Tải bản đầy đủ (.pdf) (93 trang)

Quản lý nhà nước về văn hóa từ thực tiễn quận sơn trà, thành phố đà nẵng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (895.58 KB, 93 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN ĐÌNH VƯƠNG

QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ VĂN HÓA
TỪ THỰC TIỄN QUẬN SƠN TRÀ,
THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI, năm 2017


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN ĐÌNH VƯƠNG

QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ VĂN HÓA
TỪ THỰC TIỄN QUẬN SƠN TRÀ,
THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
Chuyên ngành

: Luật Hành chính

Mã số

: 60.38.01.02



LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. HOÀNG THỊ NGÂN

HÀ NỘI, năm 2017


LỜI CẢM ƠN
Công trình nghiên cứu Đề tài "Quản lý nhà nước về văn hóa từ thực tiễn
Quận Sơn Trà, Thành Phố Đà Nẵng" của luận văn này là kết quả của sự nỗ lực cố
gắng, tìm tòi và sáng tạo của riêng bản thân tôi cùng với sự hướng dẫn của TS.
Hoàng Thị Ngân, người đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ, chỉ bảo tôi trong quá trình
tôi triển khai đề tài và viết luận văn này.
Tôi xin cảm ơn các đồng chí lãnh đạo Ủy ban nhân dân quận, Ban Tổ chức,
Văn phòng Quận uỷ; lãnh đạo, chuyên viên các phòng chuyên môn của quận, lãnh
đạo Ủy ban nhân dân và cán bộ công chức khối văn hoá xã hội các phường, gia
đình, bạn bè, đồng nghiệp đã luôn ủng hộ, tạo điều kiện, động viên giúp đỡ và chia
sẽ công việc với tôi để tôi có thời gian được đi học và nghiên cứu viết hoàn thành
luận văn của mình.
Cho phép tôi được gửi đến Học viện khoa học xã hội, quý Thầy, Cô giáo, gia
đình, bạn bè và đồng nghiệp lời biết ơn sâu sắc và chân thành nhất.
Học viên

Nguyễn Đình Vương


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng, đề tài: "Quản lý nhà nước về văn hóa từ thực tiễn

Quận Sơn Trà, Thành Phố Đà Nẵng" là công trình nghiên cứu của tôi. Mọi tài liệu
sử dụng đều có nguồn gốc trích dẫn rõ ràng.
Tác giả luận văn

Nguyễn Đình Vương


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ
VĂN HÓA ..................................................................................................................6
1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của quản lý nhà nước về văn hoá ..........................6
1.2. Nguyên tắc, nội dung và phương pháp quản lý nhà nước về văn hoá ...............16
1.3. Các yếu tố tác động đến quản lý nhà nước về văn hóa ......................................23
Chương 2. THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ VĂN HÓA TRÊN
ĐỊA BÀN QUẬN SƠN TRÀ, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG ....................................31
2.1. Điều kiện tự nhiên và đặc điểm kinh tế, xã hội của quận Sơn Trà ....................31
2.2. Thực tiễn quản lý nhà nước về văn hoá trên địa bàn quận Sơn Trà từ năm 2010
đến nay ......................................................................................................................33
2.3. Đánh giá chung về công tác quản lý nhà nước về văn hóa từ thực tiễn quận Sơn
Trà .............................................................................................................................61
Chương 3. GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ
VĂN HÓA TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN SƠN TRÀ, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG ....66
3.1. Những quan điểm chỉ đạo để nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về văn hóa
trên địa bàn quận Sơn Trà .........................................................................................66
3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về văn hoá trên địa bàn quận
Sơn Trà ......................................................................................................................69
KẾT LUẬN ..............................................................................................................79
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO



DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
KT-XH

: Kinh tế - xã hội

QPAN

: Quốc phòng an ninh

QLNN

: Quản lý nhà nước

QPPL

: Quy phạm pháp luật

TW

: Trung ương

UBND

: Uỷ ban nhân dân

UBMTTQ

: Ủy ban mặt trận tổ quốc


VBPL

: Văn bản pháp luật

VHTT

: Văn hóa thông tin

VHTTDL

: Văn hóa thể thao du lịch

XHCN

: Xã hội chủ nghĩa


DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu bảng
1.1.

Tên bảng
Danh hiệu văn hoá từ năm 2012 đến 2015 trên địa
bàn quận

Trang
51


DANH MỤC CÁC HÌNH

Số hiệu hình
1.1.

Tên hình
Định nghĩa văn hóa

Trang
8


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Văn hóa Việt Nam là toàn bộ sáng tạo của con người tích lũy lại trong quá
trình hoạt động thực tiễn xã hội được đúc kết thành hệ giá trị và chuẩn mực xã hội,
biểu hiện thông qua vốn di sản văn hóa và hệ ứng xử văn hóa cộng đồng người.
Chúng ta tự hào về nền văn hóa Việt Nam được bồi đắp ngày càng rạng rỡ bằng trí
tuệ và tâm hồn biết bao thế hệ, tự hào về truyền thống yêu nước nồng nàn, ý chí bất
khuất, quật cường, tinh thần cao cả, tình nghĩa nhân hậu thủy chung, luôn hướng tới
chân, thiện, mỹ. Lịch sử dân tộc ta đã chứng minh được mạch sống lưu truyền đó.
Vai trò văn hoá đã được Đại hội VIII khẳng định “Văn hoá là nền tảng tinh
thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế – xã
hội” [14, tr.55], kết tinh những giá trị tinh thần cốt lõi và đặc sắc có tính bền vững
và trường tồn trong lịch sử của dân tộc.
Công cuộc đổi mới toàn diện của đất nước ta từ Đại hội VI đến nay đã đạt
được những thành tựu vượt bậc trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, an
ninh, quốc phòng. Góp phần vào những thành tựu ấy, có sự đóng góp không nhỏ
của lĩnh vực văn hóa.
Trong tình hình hiện nay, dư luận xã hội và các phương tiện truyền thông đại
chúng đã phản ánh rất nhiều vấn đề liên quan đến những mặt tiêu cực của văn hóa
với nhiều mức độ khác nhau. Các cơ quan chức năng thực hiện nhiệm vụ quản lý

nhà nước về văn hóa cũng gặp nhiều khó khăn, lúng túng, bị động trong công tác
quản lý, xử lý vi phạm, nhất là việc quản lý các loại hình dịch vụ văn hóa...
Trong quá trình hình thành và phát triển, Quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng với lợi thế của một quận có vị trí quan trọng về kinh tế biển, kinh tế du lịch, quốc
phòng và an ninh, là cửa ngõ ra biển Đông của thành phố, là tuyến giao thông huyết
mạch đặc biệt quan trọng của hành lang kinh tế Đông Tây... Sơn Trà là cánh cửa
tiếp nhận sự giao lưu văn hoá đa dạng, phong phú, thực sự có giao lưu từ nhiều nền
văn hoá Đông và Tây, văn hoá sa đảo.
Với những mặt thuận lợi cho sự phát triển kinh tế, văn hóa-xã hội ở địa

1


phương, thực trạng về văn hóa trên địa bàn quận còn tiềm ẩn nhiều biểu hiện tiêu
cực ở một số hoạt động kinh doanh dịch vụ văn hóa, lối sống, hành vi cư xử của con
người có những biểu hiện đáng lo ngại, làm xói mòn những giá trị đạo đức, thuần
phong mỹ tục của dân tộc. Trong bối cảnh phát triển công nghiệp hóa, đô thị hóa
hiện nay, công tác quản lý nhà nước về văn hóa sẽ gặp nhiều khó khăn, trở ngại bởi
thực tế đội ngũ cán bộ, công chức quản lý nhà nước về văn hóa còn thiếu về số
lượng, yếu về chuyên môn nghiệp vụ, các thiết chế văn hóa chưa được thành phố và
quận đầu tư kịp thời, các chính sách đầu tư cho con người làm công tác quản lý nhà
nước về văn hóa chưa thật sự được quan tâm, chú trọng.
Trước thực trạng và sự cấp thiết của vấn đề nghiên cứu, trên cơ sở khoa học,
thực tiễn, tiếp thu những công trình khoa học đi trước. Với mục đích nghiên cứu cơ
sở lý luận và thực tiễn công tác quản lý nhà nước về văn hóa, qua đó đề xuất các
giải pháp để hoàn thiện và nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước đối với văn
hóa trên địa bàn quận. Vì vậy, tôi chọn “Quản lý nhà nước về văn hóa từ thực tiễn
quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng” làm đề tài luận văn cao học chuyên ngành Luật
hành chính.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Đã có nhiều công trình nghiên cứu về công tác quản lý văn hóa Việt Nam, xây

dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam, nhất là giai đoạn hội nhập kinh tế quốc
tế, đẩy mạnh công nghiệp hóa-hiện đại hóa ở nước ta hiện nay, điển hình là các
công trình nghiên cứu như:
- TSKH Phan Hồng Giang và TS Bùi Hoài Sơn (đồng chủ biên) (2012) “Quản
lý văn hóa Việt Nam trong tiến trình đổi mới và hội nhập quốc tế”, Nxb chính trị
quốc gia, Hà Nội.
- TSKH Phan Hồng Giang và TS Bùi Hoài Sơn (đồng chủ biên) “Quản lý văn
hóa ở một số nước và bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam”, Tạp chí cộng sản số
1, tr.52-59.
- Lê Như Hoa (2000), “Quản lý văn hóa đô thị trong điều kiện công nghiệp
hóa-hiện đại hóa đất nước”, Nxb Văn hóa-thông tin, Hà Nội.

2


- Giáo sư Viện sĩ Phạm Minh Hạc, “Về phát triển toàn diện con người thời kỳ
công nghiệp hóa, hiện đại hóa”, Nxb Chính trị Quốc gia, 2001.
- Giáo sư, Tiến sĩ Đinh Xuân Dũng, “Phát triển văn hóa trong thời kỳ đổi
mới” Nxb Thời Đại, 2011.
Các công trình nêu trên đã nghiên cứu rất nhiều lĩnh vực khác nhau trong đời
sống văn hóa cũng như lĩnh vực quản lý văn hóa. Từ mỗi công trình đã có những
đóng góp nhất định cho việc xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam trong
từng giai đoạn lịch sử. Đối với đề tài “Quản lý nhà nước về văn hóa từ thực tiễn
quận Sơn Trà, Thành phố Đà Nẵng” tập trung đi sâu phân tích cơ sở lý luận và
thực tiễn quản lý nhà nước về văn hóa tại địa bàn quận, qua đó đưa ra những giải
pháp tốt nhất nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về văn hóa trên
địa bàn quận Sơn Trà trong thời gian tới.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích tổng quát là nghiên cứu thực trạng công tác quản lý nhà nước về văn

hóa trên địa bàn quận Sơn Trà hiện nay, từ đó đề xuất các giải pháp cụ thể nhằm
nâng cao hiệu quả của hoạt động này trong điều kiện thực tế hiện nay của địa
phương.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ khái niệm, đặc điểm, nội dung, vai trò của quản lý nhà nước về văn
hóa; phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến quản lý nhà nước về văn hóa ở nước ta
hiện nay;
- Đánh giá thực trạng quản lý nhà nước về văn hóa trên địa bàn quận Sơn Trà,
thành phố Đà Nẵng trong thời gian từ năm 2010 đến nay.
- Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về văn hóa
trên địa bàn quận Sơn Trà.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các quy định pháp luật, Thực tiễn hoạt

3


động văn hóa, quản lý nhà nước về văn hóa trên địa bàn quận Sơn Trà, thành phố
Đà Nẵng.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Quản lý nhà nước về văn hóa là một trong những vấn đề nóng bỏng và có
phạm vi rộng cả về không gian và thời gian. Đề tài tập trung một số nội dung sau:
- Nghiên cứu một số lĩnh vực chủ yếu như: quản lý nhà nước về xây dựng dịch
vụ văn hóa, môi trường văn hóa, gia đình văn hóa, bảo tồn và phát huy các giá trị
văn hóa.
- Phạm vi thời gian: từ năm 2010 đến nay.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Trên cơ sở quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về

mối quan hệ biện chứng giữa kiến trúc thượng tầng và hạ tầng kinh tế; các quan
điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam và văn bản pháp luật quản lý nhà
nước về văn hóa và hoạt động văn hóa. Đồng thời, luận văn tham khảo và kế thừa
một số công trình nghiên cứu của các nhà khoa học liên quan đến lĩnh vực này.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Các phương pháp cụ thể được tác giả sử dụng trong luận văn gồm: thu thập tư
liệu, phương pháp lịch sử, phương pháp hệ thống, phương pháp phân tích, phương
pháp so sánh, phương pháp xã hội học, phương pháp tổng hợp..., từ đó rút ra những
kết luận cần thiết.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
- Qua nghiên cứu đề tài này, bản thân nhận thức được những quy định của
pháp luật đối với quản lý nhà nước về văn hóa, nắm rõ những căn cứ, nội dung, giải
pháp nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về văn hóa trên địa bàn
quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng hiện nay.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Luận văn góp phần hệ thống hoá đầy đủ hơn về lý luận và thực trạng quản lý

4


nhà nước về văn hóa, đồng thời kiến nghị hoàn thiện một số quy định pháp luật liên
quan đến quản lý nhà nước về văn hóa.
- Đề xuất một số giải pháp khác nhằm tăng cường hiệu quả quản lý nhà nước
về văn hóa.
- Đề tài cung cấp những nghiên cứu, tư liệu, khảo sát thực tế tại quận Sơn Trà,
thành phố Đà Nẵng, qua đó đóng góp các dữ liệu của cơ sở thực tiễn để làm căn cứ
điều chỉnh và hoàn thiện chính sách.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và tài liệu tham khảo, nội dung của luận

văn được kết cấu làm 03 chương:
Chương 1. Một số vấn đề lý luận của quản lý nhà nước về văn hóa.
Chương 2. Thực trạng quản lý nhà nước về văn hóa trên địa bàn quận Sơn Trà,
thành phố Đà Nẵng.
Chương 3. Giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về văn hóa trên địa
bàn quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng.

5


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ VĂN HÓA
1.1. Khái niệm, vai trò, đặc điểm của quản lý nhà nước về văn hoá
1.1.1. Khái niệm văn hóa và vai trò của văn hóa
1.1.1.1. Khái niệm văn hóa
Thuật ngữ “văn hóa” đã sớm xuất hiện trong ngôn ngữ của loài người, đặc biệt
là ở các quốc gia được coi là cái nôi của văn minh nhân loại.
Ở phương Đông, từ “văn hóa” xuất hiện sớm trong ngôn ngữ Trung Hoa. Ở
thời kỳ Tây Hán, trước công nguyên, trong bài Chi Vũ sách Thuyết Uyển, Lưu
Hướng đã viết: “Bậc thánh nhân trị thiên hạ, trước dùng “văn đức” rồi “sau mới
dùng vũ lực”. Dùng vũ lực để đối phó với người bắt phục tùng, dùng văn hóa không
thay đổi được thì sau đó sẽ “trừng phạt”. Như vậy, văn hóa được dùng để cải hóa
con người, làm cho con người tốt đẹp hơn.
Ở phương Tây, thuật ngữ “văn hóa” có nguồn gốc từ tiếng Latinh “colere” sau
đổi thành “cultura”, chữ “cultus” chuyển nghĩa thành thờ cúng, “culte” có nghĩa là
khai khẩn đất hoang, vun trồng cây cối, về sau chuyển thành nghĩa vụ trồng trí tuệ.
Như vậy, trong quan niệm cổ truyền, dù ở phương Đông và phương Tây văn
hóa gắn liền với giáo dục, bồi dưỡng tâm hồn, trí tuệ, đào tạo con người, một tập thể
người để cho họ có phẩm chất tốt đẹp, cần thiết cho toàn thể cộng đồng. Có thể dẫn

ra một số định nghĩa tiêu biểu về văn hóa:
Năm 1871, nhà nhân học Anh là Edward Bernett Tylor đã định nghĩa “Văn
hóa hay văn minh, hiểu theo nghĩa rộng nhất về dân tộc học của nó là toàn bộ phức
thể bao gồm tri thức, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, luật pháp, phong tục và
những khả năng, những tập quán mà con người có được với tư cách thành viên của
xã hội” [25, tr.17]
Trong công trình Việt Nam văn hóa sử cương xuất bản lần đầu tiên năm 1938,
học giả Đào Duy Anh cho rằng : “Văn hóa là cách sinh hoạt của con người” [1,
tr.10-11]

6


Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc
sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp
luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng
ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát
minh đó tức là văn hoá” [24, tr.458].
Định nghĩa về văn hóa của Hồ Chí Minh đã khắc phục được những quan niệm
phiến diện về văn hóa trong lịch sử và hiện tại. Quan niệm của Hồ Chí Minh đã chỉ
ra được nguồn gốc động lực và cấu trúc của văn hoá. Quan điểm này có tính kế
thừa, phát triển và có trước khi UNESCO ra đời. Suy cho cùng, văn hóa là sản
phẩm của con người, được tạo ra trong quá trình lao động (từ lao động trí óc đến lao
động chân tay), được chi phối bởi môi trường (môi trường tự nhiên và xã hội) xung
quang và tính cách của từng tộc người.
Khái niệm văn hóa của Federico Mayor Caragoza – Nguyên giám đốc
UNESCO thì: “Văn hóa là tổng thể sống động các hoạt động sáng tạo trong quá
khứ và trong hiện tại. Qua các thế kỷ hoạt động sáng tạo ấy đã hình thành nên một
hệ thống giá trị, các truyền thống và các thị hiếu - những yếu tố xác định các đặc
tính riêng của mỗi dân tộc” [5, tr.23].

Định nghĩa này nhấn mạnh vào hoạt động sáng tạo của các cộng đồng người
gắn liền với tiến trình phát triển có tính lịch sử của mỗi cộng đồng trải qua một thời
gian dài tạo nên những giá trị có tính nhân văn phổ quát, đồng thời có tính đặc thù
của mỗi cộng đồng, bản sắc riêng của từng dân tộc. Định nghĩa còn cho ta thấy
không phải hoạt động nào của con người cũng tạo nên giá trị văn hóa, chỉ có “các
hoạt động sáng tạo trong quá khứ và trong hiện tại”, trải qua thời gian dài hàng thế
kỷ mới tạo ra được các giá trị, các truyền thống và các thị hiếu…cái mà người ta có
thể coi là văn hóa của mỗi tộc người. Định nghĩa này còn muốn nhấn mạnh tính
riêng của mỗi nền văn hóa, cỗ vũ cho việc giữ gìn tính đa dạng của văn hóa thế giới,
khuyến cáo nguy cơ suy thoái của các nền văn hóa dễ bị tổn thương trong làn sóng
toàn cầu hóa, hệ lụy của cách thức phát triển kinh tế không tôn trọng yếu tố văn hóa
vì con người. Tuy nhiên, nếu chỉ căn cứ vào định nghĩa có tính khái quát này, trong
hoạt động quản lý nhà nước về văn hóa, chúng ta dễ bị hiểu một cách sai lệch: Quản

7


lý văn hóa là quản lý các hoạt động sáng tạo và thu hẹp hơn nữa là quản lý sáng tác
văn học nghệ thuật. Thực tế quản lý văn hóa không phải như vậy, quản lý văn hóa
cấp cơ sở lại càng không phải chỉ có thế.
Theo kết quả nghiên cứu gần đây, một số nhà khoa học cho rằng văn hóa là
sản phẩm đặc trưng của con người và xã hội loài người và văn hóa là một quá trình
con người tác động vào tự nhiên, làm biến đổi tự nhiên một cách có ý thức, có lợi
cho cuộc sống con người. Mặc dù, con người là một động vật cao cấp đặc biệt, có
thể phát minh ra nhiều máy móc, thiết bị tác động vào tự nhiên, làm cho tự nhiên
biến đổi mạnh mẽ, nhưng chúng ta cũng cần nhận thấy rằng: suy cho cùng con
người cũng là sản phẩm của tự nhiên, là kết quả của quá trình tiến hóa của tự nhiên,
do đó con người không thể tách rời thế giới tự nhiên, không thể chi phối được tự
nhiên theo ý muốn chủ quan của mình. Chính vì thế mà con người phải luôn luôn hòa
mình vào tự nhiên, ứng xử một cách thân thiện và thông minh với thế giới xung

quanh để có thể duy trì sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người trên trái đất này.
Kế thừa khái niệm của các nhà khoa học trong và ngoài nước với sự phân tích
như trên, có thể đi đến một khái niệm văn hóa như sau :
Văn hóa là tổng thể hệ thống những giá trị, những chuẩn mực, những hoạt
động, những thói quen trong thực tiễn, có ý thức, mang tính sáng tạo và nhân văn
của một cộng đồng dân cư nhất định trong lịch sử, qua đó thể hiện những đặc tính
riêng, phân biệt cộng đồng dân cư này với cộng đồng dân cư khác [31,tr.14]
Định nghĩa văn hóa trên được thể hiện trong sơ đồ sau:
GIÁ TRỊ

Thực tiễn

Ý thức
VĂN
HÓA

HOẠT ĐỘNG

Nhân văn

Sáng tạo

CHUẨN MỰC

Hình 1.1. Định nghĩa văn hóa

8

THÓI QUEN



Trong định nghĩa này, các nhà khoa học tiếp cận khái niệm văn hóa theo tính
hệ thống được tích hợp thành tổng thể hệ thống các khía cạnh, các nội dung và các
biểu hiện của văn hóa, trong đó nhấn mạnh đến tính giá trị, tính chuẩn mực cũng
như tính sáng tạo và tính nhân văn của văn hóa. Những đặc tính cơ bản và quan
trọng đó luôn luôn được gắn kết với nhau trên nền tảng của sinh hoạt cộng đồng dân
cư trong thực tiễn và trong lịch sử để tạo thành những yếu tố văn hóa bản sắc tiêu
biểu cho từng cộng đồng dân cư.
Trong Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII về xây dựng và phát triển
nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc (1998), Đảng ta đã xác định
nền văn hóa mà chúng ta xây dựng bao gồm toàn bộ các hoạt động tinh thần của xã
hội, từ tư tưởng, đạo đức, lối sống tới văn học, nghệ thuật, thông tin đại chúng; giáo
dục - đào tạo; khoa học - công nghệ; bảo tồn di sản văn hóa; văn hóa các dân tộc
thiểu số; xây dựng môi trường văn hóa; giao lưu văn hóa quốc tế…Đây là những
lĩnh vực góp phần tạo nên nền tảng tinh thần của xã hội. Nhìn một cách khái quát,
văn hóa là khái niệm chỉ thuộc tính của con người, là sáng tạo cải tạo hiện thực
vươn tới giá trị nhân văn, thúc đẩy sự tiến bộ xã hội, là dấu hiệu để phân biệt loài
người với loài vật, cá nhân này với cá nhân khác, cộng đồng này với cộng đồng
khác. Đồng thời, đây cũng là khái niệm để chỉ chất lượng và trình độ cuộc sống của
con người.
1.1.1.2. Vai trò của văn hóa
Bác Hồ và Đảng ta đã nhiều lần khẳng định, văn hóa là cốt cách của một dân
tộc, xây dựng văn hóa chính là xây dựng nền tảng tinh thần của một dân tộc. Nền
văn hóa ấy có nhiệm vụ không ngừng nâng cao tố chất đạo đức tư tưởng cũng như
văn hóa, khoa học, kỹ thuật của toàn dân tộc, đào tạo những công dân xã hội chủ
nghĩa có lý tưởng, có đạo đức, có văn hóa, có kỷ luật.
Theo quan điểm của Hồ Chí Minh: Văn hóa là mục tiêu, động lực của sự
nghiệp cách mạng. Bởi lẽ:
Văn hóa là mục tiêu, có nghĩa là mục tiêu là cái đích cần đạt tới. Mục tiêu của
cách mạng Việt Nam là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, độc lập dân tộc gắn


9


liền với chủ nghĩa xã hội. Như vậy, cùng với chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa nằm
trong mục tiêu chung của toàn bộ tiến trình cách mạng.
Văn hóa là mục tiêu-nhìn một cách tổng quát-là quyền sống, quyền sung
sướng, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc; là khát vọng của nhân dân về các
giá trị chân, thiện, mỹ. Đó là một xã hội dân chủ-dân là chủ và dân làm chủ, công
bằng, văn minh, ai cũng cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành; một xã hội mà đời
sống vật chất và tinh thần của nhân dân luôn được quan tâm và không ngừng nâng
cao, con người có điều kiện phát triển toàn diện.
Văn hóa là mục tiêu của sự phát triển bởi lẽ, văn hóa do con người sáng tạo ra,
chi phối toàn bộ hoạt động của con người, là hoạt động sản xuất nhằm cung cấp
năng lượng tinh thần cho con người, làm cho con người ngày càng hoàn thiện, xa
rời trạng thái nguyên sơ ban đầu khi từ con vật phát triển thành con người. Con
người tồn tại, không chỉ cần những sản phẩm vật chất mà còn có nhu cầu hưởng thụ
sản phẩm văn hóa tinh thần, con người và xã hội loài người càng phát triển thì nhu
cầu văn hóa tinh thần đòi hỏi ngày càng cao.
Vì thế, văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, đồng thời là mục tiêu của sự
phát triển. Vì xét cho cùng, mọi sự phát triển đều do con người quyết định mà văn
hóa thể hiện trình độ vun trồng ngày càng cao, càng toàn diện con người và xã hội,
làm cho con người và xã hội ngày càng phát triển, tiến bộ;
Văn hóa là hệ điều tiết của sự phát triển. Bởi lẽ, văn hóa phát huy mặt tích
cực, hạn chế mặt tiêu cực của các nhân tố khách quan và chủ quan, của các điều
kiện bên trong và bên ngoài, bảo đảm cho sự phát triển được hài hòa.
Trong nền kinh tế thị trường, một mặt văn hóa dựa vào chuẩn mực của nó là
chân, thiện, mỹ để hướng dẫn và thúc đẩy người lao động không ngừng phát huy
sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, nâng cao tay nghề, sản xuất hàng hóa với số lượng ngày
càng nhiều với chất lượng ngày càng cao; mặt khác, văn hóa sử dụng sức mạnh của

các giá trị truyền thống, của đạo lý, dân tộc để hạn chế xu hướng sùng bái hàng hóa,
sùng bái tiền tệ. Hạn chế những tiêu cực này chỉ có thể là văn hóa và chủ yếu bằng
văn hóa. Sự thâm nhập của văn hóa độc hại, của sự lai căng văn hóa, của lối sống

10


thực dụng và những tiêu cực khác của kinh tế thị trường… đã và đang ảnh hưởng,
làm băng hoại những giá trị văn hóa truyền thống, ảnh hưởng tới sự phát triển bền
vững của đất nước…
Trước đổi mới, đất nước ta gặp rất nhiều khó khăn trên lĩnh vực kinh tế - xã
hội. Đại hội VI, Đảng ta đã nghiêm túc nhìn thẳng vào sự sai lầm của cơ chế tập
trung quan liêu bao cấp mà chúng ta duy ý chí áp dụng một cách máy móc và cũng
thấy sự kìm hãm của cơ chế ấy đối với một xã hội văn hóa.
Trong đường lối đổi mới của mình, vấn đề văn hóa ngày càng được Đảng ta
quan tâm, nhân tố văn hóa đã từng bước tham gia vào sự phát triển kinh tế - xã
hội. Các Đại hội Đảng VII, VIII, IX, X, XI, XII đều đặc biệt quan tâm đến việc
phát huy nguồn nội lực, coi đó là cơ sở của sự phát triển kinh tế - xã hội.
Vì vậy, các Hội nghị Trung ương 4 khóa VII, Trung ương 2, Trung ương 5,
Trung ương 6 (lần 2) khóa VIII; Trung ương 5, Trung ương 10 (khóa IX), Trung
ương 9 (khóa XI)…đã ra các Nghị quyết quan trọng về phát triển văn hóa và giáo
dục - đào tạo, khoa học công nghệ, về tư tưởng - lý luận, về xây dựng và chỉnh đốn
Đảng… Các văn kiện của Đảng đã khẳng định: Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã
hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội và sự
nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; yêu cầu “bảo đảm sự gắn
kết giữa nhiệm vụ phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng, chỉnh đốn Đảng là then
chốt với không ngừng nâng cao văn hóa - nền tảng tinh thần của xã hội; tạo nên sự
phát triển đồng bộ của ba lĩnh vực trên chính là điều kiện quyết định bảo đảm cho
sự phát triển toàn diện và bền vững của đất nước” (Kết luận Hội nghị lần thứ mười
Ban Chấp hành Trung ương khóa IX); coi phát triển giáo dục - đào tạo, khoa học công nghệ là “quốc sách hàng đầu”; “đầu tư cho văn hóa, giáo dục - đào tạo, khoa

học - công nghệ là đầu tư cho phát triển”; “xây dựng và phát triển kinh tế phải nhằm
mục tiêu văn hóa, vì xã hội công bằng, văn minh, con người phát triển toàn diện”;
“gắn chặt nhiệm vụ xây dựng văn hóa với nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn Đảng
thông qua cuộc vận động lớn về xây dựng đạo đức, lối sống theo tư tưởng Hồ Chí
Minh”; “Gắn xây dựng, phát triển văn hóa với con người Việt Nam…”.

11


1.1.2. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của quản lý nhà nước về văn hóa
1.1.2.1. Khái niệm quản lý nhà nước về văn hóa
Trong xã hội bao gồm nhiều phương diện, nhu cầu, đòi hỏi có nhiều lĩnh vực
hoạt động của con người để đáp ứng những nhu cầu, đòi hỏi có nhiều lĩnh vực kinh
tế, chính trị, xã hội, khoa học, văn hóa, giáo dục...Mỗi lĩnh vực đều đặt dưới sự điều
chỉnh của một cơ chế quản lý toàn xã hội, có sự chỉ đạo điều hòa hoạt động của các
cá nhân từ đó hình thành nên hoạt động quản lý.
Nhìn chung, quản lý là chức năng nhằm bảo vệ và duy trì các cơ cấu xác định
của một tổ chức, đồng thời duy trì chế độ hoạt động thực hiện một chương trình và
một mục tiêu của hoạt động đã được ý thức hóa của một tập đoàn người, của một tổ
chức xã hội hoặc một cá nhân nào đó với tư cách là một chủ thể của hoạt động quản
lý. Hiểu theo nghĩa thông thường thì quản lý là hoạt động nhằm tác động một cách
có tổ chức và định hướng của chủ thể quản lý vào đối tượng nhất định để điều chỉnh
các quá trình xã hội và hành vi của con người nhằm duy trì tính ổn định và phát
triển của đối tượng theo những mục tiêu đã định.
Tóm lại, quản lý là tiến trình, hoạt động hoặc giám sát việc thực thi nhiệm vụ
để đảm bảo rằng các hoạt động trong tổ chức được thực hiện theo hướng đạt được
các mục tiêu đã đề ra của tổ chức - đặc biệt là nhiệm vụ tạo ra và duy trì các điều
kiện để thực hiện tốt mục tiêu thông qua việc kết hợp những nỗ lực của các nhóm
khác nhau trong tổ chức, cũng là một nhóm người trong tổ chức liên quan đến việc
quản lý tổ chức đó.

Quản lý nhà nước hiểu theo nghĩa rộng là toàn bộ mọi hoạt động của nhà nước
nói chung, mọi hoạt động mang tính chất nhà nước, nhằm thực hiện các nhiệm vụ,
chức năng của nhà nước. Theo quan niệm này thì quản lý nhà nước là hoạt động của
tất cả các cơ quan nhà nước từ Quốc hội, Chính phủ đến các cơ quan nhà nước khác
thông qua pháp luật. Nhà nước có thể trao quyền của mình cho các cá nhân hay các
tổ chức xã hội, để các chủ thể đó thay mặt nhà nước tiến hành hoạt động Quản lý
nhà nước.
Mặt khác, quản lý nhà nước còn được hiểu theo nghĩa hẹp đó là quản lý nhà

12


nước trong lĩnh vực hành pháp gọi là quản lý hành chính nhà nước. Quản lý hành
chính nhà nước là một hình thức hoạt động của nhà nước được thực hiện trước hết
và chủ yếu bởi các cơ quan hành chính nhà nước, có nội dung là bảo đảm sự chấp
hành Luật, Pháp lệnh và các Nghị quyết của cơ quan quyền lực nhà nước, nhằm tổ
chức và chỉ đạo thực hiện một cách trực tiếp và thường xuyên đối với công cuộc
xây dựng kinh tế, văn hóa, xã hội, hành chính - chính trị của nước ta.
Quản lý nhà nước về văn hóa là một lĩnh vực cụ thể của khoa học quản lý, đây
là một trong những chức năng cơ bản của nhà nước, là sự quản lý của nhà nước đối
với toàn bộ hoạt động văn hóa của quốc gia bằng quyền lực của nhà nước thông qua
Hiến pháp, pháp luật và cơ chế, chính sách nhằm đảm bảo gìn giữ một nền văn hóa
lành mạnh, đậm đà bản sắc dân tộc, đảm bảo sự phát triển của nền văn hóa dân tộc,
tạo động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, phát triển xã hội một cách hài hòa, phù
hợp với giá trị truyền thống và văn hóa của đất nước, trong đó pháp luật nổi lên với
tư cách là công cụ có uy lực nhất để đảm bảo vai trò quản lý của Nhà nước.
1.1.2.2. Đặc điểm của quản lý nhà nước về văn hóa
Thứ nhất, về đối tượng quản lý: Trong lĩnh vực văn hóa, có rất nhiều đối
tượng quản lý mà đòi hỏi Nhà nước cần phải có những cơ chế, chính sách, quy định
phù hợp trong công tác quản lý nhằm đảm bảo khai thác, sử dụng tài nguyên và phát

triển văn hóa một cách hợp lý, phù hợp, đúng với những định hướng, quy hoạch của
Nhà nước trong từng giai đoạn phát triển của đất nước, đồng thời đảm bảo phát huy
chủ nghĩa yêu nước, truyền thống đoàn kết, ý thức độc lập tự chủ, tự cường dân tộc
trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Bảo tồn và phát huy bản sắc dân tộc, tiếp thu
tinh hoa văn hóa nhân loại, làm cho văn hóa thấm sâu vào các lĩnh vực kinh tế-xã
hội và từng cá nhân, nhóm cộng đồng, xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh
trong xã hội. Sự quản lý của Nhà nước về văn hóa sẽ giúp cho việc xây dựng và
phát triển văn hóa theo đúng định hướng, đúng quy hoạch, phù hợp với sự phát triển
của xã hội, đảm bảo ổn định tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.
Thứ hai, về nội dung quản lý có những đặc thù so với nội dung quản lý của
các lĩnh vực khác. Bởi vì, hoạt động văn hóa luôn vận động và biến đổi không

13


ngừng, chịu tác động bởi nhiều yếu tố khác nhau trong cùng một thời điểm như về
tình hình kinh tế, tình hình an ninh, tình hình xã hội của từng khu vực, quốc gia, về
nhu cầu tiếp thu, hưởng thụ hoạt động văn hóa của tổ chức, cá nhân mà nội dung
quản lý phải được điểu chỉnh cho phù hợp.
Thứ ba, về phương pháp quản lý, ngoài việc ban hành các văn bản quy phạm
pháp luật và văn bản áp dụng pháp luật để đảm bảo hành vi xử sự cần thiết của đối
tượng quản lý nhằm duy trì quản lý theo đúng chức năng, nhiệm vụ được pháp luật
quy định, Nhà nước phải làm công tác tuyên truyền, vận động cộng đồng cư dân địa
phương và cá nhân tham gia bảo tồn và phát huy các di sản vǎn hóa, khôi phục lại
các giá trị văn hoá truyền thống của địa phương.
Thứ tư, về mức độ xã hội hoá hoạt động quản lý về văn hóa tương đối nhiều
hơn so với các ngành, lĩnh vực khác. Đi đôi với việc tăng cường đầu tư của Nhà
nước, đẩy mạnh xã hội hóa các hoạt động văn hóa, huy động mọi nguồn lực cho
phát triển văn hóa, coi đầu tư cho văn hóa là đầu tư cho con người, đầu tư cho phát
triển bền vững, gắn kết giữa nhiệm vụ phát triển kinh tế với phát triển văn hóa, làm

cho văn hóa tham gia tích cực vào việc thực hiện mục tiêu "Dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh" của đất nước. Vì vậy, việc quản lý nhà nước về văn
hóa được xã hội hoá một cách tối đa nhằm mang lại hiệu quả cao nhất trong công
tác quản lý văn hóa.
1.1.2.3 Vai trò của quản lý Nhà nước về văn hóa
- Một là, quản lý nhà nước về văn hóa sẽ góp phần định hướng, điều chỉnh sự
phát triển của văn hóa quốc gia, giúp hiện thực hóa các chủ trương, đường lối văn
hóa của Đảng cầm quyền, từ đó tác động đến mục tiêu, bản chất của văn hóa dân
tộc. Quản lý nhà nước về văn hóa sẽ làm cho văn hóa trở thành một tác nhân kích
thích sự phát triển kinh tế - xã hội của các địa phương. Từ một lĩnh vực bị xem là
chủ yếu mang chức năng giáo dục, tuyên truyền, văn hóa đã dần trở thành một lĩnh
vực có giá trị kinh tế, mang lại lợi nhuận, góp phần nâng cao đời sống người dân,
ổn định an ninh xã hội.
- Hai là, đối với các tổ chức và cá nhân tham gia trong lĩnh vực văn hóa, chủ

14


yếu là kinh doanh mang tính lợi nhuận, do vậy mà ít hoặc không có trách nhiệm,
không cần quan tâm đến đến việc bảo vệ, gìn giữ, bảo tồn tài nguyên văn hóa hiện
có mà khai thác tài nguyên văn hóa một cách càn kiệt, bất chấp mọi thiệt hại liên
quan đến văn hóa dân tộc. Chính vì vậy, Nhà nước có vai trò đối với công tác quản
lý đó là phải tham gia vào việc điều hành, phân phối và sử dụng tài nguyên văn hóa
thông qua việc ban hành pháp luật quy định các về việc gìn giữ, bảo vệ và bảo tồn
tài nguyên văn hóa.
- Ba là, nếu không có sự quản lý của Nhà nước bằng pháp luật thì hoạt động
văn hoá sẽ vận động theo hai hướng vừa tích cực, vừa tiêu cực. Vai trò quản lý nhà
nước thể hiện ở chỗ, Nhà nước trên cơ sở nắm bắt những đặc trưng riêng, định
hướng cho hoạt động văn hoá phát triển theo hướng tích cực, lành mạnh, xây dựng
nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, gắn kết chặt chẽ và đồng

bộ hơn với phát triển kinh tế - xã hội, làm cho văn hoá thấm sâu vào mọi lĩnh vực
của đời sống xã hội, hạn chế và loại bỏ các hủ tục để nhanh chóng đạt được các mục
tiêu đã đề ra. Quản lý nhà nước về văn hóa sẽ giúp tạo ra sự ổn định và đồng thuận
trong xã hội thông qua hoạt động quản lý văn hóa trong các lĩnh vực, địa bàn, nhóm
dân cư cụ thể sẽ giúp kiểm soát sự tùy tiện, sai lệch trong khi thực thi các cơ chế,
chính sách của Nhà nước trên lĩnh vực văn hóa.
Tóm lại, trong điều kiện nền kinh tế thị trường, xã hội hóa văn hóa thì vai trò
của Nhà nước lại càng không thể thiếu được, nhằm phát huy những yếu tố tích cực
và hạn chế những mặt trái của thị trường, định hướng nền văn hoá được bảo vệ, gìn
giữ, phát triển phù hợp mục tiêu chung của chủ nghĩa xã hội. Quản lý nhà nước về
văn hóa phải quán triệt vai trò của văn hóa, làm cho các nhân tố văn hóa gắn kết
chặt chẽ với đời sống và hoạt động xã hội trên mọi phương diện. Cần xác định rõ
rằng quản lý nhà nước về văn hóa, xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp của
toàn dân, do Đảng lãnh đạo. Nền văn hóa Việt Nam là nền văn hóa thống nhất và đa
dạng trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Vì vậy, phải tạo điều kiện đảm bảo
cho nhân dân tham gia vào sự nghiệp đó. Văn hóa dân tộc gắn liền với nhân dân,
mọi người dân đều có quyền hưởng thụ văn hóa và có nghĩa vụ đóng góp bảo vệ

15


nền văn hóa dân tộc. Trong quản lý văn hóa, ngoài vai trò của Nhà nước, cần thực
hiện các hình thức tự quản của nhân dân, đảm bảo tính phong phú, đa dạng của văn
hóa và đáp ứng được nhu cầu văn hóa của nhân dân.
1.2. Nguyên tắc, nội dung và phương pháp quản lý nhà nước về văn hoá
1.2.1. Nguyên tắc quản lý nhà nước về văn hoá
Nguyên tắc quản lý nhà nước về văn hóa là những tư tưởng, quan điểm chỉ
đạo tổ chức và hoạt động quản lý nhà nước trên lĩnh vực văn hóa theo một thể
thống nhất. QLNN về văn hóa phải dựa trên các nguyên tắc cơ bản sau:
Thứ nhất, nguyên tắc Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ.

Đảng lãnh đạo thông qua các quan điểm, chủ trương, chính sách thể hiện trong các
văn kiện, nghị quyết, chỉ thị; thông qua việc xây dựng bộ máy, đội ngũ cán bộ của
Đảng tham gia vào bộ máy chính quyền nhà nước.
Thứ hai, nguyên tắc nhà nước quản lý là thực hiện quyền lực chính trị của nhà
nước trên lĩnh vực văn hóa thể hiện qua Hiến pháp, luật và các văn bản dưới luật để
quản lý, xây dựng bộ máy quản lý nhà nước từ trung ương đến địa phương, ủy ban
văn hóa xã hội của Quốc hội, xây dựng cơ chế chính sách, bộ máy cán bộ công
chức, viên chức nhà nước để thực thi các nhiệm vụ về văn hóa.
Thứ ba, nguyên tắc nhân dân làm chủ thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân
các cấp, các đoàn thể chính trị xã hội…từ đó nhân dân tham gia xây dựng, đóng góp
và giám sát việc thực hiện công tác quản lý văn hóa của nhà nước.
Thứ tư, nguyên tắc phân định quản lý hành chính và quản lý sự nghiệp văn
hóa. Cần phân định rõ chức năng quản lý hành chính nhà nước về văn hóa thông tin
bộ, vụ, cục, UBND tỉnh, sở, phòng…quản lý bằng luật pháp, phi lợi nhuận và chức
năng hoạt động sự nghiệp văn hóa của các đơn vị nghiệp văn hóa từ trung ương đến
địa phương như: nhà hát, các đoàn nghệ thuật, bảo tàng, thư viện, trung tâm văn hóa
thông tin, viện nghiên cứu
1.2.2 Nội dung quản lý nhà nước về văn hoá
Thứ nhất, xây dựng và thực thi hệ thống pháp luật nhằm quản lý thống nhất
các hoạt động văn hóa.

16


Trong sự tồn tại và phát triển của văn hóa thì quản lý văn hóa đóng vai trò rất
quan trọng. Những năm qua, quán triệt tinh thần: “Văn hóa là nền tảng tinh thần
của xã hội, là mục tiêu, động lực phát triển bền vững đất nước” của Đảng, hoạt
động quản lý văn hóa ở Việt Nam đã có những kết quả khả quan. Việc xây dựng,
hoàn thiện thể chế văn hóa ngày càng được Đảng và Nhà nước ta kịp thời kiện toàn
theo hướng thiết thực, hiệu quả, đã xoá bỏ những quy định, thủ tục không còn phù

hợp, gây phiền hà, trở ngại cho tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước, các
tổ chức, cá nhân, chẳng hạn như: phạm vi, thẩm quyền quản lý; thời hạn, hiệu lực
của giấy phép kinh doanh, xử phạt vi phạm hành chính...
Vì vậy, việc xây dựng, ban hành một hệ thống pháp luật cần và đủ nhằm quản
lý thống nhất các hoạt động văn hóa, đẩy mạnh xã hội hóa các hoạt động văn hóa đi
đôi với yêu cầu quản lý văn hóa bằng pháp luật là một trong những nội dung lớn
của quản lý nhà nước về văn hóa.
Để thực hiện tốt quản lý nhà nước về văn hóa, cần thiết phải có một hệ thống
tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về văn hóa từ trung ương đến cơ sở. Hiện nay,
Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về văn hóa. Cơ quan quản lý nhà nước về
văn hóa như sau:
Ở Trung ương là Bộ Văn hoá - Thể thao và du lịch chịu trách nhiệm trước
Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về văn hóa. Các nội dung về tổ chức bộ máy
quản lý nhà nước đối với hoạt động văn hóa quy định rõ nhiệm vụ, thẩm quyền,
trách nhiệm của Chính phủ, Bộ Văn hoá - Thể thao và du lịch, các bộ, ngành liên
quan.
Chính quyền cấp tỉnh, huyện, xã, cụ thể là:
Đối với Ủy ban nhân dân thành phố tỉnh (thành phố) quản lý Nhà nước đối với
các hoạt động văn hoá, thông tin, quảng cáo, báo chí, xuất bản, thể dục thể thao theo
quy định của pháp luật; tổ chức và quản lý các đơn vị sự nghiệp về văn hoá, thông
tin, thể dục thể thao, phát thanh, truyền hình của tỉnh (tỉnh), hành phố. Tổ chức hoặc
được uỷ quyền, tổ chức các cuộc triển lãm, hội chợ, sinh hoạt văn hoá, thể dục thể
thao quốc gia, quốc tế trên địa bàn thành phố. Chỉ đạo và tổ chức thực hiện công tác

17


×