháng 1 hàng năm được áp dụng để làm căn cứ BT, HT về đất, nhưng giá đất vẫn còn
nhiều bất cập, chưa phản ánh được lợi ích của các bên trong quá trình SDĐ.
Thứ ba, từ ngày 01/07/2004 đến nay, liên quan đến lĩnh vực BT khi NNTHĐ, đã có tới cả
trăm văn bản quy phạm pháp luật khác nhau điều chỉnh, từ các cơ quan nhà nước ở Trung ương
đến các văn bản quy phạm pháp luật của UBND thành phố Hà Nội, đó là chưa kể một số văn bản
mang tính chất đặc thù khi triển khai các dự án cụ thể. Mặt khác, có một số quy định tại các văn
bản quy phạm pháp luật của các cơ quan nhà nước ở Trung ương lại cứng nhắc, không tạo cơ chế
linh hoạt cho địa phương, không phù hợp với hoàn cảnh thực tế của địa phương, thậm chí không
thực hiện được.
Thứ tư, việc lập và thực hiện QH, KHSDĐ tại địa bàn quận Tây Hồ từ khi có LĐĐ năm
2003 đến nay, nhìn chung vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của công tác quản lý nhà nước về
đất đai nói chung và công tác BT, GPMB khi NNTHĐ nói riêng.
Thứ năm, liên quan đến trình tự thủ tục THĐ, BT, HT và TĐC nói chung và BT, HT về
đất nói riêng vẫn còn tồn tại tình trạng thiếu công khai, minh bạch và ở mức độ nào đó là sự
áp đặt, tùy tiện của các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền thu hồi, BT, HT và TĐC.
Trong luận văn, học viên đã chỉ ra nguyên nhân của những bất cập, thiếu sót và vi phạm
pháp luật trong việc áp dụng các quy định BT, HT về đất tại địa bàn quận Tây Hồ, thành phố
Hà Nội.
2.2.2. Thực tiễn áp dụng các quy định bồi thường, hỗ trợ về tài sản và những vấn đề
đặt ra
Từ việc nghiên cứu thực tiễn áp dụng các quy định BT nhà ở, nhà và các công trình gắn
liền với đất; thực tiễn áp dụng các quy định về BT, HT di chuyển mồ mả; thực tiễn áp dụng các
quy định BT, HT đối với cây trồng, qua các tình huống cụ thể, học viên xin nêu ra một số
nhận xét sau đây:
- Về ưu điểm: về cơ bản việc thực hiện các quy định BT, HT về tài sản khi NNTHĐ tại địa
bàn quận Tây Hồ, Hà Nội là đúng đắn, đồng bộ và thống nhất theo tinh thần của LĐĐ năm 2003,
các văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn thi hành của các cơ quan nhà nước ở Trung ương và
của thành phố Hà Nội. Mặt khác các quy định BT, HT về tài sản hiện hành so với các quy định
trước đây ngày càng được quy định rõ ràng, chi tiết và hoàn thiện hơn. Qua đó, góp phần bảo
vệ ngày càng tốt hơn các quyền và lợi ích hợp pháp của người bị THĐ và đảm bảo các lợi ích
của Nhà nước, của xã hội và của NĐT trong quá trình thực hiện việc BT khi NNTHĐ.
- Về khó khăn, vướng mắc:
Thứ nhất, đơn giá nhà ở, nhà tạm, vật kiến trúc do UBND thành phố Hà Nội quy định làm căn
cứ BT, HT thường thấp hơn rất nhiều so với số tiền thực tế mà người bị THĐ bỏ ra để xây dựng nhà
ở, nhà tạm, vật kiến trúc mới có diện tích, mục đích, chất lượng và tiêu chuẩn kỹ thuật tương tự,
nhất là trong điều kiện nền kinh tế bị lạm phát, chưa kể trường hợp nhà, công trình xây dựng khác
lại không được BT theo đơn giá xây dựng mới của nhà, công trình có tiêu chuẩn kỹ thuật tương
đương với nhà, công trình bị thiệt hại.
Thứ hai, Khoản 3, Điều 18, NĐ số 197/2004/NĐ-CP quy định trường hợp nhà, công trình
khác gắn liền với đất được xây dựng sau khi QH, KHSDĐ công bố mà không được cơ quan
nhà nước có thẩm quyền cho phép xây dựng thì không được bồi thường. Tuy nhiên, việc lập
và công bố QH, KHSDĐ cũng như việc công bố công khai QH xây dựng đô thị còn nặng tính
hình thức, thậm chí có nơi còn xem việc công bố QH là “đặc quyền” thuộc về cơ quan có
thẩm quyền lập QH, KHSDĐ và QH xây dựng đô thị. Không chỉ vậy, việc cắm mốc giới quy
hoạch (cắm mốc chỉ giới đường đỏ, chỉ giới xây dựng, ranh giới khu vực cấm xây dựng ngoài
thực địa…theo hồ sơ cắm mốc đã được phê duyệt) trên thực địa chưa được tiến hành hoặc
chưa kịp thời sau khi QH, KHSDĐ và QH xây dựng đô thị được xét duyệt.
Thứ ba, việc BT di chuyển mồ mả trong thực tế cũng gặp nhiều bất cập do hiện nay dân số
tại các đô thị tăng nhanh, trong khi quỹ đất dành cho việc mở rộng các khu nghĩa địa tập trung
phục vụ cho việc tập kết mồ mả đối với các dự án đầu tư mà có sự di chuyển mồ mả trên địa bàn
thành phố Hà Nội nói chung và quận Tây Hồ nói riêng ngày càng bị co hẹp hoặc một số dự án có
số lượng mồ mả di chuyển lớn còn chưa chủ động để chuẩn bị trước về quỹ đất. Để cởi được nút
thắt trong BT, GPMB, LĐĐ năm 2003 và các văn bản hướng dẫn thi cho phép người bị THĐ tự
lo liệu chỗ chôn cất thì Nhà nước sẽ BT, HT bằng tiền, nhưng lại chưa có quy định cụ thể, rõ ràng
về cơ chế giám sát quá trình thực hiện việc chôn cất, cũng như chưa xử lý nghiêm các vi phạm
cam kết việc tự lo liệu di chuyển mồ mả của người bị THĐ.
Thứ tư, mức BT đối với cây trồng hàng năm tính bằng giá trị sản lượng của vụ thu hoạch
đó, giá trị sản lượng của vụ thu hoạch được tính theo năng suất của vụ cao nhất trong 3 năm
trước liền kề của cây trồng chính tại địa phương và giá trung bình tại thời điểm thu hồi
(Khoản 1, Điều 24, NĐ số 197/2004/NĐ-CP). Thế nhưng, LĐĐ năm 2003 và các văn bản
hướng dẫn thi hành lại không nêu cụ thể cấp nào có thẩm quyền xác định cây trồng chính của
địa phương, nếu thẩm quyền này thuộc về UBND cấp huyện thì tại địa bàn quận Tây Hồ cũng
rất khó xác định trong những loại cây trồng như lúa, rau xanh, các loài hoa…loại cây nào là
cây trồng chính. Vì vậy, đây là một quy định không hợp lý và rất khó áp dụng, nhất là đối với
những địa phương thuộc khu vực đô thị như quận Tây Hồ. Bên cạnh đó, đơn giá BT, HT về
cây trồng, hoa màu hiện nay nhìn chung còn thấp và chưa sát với giá bán cây trồng trên thị
trường, nhất là các cây trồng có giá trị kinh tế cao như: đào, cây cau vua, cau lùn, vạn tuế,
bách
Ngoài ra, việc quy định trường hợp cây trồng chưa thu hoạch nhưng có thể di chuyển
được đến địa điểm khác thì được BT chi phí di chuyển và thiệt hại thực tế do phải di chuyển,
phải trồng lại (Khoản 3, Điều 24, NĐ số 197/2004/NĐ-CP), cũng là quy định không khả thi
vì LĐĐ năm 2003 không quy định cụ thể mức BT tối đa trong trường hợp này, quận Tây Hồ
hiện đang áp dụng QĐ số 108/2009/QĐ-UBND, theo đó UBND Quận căn cứ vào thực tế để
quyết định mức HT thiệt hại và chi phí di chuyển nhưng mức HT tối đa không quá 30% mức
BT (Khoản 2, Điều 36).
2.2.3. Thực tiễn áp dụng các chính sách hỗ trợ và những vấn đề đặt ra
Nghiên cứu các vụ việc cụ thể về chính sách hỗ trợ, tôi nhận thấy những ưu điểm, hạn
chế, vướng mắc trong việc thực hiện chính sách hỗ trợ khi NNTHĐ như sau:
- Về ưu điểm: về cơ bản UBND quận Tây Hồ đã triển khai thực hiện các quy định về
chính sách hỗ trợ là đúng đắn và thống nhất theo đúng tinh thần của LĐĐ năm 2003 và các
văn bản hướng dẫn thi hành của các cơ quan nhà nước ở Trung ương và của UBND thành phố
Hà Nội. Bên cạnh đó ta cũng thấy rằng, các chính sách hỗ trợ hiện nay, nhất là khi NĐ số
69/2009/NĐ-CP ra đời so với trước khi có LĐĐ năm 2003 đã mềm dẻo, linh hoạt, cởi mở
hơn. Trên cơ sở đó, các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền và NĐT thực hiện BT, GPMB được
thuận lợi hơn, đồng thời các quyền và lợi ích của người bị THĐ được đảm bảo tốt nhất.
- Về hạn chế, vướng mắc:
Thứ nhất, quy định chính sách HT thuê nhà tạm cư khi áp dụng vào thực tiễn là rất khó
khăn vì mức tiền HT rất thấp, trong khi giá thuê nhà trọ thực tế cao hơn rất nhiều, nhất là đối
với khu vực nội thành, nội thị. Không những thế, giữa QĐ số 18/2008/QĐ-UBND và QĐ số
108/2009/QĐ-UBND chỉ cách nhau một thời gian rất ngắn, nhưng mức HT chênh lệch rất
lớn, từ mức HT tối đa 1800.000 đồng/hộ/tháng (QĐ số 18/2008/QĐ-UBND) lên mức
3.000.000 đồng/hộ/tháng (QĐ số 108/2009/QĐ-UBND). Do đó, nhiều trường hợp thuộc đối
tượng áp dụng của QĐ số 18/2008/QĐ-UBND nhưng chưa nhận tiền HT đã làm đơn khiếu
nại đòi tăng tiền, thậm chí một số HGĐ, cá nhân cố tình không bàn giao đất và nhà nhằm tạo
sức ép với chính quyền và NĐT.
Thứ hai, theo quy định hiện hành, việc áp dụng chính sách HT ổn định đời sống căn cứ
vào đối tượng, diện tích đất nông nghiệp bị thu hồi. Tuy nhiên, xác định khái niệm “HGĐ, cá
nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp” trên địa bàn quận Tây Hồ nói riêng và một số địa
phương khác thuộc khu vực nội thành, nội thị là rất khó khăn và phức tạp.
Thứ ba, từ khi NĐ số 84/2007/NĐ-CP ra đời cho đến khi NĐ số 69/2009/NĐ-CP có hiệu lực
nhiều người nông dân bị THĐ nông nghiệp trong địa giới hành chính phường trên địa bàn thành
phố Hà Nội nói chung và quận Tây Hồ nói riêng bị thiệt thòi do không được áp dụng theo đúng
tinh thần của Điều 43, NĐ số 84/2007/NĐ-CP và Điểm 1, Phần VII, Thông tư liên tịch số
14/2008/TTLT/BTC-BTNMT là phải được BT, HT đất nông nghiệp. Đến nay, HGĐ, cá nhân khi
bị THĐ nông nghiệp trong địa giới hành chính phường, được BT theo giá đất nông nghiệp cùng
mục đích sử dụng và được hỗ trợ bằng 30% giá đất ở vị trí 3 trung bình của khu vực (Khoản 2,
Điều 21, NĐ số 69/2009/NĐ-CP và Điều 13, QĐ số 108/2009/QĐ-UBND). Tuy nhiên, việc quy
định tỷ lệ 30% giá đất ở vị trí 3 để hỗ trợ cho người bị THĐ nông nghiệp của UBND thành phố
Hà Nội là chưa đảm bảo một cách tốt nhất quyền và lợi ích cho người bị THĐ, bởi vì tỷ lệ hỗ trợ
tối đa theo NĐ số 69/2009/NĐ-CP là 50% giá đất ở vị trí 3 trung bình của khu vực.
Thứ tư, dưới góc độ pháp lý Khoản 2, Điều 21, NĐ số 69/2009/NĐ-CP và Khoản 3, Điều 13,
QĐ số 108/2009/QĐ-UBND về BT, HT đất nông nghiệp là một quy định gây nhiều tranh cãi, vì
đã ấn định mức giao đất ở tại địa phương để khống chế diện tích HT khi thu hồi đất nông nghiệp
trong phạm vi địa giới hành chính phường (không quá 5 lần hạn mức giao đất ở mới tại địa
phương). Bên cạnh đó, việc áp dụng các quy định về diện tích tối đa đất được HT hiện nay, cũng
tồn tại nhiều bất cập vì theo Điều 1, QĐ số 58/2009/QĐ-UBND ngày 30/3/2009 về hạn mức giao
đất ở mới, hạn mức công nhận đất ở đối với thửa đất có vườn, ao trong khu dân cư, kích thước,
diện tích đất ở tối thiếu được tách thửa cho HGĐ, cá nhân trên địa bàn thành phố Hà Nội, thì hạn
mức giao đất ở mới trên địa bàn quận Tây Hồ tối thiểu là 40m
2
và tối đa là 90m
2
. Cách quy định
theo biên độ lớn như vậy, mà không nêu rõ khi nào được áp dụng mức tối đa và khi nào thì áp
dụng mới tối thiểu, nếu không cân nhắc và thống nhất cách áp dụng có thể dẫn đến việc tùy tiện áp
dụng hạn mức khác nhau khi thực hiện phương án BT, GPMB.
Thứ năm, thực tế đã chứng minh, quy định chính sách HT khi NNTHĐ nông nghiệp đã
tạo ra mâu thuẫn rõ nét với các quy định về BT. Bởi vì mức BT khi NNTHĐ nông nghiệp
thường thấp hơn rất nhiều so với các mức hỗ trợ mà HGĐ, cá nhân được hưởng.
2.2.4. Thực tiễn áp dụng các quy định về tái định cư và những vấn đề đặt ra
Từ các vụ việc cụ thể về tái định cư, tôi nhận thấy:
- Ưu điểm của việc thực hiện các quy định về TĐC: từ khi có LĐĐ năm 2003 đến nay, tại
địa bàn quận Tây Hồ về cơ bản đã thực hiện theo đúng tinh thần của LĐĐ năm 2003 và các
văn bản hướng dẫn thi hành của các cơ quan nhà nước ở Trung ương và của UBND thành phố
Hà Nội về các quy định TĐC. Qua đó, góp phần đảm bảo đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của
người dân khi bị THĐ, đảm bảo lợi ích của Nhà nước và lợi ích của NĐT, góp phần đẩy
nhanh tiến độ thực hiện dự án và thúc đẩy kinh tế- xã hội của địa phương phát triển.
- Khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện các quy định về TĐC:
Thứ nhất, chất lượng đất, nhà cũng như cơ sở hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội tại một số
khu TĐC hiện không đảm bảo về chất lượng, tiêu chuẩn xây dựng và đảm bảo vệ sinh, môi
trường. Không chỉ vậy, việc bố trí TĐC trong thời gian vừa qua chưa thực sự quan tâm đến
các yếu tố về cộng đồng dân cư, tập quán sinh hoạt và sản xuất, chưa quan tâm xây dựng và
thành lập các cơ sở sản xuất, kinh doanh dịch vụ, tạo việc làm cho các đối tượng phải di
chuyển chỗ ở tại các khu TĐC.
Thứ hai, các quy định hiện hành về cơ chế phối hợp giữa các cơ quan có thẩm quyền
trong việc thực hiện TĐC là chưa rõ ràng, chưa cụ thể; đây cũng chính là “khe hở” để các cơ
quan “đùn đẩy” và “thoái thác” trách nhiệm cho nhau. Các cơ quan nhà nước có thẩm quyền
chưa thường xuyên thanh tra, kiểm tra và giám sát về chất lượng, tiêu chuẩn nhà TĐC.
Thứ ba, các tiêu chuẩn, định mức và nguyên tắc xét mua nhà tái định cư hiện nay chưa
đảm bảo tính công bằng và chưa giải quyết thỏa đáng những vấn đề phát sinh trong thực tiễn.
Chương 3
MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP
DỤNG PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT
NHÌN TỪ GÓC ĐỘ THỰC TIỄN
3.1. Giải pháp tiếp tục hoàn thiện pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất
3.1.1. Thiết lập khung pháp lý về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất trên cơ sở đảm bảo
tính thống nhất, đồng bộ và tính ổn định tương đối cao
3.1.2. Thực hiện các biện pháp đẩy nhanh việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất,
quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất
3.1.3. Hoàn thiện các quy định về giá đất
3.1.4. Hoàn thiện các quy định về đơn giá tính bồi thường, hỗ trợ về tài sản (nhà, công
trình, cây trồng, hoa màu…)
3.1.5. Hoàn thiện các chính sách hỗ trợ
3.1.6. Thống nhất quy định về thời hạn thông báo thu hồi cho người bị thu hồi đất
giữa các văn bản quy phạm pháp luật
Trong sáu giải pháp này, tôi xin được đề cập sâu hơn ba giải pháp, đó là: thiết lập khung
pháp lý về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất trên cơ sở đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ
và tính ổn định tương đối cao; hoàn thiện các quy định về giá đất; hoàn thiện các chính sách
hỗ trợ.
3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu
hồi đất
3.2.1. Tăng cường và kiểm tra, giám sát việc tuyên truyền, phổ biến và giáo dục pháp
luật đất đai nói chung và pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nói riêng cho
cán bộ và nhân dân
3.2.2. Kiện toàn tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước
thu hồi đất
3.2.3. Tăng cường thanh tra, kiểm tra, giám sát và xử lý vi phạm trong quá trình thực
hiện các quy định về trình tự, thủ tục thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ và tái định cư
3.2.4. Hoàn thiện mô hình phối kết hợp giữa các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, cơ
quan tổ chức hữu quan, Nhà đầu tư và Chủ đầu tư xây dựng công trình khi thực hiện tái
định cư cho người bị thu hồi đất
3.2.5. Chấn chỉnh công tác lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; tăng cường thanh
tra, kiểm tra, giám sát việc thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất
3.2.6. Xác lập cơ chế giải quyết việc làm cho người bị thu hồi đất
Từ các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất
nêu trên, học viên muốn nhấn mạnh một số giải pháp sau: tăng cường và kiểm tra, giám sát việc
tuyên truyền, phổ biến và giáo dục pháp luật đất đai nói chung và pháp luật về bồi thường khi Nhà
nước thu hồi đất nói riêng cho cán bộ và nhân dân; tăng cường thanh tra, kiểm tra, giám sát và xử lý
vi phạm trong quá trình thực hiện các quy định về trình tự, thủ tục THĐ, BT, HT và TĐC; xác lập cơ
chế giải quyết việc làm cho người bị thu hồi đất.
KẾT LUẬN
BBồi thường khi NNTHĐ là vấn đề phức tạp, mang tính chất chính trị, kinh tế, xã hội.
Điều này lại càng được thể hiện rõ hơn khi có vô số vấn đề phức tạp phát sinh do chính sách
và pháp luật của Nhà nước chưa bao quát hết các vấn đề của thực tiễn, lại thay đổi liên tục,
còn nhiều kẽ hở, thậm chí là mâu thuẫn và bất hợp lý. Một văn bản mới ra đời, với mong
muốn làm lợi cho người bị THĐ nhưng có khi lại đặt ra rất nhiều vấn đề nan giải cho các cơ
quan nhà nước, cá nhân có thẩm quyền, nhất là chính quyền cơ sở khi thực hiện việc bồi
thường, GPMB. Thêm vào đó, các văn bản quy phạm pháp luật về bồi thường khi NNTHĐ
thay đổi quá nhanh không những tác động trực tiếp đến lợi ích kinh tế giữa Nhà nước - người
bị THĐ - NĐT mà nó còn tác động đến vấn đề an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Giải
quyết như thế nào cho những người bị THĐ đã gương mẫu và nghiêm chỉnh chấp hành pháp
luật của Nhà nước nhưng lại không được hưởng lợi ích từ văn bản quy phạm pháp luật mới
với những quy định cởi mở hơn? Hay cần cơ chế, biện pháp nào để khắc phục những thiếu
sót, hạn chế mà các cơ quan, cá nhân có thẩm quyền do chưa thực hiện đúng tinh thần của các
văn bản quy phạm pháp luật mới nên đã gây ra những thiệt hại không đáng có khi giải quyết
quyền lợi cho dân? Do đó, việc nghiên cứu, tìm hiểu pháp luật về bồi thường khi NNTHĐ
thông qua thực tiễn áp dụng tại một địa bàn cấp huyện là rất bổ ích và thiết thực về mặt lý
luận và thực tiễn.
Thông qua 3 chương của luận văn, tôi đã trình bày một số vấn đề lý luận về bồi thường khi
NNTHĐ qua việc làm rõ các vấn đề cần xác định, giải quyết trong việc xây dựng các văn bản
pháp luật về bồi thường khi NNTHĐ; khái niệm, đặc điểm, tính chất, ý nghĩa của việc bồi thường
khi NNTHĐ; quan niệm về hỗ trợ và TĐC khi NNTHĐ, cũng như phân biệt giữa HT, TĐC với
bồi thường khi NNTHĐ. Một trong những điểm “nhấn” của luận văn chính là việc thông qua các
tình huống, vụ việc thực tiễn tại địa bàn quận Tây Hồ, thành phố Hà Nội để phân tích, đánh giá
được những ưu điểm, hạn chế và vướng mắc khi áp dụng các quy định của pháp luật về bồi
thường khi NNTHĐ vào cuộc sống. Qua bức tranh sinh động của thực tiễn thực hiện việc BT,
HT và TĐC từ khi có LĐĐ năm 2003 đến nay, luận văn đã đề xuất một số giải pháp hoàn thiện
pháp luật và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về bồi thường khi NNTHĐ, cụ thể gồm các giải
pháp sau đây:
- Thiết lập khung pháp lý về bồi thường khi NNTHĐ trên cơ sở đảm bảo tính thống nhất,
đồng bộ và tính ổn định tương đối cao;
- Thực hiện các biện pháp đẩy nhanh việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền
sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất;
- Hoàn thiện các quy định về giá đất;
- Hoàn thiện các quy định về đơn giá tính BT, HT về tài sản (nhà, công trình, cây trồng,
hoa màu…);
- Hoàn thiện các chính sách hỗ trợ;
- Thống nhất quy định về thời hạn thông báo thu hồi cho người bị THĐ giữa các văn bản
quy phạm pháp luật;
- Tăng cường và kiểm tra, giám sát việc tuyên truyền, phổ biến và giáo dục pháp luật đất
đai nói chung và pháp luật về bồi thường khi NNTHĐ nói riêng cho cán bộ và nhân dân;
- Kiện toàn tổ chức làm nhiệm vụ BT, HT và TĐC khi NNTHĐ;
- Tăng cường thanh tra, kiểm tra, giám sát và xử lý vi phạm trong quá trình thực hiện các
quy định về trình tự, thủ tục THĐ, BT, HT và TĐC;
- Hoàn thiện mô hình phối kết hợp giữa các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, cơ quan, tổ
chức hữu quan, NĐT và Chủ đầu tư xây dựng công trình khi thực hiện TĐC cho người bị
THĐ;
- Chấn chỉnh công tác lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; tăng cường thanh tra, kiểm
tra, giám sát việc thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất;
- Xác lập cơ chế giải quyết việc làm cho người bị THĐ.
Cũng phải thừa nhận rằng, tiếp cận mảng pháp luật về bồi thường khi NNTHĐ nhìn từ
góc độ thực tiễn là vấn đề rất khó khăn và phức tạp. Mặc dù, đã cố gắng nhưng do khả năng
hạn chế về lý luận và thực tiễn, học viên không thể đi sâu phân tích, đánh giá một cách toàn
diện, đầy đủ, khách quan các khía cạnh về lý luận và thực tiễn áp dụng pháp luật về bồi
thường khi NNTHĐ. Do đó, tôi hy vọng sẽ được tiếp cận và nghiên cứu các vấn đề còn lại ở
các công trình khoa học khác. Thêm vào đó, luận văn cũng khó tránh khỏi những khiếm
khuyết, sai sót về mặt nội dụng và hình thức trình bày, vì vậy tôi rất mong nhận được nhận
xét, góp ý của Hội đồng chấm luận văn, của các thầy cô, đồng nghiệp và bạn đọc.
References
1. Ban Chỉ đạo Giải phóng mặt bằng thành phố Hà Nội - Ủy ban nhân dân quận Ba Đình -
Ủy ban nhân dân quận Tây Hồ (2009), Tờ trình liên ngành số 248/TTrLN-BCĐ
ngày 29/4 về việc: Chính sách đặc thù đối với việc hỗ trợ tiền thuê nhà tạm cư
phục vụ công tác giải phóng mặt bằng dự án đường Văn Cao - Hồ Tây, Hà Nội.
2. Ban Chỉ đạo Giải phóng mặt bằng thành phố Hà Nội - Ủy ban nhân dân quận Tây Hồ
(2009), Tờ trình liên ngành số 361/TTrLN-BCĐ ngày 24/8 về việc: Chính sách bồi
thường, hỗ trợ đối với hộ có đất bị thu hồi trên 30% diện tích đất nông nghiệp
được giao khi thực hiện các dự án xây dựng cầu Nhật Tân và đường Vành đai II
trên địa bàn quận Tây Hồ, Hà Nội.
3. Ban Quản lý dự án Giao thông Đô thị (2009), Báo cáo số 16/BC-BQL ngày 14/4 về tiến độ
thực hiện dự án và một số vấn đề vướng mắc trong công tác giải phóng mặt bằng
đường Văn Cao - Hồ Tây, Hà Nội.
4. Ban Quản lý dự án Xây dựng hạ tầng kỹ thuật xung quanh Hồ Tây (2008), Báo cáo số
27/BC-BQL ngày 03/04 về những tồn tại, vướng mắc trong công tác GPMB cần
giải quyết gấp, Hà Nội.
5. Bộ Tài chính (2004), Thông tư số 114/2004/TT-BTC ngày 26/11 hướng dẫn thực hiện
Nghị định số 188/2004/NĐ-CP ngày 16/11/2004 của Chính phủ về phương pháp
xác định giá đất và khung các loại giá đất, Hà Nội.
6. Bộ Tài chính (2004), Thông tư số 116/2004/TT-BTC ngày 07/12 hướng dẫn thực hiện
NĐ số 197/2004/NĐ-CP ngày 03/12/2004 của Chính phủ quy định về bồi thường,
hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất, Hà Nội.
7. Bộ Tài chính (2006), Thông tư số 69/2006/TT-BTC ngày 02/8 về sửa đổi, bổ sung Thông
tư số 116/2004/TT-BTC ngày 07/12/2004 của Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện
Nghị định số 197/2004/NĐ-CP ngày 03/12/2004 của Chính phủ quy định về bồi
thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất, Hà Nội.
8. Bộ Tài nguyên và Môi trường (2007), Thông tư số 06/2007/TT-BTNMT ngày 25/5/2007
hướng dẫn thực hiện một số điều của Nghị định số 84/2007/NĐ-CP ngày
25/05/2007 của Chính phủ quy định bổ sung về cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất, thu hồi đất, thực hiện quyền sử dụng đất, trình tự, thủ tục bồi thường, hỗ
trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất và giải quyết khiếu nại về đất đai, Hà
Nội.
9. Bộ Tài chính - Bộ Tài nguyên và Môi trường (2008), Thông tư liên tịch số
14/2008/TTLT-BTC-BTNMT ngày 31/01 hướng dẫn thực hiện một số điều của NĐ
số 84/2007/NĐ-CP ngày 25/05/2007 của chính phủ quy định bổ sung cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất, thu hồi đất, thực hiện quyền sử dụng đất, trình tự,
thủ tục bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất và giải quyết
khiếu nại về đất đai, Hà Nội.
10. Bộ Tài nguyên và Môi trường (2009), Thông tư số 14/2009/TT-BTNMT ngày 16/11/2009
quy định chi tiết về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư và trình tự, thủ tục thu hồi đất,
giao đất, cho thuê đất, Hà Nội.
11. Chính phủ (1994), Nghị định số 90/1994/NĐ-CP ngày 17/8 ban hành quy định về việc
đền bù thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất để sử dụng vào mục đích quốc phòng, an
ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng, Hà Nội.
12. Chính phủ (2004), Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10 về thi hành Luật Đất đai,
Hà Nội.
13. Chính phủ (2004), Nghị định số 188/2004/NĐ-CP ngày 16/11 về phương pháp xác định
giá đất và khung giá các loại đất, Hà Nội.
14. Chính phủ (2004), Nghị định số 197/2004/NĐ-CP ngày 03/12 về bồi thường, hỗ trợ và
tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất, Hà Nội.
15. Chính phủ (2004), Nghị định số 198/2004/NĐ-CP ngày 03/12 về thu tiền sử dụng đất, Hà
Nội.
16. Chính phủ (2006), Nghị định số 17/2006/NĐ-CP ngày 27/01 về sửa đổi, bổ sung một số
điều của các nghị định hướng dẫn thi hành Luật Đất đai và Nghị định số
187/2004/NĐ-CP về việc chuyển công ty nhà nước thành công ty cổ phần, Hà Nội.
17. Chính phủ (2007), Nghị định số 84/2007/NĐ-CP ngày 25/5 quy định bổ sung về việc cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thu hồi đất, thực hiện quyền sử dụng đất, trình
tự, thủ tục bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất và giải quyết
khiếu nại về đất đai, Hà Nội.
18. Chính phủ (2007), Nghị định số 123/2007/NĐ-CP ngày 27/07 về sửa đổi, bổ sung một số
điều của Nghị định số 188/2004/NĐ-CP ngày 16/11/2004 về phương pháp xác định
giá đất và khung giá các loại đất, Hà Nội.
19. Chính phủ (2009), Nghị định số 69/2009/NĐ-CP ngày 13/08 về cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất, Hà Nội.
20. Chính phủ (2009), Nghị định số 88/2009/NĐ-CP ngày 19/10 về cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất, Hà Nội.
21. Chính phủ (2009), Đính chính số 181/ĐC-CP ngày 23/10 đính chính Nghị định số
69/2009/NĐ-CP ngày 13/08/2009 của Chính phủ quy định bổ sung về quy hoạch
sử dụng đất, giá đất, thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ và tái định cư, Hà Nội.
22. Chính phủ (2009), Nghị định số 105/2009/NĐ-CP ngày 11/11 về xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực đất đai thay thế Nghị định số 182/2004/NĐ-CP ngày
29/10/2004 về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai, Hà Nội.
23. Nguyễn Vinh Diện (2006), Pháp luật về bồi thường thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất,
Luận văn thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội.
24. Nguyễn Thị Dung (2009), “Chính sách đền bù khi thu hồi đất của một số nước trong khu
vực và Việt Nam”, Báo điện tử Tạp chí Cộng sản, (11).
25. Đinh Sỹ Dũng (2003), “Bảo vệ quyền sở hữu toàn dân về đất đai và quyền sử dụng đất
của người sử dụng đất: Thực trạng và kiến nghị”, Nhà nước và pháp luật, (10).
26. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
27. Nguyên Đào (2007), “Giá đất chưa hợp lý là kẽ hở cơ chế xin - cho”, Báo điện tử Kinh tế
và Đô thị, ngày 27/02.
28. Vũ Duy Đính (2007), Đơn khiếu nại phương án số 136/PA-ĐCBS của Ủy ban nhân dân
quận Tây Hồ, ngày 17/8.
29. Đặng Văn Được - Hoàng Hoa Sơn (2006), 297 tình huống và giải đáp về Bộ luật Dân sự,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
30. Ngọc Hân (2007), “Khu tái định cư Dịch Vọng- Cầu Giấy: Nhếch nhác!”, Báo An ninh
Thủ đô, ngày 10/7.
31. Hội đồng Bộ trưởng (1990), Quyết định số 186/HĐBT ngày 31/5 về đền bù thiệt hại đất
nông nghiệp, đất có rừng khi bị chuyển sang sử dụng vào mục đích khác, Hà Nội.
32. Hội đồng Chính phủ (1959), Nghị định số 151/TTg ngày 14/4 quy định tạm thời về trưng
dụng ruộng đất, Hà Nội.
33. Lan Hương (2008), “Bức xúc thu hồi đất không chỉ do giá đền bù”, dantri.com.vn, ngày
03/10.
34. Trọng Huy - Nguyễn Phương (2009), “Trồng cây “xịn” trên đất giải tỏa để nâng tiền đền
bù”, cand.com.vn, ngày 31/3.
35. Phan Thu Huyền - Trần Cao Minh (2008), Pháp luật đất đai hỏi đáp các tình huống, Nxb
Lao động, Hà Nội.
36. Nguyễn Khải (2008), “Về sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đất đai”, Tài nguyên và
Môi trường, (3), tr.11-12.
37. Lê Ngọc Khoa (2010), “Cơ chế tài chính đất đai- Chặng đường 15 năm đổi mới”, Trang
tin điện tử của Cục Quản lý Công sản- Bộ Tài chính, ngày 24/3.
38. Phạm Sỹ Liêm (2008), Cần nhanh chóng đổi mới công tác thu hồi đất, Tài nguyên và
Môi trường, (1), tr.13-14.
39. Đặng Đức Long (2009), “Giải bài toán lợi ích kinh tế giữa ba chủ thể: Nhà nước, người
có đất bị thu hồi và chủ đầu tư khi thu hồi đất”, Tài nguyên và Môi trường, (5),
tr.7- 8.
40. Nguyệt Minh (2007), “Gần 1300 dự án trên toàn quốc “treo” quyền dân”, Báo điện tử
VTC.NEWS, số ra ngày 28/02/2007.
41. Nguyệt Minh (2007), “Không muốn công bố giá đất vì tư lợi”, Báo điện tử VTC.NEWS,
số ra ngày 05/3.
42. Lê Minh (2008), “8 nội dung sửa đổi Luật Đất đai”, Báo điện tử Việt Báo, ngày 12/3.
43. Phùng Văn Nghệ (2009), “Một số vấn đề về sửa đổi Luật Đất đai năm 2003”, Tài nguyên
và Môi trường, (24), tr.36-37.
44. Phạm Hữu Nghị (2004), “Những điểm mới của Luật Đất đai năm 2003”, Nhà nước và
Pháp luật, (7), tr.53-62.
45. Phạm Hữu Nghị (2005), “ Vai trò của Nhà nước trong việc thực hiện quyền sở hữu toàn dân
về đất đai”, Nhà nước và Pháp luật, (1), tr.51-56.
46. Phạm Hữu Nghị (2009), “Chính sách, pháp luật và những thay đổi trong quan hệ đất đai
ở khu vực Tây Nguyên từ năm 1975 đến nay”, Nhà nước và Pháp luật, (9), tr. 61-
66.
47. Nhóm Phóng viên điều tra (2009), “Dân bức xúc vì sự vô cảm của chính quyền”, báo
điện tử Nhà báo và Công luận, ngày 17/9.
48. Đặng Quang Phán (2009), “Luật Đất đai 2003 - Sau 5 năm triển khai thi hành: Những tồn
tại, bất cập cần được tháo gỡ”, Tài nguyên và Môi trường, (24), tr. 38-43.
49. Phòng Tài nguyên và Môi trường quận Tây Hồ (2005), Báo cáo số 133/BC-TN&MT
ngày 03/8 về đánh giá tình hình thi hành Luật Đất đai năm 2003, Hà Nội.
50. Phòng Tài nguyên và Môi trường quận Tây Hồ (2005), Báo cáo số 18/BC-TN&MT ngày
21/02 về tình hình sử dụng đất phục vụ các dự án công trình năm 2004, Hà Nội.
51. Phòng Tài nguyên và Môi trường quận Tây Hồ (2009), Báo cáo số 174/BC-TN&MT
ngày 29/6/2009 về tình hình quản lý nhà nước về đất đai trên địa bàn quận Tây
Hồ, Hà Nội.
52. Phòng Tài nguyên và Môi trường quận Tây Hồ (2009), Báo cáo số 176/BC-TN&MT
ngày 30/6 về việc giải quyết các kiến nghị của cử tri quận Tây Hồ, Hà Nội.
53. Phòng Tài nguyên và Môi trường quận Tây Hồ (2010), Báo cáo số 102/BC-TN&MT ngày
25/6 về việc sơ kết thi đua khen thưởng 6 tháng đầu năm 2010, Hà Nội.
54. Phòng Tài nguyên và Môi trường quận Tây Hồ (2010), Báo cáo số 123/BC-TN&MT
ngày 21/7 về tình hình quản lý nhà nước về đất đai trên địa bàn quận Tây Hồ, Hà
Nội.
55. Đỗ Đức Quân (2007), “Vấn đề việc làm cho người bị thu hồi đất ở nông thôn trong quá
trình xây dựng, phát triển các khu công nghiệp”, Kinh tế và Dự báo, (8), tr. 33-35.
56. Quốc hội (1987), Luật Đất đai, Hà Nội.
57. Quốc hội (1992), Hiến pháp, Hà Nội.
58. Quốc hội (1993), Luật Đất đai, Hà Nội.
59. Quốc hội (2003), Luật Đất đai, Hà Nội
60. Đức Tâm (2008), “Vì sao dân chưa đồng thuận”, Báo điện tử Kinh tế và Đô thị, ngày
19/8.
61. Nguyễn Duy Thạch (2007), Pháp luật về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước
thu hồi đất qua thực tiễn thi hành tại thành phố Hà Nội, Luận văn thạc sĩ luật học,
Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội.
62. Lê Ngọc Thạnh (2009), “Một số ý kiến hoàn thiện pháp luật về bồi thường khi Nhà nước
thu hồi đất”, Tài nguyên và Môi trường, 2(11), tr.40-43.
63. Tống Ngọc Thanh (2010), “Mua nhà tái định cư ở quận Tây Hồ: Một căn hộ hai chủ sở
hữu”, Báo Hanoimoi. online, số ra ngày 29/3.
64. Nguyễn Thiêm (2005), “Nhà tái định cư: vừa ở vừa… run”, cand.com.vn, ngày 21/5.
65. Phan Văn Thọ (2009), “Một số giải pháp tái định cư cho các hộ dân bị thu hồi đất nông
nghiệp”, Tài nguyên và Môi trường, 2(5), tr. 15-16.
66. Nguyễn Tiến Thỏa (2007), “Định giá đất theo giá thị trường’’, Tạp chí Tài nguyên và
Môi trường, (5), tr.10-11.
67. Lò Hùng Thuận (2009), “Tái định cư cho các hộ nông dân bị thu hồi đất ở Sơn La”, Tài
nguyên và Môi trường, 2(10), tr.35, 37.
68. Vũ Xuân Tiến (2009), “Chính sách bồi thường đất cho nông dân khi bị thu hồi đất - cần
cải cách triệt để và toàn diện: Người dân đã được bồi thường như thế nào”, Báo
Xây dựng, (46), tr. 4.
69. Trường Đại học Luật Hà Nội (2006), Giáo trình Luật Dân sự, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
70. Trường Đại học Luật Hà Nội (2006), Giáo trình Luật Đất đai, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
71. Trường Đại học Nông Nghiệp Hà Nội (2008), Tập bài giảng Luật Đất đai, Hà Nội.
72. Nguyễn Quang Tuyến (2010), “Pháp luật đất đai Việt Nam trong tiến trình hội nhập và
phát triển”, Nhà nước và Pháp luật, (1), tr. 45-50.
73. Ủy ban nhân dân phường Xuân La (2009), Báo cáo số 78/BC-UBND ngày 15/12 tổng hợp
kiến nghị của cử tri phường Xuân La với kỳ họp thứ 15 Hội đồng nhân dân quận
khóa III, nhiệm kỳ 2004-2011, Hà Nội.
74. Ủy ban nhân dân quận Tây Hồ (2006), Báo cáo số 11/2006/BC-UBND ngày 11/01 về kết
quả thực hiện công tác giải phóng mặt bằng các dự án năm 2005; kế hoạch tổ chức
triển khai thực hiện các dự án năm 2006, Hà Nội.
75. Ủy ban nhân dân quận Tây Hồ (2007), Báo cáo số 19/2007/BC-UBND ngày 16/01 về kết
quả thực hiện công tác giải phóng mặt bằng các dự án năm 2006; kế hoạch tổ chức
triển khai thực hiện các dự án năm 2007, Hà Nội.
76. Ủy ban nhân dân quận Tây Hồ (2008), Báo cáo số 26/BC-UBND ngày 18/01 về kết quả thực
hiện công tác giải phóng mặt bằng các dự án năm 2007; kế hoạch tổ chức triển khai
thực hiện các dự án năm 2008, Hà Nội.
77. Ủy ban nhân dân quận Tây Hồ (2009), Báo cáo số 21/BC-UBND ngày 27/01 về kết quả
thực hiện công tác giải phóng mặt bằng các dự án năm 2008; kế hoạch tổ chức
triển khai thực hiện các dự án năm 2009, Hà Nội.
78. Ủy ban nhân dân quận Tây Hồ (2009), Báo cáo số 105/2009/BC-UBND ngày 19/6 về
tình hình thực hiện dự án xây dựng hạ tầng kỹ thuật xung quanh Hồ Tây, Hà Nội.
79. Ủy ban nhân dân quận Tây Hồ (2010), Báo cáo số 17/BC-UBND ngày 25/01 về kết quả
thực hiện công tác giải phóng mặt bằng các dự án năm 2009; kế hoạch tổ chức
triển khai thực hiện các dự án năm 2010, Hà Nội.
80. Ủy ban nhân dân quận Tây Hồ (2010), Báo cáo số 132/2010/BC-UBND ngày 15/7 về
tình hình triển khai công tác giải phóng mặt bằng các dự án đầu tư trên địa bàn
quận năm 2010, Hà Nội.
81. Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội (2005), Quyết định số 23/2005/QĐ-UBND ngày 18/02 quy
định về cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ở trên địa bàn thành phố Hà Nội,
Hà Nội.
82. Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội (2005), Quyết định số 26/2005/QĐ-UBND ngày 18/02 ban
hành quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư thực hiện Nghị định số
197/2004/NĐ-CP ngày 3/12/2004 của Chính phủ khi Nhà nước thu hồi đất trên địa
bàn thành phố Hà Nội, Hà Nội.
83. Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội (2005), Quyết định số 81/2005/QĐ-UB ngày 3/6 về việc
ban hành giá xây dựng mới nhà ở, nhà tạm, vật kiến trúc trên địa bàn thành phố
Hà Nội, Hà Nội.
84. Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội (2007), Quyết định số 137/2007/QĐ-UBND ngày 30/11 ban
hành quy định về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư trên địa bàn thành phố Hà Nội,
thay thế Quyết định số 26/2005/QĐ-UBND, Hà Nội.
85. Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội (2007), Quyết định số 150/2007/QĐ-UBND ngày 28/12 về
việc ban hành giá các loại đất trên địa bàn thành phố năm 2008, thay thế Quyết
định số 242/2006/QĐ-UBND, Hà Nội.
86. Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội (2008), Quyết định số 18/2008/QĐ-UBND ngày 29/9 ban
hành quy định về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư trên địa bàn thành phố Hà Nội,
thay thế Quyết định 137/2007/QĐ-UBND, Hà Nội.
87. Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội (2008), Quyết định số 23/2008/QĐ-UBND ngày 09/5 về
việc ban hành quy định về cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cùng với quyền
sở hữu tài sản gắn liền với đất cho hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư, người
Việt Nam định cư ở nước ngoài trên địa bàn thành phố Hà Nội, Hà Nội.
88. Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội (2008), Quyết định số 40/2008/QĐ-UBND ngày 22/10 về
việc ban hành giá xây dựng mới nhà ở, nhà tạm, vật kiến trúc trên địa bàn thành
phố Hà Nội, thay thế Quyết định 151/2007/QĐ-UBND, Hà Nội.
89. Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội (2008), Quyết định số 62/2008/QĐ-UBND ngày 31/12 về
việc ban hành giá các loại đất trên địa bàn thành phố năm 2009, thay thế Quyết
định số 150/2007/QĐ-UBND, Hà Nội.
90. Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội (2009), Quyết định số 108/2009/QĐ-UBND ngày 29/9 ban
hành quy định về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư trên địa bàn thành phố Hà Nội,
thay thế Quyết định 18/2008/QĐ-UBND, Hà Nội.
91. Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội (2009), Quyết định số 117/2009/QĐ-UBND ngày 01/12 quy
định về cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản
khác gắn liền với đất, đăng ký biến động về sử dụng đất, sở hữu tài sản gắn liền
với đất cho hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư, người Việt Nam định cư ở
nước ngoài, cá nhân nước ngoài được sở hữu nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất
ở tại Việt Nam trên địa bàn thành phố Hà Nội, Hà Nội
92. Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội (2010), Quyết định số 32/2010/QĐ-UBND ngày 04/8 về
việc ban hành giá xây dựng mới nhà ở, nhà tạm, vật kiến trúc làm cơ sở xác định
giá trị bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn thành phố Hà Nội,
thay thế Quyết định số 40/2008/QD-UBND, Hà Nội.
93. Viện Ngôn ngữ học (2006), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng.
94. Phạm Văn Võ (2003), “Về mối quan hệ giữa Nhà nước với người sử dụng đất và sự thể
hiện mối quan hệ này trong dự thảo Luật Đất đai”, Nhà nước và Pháp luật, (10), tr.
11.