Tải bản đầy đủ (.docx) (110 trang)

Luận văn thạc sĩ kê biên tài sản để bảo đảm thi hành án kinh doanh, thương mại theo pháp luật thi hành án dân sự từ thực tiễn thành phố đà nẵng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (837.17 KB, 110 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
______________________________

TRẦN CÔNG TÚ

KÊ BIÊN TÀI SẢN ĐỂ BẢO ĐẢM THI HÀNH ÁN
KINH DOANH, THƯƠNG MẠI THEO PHÁP LUẬT
THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỪ THỰC TIỄN
THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI, năm 2017


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
______________________________

TRẦN CÔNG TÚ

KÊ BIÊN TÀI SẢN ĐỂ BẢO ĐẢM THI HÀNH ÁN
KINH DOANH, THƯƠNG MẠI THEO PHÁP LUẬT
THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỪ THỰC TIỄN
THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 60.38.01.07


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. ĐẶNG VŨ HUÂN

HÀ NỘI, năm 2017


LỜI CẢM ƠN

Tôi xin trân trọng cảm ơn các thầy, cô giáo của Học viện Khoa học Xã
hội đã truyền dạy những kiến thức quý báu, cảm ơn TS. Đặng Vũ Huân
-Tổng biên tập Tạp chí Dân chủ và Pháp luật đã tận tình hướng dẫn để
tôi hoàn thành tốt bản luận văn này.

Tác giả

Trần Công Tú


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu
nêu trong luận văn là hoàn toàn trung thực và có nguồn trích dẫn rõ ràng.
Kết quả nghiên cứu của luận văn không có sự trùng lặp với bất kỳ công trình
nào đã công bố.
Đà Nẵng, tháng 8 năm 2017
Tác giả

Trần Công Tú



MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN PHÁP LUẬT VỀ KÊ BIÊN
TÀI SẢN ĐỂ BẢO ĐẢM THI HÀNH ÁN KINH DOANH, THƯƠNG
MẠI................................................................................................................... 7
1.1. Khái quát về kê biên tài sản để bảo đảm thi hành án kinh doanh, thương
mại ..................................................................................................................... 7
1.2. Nội dung cơ bản của pháp luật về kê biên tài sản để bảo đảm thi hành án
kinh doanh, thương mại .................................................................................. 20
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC HIỆN
PHÁP LUẬT VỀ KÊ BIÊN TÀI SẢN ĐÊ BẢO ĐẢM THI HÀNH
ÁN KINH DOANH, THƯƠNG MẠI TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ ĐÀ
NẴNG.... 29 2.1. Thực trạng quy định pháp luật về kê biên tài sản để bảo
đảm

thi

hành

án

kinh

doanh,

thương

mại .................................................................................. 29 2.2. Thực hiện

pháp luật về kê biên tài sản để bảo đảm thi hành án kinh doanh, thương
mại từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng....................................... 43 CHƯƠNG 3.
GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ
KÊ BIÊN TÀI SẢN ĐÊ BẢO ĐẢM THI HÀNH ÁN KINH DOANH,
THƯƠNG MẠI TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG.... 60 3.1.
Phương hướng hoàn thiện pháp luật về kê biên tài sản để bảo đảm thi hành án
kinh doanh, thương mại ............................................................................... 60
3.2. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật về kê biên tài sản để bảo đảm thi hành
án

kinh

doanh,

thương

mại.................................................................................... 63
LUẬN .................................................................................................... 77

KẾT


DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu
bảng

Tên bảng

Trang


Kết quả về việc áp dụng biện pháp kê biên tài sản đối
2.1.

với án kinh doanh thương mại trong thi hành án dân

47

sự thành phố Đà Nẵng từ năm 2013-2017
Kết quả về tiền áp dụng biện pháp kê biên tài sản đối
2.2.

với án kinh doanh thương mại trong thi hành án dân
sự thành phố Đà Nẵng từ năm 2013-2017

48


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Kê biên tài sản là một trong những biện pháp cưỡng chế của pháp luật thi
hành án dân sự, là biện pháp mà chấp hành viên áp dụng trong qua trình giải
quyết thi hành án. Kê biên tài sản là biện pháp quan trọng trong các biện pháp
cưỡng chế thi hành án, thể hiện quyền lực nhà nước một cách rõ ràng nhất khi
người phải thi hành án không tự nguyện thi hành án các khoản nghĩa vụ của
mình trong bản án, quyết định của Toà án.
Luật Thi hành án dân sự năm 2008 đã được Quốc hội sửa đổi, bổ sung
năm 2014 đã có nhiều quy định mới về kê biên tài sản nhưng vẫn còn nhiều
bất cập, có nhiều kẽ hở, quy định không rõ ràng hoặc chồng chéo, mâu thuẫn
với các quy định pháp luật về đất đai, pháp luật về nhà ở...dẫn đến quá trình
áp dụng gặp nhiều vướng mắc, dễ sai phạm. Mặc dù đã có nhiều công trình

nghiên cứu về pháp luật thi hành án dân sự nhưng vẫn chưa phản ánh toàn
diện, đầy đủ các vấn đề lý luận cũng như thực tiễn áp dụng biện pháp kê biên
tài sản để thi hành án. Vì vậy, vấn đề kê biên tài sản cần phải có các công
trình nghiên cứu toàn diện các vấn đề lý luận cũng như thực tiễn áp dụng biện
pháp kê biên tài sản nói chung và kê biên tài sản để bảo đảm thi hành án kinh
doanh, thương mại theo pháp luật thi hành án dân sự nói riêng.
Thực tiễn vấn đề kê biên tài sản để bảo đảm thi hành án kinh doanh
thương mại theo pháp luật thi hành án dân sự từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng
đã đạt được nhiều kết quả đáng ghi nhận trong giải quyết những vụ án khó,
kéo dài, án tồn đọng lâu năm, đảm bảo tình hình an ninh, chính trị xã hội
được giữ vững, các quan hệ dân sự được pháp luật bảo vệ, thể hiện tính răn đe
và nghiêm minh của pháp luật.

1


Tuy nhiên, bên cạnh các kết quả đạt được, vấn đề áp dụng kê biên tài sản
để bảo đảm thi hành án kinh doanh, thương mại theo pháp luật thi hành án
dân sự từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng vẫn còn những vướng mắc, bất cập
nhất định như nhiều bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật nhưng chậm tổ
chức thi hành; việc áp dụng biện pháp cưỡng chế kê biên còn tồn tại
những khó khăn..., các nguyên nhân chủ quan và khách quan liên quan đến
vấn đề này có thể xuất phát từ những bất cập của pháp luật về kê biên tài sản
hoặc do công tác phối hợp kê biên tài sản để bảo đảm thi hành án kinh doanh,
thương mại theo pháp luật thi hành án dân sự từ thực tiễn thành phố Đà
Nẵng còn chưa được chính quyền địa phương chú trọng; điều kiện làm việc,
chế độ đãi ngộ đối với cán bộ, công chức ngành thi hành án dân sự chưa được
quan tâm tốt...
Từ thực trạng lý luận và thực tế áp dụng biện pháp kê biên tài sản để bảo
đảm thi hành án kinh doanh, thương mại theo pháp luật thi hành án dân sự

nêu trên, cần phải có những phân tích, đánh giá nhằm khắc phục những bất
cập và nâng cao hiệu quả công tác kê biên tài sản để bảo đảm thi hành án kinh
doanh thương mại theo pháp luật thi hành án dân sự. Vì vậy, tác giả lựa chọn
đề tài “Kê biên tài sản để bảo đảm thi hành án kinh doanh, thương mại theo
pháp luật thi hành án dân sự từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng” để làm Luận
văn Thạc sĩ luật học.
2.Tình hình nghiên cứu đề tài
Đã có nhiều công trình nghiên cứu có liên quan về cưỡng chế thi hành án
bằng biện pháp kê biên tài sản để thi hành bản án, quyết định của Toà án được
công bố, trong số đó có các công trình nghiên cứu đáng chú ý gồm:
- Luận văn Thạc sĩ luật học về “Kê biên tài sản để thi hành bản án kinh
doanh, thương mại từ thực tiễn tỉnh Gia Lai”, của tác giả Nguyễn Văn
Phượng - Học viện Khoa học Xã hội;


2


- Luận văn Thạc sĩ luật học về “Các biện pháp cưỡng chế thi hành án
dân sự” của tác giả Nguyễn Long - Trường Đại học Luật Hà Nội;
- Luận văn Thạc sĩ luật học: “Các biện pháp bảo đảm thi hành án dân
sự" , của tác giả Phan Huy Hiếu - Trường Đại học Quốc gia Hà Nội, 2012);
- Luận văn Thạc sĩ luật học về “Kê biên tài sản là quyền sử dụng đất
trong thi hành án dân sự từ thực tiễn quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng”
của tác giả Nguyễn Bá Nam - Học viện Khoa học Xã hội;
- Luận văn Tiến sĩ luật học về “Hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự
ở Việt Nam hiện nay” của tác giả Nguyễn Thanh Thủy - Học viện Chính trị
-Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh năm 2010;
- Luận văn Thạc sĩ luật học về “Hoàn thiện pháp luật về kê biên tài sản
thi hành án dân sự ở Việt Nam”, của tác giả Trần Thị Lan Hương - Học viện

Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, năm 2012;
- Bài viết “Vấn đề đổi mới thủ tục thi hành án dân sự ở nước ta hiện
nay”, của tác giả Nguyễn Thanh Thủy đăng trên Tạp chí Dân chủ và Pháp
luật, số chuyên đề về Thi hành án dân sự - năm 2006;
- Bài viết “Những vướng mắc từ thực tiễn thi hành Luật Thi hành án dân
sự” của tác giả Nguyễn Thị Khanh đăng trên Tạp chí Dân chủ và Pháp luật số
05/2010;
- Bài viết “Áp dụng pháp luật thi hành án về kê biên tài sản chung” của
tác giả Đinh Thị Thanh Mai đăng trên Tạp chí Dân chủ và Pháp luật số
10/2011, tr. 55 - 56);
- Bài viết “Một số vướng mắc trong áp dụng pháp luật về kê biên, xử lý
tài sản của người phải thi hành án” của tác giả Vũ Hòa đăng trên Tạp chí
Dân chủ và Pháp luật số 11/2012 tr. 61 - 64;
Các công trình nghiên cứu khoa học trên đã làm sáng tỏ một số vấn đề lý
luận về thi hành án dân sự nói chung, kê biên thi hành án nói riêng nhưng

3


chưa có đề tài nào nghiên cứu dưới góc độ lý luận và thực tiễn áp dụng biện
pháp kê biên tài sản để bảo đảm thi hành án kinh doanh, thương mại theo
pháp luật thi hành án dân sự từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở phân tích các vấn đề lý luận và thực tiễn pháp luật về kê biên
tài sản để bảo đảm thi hành án kinh doanh, thương mại theo pháp luật thi hành
án dân sự từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng, từ đó, đề xuất các giải pháp nhằm
nâng cao nhận thức và áp dụng hiệu quả hơn công tác kê biên tài sản để bảo
đảm thi hành án kinh doanh, thương mại trong thi hành án dân sự trên địa bàn
thành phố Đà Nẵng.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục đích trên, nhiệm vụ của luận văn được xác định là:
- Làm rõ các vấn đề lý luận chung về kê biên tài sản để bảo đảm thi hành
án kinh doanh, thương mại như khái niệm, đặc điểm và trình tự, thủ tục áp
dụng pháp luật để kê biên tài sản bảo đảm thi hành án kinh doanh, thương mại
trong thi hành án dân sự.
- Phân tích, đánh giá toàn diện thực trạng áp dụng pháp luật về kê biên tài
sản để bảo đảm thi hành án kinh doanh, thương mại trong thi hành án dân sự
trên địa bàn thành phố Đà Nẵng, từ đó, đi sâu phân tích những kết quả đã đạt
được và những hạn chế, tồn tại, làm rõ những nguyên nhân của thực trạng đó.
- Xây dựng quan điểm và đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả
công tác kê biên tài sản để bảo đảm thi hành án kinh doanh, thương mại trong
thi hành án dân sự từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu các vấn đề lý luận chung về kê biên tài sản để bảo đảm
thi hành án kinh doanh, thương mại; hệ thống các quy định pháp luật liên

4


quan đến kê biên tài sản để thi hành án và thực trạng áp dụng pháp luật về vấn
đề trên tại địa bàn thành phố Đà Nẵng.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu công tác kê biên tài sản để bảo đảm thi hành án
kinh doanh, thương mại trong thi hành án dân sự trên địa bàn thành phố Đà
Nẵng giai đoạn từ năm 2014, sau khi Luật Thi hành án dân sự sửa đổi, bổ
sung được ban hành đến nay.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận

Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp
luật; Những quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về thi hành án dân sự, về
bảo vệ quyền con người, quyền dân sự, là cơ sở lý luận làm xuất phát điểm để
nhận thức về vấn đề kê biên tài sản để thi hành án kinh doanh thương mại của
Toà án.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở sử dụng phương pháp duy vật biện
chứng của triết học Mác - Lênin theo quan điểm phát triển, toàn diện, lịch sử
và cụ thể kết hợp với các phương pháp phân tích và tổng hợp, quy nạp và diễn
dịch, mô tả và so sánh, thống kê.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm sáng tỏ thêm một số vấn
đề lý luận của việc thực hiện pháp luật thi hành án dân sự nói chung và pháp
luật kê biên trong thi hành án dân sự nói riêng. Luận văn có thể là tài liệu
tham khảo cho Cục Thi hành án dân sự thành phố Đà Nẵng trong việc lãnh
đạo, chỉ đạo công tác kê biên tài sản bảo đảm thi hành án kinh doanh thương
mại. Đối với các Cơ quan có liên quan đến thi hành án dân sự, luận văn có thể
là tài liệu tham khảo trong việc thực hiện trách nhiệm của mình theo quy định


5


của pháp luật, trong việc phối hợp trong hoạt động kê biên tài sản bảo đảm thi
hành án kinh doanh thương mại.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn, trong chừng mực cố gắng hệ thống hóa các vấn đề lý luận gắn
với thực tiễn vấn đề kê biên tài sản bảo đảm thi hành án kinh doanh thương
mại trong thi hành án dân sự từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng. Cung cấp một

góc nhìn mới và để tạo cơ sở sau này có thể phát triển lên các đề tài ở mức
cao hơn.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
có kết cấu được chia thành ba chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận pháp luật về kê biên tài sản để bảo đảm
thi hành án kinh doanh, thương mại.
Chương 2: Thực trạng pháp luật và thực hiện pháp luật về kê biên tài
sản để bảo đảm thi hành án kinh doanh, thương mại từ thực tiễn thành phố
Đà Nẵng.
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả kê biên
tài sản để bảo đảm thi hành án kinh doanh, thương mại từ thực tiễn thành phố
Đà Nẵng.

6


CHƯƠNG 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN PHÁP LUẬT VỀ KÊ BIÊN
TÀI SẢN ĐỂ BẢO ĐẢM THI HÀNH ÁN KINH DOANH,
THƯƠNG MẠI
1.1. Khái quát về kê biên tài sản để bảo đảm thi hành án kinh doanh,
thương mại
1.1.1. Khái niệm kê biên tài sản để bảo đảm thi hành án kinh doanh,
thương mại
1.1.1.1. Khái niệm về kê biên tài sản
Theo Từ điển tiếng Việt của Nhà xuất bản Văn hóa - Thông tin, thì “kê”
được hiểu là viết lần lượt vào từng tên, từng thứ một [38; tr. 224], còn “biên”
được hiểu là ghi chép, viết vào sổ, biên tên vào sổ [38; tr. 38]. Theo Từ điển

tiếng Việt của Nhà xuất bản Thời đại năm 2014, thì “kê” được hiểu là để đặt
vào chỗ nào đó [39; tr. 235] còn “biên” được hiểu là chép, biên ghi vào sổ
[39; tr. 52]. Như vậy có thể hiểu, kê biên là tính toán và ghi chép lại theo một
thứ tự nhất định.
Theo Điều 163 Bộ luật Dân sự năm 2005 thì tài sản bao gồm: “Tài sản
bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản”. Tuy nhiên, theo Điều
105 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì khái niệm về tài sản được mở rộng hơn, bao
gồm: “Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản. Tài sản bao gồm bất
động sản và động sản. Bất động sản và động sản có thể là tài sản hiện có và
tài sản hình thành trong tương lai”.
Ở một góc độ khác thì kê biên tài sản được hiểu là sự hạn chế hoặc cấm
chủ sở hữu, sử dụng không được thực hiện các hành vi như tẩu tán, phá huỷ
hay các hành vi khác làm thay đổi hiện trạng đối với tài sản đó để đảm bảo
cho việc xét xử và thi hành án.

7


1.1.1.2. Khái niệm về các loại án kinh doanh, thương mại
Khái niệm kinh doanh, thương mại hiện nay chưa có sự thống nhất về
cách hiểu cũng như có sự tách bạch giữa kinh doanh và thương mại. Theo quy
định tại Điều 29 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 được sửa đổi, bổ sung năm
2011, thì các tranh chấp thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án được liệt kê
thành 4 nhóm chính. Tuy nhiên, Điều 30 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 đã
quy định các tranh chấp thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo hướng
mở rộng hơn bao gồm:
(i) Tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh, thương mại giữa cá
nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh với nhau và đều có mục đích lợi nhuận.
(ii) Tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ giữa cá
nhân, tổ chức với nhau và đều có mục đích lợi nhuận.

(iii) Tranh chấp giữa người chưa phải là thành viên công ty nhưng có
giao dịch về chuyển nhượng phần vốn góp với công ty, thành viên công ty.
(iv) Tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty; tranh chấp
giữa công ty với người quản lý trong công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc thành
viên Hội đồng quản trị, giám đốc, tổng giám đốc trong công ty cổ phần, giữa
các thành viên của công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động,
giải thể, sáp nhập, hợp nhất, chia, tách, bàn giao tài sản của công ty, chuyển
đổi hình thức tổ chức của công ty.
(v) Các tranh chấp khác về kinh doanh, thương mại, trừ trường hợp
thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan, tổ chức khác theo quy định của
pháp luật [26].
Như vậy, ta có thể hiểu án kinh doanh, thương mại là văn bản pháp lý
được Toà án có thẩm quyền, theo một trình tự tố tụng do luật định có nội
dung tuyên bố về tính hợp pháp hay không hợp pháp của hành vi hoặc quan

8


hệ pháp luật phát sinh từ hoạt động kinh doanh, thương mại mà ít nhất một
bên chủ thể trong tranh chấp có đăng ký kinh doanh và có mục đích lợi nhuận.
1.1.1.3. Khái niệm kê biên tài sản để bảo đảm thi hành án kinh doanh,
thương mại
Kê biên tài sản đang tranh chấp theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân
sự năm 2015 là một biện pháp khẩn cấp tạm thời, do Toà án quyết định theo
yêu cầu của đương sự hoặc cơ quan, tổ chức có thẩm quyền trong vụ án dân
sự, nhằm mục đích để tạm thời giải quyết yêu cầu cấp bách của đương sự, bảo
vệ chứng cứ, bảo toàn tình trạng hiện có và tránh gây thiệt hại không thể khắc
phục được hoặc bảo đảm việc thi hành án. Từ khái niệm này cho thấy, kê biên
tài sản đang tranh chấp trong tố tụng dân sự là biện pháp mang tính chất khẩn
cấp và tạm thời. Nó được Toà án ra quyết định ngay khi nhận đơn và xét thấy

có đủ điều kiện, đồng thời quyết định này có hiệu lực ngay khi ban hành
(được tổ chức thi hành ngay), tính chất tạm thời được thể hiện ở chỗ nó không
phải là quyết định cuối cùng về giải quyết vụ án dân sự cũng như đối với tài
sản bị kê biên và có thể bị thay đổi trong quá trình giải quyết vụ án, tài sản bị
kê biên không bị xử lý ngay (bán hoặc giao cấn trừ vào nghĩa vụ thi hành án)
mà phải chờ đến khi bản án, quyết định của Toà án có hiệu lực, cơ quan thi
hành án dân sự thụ lý mới tiếp tục tổ chức thi hành [24, tr. 20].
Trong giai đoạn thi hành án dân sự, việc kê biên tài sản của người phải
thi hành để bảo đảm thi hành án là biện pháp cưỡng chế thi hành án do chấp
hành viên áp dụng trong trường hợp người phải thi hành án có nghĩa vụ trả
tiền theo bản án, quyết định có điều kiện thi hành án nhưng không tự nguyện
thi hành. Kê biên tài sản của người phải thi hành án có những đặc điểm chung
của các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự là thể hiện quyền năng đặc
biệt của Nhà nước và được đảm bảo thực hiện bằng sức mạnh của Nhà nước,
được chấp hành viên áp dụng trong trường hợp người phải thi hành án không

9


tự nguyện thi hành án nhằm buộc họ phải thực hiện nghĩa vụ của mình theo
bản án, quyết định của Tòa án. Đối tượng của kê biên tài sản để bảo đảm thi
hành án dân sự là tài sản. Người bị áp dụng thi hành án ngoài việc phải thực
hiện các nghĩa vụ trong bản án, quyết định do tòa án tuyên họ còn phải chịu
mọi chi phí cưỡng chế thi hành án dân sự.
Biện pháp cưỡng chế kê biên tài sản của người phải thi hành án chỉ được
áp dụng khi có đủ các điều kiện như: Theo bản án, quyết định của Tòa án,
người phải thi hành án có nghĩa vụ trả tiền cho người được thi hành án; người
phải thi hành án có tài sản để thi hành nghĩa vụ trả tiền cho người được thi
hành án; đã hết thời gian tự nguyện do chấp hành viên ấn định, nhưng người
phải thi hành án không tự nguyện thi hành án hoặc chưa hết thời gian tự

nguyện nhưng cần ngăn chặn việc tẩu tán, hủy hoại tài sản... Ngoài ra, biện
pháp kê biên tài sản còn phải tuân thủ những nguyên tắc riêng như: Mọi tài
sản của người phải thi hành án đều có thể bị kê biên để thi hành án trừ những
tài sản mà pháp luật quy định không được kê biên; người phải thi hành án có
quyền thỏa thuận với người được thi hành án về tài sản được kê biên để đảm
bảo thi hành án; trong trường hợp không thỏa thuận được thì người phải thi
hành án có quyền đề nghị thứ tự kê biên tài sản và chấp hành viên phải chấp
hành để nghị đó nếu đề nghị đó không cản trở việc thi hành án. Nếu người
phải thi hành án không có đề nghị kê biên tài sản nào trước thì tài sản thuộc
quyền sở hữu riêng của người phải thi hành án được kê biên trước; nếu người
phải thi hành án không có hoặc không đủ tài sản riêng để thi hành án thì mới
kê biên đến tài sản chung của người phải thi hành án với người khác. Trong
số những tài sản thuộc diện kê biên, thì kê biên bất động sản trước, sau khi kê
biên hết các động sản mà vẫn không đủ để thi hành án thì kê biên các động
sản. Chấp hành viên chỉ được kê biên tài sản của người phải thi hành án tương
ứng với nghĩa vụ thi hành án và các chi phí liên quan. Nếu người phải thi


10


hành án chỉ có một tài sản duy nhất có giá trị lớn hơn nghĩa vụ phải thực hiện
mà tài sản đó không thể phân chia được hoặc nếu phân chia sẽ làm giảm đáng
kể giá trị của tài sản thì chấp hành viên vẫn có quyền kê biên tài sản đó. Nếu
tài sản của người phải thi hành án đã được cầm cố, thế chấp cho người khác
nhưng tài sản đó có giá trị lớn hơn nghĩa vụ được bảo đảm bằng việc cầm cố,
thế chấp hoặc người phải thi hành án không còn tài sản nào khác thì chấp
hành viên vẫn có quyền kê biên tài sản này để thực hiện thi hành án. Đây là
biện pháp hiệu quả nhằm ngăn chặn người phải thi hành án có hành vi tẩu tán
tài sản thông qua một giao dịch dân sự khác.

Thi hành án kinh doanh, thương mại là một hình thức cụ thể của thi hành
án dân sự. Với những phân tích ở trên, có thể hiểu, kê biên tài sản để đảm
bảo thi hành án kinh doanh, thương mại là một biện pháp cưỡng chế thi hành
án, hoặc biện pháp bảo đảm thi hành án do chấp hành viên áp dụng đối với
cá nhân, cơ quan, tổ chức (người phải thi hành án) phải thực hiện nghĩa vụ
trong bản án, quyết định của Tòa án về kinh doanh, thương mại đã có hiệu lực
pháp luật.
1.1.2. Đặc điểm kê biên tài sản để đảm bảo thi hành án kinh doanh,
thương mại
Thứ nhất, tài sản kê biên để đảm bảo thi hành án kinh doanh, thương
mại thường có giá trị lớn
Thi hành án kinh doanh, thương mại là một hình thức cụ thể của thi hành
án dân sự, mang đầy đủ những đặc điểm của thi hành án dân sự. Tuy nhiên,
thi hành án kinh doanh thương mại cũng có một số đặc điểm riêng để nhận
định như chủ thể của thi hành án chủ yếu là các doanh nghiệp, tranh chấp
trong các vụ án kinh doanh, thương mại thường được xác định là giữa các chủ
thể kinh doanh với nhau vì mục đích lợi nhuận (hiện nay thì chủ yếu là tranh
chấp giữa một bên là ngân hàng, tổ chức tín dụng với một bên là doanh
nghiệp). Trong đó, mục đích lợi nhuận là yếu tố quan trọng nhất để phân biệt


11


vụ án dân sự với vụ án kinh doanh thương mại. Ngoài ra, trong thi hành án
kinh doanh thương mại tài sản đưa ra thi hành thường có giá trị rất lớn.
Thứ hai, hoạt động kê biên tài sản để đảm bảo thi hành án kinh doanh
thương mại có tính độc lập tương đối
Tính độc lập của hoạt động kê biên tài sản để đảm bảo thi hành án kinh
doanh thương mại được hiểu là trên cơ sở bản án, quyết định của Tòa án;

quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh; phán quyết, quyết định của Trọng tài
thương mại theo đúng quy định của pháp luật.
Trong quá trình kê kê biên tài sản để đảm bảo thi hành án kinh doanh
thương mại các cơ quan nhà nước, tổ chức, cá nhân không được phép can
thiệp làm ảnh hưởng đến quá trình kê biên, làm cho quá trình kê biên không
đúng với bản án, quyết định, chậm tiến hành kê biên hoặc kê biên không đúng
quy định theo pháp luật. Chỉ người có thẩm quyền theo quy định của pháp
luật mới có quyền dừng việc kê biên. Tuy nhiên, trong những trường hợp nhất
định, quá trình kê biên tài sản để đảm bảo thi hành án kinh doanh thương mại
ảnh hưởng đến trật tự, an ninh chính trị trên địa bàn của địa phương nên cần
có ý kiến của Ban chỉ đạo thi hành án. Nhưng sự phụ thuộc này cũng không
có nghĩa là các cơ quan có liên quan có quyền can thiệp, yêu cầu cơ quan thi
hành dân sự kê biên trái với pháp luật, mà chỉ có tính chất bổ trợ, tạo điều
kiện để việc kê biên có hiêu quả hơn, nhanh hơn đồng thời cũng phù hợp hơn
với tình hình an ninh, chính trị địa phương.
Thứ ba, hoạt động kê biên tài sản để đảm bảo thi hành án kinh doanh
thương mại có tính chất cưỡng chế
Cưỡng chế là một tích chất cơ bản của pháp luật. Tính chất cưỡng chế
làm cho pháp luật khác với đạo đức và phong tục. Theo V.I. Lênin, thì pháp
luật sẽ không còn là gì nữa nếu không có một bộ máy có đủ sức cưỡng bức

12


người ta tuân theo những tiêu chuẩn của pháp quyền thì pháp quyền có cũng
như không [10, tr. 63].
Các quy tắc đạo đức, phong tục được con người tuân theo, chủ yếu nhờ
vào sự tự giác, lòng tin, trình độ hiểu biết và tác động của xã hội; còn quy
phạm pháp luật được Nhà nước bảo đảm thi hành, nếu ai không chấp hành thì
Nhà nước sẽ cưỡng chế thi hành. Cưỡng chế nhà nước được áp dụng vì lợi ích

của Nhà nước, xã hội và công dân do các cơ quan nhà nước và người có thẩm
quyền nhân danh, đại diện cho quyền lực nhà nước áp dụng. Như vậy, cưỡng
chế nhà nước mang tính giai cấp và xã hội là một thuộc tính vốn có của Nhà
nước.
Cưỡng chế thi hành án là một dạng cưỡng chế nhà nước thông qua cơ
quan thi hành án dân sự áp dụng để khôi phục các quan hệ dân sự bị xâm
phạm buộc các cơ quan, tổ chức nhà nước, xã hội, tổ chức kinh tế thực hiện
các nghĩa vụ pháp lý nhằm mục đích ngăn chặn những hành vi vi phạm pháp
luật, đảm bảo pháp chế, trật tự xã hội và xử lý trách nhiệm cá nhân, tổ chức vi
phạm pháp luật.
Thứ tư, chủ thể áp dụng biện pháp kê biên tài sản là chấp hành viên của
cơ quan thi hành án dân sự
Trong hoạt động thi hành án dân sự, chủ thể được Nhà nước giao trách
nhiệm tổ chức thi hành các bản án, quyết định của Toà án là cơ quan thi hành
án dân sự mà người trực tiếp tổ chức thi hành án là chấp hành viên. Đây là
chủ thể chính có nhiệm vụ tổ chức thi hành án với sự hỗ trợ, giúp việc của các
cán bộ, công chức thi hành án dân sự khác như thư ký, thẩm tra viên, chuyên
viên. Khi thực hiện nhiệm vụ, chấp hành viên phải tuân theo pháp luật, chịu
trách nhiệm trước pháp luật và được pháp luật bảo vệ. Tại Điều 20 Luật Thi
hành án dân sự năm 2008 sửa đổi, bổ sung năm 2014 quy định về nhiệm vụ,
quyền hạn của chấp hành viên là phải: “… Kịp thời tổ chức thi hành vụ việc
được phân công; ra các quyết định về thi hành án theo thẩm quyền; thi hành


13


đúng nội dung bản án, quyết định; áp dụng đúng các quy định của pháp luật
về trình tự, thủ tục thi hành án, bảo đảm lợi ích của nhà nước, quyền, lợi ích
hợp pháp của đương sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; thực hiện

nghiêm chỉnh chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp chấp hành viên; triệu tập
đương sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan để giải quyết việc thi hành
án. Xác minh tài sản, điều kiện thi hành án của người phải thi hành án; yêu
cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan cung cấp tài liệu để xác minh địa
chỉ, tài sản của người phải thi hành án hoặc phối hợp với cơ quan có liên quan
xử lý vật chứng, tài sản và những việc khác liên quan đến thi hành án. Quyết
định áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án, biện pháp cưỡng chế thi hành
án; lập kế hoạch cưỡng chế thi hành án; thu giữ tài sản thi hành án; yêu cầu cơ
quan công an tạm giữ người chống đối việc thi hành án theo quy định của
pháp luật. Lập biên bản về hành vi vi phạm pháp luật về thi hành án; xử phạt
vi phạm hành chính theo thẩm quyền; kiến nghị cơ quan có thẩm quyền xử lý
kỷ luật, xử phạt vi phạm hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự đối
với người vi phạm; quyết định áp dụng biện pháp cưỡng chế để thu hồi tiền,
tài sản đã chi trả cho đương sự không đúng quy định của pháp luật, thu phí thi
hành án và các khoản phải nộp khác. Được sử dụng công cụ hỗ trợ trong khi
thi hành công vụ theo quy định của Chính phủ. Thực hiện nhiệm vụ khác theo
sự phân công của Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự. Khi thực hiện
nhiệm vụ, quyền hạn của mình, chấp hành viên phải tuân theo pháp luật, chịu
trách nhiệm trước pháp luật về việc thi hành án và được pháp luật bảo vệ tính
mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm và uy tín”. Bên cạnh đó, Điều 11 Luật
Thi hành án dân sự năm 2008 sửa đổi, bổ sung năm 2014 quy định trách
nhiệm phối hợp của cơ quan, tổ chức, cá nhân với cơ quan thi hành án dân sự,
chấp hành viên: “Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn, nghĩa vụ của mình cơ
quan, tổ chức và cá nhân có trách nhiệm phối hợp với cơ quan thi hành án dân


×